Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái

Mục Lục A. Lời nói đầu 1 B. Nội Dung 2 I. Khái niệm 2 1. Khí hậu 2 2. Biến đổi khí hậu 2 3. Dao động khí hậu 2 4. Thời tiết 2 5. Những yếu tố ảnh hưởng đến khí hậu 2 II. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu 6 1. Hiệu ứng nhà kính 6 2. Các dòng nước đại dương 7 3. Chu kỳ mặt trời 7 4. Sự phun trao núi lửa 7 5. Sự trôi dạt của các lục địa 8 III. Biến đổi khí hậu trên thế giới 9 1. Khí nhà kính làm trái đất nóng lên 9 2. Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu 10 3. Nghị định Thư Kyoto: Bước đầu tiên đầy trắc trở 10 4. VN đối mặt với biến đổi khí hậu toàn cầu 11 IV. Ảnh Hưởng Của Biến Đổi Khí Hậu 13 1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các nước Đông Nam Á 13 2. Ảnh hưởng của BĐKH ở Việt Nam 14 V. Tình hình biến đổi khí hậu 15 1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại 15 2. Tình Hình Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và những tác hại 17 VI. Những Hành Động Cùng Biến Đổi Khí Hậu 20 1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto 20 2. Sáng kiến “Giờ Trái đất” 21 3. Các Bạn Trẻ Cùng Nhau Hành Động 22 VII. Biến Đổi Khí Hậu Và Du Lịch Sinh Thái 22 1. BĐKH Và Du Lịch Sinh Thái Trên Thế Giới 23 2. BĐKH và du lịch sinh thái ở Việt Nam 27 C. Lời Kết 30 Tài liệu tham khảo 31

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH VIỆN KHCN VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG MÔN MÔI TRƯỜNG CƠ BẢN TIỂU LUẬN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ DU LỊCH SINH THÁI SVTH: Phùng Xuân Kim Hương MSSV: 07727351 Lớp: ĐHMT3B GVHD: GS.TSKH Lê Huy Bá TP. HCM, T6/2009   Mục Lục A. Lời nói đầu 1 B. Nội Dung 2 I. Khái niệm 2 1. Khí hậu 2 2. Biến đổi khí hậu 2 3. Dao động khí hậu 2 4. Thời tiết 2 5. Những yếu tố ảnh hưởng đến khí hậu 2 II. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu 6 1. Hiệu ứng nhà kính 6 2. Các dòng nước đại dương 7 3. Chu kỳ mặt trời 7 4. Sự phun trao núi lửa 7 5. Sự trôi dạt của các lục địa 8 III. Biến đổi khí hậu trên thế giới 9 1. Khí nhà kính làm trái đất nóng lên 9 2. Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu 10 3. Nghị định Thư Kyoto: Bước đầu tiên đầy trắc trở 10 4. VN đối mặt với biến đổi khí hậu toàn cầu 11 IV. Ảnh Hưởng Của Biến Đổi Khí Hậu 13 1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các nước Đông Nam Á 13 2. Ảnh hưởng của BĐKH ở Việt Nam 14 V. Tình hình biến đổi khí hậu 15 1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại 15 2. Tình Hình Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và những tác hại 17 VI. Những Hành Động Cùng Biến Đổi Khí Hậu 20 1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto 20 2. Sáng kiến “Giờ Trái đất” 21 3. Các Bạn Trẻ Cùng Nhau Hành Động 22 VII. Biến Đổi Khí Hậu Và Du Lịch Sinh Thái 22 1. BĐKH Và Du Lịch Sinh Thái Trên Thế Giới 23 2. BĐKH và du lịch sinh thái ở Việt Nam 27 C. Lời Kết 30 Tài liệu tham khảo 31 A. Lời nói đầu: Theo nhiều đánh giá, phân tích về các vấn đề quốc tế được đưa ra trong năm 2008, biến đổi khí hậu (climate change) là một trong những vấn đề nổi lên gay gắt nhất, luôn mang tính "thời sự nóng hổi" tại nhiều diễn đàn quốc tế và ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà phân tích chính trị cũng như các nhà hoạch định chính sách đối ngoại. Có thể dễ dàng nhận thấy, tại nhiều diễn đàn của Liên hợp quốc, hợp tác Á-Âu, ASEAN...,  trong các định hướng, ưu tiên đối ngoại và hợp tác quốc tế của tân Tổng thống Mỹ Barack Obama, của Liên minh châu Âu (EU) và của nhiều quốc gia khác, vấn đề biến đổi khí hậu luôn dành được sự quan tâm lớn.   Dưới góc độ chính trị - an ninh, biến đổi khí hậu được xếp vào dạng vấn đề an ninh "phi truyền thống" và được xem như là một trong những thách thức lớn nhất đối với môi trường an ninh - phát triển toàn cầu trong những năm tới, thậm chí là trong cả thế kỷ XXI. Nhiều đánh giá cho rằng, tác động của biến đổi khí hậu đối hòa bình và an ninh của thế giới là rất lớn, khó lường, lâu dài, có thể còn nghiêm trọng hơn cả chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Tầm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu là mang tính toàn cầu và các chiến lược, biện pháp mang tính quốc gia đơn lẻ, kể cả của các nước phát triển nhất, không thể đối phó một cách hiệu quả đối với thách thức này. Các nước ven biển ở một số khu vực, bao gồm cả một số nước Đông Nam Á, có thể là nơi phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của các hiện tượng biến đổi khí hậu (nước biển dâng, thiên tai, thời tiết diễn biến bất thường...). Vì vậy chúng ta cần phảii tìm hiểu về nguyên nhân của biến đổi khí hậu toàn cầu; những ảnh hưởng và tác động của biến đổi khí hậu; giảm thiểu phát thải khí nhà kính và những đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu nhằm thích ứng dần với biến đổi khí hậu và tìm ra giải pháp thích hợp cho hiện trạng này. B. Nội Dung: I. Khái Niệm: 1. Khí hậu: là mức độ trung bình của thời tiết trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. 2. Biến đổi khí hậu: là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. 3. Dao động khí hậu : là sự dao động xung quanh giá trị trung bình của khí hậu trên quy mô thời gian, không gian đủ dài so với hiện tượng thời tiết riêng lẻ. Ví dụ về dao động khí hậu như hạn hán, lũ lụt kéo dài và các điều kiện khác do chu kỳ El Nino và La Nina gây nên. 4. Thời tiết : là trạng thái khí quyển tại một địa điểm nhất định được xác định bằng tổ hợp các yếu tố : nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, tốc độ gió, mưa... 5. Những yếu tố ảnh hưởng đến khí hậu : Có rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến khí hậu trên toàn thế giới. Nhưng những yếu tố quan trọng nhất là: Khoảng cách từ biển Các dòng chảy của đại dương Hướng của các luồng gió chính Địa hình Gần đường xích đạo Các hiện tượng El Nino Gần đây người ta đã chấp nhận là các hoạt động của con người cũng ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu a. Khoảng cách từ biển ( đại lục): Biển ảnh hưởng đến khí hậu của một nơi. Những khu vực ven biển mát và ẩm ướt hơn khu vực nội địa. Mây hình thành khi luồng không khí ấm trong đất liền gặp luồng không khí lạnh ở ngoài biển. Ở trung tâm lục địa thường khó tránh khỏi nhiệt độ cao. Trong mùa hè, nhiệt độ có thể rất nóng và khô như độ ẩm từ sự bay hơi của nước biển trước khi đến trung tâm của lục địa. b. Các dòng chảy của đại dương:  Các dòng chảy của các đại dương trên thế giới Các dòng chảy của các đại dương có thể làm tăng hay giảm nhiệt độ. Biểu đồ trên hiển thị các dòng chảy của biển trên thế giới. Ví dụ như vịnh Stream là dòng chảy ấm ở phía bắc Atlantic chảy từ Vịnh Mê-hi-cô, đông bắc dọc theo bờ biển Hoa Kỳ, và từ đó đến các đảo nhỏ của Anh. Vịnh Mêhico có nhiệt độ không khí cao hơn ở Anh vì nó gần xích đạo hơn. Điều này có nghĩa là không khí đến từ Vịnh Mê-hi-cô đến Anh cũng được ấm áp. Tuy nhiên, không khí cũng hơi ẩm vì nó đi qua Đại Tây Dương. Đây là một trong những lý do tại sao Anh thường xuyên nhận được thời tiết ẩm ướt. c. Hướng của các luồng gió chính : Gió thổi từ biển thường mang theo mưa vào bờ biển và thời tiết khô vào bên trong khu vực. Ví dụ như gió thổi tới Anh từ các các vùng đất ấm như Châu Phi sẽ ấm và khô. Còn gió thổi tới Anh từ những vùng đất như Hà lan thì sẽ lạnh và khô vào mùa đông. Những luồng gió từ hướng tây nam qua Atlantic thì sẽ mát vào mùa hè và nhẹ vào mùa đông. d. Địa hình: Khí hậu có thể bị ảnh hưởng bởi các dãy núi. Núi nhận được lượng mưa nhiều hơn các khu vực nằm thấp hơn bởi vì nhiệt độ trên núi thấp hơn nhiệt độ tại mực nước biển. Đó là lý do tại sao bạn hay nhìn thấy tuyết trên đỉnh núi của tất cả các năm. Những nơi cao hơn mực nước biển thì lạnh hơn. Điều này sẽ xảy ra bởi vì khi độ cao trên mực nước biển tăng, không khí trở nên mỏng hơn và ít có khả năng hấp thụ và giữ nhiệt. e. Gần đường xích đạo: Vị trí gần đường xích đạo cũng ảnh hưởng đến khí hậu ở các nơi. Ở xích đạo nhận được nhiều ánh sáng mặt trời hơn bất kỳ nơi nào khác trên trái đất. Điều này là do vị trí của nó trong tương quan với mặt trời. Biểu đồ cho thấy, đường xích đạo nóng hơn, vì mặt trời có ít diện tích để truyền nhiệt. Khí hậu sẽ mát ở phía cực bắc và cực nam vì mặt trời có nhiều diện tích để truyền nhiệt. Nó là mát như là nhiệt được lan truyền trên một khu vực rộng lớn hơn. Trời mát hơn vì nó truyền nhiệt sang các vùng khác rộng hơn.  Vị trí của trái đất trong mối tương quan với mặt trời f. El Nino: El Nino ảnh hưởng đến gió và lượng mưa, đã dẫn tới hạn hán và lũ lụt ở các nước xung quanh vành đai Thái Bình Dương. El Nino có liên quan đến sự ấm lên của bề mặt nước ở Thái Bình Dương. Nước nóng lên làm thay đổi năng lượng và độ ẩm trong không khí, thay đổi gió và lượng mưa ở toàn cầu. Hiện tượng này đã gây ra bão in Florida, sương mù ở Indonesia, và cháy rừng ở Bra-xin.  Sự tàn phá của cơn bão ở Florida  Sương mù ở Indonesia  El Nino gây ra cháy rừng ở Braxin g. Ảnh hưởng của con người: Các tự nhiên yếu tố ở trên ảnh hưởng đến khí hậu. Tuy nhiên, chúng ta không thể quên ảnh hưởng của con người lên khí hậu. Chúng ta đã ảnh hưởng đến khí hậu từ khi chúng ta xuất hiện trên trái đất này hàng triệu năm trước. Trong những thời điểm, các ảnh hưởng đến khí hậu đó còn nhỏ. Cây xanh bị chặt để cung cấp gỗ để đốt. Cây xanh hấp thụ CO2 và thải O2 . Cây xanh bị giảm sẽ làm tăng khí CO2 trong không khí. Cách mạng công nghiệp, bắt đầu từ ngày cuối cùng của 19. Century, đã có một ảnh hưởng rất lớn về khí hậu. Việc chế tạo ra các động cơ xe máy và gia tăng các nhiệt liệu đốt cháy cũng làm tăng CO2 trong khí . Số lượng các loại cây đang bị chặt phá cũng tăng lên, có nghĩa là thêm một lượng khí carbon dioxide sản xuất không thể thay đổi thành oxy. II. Nguyên nhân gây ra Biến Đổi Khí Hậu ( BĐKH): 1.Hiệu ứng nhà kính: Như chúng ta biết, trái đất hình thành trong thái dương hệ khoảng 4,65 tỷ năm trước đây và con người nguyên thuỷ xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng 4 triệu năm. Trái đất được bao bọc bởi khí quyển và trong bầu khí quyển có nhiều loại khí khác nhau. Trong đó khí nhà kính (KNK) gồm CO2 (cacbonit-dioxit cacbon), CH4 (Metan), Nox (Oxit Nitơ), hơi nước và xon khí. KNK là loại khí trong khí quyển có tính năng giữ lại bức xạ nhiệt phát từ dưới lên, không cho thoát vào vũ trụ. CO2 là loại KNK chủ yếu gây ra biến đổi khí hậu (BĐKH).  Hiệu ứng nhà kính: Bản chất là một hiệu ứng tốt miễn là chúng ta đừng làm nó tăng quá: 1. Đốt nhiên liệu có nguồn gốc hữu cơ làm ô nhiễm khí quyển, tăng hiệu ứng nhà kính khiến trái đất nóng dần lên và làm thay đổi khí hậu. 2: Năng lượng từ mặt trời 3a: sức nóng toả ra từ trái đất. 3b: Khí nhà kính bao gồm hơi nước; Khí CO2; khí methane. 4: sức nóng hấp thụ trở lại trái đất do khí gas từ hiệu ứng nhà kính 5. Số liệu cho thấy hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng thêm 33 độ C (60 độ F) so với tình trạng không có hiệu ứng. Khí hậu trái đất chịu ảnh hưởng phần lớn của cân bằng nhiệt của khí quyển. Vì vậy, tất cả những quá trình ảnh hưởng đến cân bằng nhiệt này đều có thể gây biến đổi khí hậu. Như vậy, có thể nói, chính sự tích tụ các khí gây hiệu ứng nhà kính đã làm tăng lượng nhiệt hấp thu của khí quyển dẫn đến hiện tượng trái đất ấm dần lên là nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu toàn cầu. Thực ra, sự thay đổi lượng các khí gây hiệu ứng nhà kính cũng xảy ra tự nhiên. Và cũng chính nhờ các khí này trong khí quyển giữ nhiệt mà sự cân bằng nhiệt của trái đất được đảm bảo. Nhưng điều đáng nói là từ thời công nghiệp bắt đầu xuất hiện đến giờ, những hoạt động kinh tế của con người đã làm ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm không khí nói riêng. Mọi hoạt động cần năng lượng, và chỉ trong vòng vài chục năm qua, con người đã "đốt" một lượng lớn nhiên liệu hóa thạch mà tự nhiên phải mất hàng trăm triệu năm để hình thành (Than đá, dầu mỏ, khí thiên nhiên). Chúng ta đã thải nhiều CO2 vượt quá mức cân bằng ổn định của nó. Thêm vào đó, sự cân bằng này càng chông chênh khi rừng đang tiếp tục bị tàn phá khắp nơi trên thế giới. Chúng ta biết rằng, sự cân bằng CO2 trong tự nhiên được duy trì nhờ quá trình quang hợp của cây xanh (mọi hoạt động sống, hô hấp thải ra CO2, cây xanh hấp thụ lại CO2 khi quang hợp). 2. Những dòng nước đại dương thay đổi của các dòng nước đại dương trên thế giới cũng làm ảnh hưởng đến khí hậu. (Đại dương thậm chí còn chứa nhiều nhiệt hơn cả khí quyển). Giống như gió trong không khí, những dòng nước trong đại dương chuyển đông, chủ yếu là từ những vùng gần xích đạo đến các địa cực. Và sự chuyển động này làm nóng trái đất lên. Nếu không có những dòng nước đại dương này, vùng xích đạo chắc đã nóng hơn còn vùng cực lạnh hơn. Đôi khi những dòng nước này thay đổi hướng, chậm đi, đảo ngược hay thậm chí là biến mất, và những điều này ảnh hưỏng lớn đến khí hậu trái đất. 3.Chu kỳ mặt trời Mặt trời thường được bao bọc bởi những vệt đen mặt trời (sunspot). Cứ 11 năm một lần, số lượng các vệt này lại đạt cực đại. Sự thay đổi lượng nhiệt từ Mặt Trời liên quan đến chu kì này. 4. Sự phun trào núi lửa Núi lửa phun trào làm một lượng lớn bụi và các khí ô nhiễm vào khí quyển, lớp bụi này ngăn chặn ánh sáng mặt trời đến trái đất, do đó làm cho trái đất bị lạnh đi. Dạng biến đổi khí hậu này cũng xảy ra khi có thiên thể từ vũ trụ va vào trái đất (gây nên những vụ nổ, phun trào núi lửa…). May mắn thay chúng rất hiếm khi xảy ra(trong khoảng vài triệu năm). Nhiều nhà khoa học tin rằng, sự va chạm của một thiên thạch cách đây 65 triệu năm đúng vào thời kì khủng long tuyệt chủng. 5. Sự trôi dạt của các lục địa Trải qua hàng trăm triệu năm, sự thay đổi cấu trúc các lục địa và đại dương đã ảnh hưởng đến nhiệt lượng trong khí quyển và đại dương, vì thế mà ảnh hưởng đến khí hậu trái đất. Suốt thời kì khủng long cách đây hàng trăm triệu năm, trái đất đã nóng hơn bây giờ rất nhiều, với nhiệt độ trung bình lên đến 25 độ C, ở các vùng cực bấy giờ thậm chí còn có rất ít hay không có băng tuyết. Từ lúc đó, sự phân tách các lục địa đã làm biến đổi những dòng chảy đại dương và gió, cô lập Nam cực, gây nên hiện tượng lạnh đi của khí hậu trái đất cho đến ngày nay, với những tảng băng lớn bao phủ Nam Cực và Greenland. Kích thước của những tảng băng này đã thay đổi đều đặn (to ra hay thu nhỏ lại) suốt hàng triệu năm qua, nhưng không phải do sự trôi dạt của các lục địa mà do những thay đổi trong quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời.  Nhiệt độ trung bình của trái đất III. Biến Đổi Khí Hậu Trên Thế Giới: 1. Khí nhà kính làm trái đất nóng lên: Dựa vào số liệu đo đạc của các nhà khí tượng học thì hàng năm mặt trời rọi bức xạ ánh sáng vào trái đất một khối lớn năng lượng khoảng 5.4.1024Jun. Trái đất chỉ hấp thụ khoảng 60% lượng này, còn 40% phản xạ ngay vào vũ trụ. Số năng lượng hấp thu được qua nhiều quá trình phức tạp, biến thành bức xạ nhiệt phát trở lại qua khí quyển vào vũ trụ. Hàm lượng KNK trong khí quyển phải được giữ sao cho khối năng lượng hấp thu được phát ra hết để nhiệt độ không tích lại và không tăng lên làm BĐKH. Theo báo cáo của UB Liên chính phủ về BĐKH toàn cầu (IPCC – intergovernmental Panel on Climate Change) thì kết quả nghiên cứu cho thấy từ năm 1750 trở về trước, tức là thời gian chưa xảy ra công nghiệp hóa, hàm lượng CO2 đo được là 280 ppm, nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất lúc đó được giữ ổn định - đó là hàm lượng cân bằng (đơn vị hàm lượng 1ppm là khí: 1 phân tử CO2 trộn với 1 triệu phân tử khí quyển). Đến năm 2005, hàm lượng CO2 đo được là 379 ppm, tăng khá cao so với mức cân bằng 280 ppm. Hàm lượng CO2 trong khí quyển tăng làm cho bề mặt trái đất nóng lên. Từ 1906 – 2005 nhiệt độ bề mặt trái đất tăng 0,74 độ C. Trước nguy cơ này các nhà khoa học thế giới đã mô phỏng tính toán 6 kịch bản dự báo tăng nhiệt độ và mực nước biển.    Biến đổi khí hậu: Nhiệt độ trung bình trên bề mặt trái đất thay đổi từ năm 1870 cho đến năm 2100. Biến thiên nhiệt độ từ thấp (màu xanh) đến cao (màu đỏ).   Theo kịch bản số 4, nếu hàm lượng KNK năm 2100 bằng 850 ppm thì nhiệt độ trung bình toàn cầu của bề mặt trái đất sẽ tăng 2,8 độ C so với năm 2000 và mực nước biển sẽ dâng từ 0,21 – 0,48m, gây một thảm hoạ không lường trước cho nhân loại, đó là chưa kể từ nay đến lúc đó BĐKH sẽ tạo ra bão lụt, hạn hán, sụt lở đất, nhiễm mặn, bệnh tật… cho bao nhiêu cư dân trên hành tinh ở các vùng đất thấp, mà trước hết đối tượng dễ bị tổn thương là các nước kém phát triển và người nghèo là đại bộ phận của nhân loại. 2. Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu: Đến gần cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học mới xác định được chính xác tác động của con người làm BĐKH trên hành tinh. Năm 1992, Liên hiệp quốc (LHQ) đã triệu tập một hội nghị mang tính lịch sử tại Rio Dejanero (Brasil) để thông qua hiệp định khung về chương trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng xấu đi nhanh chóng bầu khí quyển trái đất mà nguyên nhân chủ yếu gây ra là KNK. Đồng thời thành lập một tổ chức trực thuộc để thẩm định về BĐKH toàn cầu, có tên là Uỷ ban Liên chính phủ về BĐKH toàn cầu (IPCC). Tiếp theo, nhiều hội nghị, hội thảo tầm cỡ thế giới được tổ chức liên tục ở nhiều nước để thực thi cuộc chiến chống BĐKH toàn cầu. Năm 2007, chương trình phát triển của LHQ (UNDP) phát hành báo cáo “phát triển con người 2007 – 2008”. LHQ đã làm hết khả năng để hỗ trợ cuộc chiến chống BĐKH nhằm bảo vệ nhân loại trước thảm hoạ vô cùng to lớn của thời đại mà chính do sự “vô thức” của con người gây ra. 3. Nghị định Thư Kyoto: Bước đầu tiên đầy trắc trở: Nghị định thư Kyoto ra đời tại Hội nghị thượng đỉnh của các quốc gia trên thế giới vào tháng 12/1997 ở thành phố Kyoto (Nhật Bản) nhằm cắt giảm KNK. Trải qua hàng loạt cuộc thương thảo để phê duyệt, ký kết kéo dài trong 10 năm, mãi đến tháng 12/2007 đã có 175 quốc gia và vùng lãnh thổ cam kết từ giai đoạn 2008 – 2012 sẽ giảm phát thải KNK và tới năm 2012 sẽ đạt 5% của lượng phát thải 1990. Đáng tiếc, cho đến nay, Hoa Kỳ là nước phát thải KNK nhiều nhất vào khí quyển (trên 20% toàn thế giới) lại đứng ngoài vạch cam kết. Để nối tiếp, Nghị định thư Kyoto sắp hết hạn vào năm 2012, LHQ vừa tổ chức hội nghị Bali (Indonesia) vào giữa tháng 12/2007. Ở Hội nghị này các nhà khoa học cung cấp thêm nhiều dữ liệu chính xác để các quốc gia yên tâm và đồng thuận hơn trong việc cắt giảm phát thải KNK. Thế nhưng đến ngày kết thúc, cũng quốc gia phát thải KNK nhiều nhất thế giới lại chưa tán thành văn bản cuối cùng của hội nghị, nên lộ trình Bali (Bali Road Map) phải kéo dài thêm 2 năm nữa, năm 2008 sẽ họp tại thành phố Poznan của Ba Lan, năm 2009 họp tại Kopenhagen – thủ đô Đan Mạch. Thế mới biết, lợi ích cục bộ của quốc gia vẫn trên lợi ích chung của nhân loại!  Hội nghị biến đổi khí hậu do Liên hiệp quốc tổ chức 4. VN đối mặt với biến đổi khí hậu toàn cầu: VN không may mắn nằm trong diện 5 quốc gia bị tác động nhiều nhất của hiện tượng nước biển dâng cao, là hậu quả tăng nhiệt độ làm bề mặt trái đất nóng lên do phát thải KNK. Theo cảnh báo của Uỷ ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đến năm 2100, nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng đến 5% đất đai của VN, 10% dân số, tác động đến 7% sản xuất nông nghiệp, giảm 10% GDP (nguồn: Dagupta.et.al.2007), riêng sản xuất kinh tế biển sẽ suy giảm 1/3 (nguồn UNDP). Còn theo dự báo dựa vào các kịch bản khác, nếu mực nước có thể dâng cao từ 3 – 5m thì đối với VN sẽ là thảm hoạ tiềm tàng? Chính phủ VN đã phê chuẩn công ước khung LHQ về BĐKH (UNFCCC) vào năm 1994 và nghị định Kyoto vào năm 2002. Tuy chưa phải là quốc gia công nghiệp phát triển nhưng VN đang tập trung cho các hoạt động kiểm kê và giảm thiểu phát thải khí nhà kính theo nghị định Thư Kyoto. Việt Nam đang soạn thảo thông báo quốc gia số 2 (SNC) cho UNFCCC sẽ hoàn thành vào năm 2009. Chính phủ đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường VN làm đầu mối quốc gia về các hoạt động liên quan đến BĐKH. Bộ này đang phối hợp với các ngành khác xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, trong đ1o có biện pháp giảm thiểu phát thải KNK và thích ứng với các tình huống bất thường của thiên tai, đồng thời soạn thảo khung chính sách quản lý rủi ro do BĐKH gây ra. Tuy nhiên, trong báo cáo “BĐKH và phát triển con người ở VN” của hai tác giả Peter Chaudhry và Greet Ruysschaert do chương trình phát triển LHQ công bố mang tính nhận xét, đánh giá: “Khái niệm BĐKH và những tác động tiềm tàng của nó, cũng như nhu cầu thích ứng vẫn chưa được hiểu đúng ở VN (trừ cộng đồng nhỏ các nhà nghiên cứu, các chuyên gia và một số cơ quan nhà nước liên quan ở TW và địa phương).”  Bão số 9 (Durian) vào đầu tháng 12/2006 gây nhiều thiệt hại ở Việt Nam IV. Ảnh Hưởng Của Biến Đổi Khí Hậu: 1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các nước Đông Nam Á: Theo một nghiên cứu mới được công bố, các nước khu vực Đông Nam Á sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, khiến nền kinh tế của các nước vốn phụ thuộc vào nông nghiệp sẽ bị suy giảm 6.7% mỗi năm vào cuối thế kỷ này Nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB tập trung vào 4 nước là Indonesia, Philippines, Thailand và Việt Nam. Các nước này có dân số tập trung đông tại các vùng ven biển phải đối mặt với tình trạng mực nước biển dâng và phụ thuộc vào lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác. Do đó, việc thiếu hụt nguồn nước và tình trạng lụt lội sẽ ảnh hưởng nhiều đến các nước này. Nếu không ngăn chặn được tình trạng ấm lên toàn cầu, vào năm 2100, 4 nước Châu Á trên sẽ chứng kiến nhiệt độ tăng thêm 4.80C so với nhiệt độ của năm 1990. Lượng mưa tại các nước này cũng giảm dẫn đến tình trạng khô hạn và cháy rừng xảy ra nhiều hơn. Các cơn bão nhiệt đới có mức độ tàn phá mạnh hơn và các trận lụt xảy ra do mực nước biển dâng sẽ làm hàng triệu người thiệt mạng và phá huỷ 2.500 km2 rừng ngập mặn. Vào năm 2100, thiệt hại về mặt kinh tế sẽ bằng 2.2% GDP nếu chỉ xem xét đến khía cạnh ảnh hưởng đến các thị trường. Con số này sẽ là 5.7% nếu tính đến các chi phí về y tế và đa dạng sinh học bị mất đi và là 6.7% GDP nếu có tính đến các thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra. Con số này vượt xa con số thiệt hại dự kiến ở phạm vi toàn cầu là khoảng 2.6% GDP mỗi năm vào cuối thế kỷ này. ADB cho rằng mặc dù lượng khí thải của các nước này là rất nhỏ so với Trung Quốc và Mỹ, nhưng các nước này cần số tiền hàng tỷ USD từ các nước giàu để giải quyết vấn đề trên. Hành động cần thiết của các nước Đông Nam Á là phải bảo vệ diện tích rừng nhiệt đới còn lại đã bị suy giảm trong những năm gần đây do nạn chặt phá rừng trái phép và việc mở rộng trồng cây cọ lấy dầu. Nạn chặt phá rừng làm tăng thêm 75% lượng khí thải tại các nước này. Báo cáo của ADB khuyến nghị các nước này đầu tư vào các chương trình trồng rừng và quản lý rừng bền vững. Báo cáo cũng đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu như cải thiện mạng lưới tưới tiêu, hệ thống kiểm soát lụt lội, hệ thống cảnh báo sớm và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển. Các giải pháp này có thể tiêu tốn trung bình 5 tỷ USD mỗi năm vào năm 2020, nhưng lợi ích thu được sẽ lớn hơn mức chi phí này sau năm 2050. Vào năm 2100, lợi ích thu được về mặt kinh tế sẽ là 1.9% GDP so với mức chi phí là 0.2% GDP. Báo cáo cũng cho biết 40% lượng khí thải các – bon sẽ được cắt giảm vào năm 2020 nếu các nước đầu tư vào việc xây dựng các toà nhà sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn và các loại phương tiện giao thông tiết kiệm nhiên liệu. Thêm 40% lượng khí thải nữa sẽ được cắt giảm nếu chuyển từ việc sử dụng than đá sang khí ga tự nhiên và các nguồn năng lượng thay thế như năng lượng mặt trời và năng lượng gió để tạo ra điện năng. 2. Ảnh hưởng của BĐKH ở Việt Nam: Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ sự biến đổi khí hậu (BÐKH) trái đất. Trong những năm tới, sự thay đổi về lượng mưa và giông bão, mực nước biển dâng cao thêm là nguyên nhân tác động trực tiếp tới vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Số trận lũ lụt tại các vùng đất trũng ven biển cũng tăng lên. Mưa lũ liên tiếp xảy ra làm cho hệ thống đê bao, đê ngăn mặn, đê kè sông, đê biển, kênh mương nội đồng bị sạt lở, nhiều tuyến đường giao thông, công trình di tích lịch sử bị bùn đất vùi lấp. Ngập úng trong thời gian dài sẽ làm cho các loại phân bón, thuốc trừ sâu, chất thải từ nhà vệ sinh và chuồng trại chăn nuôi chảy xuống các ao, hồ, sông, làm tăng lượng chất thải gây ô nhiễm nguồn nước; các công trình cấp nước sạch tập trung hoặc hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp từ sông ô nhiễm nặng gây khó khăn cho việc xử lý nước sinh hoạt. Sự xâm nhập mặn của nước biển sẽ ảnh hưởng các hệ sinh thái, làm mất cân bằng môi trường sống của nhiều loại thủy sinh nước ngọt. Ðiều đó có thể dẫn đến diện  tích rừng ngập mặn giảm, nguồn thức ăn thực vật và dinh dưỡng của các loài sinh vật sống ở sông, biển cũng giảm. Nhiệt độ của nước tăng lên kéo theo sự thay đổi phân tầng nhiệt độ theo chiều sâu cột nước, gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường sống thủy sinh. Hơn nữa, tăng nhiệt độ nước vùng ven bờ sẽ dẫn đến tăng lắng đọng các chất khoáng và hữu cơ, gây ảnh hưởng chuỗi thức ăn, giảm số lượng cũng như chất lượng các loài thủy sản. Tại những vùng khô hạn, bán khô hạn, sự thay đổi nhỏ của nhiệt độ và nhịp điệu mưa có thể ảnh hưởng lớn tới đa dạng sinh học (ÐDSH). Những vùng đất khô hạn sẽ phải chịu nhiều áp lực của sự chuyển đổi nông nghiệp, sự nhập nội của các loài xâm lấn, sự thay đổi chế độ cháy và ô nhiễm. Vì thế, BÐKH ở những vùng đất khô hạn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với con người và nền kinh tế. Trong hai năm 2004 - 2005, có tới 43% số hộ dân thuộc tỉnh Ninh Thuận thiếu nước ngọt sinh hoạt. Hiện có khoảng gần hai triệu người dân Ninh Thuận, Bình Thuận sống phụ thuộc trực tiếp vào những vùng đất khô hạn và bán khô hạn cho sinh kế hằng ngày của họ. Trong tình trạng BÐKH gia tăng, diện tích đất đang bị thoái hóa, hoang mạc hóa và bị nhiễm mặn ở những vùng đất khô hạn, bán khô hạn sẽ càng xảy ra nhanh hơn. BÐKH không chỉ ảnh hưởng nguồn nước, vệ sinh môi trường mà còn ảnh hưởng ÐDSH trong nông nghiệp. Chính sự BÐKH tác động mạnh đến sự phân bố, gia tăng tốc độ tuyệt chủng, làm thay đổi thời gian mùa phát triển của thực vật. ÐDSH góp phần hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ đất đai. Nó có vai trò vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh học, trong đó có con người. BÐKH không những cung cấp trực tiếp các phúc lợi cho xã hội như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng, năng lượng mà còn có giá trị đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trong ứng dụng thực tiễn, trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp, y tế, du lịch. ÐDSH và BÐKH có liên quan chặt chẽ và tương tác lẫn nhau theo không gian và thời gian. BÐKH là nguyên nhân quan trọng dẫn đến suy giảm ÐDSH. Ngược lại, sự suy giảm ÐDSH, sự xuống cấp của các sinh cảnh tự nhiên cũng góp phần dẫn tới sự BÐKH. Có thể thấy ba tác động lớn của BÐKH tới sự ÐDSH sau: Thứ nhất là, mực nước biển dâng cao sẽ làm mất đi nhiều vùng đất thấp rộng lớn, mất đi các hệ sinh thái đất nông nghiệp ở hai đồng bằng lớn của nước ta (đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng châu thổ Sông Hồng) - vùng có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất. Thứ hai là, nhiệt độ tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật của nhiều hệ sinh thái ven biển. Các loài nhiệt đới sẽ giảm đi và có xu hướng chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn trong các hệ sinh thái trên cạn. Các loài ôn đới giảm, cấu trúc chuỗi và lưới thức ăn cũng thay đổi. BÐKH còn làm gia tăng sự suy thoái của một số loài thực vật hoang dại - một nguồn gien quý để lai tạo các giống loài mới, đồng thời, làm mất đi một số cây do không thích ứng khí hậu. Thứ ba là, BÐKH còn làm thay đổi nhiệt độ nước và mực nước tại các khu vực sông, hồ, đầm lầy..., làm thay đổi chế độ thời tiết mưa, bão, hạn hán, cháy rừng... Do đó số lượng sinh học từ các cây trồng nông, công, lâm nghiệp giảm. Nguy cơ diệt vong của nhiều loài là không tránh khỏi. IV. Tình hình biến đổi khí hậu: 1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại: Khí hậu là trạng thái khí quyển ở nơi nào đó, được đặc trưng bởi các trị số trung bình nhiều năm về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, lượng bốc thoát hơi nước, mây, gió...Như vậy, khí hậu phản ánh giá trị trung bình nhiều năm của thời tiết và nó thường có tính chất ổn định, ít thay đổi. Trong lịch sử địa chất của trái đất chúng ta, sự biến đổi khí hậu đã từng nhiều lần xẩy ra với những thời kỳ lạnh và nóng kéo dài hàng vạn năm mà chúng ta gọi là thời kỳ băng hà hay thời kỳ gian băng. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã xãy ra cách đây 10.000 năm và hiện nay là giai đoạn ấm lên của thời kỳ gian băng. Xét về nguyên nhân gây nên sự thay đổi khí hậu này, chúng ta có thể thấy đó là do sự tiến động và thay đổi độ nghiêng trục quay trái đất, sự thay đổi quỹ đạo quay của trái đất quanh mặt trời, vị trí các lục địa và đại dương và đặc biệt là sự thay đổi trong thành phần khí quyển. Trong khi những nguyên nhân đầu tiên là những nguyên nhân hành tinh, thì nguyên nhân cuối cùng lại có sự tác động rất lớn của con người mà chúng ta gọi đó là sự làm nóng bầu khí quyển hay hiệu ứng nhà kính.Có thể hiểu sơ lược là: nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi sự cân bằng giữa hấp thụ năng lượng mặt trời và lượng nhiệt trả vào vũ trụ. Khi lượng nhiệt bị giữ lại nhiều trong bầu khí quyển thì sẽ làm nhiệt độ trái đất tăng lên. Chính lượng khí CO2 chứa nhiều trong khí quyển sẽ tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa ngược vào vũ trụ của trái đất. Cùng với khí CO2 còn có một số khí khác cũng được gọi chung là khí nhà kính như NOx, CH4, CFC. Với những gia tăng mạnh mẽ của nền sản xuất công nghiệp và việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch (dầu mỏ, than đá..), nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy nhiệt độ toàn cầu sẽ gia tăng từ 1,4oC đến 5,8oC từ 1990 đến 2100 và vì vậy sẽ kéo theo những nguy cơ ngày càng sâu sắc đối với chất lượng sống của con người. Có thể thấy tác hại theo hướng nóng lên toàn cầu thể hiện ở 10 điều tồi tệ sau đây: gia tăng mực nước biển, băng hà lùi về hai cực, những đợt nóng, bão tố và lũ lụt, khô hạn, tai biến, suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đi sự đa dạng sinh học và phá huỷ hệ sinh thái. Những minh chứng cho các vấn đề này được biểu hiện qua hàng loạt tác động cực đoan của khí hậu trong thời gian gần đây như đã có khoảng 250 triệu người bị ảnh hưởng bởi những trận lũ lụt ở Nam Á, châu Phi và Mexico. Các nước Nam Âu đang đối mặt nguy cơ bị hạn hán nghiêm trọng dễ dẫn tới những trận cháy rừng, sa mạc hóa, còn các nước Tây Âu thì đang bị đe dọa xảy ra những trận lũ lụt lớn, do mực nước biển dâng cao cũng như những đợt băng giá mùa đông khốc liệt. Những trận bão lớn vừa xẩy ra tại Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...có nguyên nhân từ hiện tượng trái đất ấm lên trong nhiều thập kỷ qua. Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho thấy số lượng các trận bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn phá lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương, Ân Độ Dương, bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường độ mạnh tăng gấp đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng thần ở Ấn Độ Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225 000 người thuộc 11 quốc gia, hay cơn bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến hàng ngàn người và thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD, và gần đây nhất siêu bão Nargis đánh vào Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất năm qua tính theo số lượng người thiệt mạng. Trận bão này giết chết hơn 135.000 người và đẩy hơn một triệu người vào cảnh không nhà cửa. Tính ra, thiên tai đã cướp đi mạng sống của hơn 220.000 người trong năm 2008 và gây thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành một trong những năm đáng sợ nhất trong lịch sử loài người tính theo tổn thất thiên tai về người và của. Diễn biến mới nhất của thiên tai là trận cháy rừng khủng khiếp do thời tiết quá khô hạn vừa xãy ra ở nước Úc (2/2009) đã giết chết ít nhất 210 người và làm bị thương hơn 500 người cùng những thiệt hại nặng nề về vật chất. Một nghiên cứu với xác suất lên tới 90%.cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh thiếu lương thực vào năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái đất. 2. Tình Hình Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và những tác hại: Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm thường vượt quá 20oC, lượng mưa trung bình 1500mm. Mùa lạnh và khô từ tháng 11-4, còn mùa nóng và mưa diễn ra từ tháng 5-10. Tuy nhiên các chỉ số này thay đổi theo chiều dài đất nước và theo cả địa hình cho nên mùa mưa với lũ lụt và mùa khô với hạn hán thưòng mang tính cực đoan và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Việt Nam nằm dọc theo đường di chuyển bão Tây-Bắc Thái Bình Dương và là một trong 10 nước trên thế giới được coi là dễ bị tổn thương nhất trước áp thấp nhiệt đới. Trung bình mỗi năm có 6-7 trận bão hay áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến vùng bờ biển của Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc và miền Trung. Nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Việt Nam cho thấy, từ năm Từ 1900 đến 2000, nhiệt độ trung bình năm tăng 0.1°C một thập kỷ. Mùa hè nóng hơn với nhiệt độ trung bình các tháng hè tăng từ 0.1°C đến 0.3°C một thập kỷ. nếu so với năm 1990, nhiệt độ chắc sẽ tăng trong khoảng từ 1.4-1.5°C vào năm 2050 và từ 2.5-2.8°C vào năm 2100. Điều này cho thấy xu thế tăng nhiệt độ cứ qua 10 năm lại lớn lên. Mùa nóng sẽ khắc nghiệt, và lượng mưa cùng với cường độ mưa sẽ tăng lên đáng kể ở phía Bắc. Sự biến đổi thất thường của thời tiết còn được thể hiện qua đợt mưa lớn trái mùa tại các tỉnh miền Bắc. Ví dụ: từ ngày 30/10 đến chiều 01/11/2008. Tại thủ đô Hà Nội lượng mưa lên tới gần 500mm đã gây ra cảnh úng lụt trầm trọng, thiệt hại cả về người và tài sản của nhân dân. Mùa khô sẽ càng sâu sắc và có nguy cơ biến các vùng dễ bị tổn thương như Nam Trung bộ thành bán hoang mạc. Phần lớn diện tích vùng ven bờ của Việt Nam bị đe doạ ngập lụt hàng năm, trong đó đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 75% tổng diện tích, và 10% diện tích của đồng bằng Sông Hồng. Ở một số khu vực như các tỉnh miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long, lũ xuất hiện với cường độ ngày càng tăng. Các trận bão gần đây mà Việt Nam phải hứng chịu đã trở nên khốc liệt và quỹ đạo các trận bão dường như đã chuyển hướng về phía Nam, vốn là những mảnh đất an toàn, trong những năm gần đây. Theo Chương trình môi trường LHQ (1993) mực nước biển bao quanh Việt Nam đã dâng cao 5cm từ giữa 1960 đến những năm 1990. Tổng cục Khí tượng-Thuỷ văn ước tính mực nước biển đang dâng cao với tốc độ trung bình là 2mm/năm. Xói lở bờ biển cũng đã và dang xãy ra, ví dụ ở Cà Mau có một số địa phương bị xói lở 600 ha, với các dải đất rộng 200m bị mất. Mực nước biển dâng cao chắc chắn còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các vùng ven biển trở nên tồi tệ, gây nên sự khó khăn trong khai thác nước ngọt phục vụ tưới và sinh hoạt. Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa cả nước với hơn 1.5 triệu ha đất nhiễm mặn, chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng lớn nhất. Biến đổi khí hậu chắc chắn có tác động đáng kể đến nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản của Việt Nam, với sự biến mất các loài cá quý hiếm, làm suy giảm mạnh sinh vật phù du sẽ dẫn đến tình trạng di cư và giảm mạnh khối lượng lớn cá. Do mực nước biển dâng cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản buộc phải di dời và kéo theo đó là việc phải tái đầu tư vốn, thay đổi tập quán cũng như định cư sản xuất. Miền Trung Việt Nam là khu vực hay bị thiên tai nhất ở Việt Nam và có tỷ lệ nghèo cao. Hàng năm, khu vực này phải đương đầu với mọi loại hình thiên tai, đặc biệt là lũ lụt. Chỉ riêng trận lụt lịch sử diễn ra vào cuối năm 1999 đã cướp đi 800 sinh mạng và gây thiệt hại hơn 300 triệu USD. Thêm vào đó, chúng ta hẳn vẫn còn nhớ đến sự tàn phá của cơn bão Xangsane (tháng 10/2006) với sức gió mạnh lên đến trên cấp 13 (149km/h), gió giật lên đến 205km/h làm sóng biển dâng cao 7m. Trận bão này hầu như đã làm các tỉnh miền Trung “xơ xác”, đặc biệt là các địa phương như Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi với hơn 20 vạn người chạy đi lánh nạn, hàng trăm người chết và bị thương, thiệt hại về tài sản do cơn bão lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Ở một mặt khác, Việt Nam gần đây đã đạt được những tiến bộ ngoạn mục cả về tăng trưởng kinh tế lẫn giảm nghèo. Sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới vào năm 2007, giao dịch thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng, tạo điều kiện để Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình. Tuy nhiên nền kinh tế định hướng thị trường của Việt Nam cũng làm gia tăng cách biệt giàu nghèo giữa vùng sâu, vùng xa và các cực tăng trưởng như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Do vậy, người nghèo vốn sống lệ thuộc vào hoàn cảnh tự nhiên, thường phải đối mặt với sự biến đổi khí hậu, và tác động của nó có thể đem lại những hậu quả đáng kể và lâu dài đối với khả năng ứng phó tổng thể của Việt Nam trong tương lai. Có thể khẳng định rằng thiên tai là trở ngại chính trên con đường đi tới phát triển bền vững và đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) ở Việt Nam. Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng sông Hồng:  Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSH như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình sẽ ngập chìm từ 2-4m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM) Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng sông Cửu Long:  Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSCL như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau... sẽ ngập chìm từ 2-4m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM) V. Những Hành Động Cùng Biến Đổi Khí Hậu: 1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto: Ý thức về những tác hại do con người gây ra cho môi trường trái đất, gần đây đã có sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những ảnh hưởng nguy hại do biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiều diễn đàn quốc tế đã ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, doanh nghiệp, chính trị cũng như các nhà hoạch định chính sách đối ngoại như Liên hợp quốc, WTO, EU, ASEM, APEC, ASEAN..., một điều chắc chắn rằng những thoả thuận kinh tế, chính trị, thương mại song phương hoặc đa phương gắn liền với vấn đề biến đổi khí hậu luôn nhận được sự tán thành và hợp tác. Những cam kết quốc tế được cụ thể hoá vào năm 1997 khi Nghị định thư Kyoto ra đời và chính thức có hiệu lực vào năm 2005 liên quan đến Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Kể từ tháng 11/2007 đã có khoảng 175 nước kí kết tham gia chương trình này. Nghị định thư Kyoto ràng buộc 37 quốc gia phát triển đến năm 2012 phải cắt giảm khí thải xuống 5% so với mức của năm 1990. Nghị định thư cũng được khoảng 137 nước đang phát triển tham gia kí kết trong đó có Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ vốn là những nền kinh tế mới nổi và có lượng khí phát thải cao. Sự kiện chính phủ Nga, nước chiếm 17% lượng khí thải phê chuẩn NĐT vào năm 2004, và chính phủ Úc ký kết NĐT vào năm 2007, đã gây sức ép buộc Mỹ (nước chiếm 25% khí thải ) - hiện là quốc gia phát triển duy nhất không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto - phải thay đổi quan điểm trong thời gian đến. Thế giới hy vọng thái độ tích cực và sự tham gia có trách nhiệm của Mỹ sẽ được thể hiện khi chính phủ của TT Obama tham gia hội nghị Copenhagen vào tháng 12 năm nay. Như vậy, Nghị định thư Kyoto được mong đợi sẽ là một thành công trong vấn đề cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường ở mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường”. Trong những năm tới, xu thế chung của hợp tác quốc tế và khu vực để đối phó với vấn đề biến đổi khí hậu sẽ được tăng cường, tập trung vào quá trình thiết lập cơ chế hợp tác, nghiên cứu và đánh giá tác động, xây dựng biện pháp phòng ngừa và nghiên cứu công nghệ, năng lượng mới. Mặc dù vậy, quá trình hợp tác sẽ còn gặp nhiều khó khăn, trắc trở do còn nhiều sự khác biệt về lợi ích giữa các nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu (cơ bản là việc giảm chất thải gây hiệu ứng nhà kính hoặc sử dụng tiết kiệm nhiên liệu có thể ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế của nhiều nước), việc sản xuất theo Chương trình cơ cấu phát triển sạch (The Clean Development Mechanism-CDM)) đòi hỏi đầu tư lớn và công nghệ phức tạp... Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 158/2008/QĐ - TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu và ngày 12/01/2009, tại TP. Hồ Chí Minh, Bộ TN&MT chính thức công bố Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu. Mục tiêu chiến lược của Chương trình là đánh giá được mức độ tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong từng giai đoạn và xây dựng được kế hoạch hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu cho từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp và tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất. 2. Sáng kiến “Giờ Trái đất”: Giờ Trái Đất là một sáng kiến toàn cầu của tổ chức WWF (Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên thiên) về biến đổi khí hậu. Các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và những tổ chức xã hội được kêu gọi tắt đèn trong 1 giờ để thể hiện sự ủng hộ của họ đối với hành động chống lại biến đổi khí hậu này. Sự kiện bắt đầu tại Sydney vào 31/3/ 2007, với hơn 2 triệu người và 2000 doanh nghiệp đã tham gia tắt đèn. Sáng kiến tắt đèn đã thu hút sự chú ý của hàng triệu công dân trên toàn thế giới. Trong năm 2008, hơn 50 triệu người của 35 quốc gia đã tham gia. Năm 2009, Giờ Trái Đất dự kiến thu hút 1 tỉ người và 1.000 thành phố tham gia với thông điệp “Hành động của mỗi chúng ta có thể làm thay đổi thế giới”. Chiến dịch Giờ trái đất sẽ diễn ra từ 20h30 – 21h30 ngày 28 tháng 3. Tính đến ngày 7/3/2009 đã có 931 thành phố và đô thị ở 80 quốc gia đăng ký tham gia sáng kiến giờ trái đất 2009.Chỉ tính riêng nước Úc đã có hơn 100 đô thị và thành phố tham gia vào sự kiện này. Cùng với những đô thị lớn trên thế giới, Giờ Trái Đất 2009 cũng sẽ chứng kiến đèn được tắt tại những biểu tượng nổi tiếng nhất hành tinh, bao gồm Tượng chúa cứu thế tại Rio De Janeiro, Núi Bàn ở Cape Town, Toà tháp Liên bang (Moscow), Nhà hát Opera Sydney, Sân vận động Thiên niên kỷ tại Cardiff và toà nhà Đài bắc 101 cao nhất thế giới ở Đài Loan... Giờ Trái đất 2009 hy vọng chuyển giao một sự uỷ nhiệm toàn cầu về việc cải tạo môi trường tới những nhà lãnh đạo thế giới sẽ tham dự cuộc họp về biến đổi khí hậu tại Copenhagen vào tháng 12/2009 tới để ký một thoả thuận mới nhằm thay thế Nghị định thư Kyoto. Năm nay là năm đầu tiên Việt Nam hưởng ứng sáng kiến này và Thành phố Hà Nội sẽ tắt điện lúc 20h30-21h30 ngày 28/3 để tham gia chiến dịch Giờ Trái đất. Việc tiết kiệm khối lượng điện tiêu thụ trong 1 giờ đồng nghĩa với giảm bớt lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, ngăn chặn sự biến đổi khí hậu toàn cầu.Thông điệp của sự kiện này là “tắt đèn, bật tương lai”. 3. Các Bạn Trẻ Cùng Nhau Hành Động: Thực tế cho thấy, biến đổi khí hậu đang đe doạ nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của con người trên khắp hành tinh và làm cho trái đất chúng ta ngày càng trở nên mỏng manh, dễ bị tổn thương và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong tương lai. Ngay từ bây giờ chúng ta cần phải ý thức hơn đối với môi trường thông qua từng công việc cụ thể của mỗi cá nhân. Trước tiên, đó chính là sự thay đổi thói quen hàng ngày trong cuộc sống theo hướng tiết kiệm năng lượng. Chỉ cần một cái nhấn nút tắt đèn hay các thiết bị điện, điện tử khi ra vào phòng ở hay nơi làm việc thì cũng giảm thiểu được khá nhiều chi phí phải trả. Thứ hai, cần phải nhận thức đầy đủ hơn về nguyên nhân và hậu quả của sự biến đổi khí hậu để vận dụng trong những hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là đối với những người “ra quyết định”. Ví dụ: bạn là người có quyền nhập khẩu thiết bị sản xuất thì nhất quyết phải nói không với công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều nhiên liệu và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính. Thứ ba, nghiên cứu khoa học và ứng dụng những thành tựu mới vào trong hiện thực cuộc sống là sự đóng góp thiết thực nhất của thanh niên. Hiện nay, trên thế giới đã tập trung vào việc nghiên cứu ứng dụng những nguồn năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, sức gió, sóng biển... để tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường. Trong xây dựng đã chú ý đến kiến trúc sinh thái, trong du lịch đã xuất hiện nhiều hơn sản phẩm du lịch sinh thái... đều là những hướng đi tích cực. Thứ tư, bạn hãy là một tuyên truyền viên có trách nhiệm thông qua trao đổi, chuyện trò với gia đình, bạn bè, hàng xóm...về những vấn đề môi trường (như hạn chế xả chất thải bẩn, trồng và chăm sóc cây xanh, đi xe đạp ở những cự ly ngắn hoặc tăng cường sử dụng phương tiện giao thông công cộng...). Việc tuyên truyền, trao đổi thông tin trên blog cá nhân hay diễn đàn trực tuyến cũng có tác dụng to lớn và nhanh chóng. Thông qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ, giải trí thể thao, tình nguyện và phát triển sẽ giúp bạn đưa vấn đề bảo vệ môi trưòng xâm nhập vào cộng đồng một cách hữu hiệu hơn. Khái niệm về Phát triển bền vững đại ý muốn nói đến những hành động của thế hệ hôm nay đừng để cho thế hệ tương lai phải gánh chịu những hậu quả và di chứng xấu. Nhưng đôi khi, hành động có trách nhiệm của thế hệ trẻ các bạn hôm nay trước những hậu quả nghiêm trọng của sự biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ giúp cho chúng tôi có cơ hội tự nhìn và ngẫm lại mình. VI. Biến Đổi Khí Hậu Và Du Lịch Sinh Thái: 1. BĐKH Và Du Lịch Sinh Thái Trên Thế Giới: a. Địa hạt mới cho du lịch sinh thái Khí hậu nóng lên đã tạo ra một địa hạt mới cho thị trường du lịch sinh thái: du lịch khí hậu – tức tìm kiếm những địa điểm mà khí hậu nóng lên bắt đầu tạo những hiệu ứng nhìn thấy được. Một số người cho rằng kiểu du lịch này đang tạo ra một nghịch lý, vì chính việc du lịch bằng xe lửa, máy bay hoặc tàu biển lại sản sinh ra CO2 và khí thải này góp phần làm trái đất nóng nhanh hơn. Earthwatch Institute là một hiệp hội của Mỹ chuyên tổ chức các chuyến đi cho những ai muốn giúp các nhà khoa học đang nghiên cứu các rặng san hô ở quần đảo Bahamas hoặc những tác động của biến đổi khí hậu đối với các loài hoa lan ở Ấn Độ. Chuyến đi 11 ngày với chủ đề “Thay đổi khí hậu ở vùng cực” có giá từ 2.849 - 4.349 đô la Mỹ, chưa kể tiền vé máy bay, bao gồm cả việc ghé Manitoba, Canada, để đo lượng carbone nằm trong lớp băng. “Bay đến Maldives để làm gì nếu đến một thời điểm nào đó, hòn đảo này sẽ bị nhấn chìm dưới đại dương”, bởi khí thải gây hiệu ứng nhà kính (GES) từ các máy bay của những du khách sinh thái góp phần làm trái đất nóng lên và mực nước biển dâng lên, theo nhận xét của Jeff Gazzard, thuộc Aviation Environmental Federation, một tổ chức của Anh đấu tranh làm giảm khí thải GES của các máy bay.  Nhìn thấy gấu Bắc cực không còn là chuyện hiếm trong các chuyến tham quan vùng băng giá.     Theo Liên Hiệp quốc, hàng năm có hơn 1,5 triệu du khách viếng thăm vùng cực, so với 1 triệu người vào đầu thập niên 1990. Mùa hè kéo dài hơn và nóng hơn khiến biển vùng cực ít gặp những tảng băng trôi và tàu chở du khách dễ đi đến những địa điểm bấy lâu nay rất khó tiếp cận được. Chính điều này trở thành mối đe dọa đối với môi trường. Chỉ việc du khách đặt chân lên những hòn đảo nhỏ cũng đã làm phá hủy thảm thực vật và động vật rất nhạy cảm ở đây. Khu vực gấu Bắc cực sống thường rất khó đến, nhưng do băng tan nên tàu có thể đi đến đó. Vì vậy, ngày càng xuất hiện nhiều sự cố giữa người và gấu. Ngoài ra, để tránh nguy cơ thủy triều đen, một đạo luật cũng quy định tàu đi vào vùng biển của quần đảo này phải sử dụng loại dầu diesel dành cho đi biển thay vì dầu nặng. b. Du khách muốn xem những gì họ thấy trên truyền hình Tháng 9-2005, Eric Schmitt, nhà thám hiểm 60 tuổi của đại học Berkeley, California, phát hiện một hòn đảo mới nằm ở Greenland băng giá, cách Bắc cực có 60km. Do bị băng giá che phủ trong hàng thế kỷ, miếng đất nhỏ này chưa bị ai phát hiện ra. Từ tâm trạng hân hoan cực độ, ông chuyển sang lo âu khi hiểu rằng sự xuất hiện của nó là điều bất thường: một bằng chứng của những biến đổi khí hậu trên hành tinh. Và rồi hòn đảo “nạn nhân” của khí hậu nóng lên này nhanh chóng trở thành điểm du lịch được ưa thích và giúp công ty Betchart Expeditions đặt tại California kiếm lời bằng cách tổ chức các chuyến tham quan bằng tàu với giá từ 3.700 - 5.100 euro. Băng tan ở vùng cực và khí hậu nóng lên trên mặt đại dương góp phần làm mực nước biển dâng cao và xuất hiện nhiều phản ứng sinh học mới trong các hệ sinh thái và các loài. Và ngành du lịch đang tìm cách thích nghi với thực tế này, trong đó dễ thấy nhất là ở các quốc gia phương Bắc. Chỉ trong vòng hơn 5 năm, một khu rừng thông đã mọc lên phía trước ngôi nhà của anh Javier Galvez, tại Qassiarsuk, niềm nam Greenland. Theo các nhà khoa học, đây là một phép lạ của tình trạng khí hậu nóng lên. Không chỉ làm thay đổi khung cảnh đơn điệu của tuyết trắng vô tận mà Galvez ngắm nhìn từ cửa sổ nhà mình, hệ quả này còn giúp anh trở thành doanh nhân thành đạt. Galvez lập ra công ty Tasermuit chuyên tổ chức các chuyến thám hiểm khoa học ở Greenland và lữ hành bằng đi bộ hoặc thuyền kayak cho du khách Tây Ban Nha. “Họ đến kiểm tra xem những gì nhìn thấy trên truyền hình có phải là sự thật”, anh giải thích. Ngoài việc giải thích những hậu quả của biến đổi khí hậu mà du khách muốn biết, Javier Galvez còn khuyến khích họ lân la với dân địa phương để hiểu thêm những thiệt hại mà họ phải chịu đựng hàng ngày. “Họ gần như bị sụp đổ vì không có thú để săn và thiếu giải pháp thay thế. Họ bị mất phương hướng hoàn toàn”, Gakvez khẳng định. Anh cho biết du khách Tây Ban Nha trở về nhà với cảm giác rằng thực tế trên sẽ mất thời gian từ 50 đến 300 năm, nhưng nó đã kết thúc như thế ngay tại Greenland. Tại Phần Lan, tuyết tan nhanh đã làm hiện ra các con đường mà trước đây chỉ là băng giá. Các công ty du lịch lớn của nước này đã bắt đầu thay xe trượt tuyết bằng xe ca chở khách. Nhờ mùa đông ngắn hơn và ôn hòa hơn nên du lịch phát triển rất nhanh. Tình hình cũng tương tự ở Na Uy, khi các công ty du lịch thay hình thức đi bộ xung quanh các tảng băng bằng những chuyến tham quan trên tàu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBiến đổi khí hậu và du lịch sinh thái.doc