Bài tập học kỳ môn Luật Hình sự 2 vụ án về chiếm đoạt tài sản

A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận lợi chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua súng không được, chúng ra một cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu súng nhựa. Một hôm, A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay ngồi hóng mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy. A rút súng ra dọa: “ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và lo lắng cho tính mạng nên khi B lấy chiếc xe máy mang đi, C và D không có phản ứng gì. A, B đem xe máy bán cho người quen là E được 8.000.000 đồng và ăn tiêu hết. 1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao? 2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào? Tại sao? 3. E có phạm tội không? Tại sao?

doc8 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5839 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập học kỳ môn Luật Hình sự 2 vụ án về chiếm đoạt tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Vụ án A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận lợi chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua súng không được, chúng ra một cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu súng nhựa. Một hôm, A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay ngồi hóng mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy. A rút súng ra dọa: “ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và lo lắng cho tính mạng nên khi B lấy chiếc xe máy mang đi, C và D không có phản ứng gì. A, B đem xe máy bán cho người quen là E được 8.000.000 đồng và ăn tiêu hết. II. Giải quyết vấn đề 1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao? Hành vi của A và B cấu thành tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS 1999 vì căn cứ vào các tình tiết vụ án đưa ra ta thấy hành vi mà A và B đã thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm của tội này: Về khách thể của tội phạm: Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Cả hai quan hệ xã hội này đều được coi là khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản. Ở vụ án trên, với hành vi rút súng ra dọa “ngồi im không tao bắn chết” của A và B đã xâm hại quan hệ nhân thân là tính mạng, sức khỏe, quyền tự do con người và qua đó nhằm mục đích xâm phạm quan hệ sở hữu là chiếm đoạt tài sản (chiếc xe máy) của C, D. Về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội cướp tài sản được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội này quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS 1999: “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”. Như vậy, có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp tài sản: - Hành vi dùng vũ lực: Đây là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động vào thân thể người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người đó chống lại việc chiếm đoạt, từ đó người phạm tội có thể dễ dàng chiếm đoạt được tài sản. - Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: Trường hợp người phạm tội được coi là đã thực hiện hành vi này khi người đó bằng lời nói hoặc cử chỉ hoặc cả hai dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Hành vi này khác hành vi dùng vũ lực ở chỗ nó không tác động đến thân thể người bị hại mà chỉ tác động vào ý chí, làm tê liệt ý chí phản kháng lại việc chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Một dấu hiệu quan trọng của hành vi cướp tài sản dạng này là việc đe dọa phải là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Dấu hiệu này thể hiện tính chất của sự đe dọa vừa nhanh chóng vừa mãnh liệt khiến cho người bị đe dọa tê liệt về ý chí phản kháng, đối phó và phải giao ngay tài sản. - Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được: những hành vi này có thể là đầu độc, cho uống thuốc ngủ liều cao, dùng thuốc gây mê… Từ việc đối chiếu các tình tiết của vụ án với các dạng nêu trên của hành vi cướp tài sản ta khẳng định: Trong vụ án trên, A và B đã thực hiện hành vi khách quan là: đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nhận thấy hành vi của A và B thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên của dạng hành vi này: Trước hết, bằng hành động rút súng ra và buông lời đe dọa: “ngồi im không tao bắn chết” ,A và B đã thực hiện hành vi thông qua lời nói và sự phô trương hung khí là khẩu súng nhằm đe dọa dùng vũ lực đối với C, D. Ngoài ra, sự đe dọa dùng vũ lực của A và B là ngay tức khắc, thể hiện ở sự nhanh chóng và mãnh liệt trong lời đe dọa của chúng khiến cho C, D tin rằng lời đe dọa đó sẽ xảy ra ngay lập tức nếu họ không giao tài sản hay có sự chống cự lại. Tuy khẩu súng mà A và B sử dụng chỉ là súng giả nhưng vì tưởng là súng thật, lo lắng cho tính mạng của mình nên C, D không dám có phản ứng gì để chống cự lại hành vi của A và B. Như vậy, sự đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc của A, B đã làm tê liệt ý chí phản kháng của C, D đối với việc bị chiếm đoạt tài sản. Thực chất, bản thân sự đe dọa của A và B đã chứa đựng tính chất khiến người bị đe dọa bị tê liệt về ý chí, thể hiện ở các tình tiết như: sử dụng súng là một thứ vũ khí nguy hiểm để đe dọa (theo suy nghĩ của C, D vì họ không biết đó là khẩu súng giả), hành vi đe dọa dùng vũ lực diễn ra ở bờ sông – nơi vắng người qua lại. Như vậy, hành vi của A và B đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản. Tuy nhiên, khi phân tích hành vi của A và B cần xác định rõ 2 vấn đề: - Dấu hiệu ngay tức khắc của sự đe dọa dùng vũ lực trong hành vi của người phạm tội cướp tài sản chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ, thái độ thể hiện ra bên ngoài mà không đòi hỏi họ phải thực sự có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc hay phải có đủ điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc. Như ở trường hợp trên, ta thấy A và B đã thể hiện ra ngoài sự đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc bằng hành vi và lời nói của mình nhưng trên thực tế họ không có ý định và cũng không có đủ điều kiện thực hiện điều đó vì vũ khí họ sử dụng chỉ là khẩu súng giả. Cho nên, khi xác định tình tiết này chúng ta không được máy móc đòi hỏi sự đe dọa đó phải được thực hiện và diễn ra trên thực tế. - Dấu hiệu hành vi đe dọa dùng vũ lực của tội cướp tài sản cần được phân biệt với hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Theo đó, chúng khác nhau ở thời điểm diễn ra hành vi dùng vũ lực trên thực tế và cả thái độ đối với việc thực hiện hành vi đó. Nếu như ở tội cướp tài sản hành vi đe dọa dùng vũ lực xảy ra ngay tức khắc tức là ngay lập tức xảy ra và thể hiện sự mãnh liệt của hành vi đe dọa cũng như việc thực hiện hành vi đó của người phạm tội thì ở tội cưỡng đoạt tài sản, hành vi người phạm tội không đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc mà đe dọa sẽ dùng vũ lực, qua đó cũng thể hiện thái độ ít mãnh liệt hơn. Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể mà tội cướp tài sản đòi hỏi là chủ thể thường tức là chủ thể đạt độ tuổi luật định và có năng lực TNHS. Trong vụ án trên không đặt ra vấn đề về chủ thể nên ta ngầm hiểu A và B đáp ứng điều kiện về chủ thể của tội cướp tài sản Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội cướp tài sản cũng giống như các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác là lỗi cố ý trực tiếp. Trong vụ án trên, A và B chắc chắn phải nhận thức được hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó và mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác, thể hiện ở mục đích chiếm đoạt có trước khi A và B thực hiện hành vi cướp tài sản và sự chuẩn bị cho hành vi đó: “A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận lợi chúng cùng nhau tìm mua súng”. Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc để xác định một hành vi đã phạm tội cướp tài sản. Từ những căn cứ trên ta khẳng định hành vi của A và B cấu thành tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS 1999 và A và B phải chịu TNHS về vụ đồng phạm cướp tài sản. Khẳng định A và B đồng phạm trong vụ cướp tài sản trên xuất phát từ những dấu hiệu sau: - Về mặt khách quan: Vụ đồng phạm này có 2 người và cả A, B đều là những người có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm. Ngoài ra, cả A và B đã cùng thực hiện tội phạm một cách cố ý với hành vi là người thực hành. Dù A mới là người trực tiếp thực hiện hành vi cấu thành tội cướp tài sản: A rút súng ra dọa “Ngồi im không tao bắn chết” nhưng B đã cùng với A đem súng ra bờ sông để thực hiện tội phạm tức là thống nhất với A trong cách hành động. Như vậy, B cũng được coi là người thực hành cùng với A trong vụ đồng phạm cướp tài sản. - Về mặt chủ quan: Như đã phân tích ở trên, A và B cùng thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và cùng chung mục đích chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi của A và B có đầy đủ dấu hiệu về mặt chủ quan của một vụ đồng phạm cướp tài sản. 2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào? Tại sao? Xét CTTP của tội cướp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 133 ta thấy đây là loại tội có cấu thành hình thức tức là người phạm tội chỉ cần thực hiện một trong các dạng hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ( dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được) thì coi như tội phạm đã hoàn thành mà không cần xem xét đến hậu quả đã xảy ra hay chưa (người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa). Trong vụ án trên, A và B đã thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực đối với C, D nhằm chiếm đoạt tài sản (đã phân tích ở phần trên). Hành vi này đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi khách quan được mô tả trong CTTP của tội cướp tài sản nên theo lập luận trên, hành vi phạm tội của A và B đã hoàn thành và A, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản mà không cần quan tâm đến việc A, B có cướp được tài sản hay không. Vậy, trong trường hợp C, D biết là súng giả, chống cự lại và A, B không lấy được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B vẫn không thay đổi vì hậu quả (cướp được tài sản) không phải là dấu hiệu định tội của tội cướp tài sản. Cho nên, nếu A và B không cướp được chiếc xe máy của C, D thì A và B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS 1999. Ở đây cần lưu ý rằng tài sản bị chiếm đoạt trong tội cướp tài sản không phải là dấu hiệu định tội mà chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt. Cho nên, nếu A, B không cướp được tài sản thì điều đó không có ý nghĩ gì trong việc làm thay đổi trách nhiệm hình sự và A, B phải chịu. Nhưng nếu A, B cướp được chiếc xe máy thì cần phải căn cứ vào giá trị của tài sản đó để xác định A và B bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản nào của Điều 133 BLHS 1999. * Một số quan điểm khác về trách nhiệm hình sự mà A, B phải chịu trong giả thiết đặt ra: Đối với giả thiết đặt ra trong tình huống trên, có quan điểm cho rằng A, B phạm tội cướp tài sản thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt vì cho rằng họ đã thực hiện hành vi đi liền trước của tội cướp tài sản là hành động giơ súng ra và đe dọa để chiếm đoạt tài sản nhưng do C, D biết đó là súng giả nên đã chống cự lại tức là do nguyên nhân ngoài ý muốn mà khiến cho A và B không cướp được chiếc xe máy. Hiểu như vậy là sai bản chất của hành vi phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt và không đúng về hành vi khách quan được mô tả trong CTTP của tội cướp tài sản. Cần phải nhận thấy rõ rằng A và B đã thực hiện đầy đủ hành vi mà tội cướp tài sản đòi hỏi cho nên không thể nói hành vi đó mới bắt đầu được thực hiện hay không được thực hiện đến cùng. Cho dù vũ khí mà A, B sử dụng chỉ là súng giả, không có khả năng thực tế hiện thực hóa sự đe dọa dùng vũ lực nhưng trên thực tế nó vẫn có tác dụng uy hiếp tinh thần buộc người bị đe dọa phải giao tài sản và hành vi của tội cướp tài sản cũng không đòi hỏi người phạm tội phải có ý định hay có đủ điều kiện dùng vũ lực. Vì vậy, hành vi của A, B thỏa mãn đủ các dấu hiệu về mặt khách quan trong CTTP tội cướp tài sản nên không thể thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt được. Hơn nưa, thực tế xét xử cũng cho thấy tội cướp tài sản không có giai đoạn phạm tội chưa đạt. Ngoài ra, có quan điểm cho rằng trong tình huống trên A, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 điều 133 “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” vì cho rằng ở đây A, B đã sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác. Để phân tích quan điểm này đúng hay sai, trước hết ta cần phải hiểu thể nào là vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác. Vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm phải là công cụ, phương tiện xét về cả hình thức và tính chất nó có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người. Ở đây, vũ khí mà A và B sử dụng là súng giả, về hình thức nó có thể gây lầm tưởng cho người khác về mức độ nguy hiểm của nó nhưng về bản chất, nó không hề có khả năng gây hại đến tính mạng, sức khỏe con người. Hơn nữa, theo qui chế quản lí vũ khí vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ban hành theo Nghị định số 47/CP ngày 12/08/1996 thì súng giả không thuộc các trường hợp được qui định là vũ khí, phương tiện nguy hiểm. Còn sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác phải là những thủ đoạn có thể gây chết người hoặc gây thương tích cho người khác. Tính nguy hiểm của những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng không phụ thuộc vào phương tiện mà phụ thuộc vào phương pháp sử dụng của người phạm tội. Ở đây, việc A rút súng ra dọa không thể được coi là thủ đoạn sử dụng công cụ nguy hiểm được. Như vậy, ý kiến trên là không đúng. 3. E có phạm tội không? Tại sao? Với những tình tiết vụ án đưa ra chưa thể khẳng định rằng E có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không mà cần xét các trường hợp sau: Trường hợp 1: E không phạm tội nếu E không có sự hứa hẹn, thỏa thuận trước với A và B về việc sẽ mua xe sau khi A, B đã cướp được chiếc xe đó cũng như không biết rằng chiếc xe máy A và B bán cho E là do cướp được mà có tức là E chỉ đơn thuần mua xe do A và B bán cho mà không biết gì về hành vi phạm tội của A và B. Trường hợp 2: E phạm tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS với vai trò đồng phạm với A và B: Trường hợp này xảy ra nếu E có sự hứa hẹn, thỏa thuận trước với A và B là sẽ mua lại tài sản do A và B cướp giật được mà cụ thể ở đây là chiếc xe máy . Sự hứa hẹn, thỏa thuận đó phải được thực hiện trước khi hành vi phạm tội của A và B diễn ra. Trường hợp 3: E phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250 BLHS trong trường hợp E tuy không có sự hứa hẹn trước với A và B nhưng vẫn mua lại chiếc xe máy (tiêu thụ tài sản) mà E biết rõ là tài sản đó là do A và B đi cướp mà có được. Trong trường hợp này, hành vi của E phải thỏa mãn các dấu hiệu: E biết rõ chiếc xe máy mình mua lại từ A và B là tài sản do cướp giật mà có được và việc tiêu thụ đó không phải do B thỏa thuận, hứa hẹn từ trước với A và B. III. Kết Luận Từ vụ án nêu trên, ta thấy rằng khi xác định tội danh của người phạm tội cần xét xem các dấu hiệu của hành vi phạm tội thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm đó hay không, cần đặc biệt lưu ý một số tình tiết trong hành vi có thể gây nhầm lẫn với tội phạm khác nên cần phải xét các hành vi đó trong một tổng thể khách quan. Ngoài ra, đối với những trường hợp có từ 2 người phạm tội trở lên cần phân tích được những người đó có đồng phạm với nhau trong việc thực hiện tội phạm hay không. Đặc biệt lưu ý CTTP của tội phạm đang xét để có thể xác định chính xác trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ môn Luật Hình sự 2 (9đ) - vụ án về chiếm đoạt tài sản.doc
Luận văn liên quan