Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hệ sinh thái đô thị. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu

Những nỗ lực ngăn chặn các khí thải nhà kính, hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo được, sử dụng những nhiên liệu không gây ô nhiễm môi trường,các nước tham gia Hội nghị, cùng bàn bạc về vấn đề biến đổi khí hậu đã cho thấy phần nào sự quyết tâm của chúng ta trong việc khắc phục hậu quả. Song bên cạnh đó, đây không chỉ là vấn đề của những nhà lãnh đạo cấp cao mà ngay đến một công dân bình thường cũng có thể góp phần vào việc bảo vệ Trái Đất.

doc44 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3782 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hệ sinh thái đô thị. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất khí có trong thiên nhiên, nằm trên tầng cao khí quyển của Trái đất, ở độ cao khoảng 25km trong tầng bình lưu, gồm 3 nguyên tử oxy (03). Chất khí ấy tập hợp thành một lớp bao bọc quanh hành tinh thường được gọi là tầng Ozon. Tầng ozon như lớp áo choàng bảo vệ Trái đất trước sự xâm nhập và phá hủy của tia tử ngoại. Tầng ozon là lớp lọc bức xạ mặt trời, một phần lớp lọc này bị mất sẽ làm cho bề mặt Trái đất nóng lên. Chiếc áo choàng quý giá ấy bị "rách" cũng có nghĩa sự sống của muôn loài sẽ bị đe dọa. - Cháy rừng: Nhiệt độ tăng cao, đất đai khô cằn và nhiều cánh rừng lớn biến thành tro bụi - những hiện tượng bất thường này không còn bó hẹp ở một số quốc gia hay khu vực mà đang xảy ra hầu khắp trên thế giới. Từ vùng rừng Taiga ở Sibérie của Nga đến khu rừng Rockies rộng lớn ở Canada, miền Nam California (Mỹ) và Australia, các nhà khoa học đã tìm thấy những bằng chứng rõ ràng cho thấy tình trạng cháy rừng tràn lan hiện nay có nguồn gốc từ sự biến đổi khí hậu. -      Lũ lụt: -      Hạn hán - Sa mạc hóa: là hiện tượng suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán khô hạn, vùng ẩm nửa khô hạn, gây ra bởi sinh hoạt con người và biến đổi khí hậu.Ở Việt Nam, mất rừng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hoang mạc hoá, gây suy thoái môi trường, lũ lụt và hạn hán. - Hiện tượng sương khói: Sương khói là một sự cố môi trường, xảy ra do sự kết hợp sương với khói và một số chất gây ô nhiễm không khí khác. Sương khói thường tạo ra nhiều chất gây ô nhiễm thứ cấp có hại cho động thực vật và môi trường nói chung. III. Hậu quả của biến đổi khí hậu. 3.1. Các hệ sinh thái bị phá hủy: Biến đổi khí hậu và lượng cacbon dioxite ngày càng tăng cao đang thử thách các hệ sinh thái của chúng ta. Các hậu quả như thiếu hụt nguồn nước ngọt, không khí bị ô nhiễm nặng, năng lượng và nhiên liệu khan hiếm, và các vấn đề y tế liên quan khác không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta mà còn là vấn đề sinh tồn. San hô bị tẩy trắng do nước biển ấm lên chỉ là một trong rất nhiều tác hại của biến đổi khí hậu đến các hệ sinh thái. 3.2. Mất đa dạng sinh học Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động vật di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc cực.Và dĩ nhiên con người cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi. Cáo Bắc cực 3.3. Chiến tranh và xung đột Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng dân số cứ tiếp tục tăng; đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các nước và vùng lãnh thổ. Do nhiệt độ trái đất nóng lên và biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao. Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh. Xung đột ở Darfur (Sudan) xảy ra một phần là do các căng thẳng của biến đổi khí hậu. 3.4. Các tác hại đến kinh tế: Các thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng tăng theo nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô la; Ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế. Lấy ví dụ, trong đợt bão hồi năm 2005, bang Louisiana (Mỹ) bị thiệt hại đến 135 tỉ đô la, và trong mấy tháng tiếp theo, thu nhập của toàn bang giảm đến 15%. Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới. Các cơn bão lớn gây thiệt hại kinh tế đến hàng trăm tỉ đô la. 3.5. Dịch bệnh: Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các con vật truyền nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh gây nguy hại đến sức khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới. Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại bệnh nhiệt đới. Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy. 3.6. Hạn hán Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên thì một số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trên trái đất đang và sẽ chịu cảnh đói khát. Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu những đợt hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình trạng này còn tiếp tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ giảm khoảng 50%. 3.7. Bão lụt: Để dự đoán các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến thời tiết, các nhà khoa học phải dùng đến các thiết bị hiện đại. Nhưng chẳng cần có thiết bị hiện đại cũng thấy được những cơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi. Theo ước tính, chỉ riêng ở Mỹ, trong vòng 100 năm qua (từ 1905 đến 2005), số lượng những cơn bão mạnh đã tăng không ngừng. Nếu từ 1905 – 1930 chỉ có khoảng trung bình 3,5 cơn/năm thì con số này là 5,1 trong khoảng 1931-1994, và lên đến 8,4 từ 1995-2005. Thực tế, năm 2010 đã vượt quá năm 1998 về số tháng phá kỷ lục nhiệt độ cao nhất theo lịch năm (Cục Quản lý Đại dương & Khí quyển Quốc gia Hoa Kỳ -NOAA). Tài liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cho thấy những thiệt hại do bão, lũ gây ra ở Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua lớn nhất từ trước đến nay là do bão, lũ gây ra năm 1996, sau đó là năm 1994 , 1986 và năm 1995, 1998, 2000 (hầu hết những năm này đều thiệt hại trên 100 triệu USD). Mức độ thiệt hại về sinh mạng và vật chất do các cơn bão và các trận lụt lội gây ra cũng đang ở mức kỷ lục. 3.8. Những đợt nắng nóng gay gắt Đợt nắng nóng quét qua Châu Âu hồi năm 2003, 2010 đã làm thiệt mạng khoảng hơn 40 ngàn người (theo WHO). Đó thật sự là dấu hiệu đáng báo động của những thay đổi ngày càng tồi tệ của khí hậu. Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay. Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất. Các năm từ 2001 - 2009 đều là 11 năm nóng nhất trong chuỗi số liệu đo đạc. Đáng chú ý, sáu tháng đầu năm 2010 là một chuỗi tháng nhiệt độ toàn cầu cao nhất chưa từng có (trong đó tháng 6 vừa qua là tháng nóng kỷ lục), bao gồm cả nhiệt độ trên đất liền và trên biển toàn cầu kể từ năm 1980.  3.9. Các núi băng và sông băng đang teo nhỏ Không cần tới những thiết bị đặc biệt để thấy rằng các sông băng và núi băng trên thế giới đang nhỏ dần. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm. 3.10. Mực nước biển đang dâng lên Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương. Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất. Hình ảnh băng ở Bắc Cực do vệ tinh chụp. Ảnh: NASA. Trong suốt 30 năm qua, mực nước biển ở Việt Nam đã tăng lên 5 cm. Theo dự đoán, mực nước biển sẽ còn tăng cao nữa khoảng 9 cm vào năm 2010, 33 cm vào năm 2050, 45 cm vào năm 2070 và 1 m vào năm 2100. Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn do mực nước biển tăng, vì những vùng đất thấp ở đồng bằng song Mê Kông và đồng bằng sông Hồng có mật độ dân số khá cao. Do đó, ước tính rằng, mực nước biển tăng cao 1 m sẽ khiến 10.8% dân số bị mất đất (Tài liệu làm việc của Ngân hangTthế giới, “Tác động của mực nước biển dâng cao ở những quốc gia đang phát triển: phân tích mang tính so sánh”; Susmita Dasgupta, Benoit Laplante, Craig Meisner, David Wheeler, and Jianping Yan; 2007.) IV. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. 4.1. Hệ sinh thái đô thị là gì? Khác với các hệ sinh thái tự nhiên khác, hệ sinh thái đô thị ngoài hai thành phần cơ bản là hữu sinh và vô sinh, nó còn có thành phần thứ ba đó là thành phần công nghệ. Nó bao gồm các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất... Hệ sinh thái đô thị là hệ sinh thái nhân văn do con người tạo nên, được sử dụng như một điểm dân cư tập chung và thường theo yêu cầu của sự phát triển công nghiệp. Ở đô thị, con người quan hệ mật thiết với nhau hơn so với các yếu tố tự nhiên. Tuy nhiên, dưới sự phát triển và tác động của con người, các yếu tố thuộc về tự nhiên, thiên nhiên đang dần bị mất đi. Khí hậu thay đổi, thời tiết bất thường cộng với nhiều nguồn ô nhiễm (nguồn nước, rác thải, khói bụi, tiếng ồn…) gây ra cho con người những bất lợi về sức khỏe đặc biệt là về yếu tố tinh thần. Ngoài ra, theo quan điểm Holistie, hệ sinh thái đô thị được coi là mội môi trường tự nhiên và hoàn cảnh văn hóa, xã hội mà con người đã xây dựng nên cho bản thân trong đô thị. Với cách nhìn như vậy, đô thị là biểu hiện cao nhất của tình hình phát triển kinh tế và xã hội của loài người, và xét tiêu chuẩn nào thì cũng là một thực thể vô cùng phức tạp. Từ đó, “hệ sinh thái đô thị được đặc trưng bằng hai loại cơ chế khống chế: tự nhiên và xã hội. Trong đó, cơ chế xã hội dần chiếm ưu thế. Các giới hạn của hệ sinh thái đô thị sẽ xác định rõ ràng phạm vi vận động của con người trong hệ sinh thái đô thị”. Các đặc trưng của hệ sinh thái đô thị - Mật độ dân cư cao. - Hoạt động kinh tế - xã hội thường xuyên, liên tục, chủ yếu là công – thương nghiệp. - Giao thông và xây dựng. - Các hợp phần tự nhiên bị biến đổi và thay thế bằng các hợp phần nhân tạo. - Được tạo ra từ nhu cầu phát triển của con người. 4.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các HST đô thị 4.2.1. Nguy cơ mất nơi ở do mực nước biển dâng cao và hiện tượng sa mạc hóa Với trên 3.200km bờ biển, Việt Nam được coi là quốc gia có mức độ dễ bị tổn thương cao trước sự biến đổi khí hậu. Theo tính toán của phân viện Khí tượng thủy văn và môi trường phía Nam, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 – 0,6m, sẽ có 1.708 km2 đất bị ngập ảnh hưởng tới 108.267 người sinh sống. Trong trường hợp tệ hơn, khi nước dâng lên 1m, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất đi một diện tích đất khoảng 15.000 – 20.000km2. Vùng đất thấp của TP.HCM là nơi sẽ bị ảnh hưởng nặng nề do nước biển dâng. Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là những vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh ĐBSCL bị ngập hầu như toàn bộ, và có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng như đợt xâm nhập mặn vào năm 2005. Đồng bằng sông Cửu Long sẽ là vùng bị ảnh hưởng mạnh nhất, nước biển dâng cao hơn sẽ làm cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt hiện nay trở thành vùng nước lợ, hàng triệu người sẽ có nguy cơ bị mất chỗ ở, từ đó làm gia tăng sức ép lên sự phát triển của các vùng lân cận, làm thay đổi chế độ thủy văn dòng chảy và gây áp lực đến 90% diện tích ngập nước. Vì theo dự báo, trong vài chục năm tới, ĐBSCL nước biển sẽ dâng cao làm ngập lụt phần lớn ĐBSCL vốn đã bị ngập lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông nghiệp. Sẽ có từ 15.000 – 20.000 km2 đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng nước sông Mêkông giảm từ 2 – 24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15% vào mùa lũ. Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu Giang, thời gian ngập lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa mưa lũ cũng khó khăn. Suy giảm tài nguyên nước sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, nghề cá. Quá trình xâm nhập mặn vào nội đồng sẽ sâu hơn, tập trung tại các tỉnh ven biển gồm Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An và nước ngọt sẽ khan hiếm. Trong khi đó, hạn hán có xu hướng mở rộng ở hầu hết các vùng, đặc biệt là ở các tỉnh Nam Trung Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa. Theo Bộ NN&PTNT, trong 9 triệu ha đất hoang hóa ở VN (chiếm 28% diện tích cả nước) có 4,3 triệu ha đã và đang bị thoái hóa, sa mạc hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của trên 20 triệu người. Số còn lại là những đụn cát và bãi cát di động ở các tỉnh ven biển miền Trung; đất khô theo mùa hoặc vĩnh viễn ở Nam Trung Bộ như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Nam Khánh Hoà); đất bị xói mòn ở Tây Bắc, Tây Nguyên và đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn ở ĐBSCL đã ảnh hướng xấu đến hoạt động phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn. 4.2.2. Ngập lụt ngày càng nghiêm trọng hơn Thiên tai đang diễn ra nhiều nơi trên thế giới tiếp tục là những cảnh báo gửi tới con người về các tác động do biến đổi khí hậu mang lại. Ngày 2/12, hàng ngàn người Venezuela đã phải rời bỏ nhà cửa do các trận lở đất và lũ lụt ở khu vực gần thủ đô Caracas khiến ít nhất 21 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị mất tích. Mưa to và lũ lụt đã khiến hàng nghìn ngôi nhà bị phá hủy, hầu hết số nạn nhân kể trên bị nước lũ cuốn trôi hoặc bị chết do nhà đổ. Chính phủ Venezuela đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại 3 bang. Cơ quan khí tượng Venezuela cho biết, mưa lớn còn kéo dài vài ngày nữa. Trong khi đó, bang Tamil Nadu của Ấn Độ cũng đang hứng chịu các trận mưa lớn, gây lụt lội trên diện rộng. Tại khu vực Cuddalore, gần 50.000 ha hoa màu đã bị phá hủy hoàn toàn và hơn 20 làng ngập chìm trong nước lũ. Theo Tỉnh trưởng Karunanihi, đã nhận được thông báo về số người thiệt mạng trong trận lụt nhưng chưa thống kê chi tiết. Hơn 400 đô thị lớn nhỏ ven biển Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi mực nước biển dâng trong khi biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở nhiều đô thị của các thành phố lớn – một quan chức ở Cục Phát triển Đô thị cho biết trong hội thảo biến đổi khí hậu và phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam ngày 14 và 15/9/2010 ở Hà Nội. Trong tổng số 754 đô thị hiện nay, khoảng 405 đô thị lớn nhỏ sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến mực nước biển dâng” – TS.KTS Đỗ Tú Lan, Phó Cục trưởng Cục Phát triển Đô thị thuộc Bộ Xây dựng Việt Nam cho biết. Tình trạng gia tăng liên tục của mực nước trên sông Sài Gòn cùng với những trận mưa lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn trong khi hệ thống thoát nước và kiểm soát triều cường vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng đã làm cho tình trạng ngập lụt đô thị ở TP Hồ Chí Minh ngày càng trầm trọng. Hơn 70 vị trí ngập xuất hiện ở TP Hồ Chí Minh sau những cơn mưa từ 40mm trở lên ngay cả khi thủy triều đang ở mức thấp cho thấy dòng chảy tràn đô thị do mưa lớn vượt quá khả năng thoát nước đang là tác nhân gây ngập chủ yếu hiện nay. Các đô thị trong khu vực đồng bằng châu thổ như Cần Thơ hay các đô thị nằm gần châu thổ sông Mê Kông như TP Hồ Chí Minh sẽ không chỉ có nguy cơ bị đe dọa trực tiếp bởi mực nước biển dâng mà có thể chịu áp lực di cư lớn của từ các khu vực xung quanh. Không những vậy, các nguồn lực kinh tế-xã hội, chẳng hạn như tiến trình công nghiệp hóa liên tục và lối sống mới, sẽ tiếp tục kép dòng di cư từ các vùng nông thôn vào các đô thị. Việt Nam xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh nếu tính lượng người lớn nhất tuyệt đối sống ở các vùng ven biển có cao độ thấp và dễ bị tổn thương, được xác định là vùng tiếp giáp dọc theo bờ biển có cao độ thấp hơn 10 mét trên mực nước biển. Khoảng 43 triệu người Việt Nam hoặc hơn 55% dân số cả nước (38% dân số đô thị Việt Nam) đang sinh sống tại những vùng mực nước biển dâng. Đây là tỷ lệ phần trăm cao nhất trên toàn thế giới. Theo định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, quy mô đô thị từ mức 30,4 triệu người và diện tích 2.432 km2 năm 2010 sẽ tăng lên 40 triệu người và diện tích 4.600 km2 (chiếm 45% dân số và 1,4% diện tích cả nước) vào năm 2020. Những đối tượng công trình chịu tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở các đô thị gồm nhà ở và các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, nhà hát, các công sở, xí nghiệp, trung tâm thương mại.  Biến đổi khí hậu không chỉ đe dọa các đô thị ven biển mà còn tác động rất lớn đến những đô thị ở vùng núi - các nhà khoa học cho biết như vậy trong hội thảo “Ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và tác động sức khỏe ở Việt Nam” ngày 11/9 ở Hà Nội. "Các vùng ven biển tập trung nhiều khu đô thị nên nước biển dâng sẽ tác động rất lớn lên khu vực này”, PGS.TS Trần Việt Liễn, Trung tâm Khoa học Công nghệ Khí tượng Thủy văn & Môi trường, nói: “Lũ quét và sạt lở đất, đá tăng cũng đe dọa các đô thị vùng núi. 4.2.3. Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị Nền nhiệt độ tăng do biến đổi khí hậu ở nội đô nhanh hơn các vùng ngoại ô, đặc biệt ở các thành phố lớn. Các đợt nóng đang có xu thế tăng nhanh, nhất là ở các thanh phố lớn do kết hợp với hiệu ứng đô thị. Các đô thị ở Nam Bộ, ven biển Trung Bộ xuất hiện nhiều hơn các đợt nắng nóng dị thường. Tăng nhiệt độ không khí: Nhiệt độ toàn cầu có thể tăng 4oC, đến năm 2050 nếu phát thải khí nhà kính vẫn có xu hướng tiếp tục tăng như hiện nay, một nghiên cứu mới được đưa ra tại hội nghị khoa học đánh giá về tình trạng và hậu quả của trái đất ấm dần lên tại trường đại học Oxford (Anh Quốc) ngày 28/9. Các nhà khoa học cũng cho rằng nhiệt độ ấm dần lên sẽ có ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến một số khu vực như Bắc Cực, Tây và Nam Phi vì tại những vùng này nhiệt độ sẽ tăng thêm tới 10oC. Đặc biệt ở Bắc Cực: phát thải khí nhà kính gây ấm nóng toàn cầu làm nhiệt độ Bắc Cực trong thập kỉ qua lên mức cao nhất trong ít nhất 2000 năm, làm đảo ngược 1 chiều hướng làm mát tự nhiên đã kéo dài hơn 4 thiên niên kỉ. Điều gì sẽ xảy ra nếu Bắc Cực không đứng yên tại đó, bởi vì Bắc Cực là máy tạo thời tiết lớn nhất của Trái đất, còn được gọi là máy điều hòa của Trái đất. Biến đổi khí hậu đã hiện hữu tại các đô thị Việt Nam khi nền nhiệt độ ở đô thị cao hơn trung bình so với những khu vực xung quanh. Theo TS Michael Waibel, Đại học Hamburg, CHLB Đức, sự gia tăng đô thị diễn ra hiện nay tại khu vực nam TP Hồ Chí Minh hoặc các khu đô thị mới CIPUTRA hoặc Splendona của Hà Nội đã phủ kín bề mặt các khu vực có giá trị thu nước. Điều này làm giảm khả năng thẩm thấu nước của đô thị trong trường hợp có mưa lớn, khiến cho các khu đô thị hiện hữu và khu mới được quy hoạch tăng khả năng ngập lụt.“Quá trình đô thị hóa trong những năm qua rất nhanh, thiếu kiểm soát, có nơi tự phát”, bà Đỗ Tú Lan nói: ”Tình trạng ngập lụt hiện nay ở đô thị là do quy hoạch chưa chặt chẽ”.16 khu kinh tế ven biển, là những nơi đột phá phát triển kinh tế, cũng sẽ gặp rủi ro bởi biến đổi khí hậu. TS Michael Waibel cho rằng mất đi các thực thể nước và mảng xanh cũng như tăng môi trường xây dựng khiến cho Hà Nội và TP Hồ Chí Minh ngày càng phải chịu ảnh hưởng từ “hiệu ứng đảo nhiệt đô thị”. Hiện tượng này dễ nhận thấy tại các khu vực nội thành xây dựng dày đặc. Thậm chí hiện nay nhiệt độ ở các khu vực này cao hơn từ 8 đến 10 độ C nhiệt độ trung bình so với các khu vực xunh quanh. Ông Hồ Phi Long, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, cho rằng hiện tượng số trận mưa lớn xuất hiện với tần suất tăng dần theo thời gian đã được giải thích bằng hiện tượng đảo nhiệt. Tình trạng nhiệt độ tăng liên tục và ngày càng nhanh dần kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước trùng khớp với lý thuyết của hiệu ứng đảo nhiệt và góp phần lý giải hiện tượng mưa lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên ở các khu vực đô thị hóa. Đây không phải là vấn đề cá biệt của TP Hồ Chí Minh mà đã được tổng kết trên khắp thế giới từ nhiều thập niên. Vẫn theo TS Michael Waibel, độ vươn cao thiếu phối hợp của các tòa nhà tầng trong lòng trung tâm đô thị có thể gây bất lợi cho hành lang thông gió và làm nghiêm trọng hơn các vấn đề đảo nhiệt đô thị. Vì vậy việc ngăn chặn hoặc hạn chế  tối thiểu hiện tượng đảo nhiệt đô thị, một hệ thống ở cấp độ thành phố của không gian mở cần được tổ chức nhằm thông gió và phát triển các khu vực tạo gió mát. 4.2.4. Mưa acid phá hủy các công trình – kiến trúc đô thị Các hạt acid khi rơi xuống nhà cửa và các bức tượng điêu khắc sẽ ăn mòn chúng Hà Nội và các thành phố lớn là nơi lưu giữ khá nhiều di tích lịch sử, các công trình kiến trúc… có giá trị quan trọng của cả nước. Do vậy, việc bảo tồn và giữ gìn các công trình này khỏi ảnh hưởng của mưa acid là điều cần thiết. Ông Dương Hồng Sơn - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Môi trường (Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường) khẳng định: “Nhiều công trình và hiện vật lịch sử đặt ngoài trời nên ảnh hưởng của mưa acid tới các công trình này là không tránh khỏi. Nhưng để đo được mức ảnh hưởng, mức thiệt hại ra sao thì rất khó". Ví dụ như tòa nhà Capitol ở Ottawa đã bị tan rã bởi hàm lượng SO2 trong không khí quá cao. Vào năm 1967, cây cầu bắc ngang sông Ohio đã sập làm chết 46 người; nguyên nhân cũng là do mưa acid. Mưa acid cũng làm hư vải sợi, sách và các đồ cổ quý giá. Hệ thống thông khí của các thư viện, viện bảo tàng đã đưa các hạt acid vào trong nhà và chúng tiếp xúc và phá hủy các vật liệu nói trên. Các chất acid nêu trên trong không khí rất nguy hại đối với cơ thể sống và chúng có thể hủy diệt sự sống. Mưa acid có thể gây ra sự tàn phá đối với hệ thần kinh và gây bệnh thần kinh đối với con người. Điều này xảy ra là vì các sản phẩm của các acid là các hỗn hợp rất độc hại hòa tan trong nước uống. Các tác hại trực tiếp của việc ô nhiễm do các chất khí acid lên người bao gồm các bệnh về đường hô hấp như: suyển, ho gà và các triệu chứng khác như nhức đầu, đau mắt, đau họng ... Các tác hại gián tiếp sinh ra do hiện tượng tích tụ sinh học các kim loại trong cơ thể con người từ các nguồn thực phẩm bị nhiễm các kim loại này do mưa acid. 4.2.5. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến con người 4.2.5.1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe: 4.2.5.1.1. Trên thế giới: Kết quả nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu đối với con người do Tổ chức Global Humanitarian Forum của cựu tổng Thư ký LHQ Kofi Annan vừa công bố cho biết, hiện nay, biến đổi khí hậu đã cướp đi mạng sống của 300.000 người mỗi năm và ảnh hưởng đến cuộc sống của 300 triệu người trên trái đất do tác động từ những đợt năng nóng, lũ lụt và cháy rừng gây ra. - Hàng triệu người sống trong các khu nhà ổ chuột trở thành nạn nhân tiềm tàng của các cơn bão hoặc cuồng phong. Cơn bão Katrina đã làm thiệt mạng 1850 người ở Mỹ, còn cơn bão Nargis đã lấy đi sinh mạng của gần 150.000 người ở Birma. - Theo ước tính chỉ trong năm 2003 các đợt nóng bất thường ở châu Âu đã làm hơn 70.000 người chết. Đến năm 2100 nhiệt độ mùa hè tại đông bắc Ấn Độ và Australia sẽ vượt quá 50 độ C. Tại tây nam và nam châu Âu, nhiệt độ sẽ lên tới 40 độ C. Ước tính, các hậu quả về sức khỏe do sự nóng lên toàn cầu gây ra -bệnh tật hoặc tử vong- đối với dân châu Phi sẽ khắc nghiệt hơn 500 lần so với dân châu Âu - Các nhà khoa học ước tính rằng sự tăng nhiệt độ lên 1 độ C sẽ khiến cho năng lực sản xuất lương thực giảm tới 17%. Do vậy, giá lương thực sẽ tăng cao và nạn đói sẽ gia tăng ở các quốc gia hiện đang phải đối mặt với những vấn đề này. “Ngày nay có một tỷ người đang thiếu dinh dưỡng. Nếu như xuất hiện bùng nổ dân số ở Trung Quốc hay Ấn Độ vào cuối thế kỷ này thì một nửa dân số thế giới có thể lâm vào tình trạng thiếu ăn”. - Những căn bệnh hiện nay đang hoành hành chủ yếu tại các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới như sốt rét, viêm màng não, sốt xuất huyết.. sẽ lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Đến năm 2080 số người mắc bệnh sốt rét sẽ tăng thêm 260-320 triệu người. Sẽ có 6 triệu người mắc bệnh sốt xuất huyết ( hiện tại con số này là 3,5 triệu người). Điều này đòi hỏi phải có sự tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe, trong đó có huấn luyện nhân viên y tế để họ có thể đối phó với những căn bệnh nguy hiểm nói trên. - Đến năm 2020 trên 250 triệu dân châu Phi sẽ không được đáp ứng đầy đủ nhu cầu về nước sạch. Việc thiếu nước làm gia tăng các bệnh truyền nhiễm và các bệnh về đường hô hấp. Tổ chức WaterAid từng thông báo rằng bệnh tả do thiếu vệ sinh và thiếu nước sạch là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em và tỷ lệ này còn cao hơn tỷ lệ tử vong do AIDS, sốt rét và lao cộng lại. Trên thế giới hiện có khoảng 1,5 tỷ người không tiếp cận được với nguồn nước sạch. “Nếu không hành động ngay thì trong vòng từ 50 tới 100 năm nữa con cháu chúng ta sẽ phải trả giá cho hậu quả của thay đổi khí hậu do cách sống phung phí của chúng ta hiện nay. Đây là mối đe dọa cho sự tồn vong của chính con người.” 4.2.5.1.2. Ở Việt Nam: - Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất là những nông dân nghèo, các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, trẻ em và phụ nữ. - Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt hàng năm. Ở miền Bắc, mùa đông sẽ ấm lên, dẫn tới thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. - Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh. - Thiên tai như bão, tố, nước dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và sạt lở đất v.v… gia tăng về cường độ và tần số làm tăng số người bị thiệt mạng và ảnh hưởng gián tiếp đến sức khoẻ thông qua ô nhiễm môi trường, suy dinh dưỡng, bệnh tật. - BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt xuất huyết, làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ mang bệnh, làm tăng số lượng người bị bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan. - Sự suy giảm tầng ôzôn sẽ làm tăng cường độ tia cực tím ở bề mặt trái đất là nguyên nhân gây ra nhiều hậu quả trong sinh học như làm da cháy nắng, lóa mắt, lão hóa da, đục thủy tinh thể, ung thư mắt, gia tăng các khối u ác tính: 19% các khối u ác tính ở đàn ông và 16% ở phụ nữ, bệnh ung thư da. 4.2.5.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến kinh tế: 4.2.5.2.1. Vấn đề của thế giới: Tất cả các nước đều bị tác động của BĐKH, nhưng những nước bị tác động đầu tiên và nhiều nhất lại là những nước và cộng đồng dân cư nghèo nhất, mặc dù họ đóng góp ít nhất vào nguyên nhân BĐKH. Tuy nhiên, hiện tượng thời tiết bất thường, bao gồm lũ lụt, hạn hán, bão tố... cũng đang gia tăng ngay cả ở các nước giàu. Nếu không thay đổi tư duy về đầu tư hiện nay và trong những thập niên tới, thì chúng ta có thể gây ra những nguy cơ đổ vỡ lớn về kinh tế và xã hội ở một quy mô tương tự những đổ vỡ liên quan tới cuộc đại chiến thế giới và suy thoái kinh tế trong nửa đầu thế kỷ XX. Khi đó sẽ rất khó khăn để đảo ngược được những gì có thể xảy ra. Thời tiết giá lạnh khắc nghiệt đang hoành hành một số nước châu Âu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của người dân. Tuyết rơi dày và nhiệt độ xuống thấp đã buộc giới chức Đức và Anh phải hủy bỏ hoặc tạm hoãn nhiều chuyến bay nội địa và quốc tế, khiến vận tải hàng không đình trệ và gây tắc nghẽn trên các tuyến giao thông đường bộ. Tại Pháp, nhiệt độ xuống thấp đến mức nhà cung cấp điện RTE cảnh báo cắt điện tại nhiều nơi do nhu cầu tiêu dùng điện năng tăng mạnh. Thời tiết khắc nghiệt cũng khiến giới chức phải hủy bỏ tới 20% dịch vụ vận tải bằng tàu cao tốc tới miền Đông Nam. Chi phí thực hiện hành động ứng phó và thích ứng với BĐKH giữa các lĩnh vực, các ngành trong một quốc gia hoặc giữa các nước trên thế giới không giống nhau. Các nước phát triển phải chịu trách nhiệm cắt giảm khí thải ở mức 60% - 80% vào năm 2050, các nước đang phát triển cũng phải có những hành động thiết thực và đáng kể đóng góp vào việc hạn chế thải khí gây hiệu ứng nhà kính phù hợp với điều kiện mỗi nước. Tuy nhiên, các nước đang phát triển không thể tự mình phải gánh chịu những khoản chi phí để thực hiện những hành động này. Do "thị trường các-bon" đã hình thành, nên các nước phát triển sẵn sàng bơm những dòng tiền đầu tư để hỗ trợ phát triển kỹ thuật, công nghệ sử dụng ít năng lượng hóa thạch, kể cả thông qua cơ chế phát triển sạch. Sự chuyển đổi hình thức đầu tư của những dòng tiền này là rất thiết thực nhằm hỗ trợ cho những hành động ứng phó với BĐKH ở quy mô toàn cầu. Nguy cơ xảy ra những tác động tồi tệ nhất của BĐKH có thể được giảm thiểu phần lớn nếu lượng khí thải vào khí quyển được ổn định ở mức 450 ppm - 550 ppm (hiện nay gần tới 430 ppm). Điều đó đòi hỏi tổng lượng khí thải ít nhất phải thấp hơn 25% mức hiện nay vào năm 2050. Như vậy, lượng khí thải hằng năm phải giảm xuống thấp hơn 80% mức hiện nay. Đây là một thách thức lớn đối với nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia có lượng khí thải lớn, song vẫn có thể thực hiện được bằng những hành động liên tục và dài hạn với mức chi phí thấp hơn so với mức chi phí nếu không hành động (chỉ chiếm khoảng 1% tổng GDP toàn cầu). Chi phí này sẽ còn thấp hơn nữa nếu việc cắt giảm khí thải đạt hiệu quả cao và có tính toán cả những lợi ích đi kèm (như lợi ích thu được từ giảm ô nhiễm không khí). Ngược lại, chi phí sẽ cao hơn nếu việc cải tiến những công nghệ sử dụng nhiên liệu hóa thạch (thải nhiều khí CO2) diễn ra chậm trễ hơn dự kiến, hoặc các nhà hoạch định chính sách thất bại trong việc tạo ra những công cụ kinh tế cho phép giảm lượng khí thải. Sự chậm trễ đồng nghĩa với việc để mất cơ hội ổn định khí thải CO2 ở mức 500 ppm - 550 ppm. Những tác động tiêu cực củabiến đổi khí hậu có thể làm thay đổi tốc độ tăng trưởng và phát triển. Sử dụng những kết quả từ các mô hình kinh tế chính thống, ông N.Xten (Nicholas Stern), tác giả của Báo cáo đánh giá tổng quan "Nghiên cứu kinh tế về biến đổi khí hậu" đã ước tính rằng, nếu chúng ta không hành động, tổng chi phí và rủi ro chung do BĐKH gây ra có thể tương đương với việc mất ít nhất 5% GDP toàn cầu/năm. Con số thiệt hại có thể tăng lên tới 20% GDP hoặc cao hơn nếu một loạt những rủi ro và tác động không được xem xét tới. Trái lại, chi phí cho hoạt động giảm thiểu lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhằm tránh những tác động tồi tệ nhất của BĐKH gây ra có thể chỉ chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu/năm. Hành động ứng phó với BĐKH cũng sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh đáng kể vì có những thị trường mới được tạo ra cho các công nghệ năng lượng, hàng hóa và dịch vụ ít thải ra CO2. Những thị trường này có thể phát triển với mức trị giá hàng trăm tỉ USD/năm và cơ hội việc làm từ đó mở rộng tương ứng. Vấn đề còn lại chỉ là việc tận dụng cơ hội này như thế nào ở mỗi nước, nhất là các nước đang phát triển. Thực tế có nhiều phương án cắt giảm lượng khí thải như: tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, thay đổi nhu cầu trong sưởi ấm và vận tải sạch, nhất là thông qua việc áp dụng các công nghệ, kỹ thuật sản xuất điện năng. Ngoài ra, một số ngành như ngành năng lượng toàn thế giới phải cắt giảm ít nhất 60% sự phụ thuộc vào năng lượng có chứa CO2 vào năm 2050 để sự tích tụ CO2 trong bầu khí quyển ổn định ở mức 550 ppm. Ngành giao thông vận tải cũng cần giảm nhiều lượng khí thải bằng việc tăng cường sử dụng nhiên liệu mới thân thiện với môi trường như bio-diezel, hydro, pin mặt trời, Ethanol... Hiện nay, nguồn năng lượng tái tạo như các dạng năng lượng mặt trời, gió, khí sinh học, địa nhiệt, sóng biển, thủy điện nhỏ... và các nguồn năng lượng chứa ít CO2 như khí tự nhiên, Ethanol... đang được sử dụng ngày càng nhiều. Tuy nhiên, từ nay tới năm 2050 nguồn năng lượng hóa thạch có thể vẫn chiếm tới hơn một nửa tổng nguồn năng lượng toàn cầu, trong đó than đá vẫn giữ vai trò quan trọng ở cả những nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Vì vậy, việc thu giữ và lưu trữ CO2 rất cần thiết để có thể tiếp tục sử dụng năng lượng hóa thạch mà không hủy hoại bầu khí quyển. Giải pháp quan trọng khác là cắt giảm lượng khí thải "phi năng lượng" như khí thải từ cháy rừng, nạn chặt phá rừng và khí mê-tan trong sản xuất nông nghiệp, tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp... Các nước cần có chính sách khuyến khích thực thi những phương án cắt giảm khí thải và để các biện pháp được thực thi có hiệu quả, các quốc gia phải lựa chọn chính sách một cách thận trọng, nhưng mạnh mẽ, phù hợp với điều kiện của mình để cắt giảm lượng khí thải ở quy mô cần thiết nhằm bảo đảm sự ổn định, trong khi vẫn tiếp tục tăng trưởng kinh tế. Có thể nói BĐKH là một sự thất bại lớn nhất của thị trường mà thế giới đã từng chứng kiến. Nó đã và đang tương tác với những thiếu sót khác của thị trường. Có ba yếu tố trong chính sách nhằm tạo nên phản ứng toàn cầu có hiệu quả để khắc phục thất bại của thị trường. Đó là: Thứ nhất, định giá CO2 được thực hiện thông qua thuế, buôn bán hoặc quy định của luật pháp về lượng CO2 cho phép phát thải; thứ hai, có chính sách hỗ trợ sự sáng tạo và triển khai những kỹ thuật, công nghệ sử dụng nguyên, nhiên liệu không hoặc ít thải ra CO2; thứ ba, khuyến khích những hành động nhằm phá bỏ các rào cản sử dụng năng lượng hiệu quả và cung cấp đầy đủ thông tin, tăng cường giáo dục đến từng cá nhân, cộng đồng để họ hành động ứng phó với BĐKH. Nhận thức rõ về BĐKH, nhiều nước và khu vực đã và đang hành động bằng những chính sách cụ thể với hy vọng giảm một lượng đáng kể khí thải gây hiệu ứng nhà kính, trong đó nổi bật là Liên minh châu Âu, Mỹ và Trung Quốc. Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH và Nghị định thư Kyoto là cơ sở cho hợp tác quốc tế bên cạnh những mối quan hệ đối tác và sự tiếp cận khác. Tuy nhiên, những hành động này còn ít và do các nước đang phải đối mặt với nhiều bối cảnh khác nhau khi có sự khác biệt về cách tiếp cận trong việc giải quyết vấn đề BĐKH, nên nếu chỉ là những hành động đơn lẻ của từng nước thì chưa đủ dù là nước lớn hay nước nhỏ bởi đó mới chỉ là một phần của vấn đề mang tính toàn cầu. Vì vậy, cần xây dựng những mục tiêu dài hạn được cộng đồng quốc tế chia sẻ và những khuôn khổ quốc tế để giúp từng nước đóng góp phần của mình nhằm đạt được mục tiêu chung. 4.2.5.2.2. Vấn đề của Việt Nam: Việt Nam là nước đang phát triển, phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính ở mức độ còn thấp, nhưng lại phải hứng chịu nhiều tác động của BĐKH. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2007), Việt Nam là một trong số các nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước biển dâng, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long bị ngập chìm nhiều nhất. Nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất khoảng 10% GDP, nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 25% GDP. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới du lịch Việt Nam vì ngành du lịch là ngành kinh tế nhạy cảm với điều kiện môi trường tự nhiên do đó là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do tác động của biến đổi khí hậu dẫn đến nước biển dâng cao. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Mạnh Cường đã khẳng định như vậy tại Hội thảo khoa học đánh giá việc biến đổi khí hậu đối với hoạt động quản lý, phát triển các hoạt động du lịch Việt Nam do Tạp chí Du lịch, Tổng cục Du lịch tổ chức, chiều 9/11 tại Hà Nội. Những tác động do biến đổi khí hậu đã và đang hiện hữu ở Việt Nam và gây ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển du lịch. Vì đặc điểm phân bố tài nguyên du lịch và hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tập trung chủ yếu ở vùng ven biển, trên các đảo - nơi chịu ảnh hưởng tực tiếp của biến đổi khí hậu. Viện nghiên cứu phát triển du lịch tiến hành đã chỉ ra rằng, biến đổi khí hậu tác động trực tiếp tới phát triển du lịch ở 3 hình thức: Tác động đến tài nguyên du lịch, điểm hấp dẫn du lịch trong đó có cả những tài nguyên du lịch tự nhiên đã hình thành, tồn tại hàng triệu năm qua như Vịnh Hạ Long, vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Các hoạt động du lịch, đặc biệt là hoạt động lữ hành bị ảnh hưởng, đình trệ thậm chí hủy do điều kiện thời tiết xấu liên tiếp, bão lụt, lũ quét di biến đổi khí hậu gây ra. Nhiều chương trình du lịch đến với khu vực miền Trung, vùng núi phía Bắc đã phải hủy, hoãn, chấm dứt giữa chừng do mưa bão hay gần đây nhất là cơn bão số 9, số 11 đổ bộ vào miền Trung chính là minh chứng rõ nét nhất. Biến đổi khí hậu cũng tác động trực tiếp đến hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch nhất là hệ thống giao thông, cơ sở lưu trú, khu vui chơi giải trí. V. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. 5.1. Sử dụng hệ thống cây xanh Để ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, cải thiện không gian sống quanh ta, ngoài các biện pháp giảm thiểu nguồn ô nhiễm thì việc sử dụng cây xanh có vai trò vô cùng quan trọng. Hệ thống cây xanh có những chức năng sau: Trước hết, hệ thống cây xanh có tác dụng cải thiện khí hậu vì chúng có khả năng ngăn chặn và lọc bức xạ mặt trời, ngăn chặn quá trình bốc hơi nước, giữ độ ẩm đất và độ ẩm không khí thông qua việc hạn chế bốc hơi nước, kiểm soát gió và lưu thông gió. Cây xanh có tác dụng bảo vệ môi trường: hút khí CO2 và cung cấp O2, ngăn giữ các chất khí bụi độc hại. ở vùng ngoại thành, cây xanh có tác dụng chống xói mòn, điều hoà mực nước ngầm. Cây xanh còn có tác dụng hạn chế tiếng ồn nhất là ở khu vực nội thành. Cây xanh có vai trò quan trọng trong kiến trúc và trang trí cảnh quan. Những tính chất của cây xanh như: hình dạng (tán lá, thân cây), màu sắc (lá, hoa, thân cây, trạng mùa của lá...) là những yếu tố trang trí làm tăng giá trị thẩm mỹ của công trình kiến trúc cũng như cảnh quan chung. Ngoài chức năng trang trí, tăng thêm vẻ đẹp thẩm mỹ cây xanh còn có tác dụng kiểm soát giao thông. Việc kiểm soát giao thông bao gồm cả xe cơ giới và người đi bộ. Các bụi thấp, bờ dậu, đường viền cây xanh trong vườn hoa công viên vừa có tác dụng trang trí vừa có tác dụng định hướng cho người đi bộ. Hàng cây bên đường có tác dụng định hướng, nhất là vào ban đêm sự phản chiếu của các gốc cây được sơn vôi trắng là những tín hiệu chỉ dẫn cho người đi đường. Số lượng cành nhánh chặt tỉa và đốn hạ những cây già cỗi không còn tác dụng là nguồn cung cấp gỗ củi cho dân dụng. Như vậy, ngoài chức năng là sinh vật sản xuất như trong các hệ sinh thái khác (hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái nông nghiệp...) cây xanh trong hệ sinh thái đô thị còn có chức năng quan trọng hơn đó là bảo vệ môi trường và trang trí cảnh quan. Trồng cây xanh ở đô thị Các đô thị ven biển phải chuẩn bị các biện pháp từ xa, như trồng rừng ngập mặn để chắn sóng, nước biển dâng và giảm xói lở bờ biển, phát triển các giải cây xanh dọc theo bờ biển để cản gió bão, dành giải đất dự trữ để đắp đê khi cần thiết và để xây dựng các đường ống thoát nước cũng như trạm bơm chống úng ngập khi cần. 5.2. Xây dựng đô thị sinh thái Theo cách hiểu hiện đại thì đô thị sinh thái là đô thị có chất lượng môi trường sống cao, có quan hệ hài hòa với thiên nhiên, có mật độ xây dựng hợp lý, có công trình và hạ tầng kỹ thuật đảm bảo yêu cầu sinh thái, có cảnh quan kiến trúc đẹp đẽ, có nền công nghiệp hoạt động hiệu quả về mặt sinh thái, có áp dụng thành công các giải pháp về năng lượng và giao thông. Do phải có nhiều đặc điểm như trên nên việc tiếp cận đô thị sinh thái không phải là điều đơn giản, thường chỉ thực hiện hạn chế đối với một số lượng nhất định các hệ thống sinh thái có tại địa phương. Điều này đòi hỏi thay đổi cả phương pháp sản xuất công nghiệp, thay đổi hành vi và tâm lý người tiêu dùng, đồng thời phải thiết lập các công cụ để thực hiện các giải pháp đã được nghiên cứu kỹ trên cơ sở nền kinh tế sinh thái và tư duy hệ thống. Tại nhiều nước trên thế giới, người ta đã cố gắng thực hiện để tiếp cận những điểm dân cư đô thị sinh thái tương tự như tiểu khu sinh thái Herlen ở Hà Lan, thành phố sinh thái Adelaide với tiểu khu sinh thái Chritie Walk ở Oxtralia, thành phố Malmae ở Thụy Điển và tiểu khu Simbiotic ở Nhật Bản. Những mô hình đô thị sinh thái nói trên đã được nhiều chuyên gia sinh thái quan tâm, rút kinh nghiệm, bởi thực tế chưa có thể kết luận được giải pháp nào là khả thi trong một khu vực rộng lớn và có ưu điểm vượt trội. Để xây dựng được đô thị sinh thái phải có cái nhìn tổng thể về sinh thái và một loạt vấn đề về quy hoạch đô thị, kiến trúc công trình, bảo tồn cảnh quan, công nghiệp, giao thông, quản lý năng lượng, vật liệu và chất thải. Những yêu cầu này liên quan chặt chẽ đến môi trường bên ngoài đô thị (gồm độ sạch của không khí, đất, nước, hệ thống động vật và thực vật, môi trường nghe và nhìn…) cũng như môi trường bên trong công trình (độ sạch của không khí, vi khí hậu trong nhà, tiện nghi nhiệt, tiện nghi âm thanh, tiện nghi ánh sáng và chiếu nắng công trình).Thế cũng chưa đủ, khi lập dự án thiết kế, người ta còn phải sinh thái hóa mọi công nghệ, nguồn lực về năng lượng và vật liệu được chọn dùng trong đô thị. Cụ thể hơn là có các giải pháp về tiết kiệm năng lượng, tái sinh năng lượng, giám sát chất lượng môi trường nước, độ tinh sạch của vật liệu, giải pháp sử dụng chức năng của vùng lãnh thổ, các công nghệ có nguồn gốc thiên nhiên… trong việc trang bị kỹ thuật công trình, đảm bảo tiện nghi (chiếu sáng, thông gió, cấp nhiệt, xử lý chất thải). Hơn bao giờ hết, nhiều nước trên thế giới đã nhận thức được vấn đề sinh thái hóa đô thị là nhiệm vụ sống còn để cứu lấy trái đất khỏi ô nhiễm nặng nề. Họ đang tích cực nghiên cứu và thiết kế nhằm tạo ra các điểm dân cư sinh thái, các đô thị sinh thái. Tạo ra môi trường sống lành mạnh mà không làm cạn kiệt nguồn lực năng lượng và vật liệu, đảm bảo có mối quan hệ hài hòa, có quy luật và đồng thời tồn tại giữa các hệ sinh thái, môi trường xây dựng là ước mơ hiện nay của loài người. Chẳng hạn, Trung Quốc và Nga là hai nước lớn về diện tích, về dân số cũng đã phải quan tâm đến việc tiếp cận đô thị sinh thái. Tại Trung Quốc, mới đây người ta đã tổ chức một Hội nghị tại Trùng Khánh, nhân dịp lần đầu tiên thiết kế và thực hiện thành công một đô thị vệ tinh sinh thái độc đáo cho 5.000.000 dân. Đặc biệt của đô thị này là cảnh quan được bảo tồn ở mức cao nhất, thành phố có một vành đai cây xanh, với nhiều công trình đa chức năng đã được sinh thái hóa. Lại nữa, việc thực hiện bước đầu phương án quy hoạch chung thành phố Thiên Tân, một trung tâm kinh tế công nghệ mới ở vùng Bắc Trung Quốc là một ví dụ điển hình về cách tiếp cận đô thị sinh thái. Người ta đã đầu tư lớn vào kết cấu hạ tầng, xây dựng nhiều cầu vượt để đảm bảo hoạt động hiệu quả tại các nút giao thông, thực tế là đã gỡ ra nhiều nguy cơ gây tắc nghẽn giao thông đô thị trong thời gian trước đây. Trong phương án quy hoạch mới này cảnh quan không những không bị xâm hại mà còn được cải thiện hơn nhiều. Một ưu điểm thấy rõ là độ sạch bầu khí quyển đô thị không kém gì vùng núi. Tại Liên bang Nga người ta cũng đã nhận thức được việc tiếp cận đô thị sinh thái là bức thiết. Hiện nay môi trường đô thị tại đây chưa đạt các chuẩn mực về vệ sinh môi trường, chứ chưa nói đến sẵn sàng thiết kế và xây dựng các đô thị sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu của cư dân đô thị. Từ việc nghiên cứu khoa học, đầu tư cho công nghiệp, xây dựng cảnh quan bền vững, kết cấu hạ tầng sinh thái, tiết kiệm năng lượng cho đến kiến thức về sinh thái còn chậm so với các nước công nghiệp phát triển khác. Trước mắt, họ đang tập trung nỗ lực để giải quyết hàng loạt vấn đề: 1. Kết hợp các nhân tố xã hội, kinh tế và sinh thái để phát triển đô thị theo hướng tiếp cận đô thị sinh thái; 2. Xây dựng kết cấu hạ tầng chất lượng cao cho đô thị nhằm đáp ứng yêu cầu hiện nay về môi trường sống; 3. Thỏa mãn các nhu cầu về môi trường kiến trúc cảnh quan đô thị cho dân cư, đồng thời không phá vỡ cân bằng sinh thái; 4. Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp nhằm sinh thái hóa mọi lĩnh vực hoạt động như công nghiệp, năng lượng, giao thông, tiêu thụ nước, sản xuất và tận dụng chất thải; 5. Sinh thái hóa nhu cầu của dân cư và gây thói quen tuân thủ các nguyên tắc thẩm mỹ sinh thái cho những người tham gia thiết kế và xây dựng đô thị sinh thái. Ý đồ tiếp cận đô thị sinh thái chỉ có thể có kết quả khi quần chúng nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường, của việc bảo vệ trái đất. Tại Trung Quốc cũng như Liên bang Nga, người ta biết rõ điều này nên đã tổ chức những phong trào quần chúng rộng rãi nhằm cổ vũ cho quá trình sinh thái hóa đô thị, họ đã thành lập các tổ chức tương ứng để trao đổi và phổ biến rộng rãi về kinh nghiệm xây dựng các đô thị sinh thái với thành viên là các chuyên gia nổi tiếng về sinh thái trên thế giới. Có lẽ đó cũng là một trong những giải pháp hàng đầu cần áp dụng tại các nước đang phát triển như nước ta. 5.3. Khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo Tạo lập được cơ chế khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo như: năng lượng khí sinh học (biogas, phế thải trong nông nghiệp ở nông thôn); năng lượng mặt trời (thiết bị đun nước nóng, chiếu sáng bằng pin mặt trời), khí gas (bãi rác đô thị); năng lượng gió (phát điện, bơm nước vào ruộng muối ở vùng ven biển, hải đảo); thủy điện, đặc biệt là thủy điện nhỏ và cực nhỏ với công suất lắp đặt lên tới hàng nghìn MW (phát điện ở vùng sâu, vùng xa hoặc phối hợp điều tiết, cấp nước, tưới tiêu), ... Đặc biệt, một dự án thí điểm xây dựng chi trả hấp thụ các-bon trong lâm nghiệp đã được triển khai ở huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, nhằm chuẩn bị cho việc tham gia thị trường các-bon của Việt Nam. Để ứng phó với BĐKH, Chính phủ Việt Nam còn triển khai các dự án về sản xuất điện năng không thải CO2. Đó là dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam sẽ được khởi công vào năm 2015 ở Ninh Thuận. Đầu tháng 10-2008, tỉnh Ninh Thuận đã cấp phép đầu tư xây dựng nhà máy điện chạy bằng sức gió có công suất 50 MW. Đây là những bước ứng dụng công nghệ năng lượng mới phù hợp với điều kiện của Việt Nam mà không ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, không gia tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những hoạt động mở đầu, chúng ta còn phải thực hiện ngay những hành động cụ thể như quy hoạch và tiến hành nâng cấp hệ thống đê biển, đê cửa sông bảo đảm chống được mức nước triều tần suất 5% ứng với gió bão cấp 9 (năm 2015) và cấp 10 (năm 2020) đối với các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Nam. Từng bước thực hiện bốn nhân tố chính là vấn đề buôn bán lượng khí thải, hợp tác kỹ thuật, giảm phá rừng, ứng phó với BĐKH nhằm đạt được những mục tiêu dài hạn để góp phần vào mục tiêu chung của toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức nhưng đến nay những chương trình, kế hoạch đã được triển khai, nhất là công tác thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng và đã tạo được nhiều giống cây trồng mới thích nghi với sự BĐKH. Cùng với sự quan tâm và hợp tác của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt Nam sẽ ứng phó và thích ứng thành công với BĐKH, hạn chế thiên tai, phát triển bền vững. Sử dụng năng lượng gió KẾT LUẬN Theo nghiên cứu của các chuyên gia cho đến nay thì Trái Đất là hành tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có hiện diện sự sống. Thiên nhiên đã ban tặng cho con người những ngọn núi hùng vĩ, những dòng sông êm ả và những cánh rừng bát ngát, một hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng phải trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài…tất cả tạo nên một hành tinh xanh. Thế nhưng do sự khai thác sử dụng quá mức những món quà mà thiên nhiên ban tặng, cùng với sự phát triển và tham vọng của loài người, một loạt những hiện tượng thiên tai xảy ra như mưa acid, bão lũ, nạn hồng thủy, cháy rừng, hạn hán đã ảnh hưởng đến hệ sinh thái đô thị không chỉ trên thế giới mà còn ở cả Việt Nam đó là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hệ sinh thái đô thị. Những nỗ lực ngăn chặn các khí thải nhà kính, hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo được, sử dụng những nhiên liệu không gây ô nhiễm môi trường,các nước tham gia Hội nghị, cùng bàn bạc về vấn đề biến đổi khí hậu đã cho thấy phần nào sự quyết tâm của chúng ta trong việc khắc phục hậu quả. Song bên cạnh đó, đây không chỉ là vấn đề của những nhà lãnh đạo cấp cao mà ngay đến một công dân bình thường cũng có thể góp phần vào việc bảo vệ Trái Đất, bảo vệ ngôi nhà chung bằng những hành động đơn giản dễ làm như tiết kiệm điện, tham gia trồng cây xanh,tự tìm hiểu và nâng cao nhận thức của mình trong thời đại “ Biến đổi khí hậu toàn cầu” TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Huy Bá, Lâm Minh Triết (2005), Sinh thái Môi trường học cơ bản, NXB ĐHQG, TP HCM. 2. Lưu Đức Hải (2005), Cơ sở khoa học môi trường, NXB ĐHQG, Hà Nội. 3. Nguyễn Thọ Nhân (2009), Biến đổi khí hậu và năng lượng, NXB Tri thức, Tp HCM. 4. Trần Văn Nhân (2008), Sinh thái học môi trường, NXB Bách Khoa, Hà Nội. 5. Lê Văn Khoa, Nguyễn Đức Lương, Nguyễn Thế truyền (2001), Nông nghiệp và môi trường, NXB Giáo dục, Hà Nội. 6. Vũ Trung Tạng (2008), Cơ sở sinh thái học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 7. Vũ Trung Tạng (2007), Sinh thái học hệ sinh thái nước, NXB Giáo dục, Hà Nội. Trang Web 1. www. google.com.vn/ 2. www.tainguyenmoitruong.com.vn/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài- Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởngcủa biến đổi khí hậu..doc