Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều

Trong số những người bạn thơ gần gũi thì Nguyễn Quyến là người chịu ảnh hưởng của Nguyễn Quang Thiều rõ nét nhất. Đọc thơ của họ, chúng ta nhận ra một khát vọng mãnh liệt hướng đến một thế giới hoàn hảo. Ngay cả khi đau đớn và tuyệt vọng, con người vẫn khao khát hướng đến những giá trị tinh thần tuyệt đối. Trong trường ca sắp sửa xuất bản, Nguyễn Quang Thiều đã bộc lộ rõ khát vọng này. Câu hỏi nhức nhối đặt ra ở đó là liệu có một thiên đường hay không? Liệu có một thế giới hoàn hảo không có đói khát, buồn phiền, bệnh tật, chém giết, lọc lừa và tất cả hoà đồng trong ánh sáng vĩnh hằng? “Theo linh cảm của một nhà thơ, tôi biết rằng nơi đó mỗi Hiện thể trọn vẹn này lại chan chứa một Hiện thể trọn vẹn khác. Mà sự chan chứa hài hoà trong nhau ấy lại không làm mất đi những đặc tính của nhau”. Có lẽ, đó chỉ là khát vọng đẹp, nhưng nếu không được nuôi dưỡng bằng khát vọng, cái tôi ấy sẽ sụp đổ.

pdf10 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2859 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 13 Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều Nguyễn Thị Hiền (a) Tóm tắt. Bài báo đi sâu khám phá cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều, một trong những cây bút có đóng góp quan trọng vào công cuộc cách tân thơ Việt Nam đ−ơng đại. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều có nhiều biểu hiện mới mẻ, đó là cái tôi của những đối cực, cái tôi của khát vọng kiếm tìm. Hành trình năm tập thơ của Nguyễn Quang Thiều là hành trình vừa vật vã vừa hạnh phúc, vừa đau đớn vừa đam mê của cái tôi đi tìm kiếm những giá trị tinh thần chân chính. guyễn Quang Thiều sinh năm 1957 tại làng Chùa ven bờ sông Đáy, thuộc địa phận tỉnh Hà Tây. Ngôi làng âm u với những câu chuyện thần tiên ma quỷ h− h− thực thực ấy đã ám ảnh tâm trí “cậu bé làng Chùa”. Dòng sông Đáy chảy thao thiết qua bao năm tháng đã nuôi d−ỡng tâm hồn thi sĩ, là điểm tựa tinh thần để thi sĩ tìm về sau bao b−ơn bả gian nan. Nguyễn Quang Thiều có một điểm mạnh là tâm hồn đa cảm á đông kết hợp với óc phân tích sắc sảo của ph−ơng Tây. Anh có một thời gian học tập tại n−ớc ngoài, vốn ngoại ngữ thông thạo giúp anh có cơ hội tiếp xúc với văn hoá, văn học nhiều n−ớc trên thế giới. Vốn sống phong phú, học vấn uyên thâm, giao l−u văn hoá rộng và nội lực, bản lĩnh sáng tạo của một nghệ sĩ giúp Nguyễn Quang Thiều tìm đến một h−ớng cách tân thơ đáng chú ý. Ngoài giải th−ởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1993, Nguyễn Quang Thiều còn giành đ−ợc rất nhiều giải th−ởng văn học trong n−ớc ở mọi thể loại: tiểu thuyết, thơ, kịch bản phim, truyện ngắn, sách thiếu nhi… Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều cũng đ−ợc dịch ra nhiếu thứ tiếng. Đặc biệt là tác phẩm Bầy chim chìa vôi đ−ợc chọn làm một chuyên đề trong một tr−ờng Đại học ở Nhật. Năm 1997, Nguyễn Quang Thiều đ−ợc các nhà xuất bản ở Mỹ chọn dịch cả thơ và văn. Tập thơ Sự mất ngủ của lửa và Những ng−ời đàn bà gánh n−ớc sông đ−ợc dịch công phu và đăng tải trên hầu hết các tạp chí, báo văn học (khoảng 20 tờ) có uy tín trên toàn n−ớc Mỹ, sau đó đ−ợc in trong bản song ngữ The Women carry water (Những ng−ời đàn bà gánh n−ớc sông) tại nhà xuất bản Báo chí Masschusetts and Amherst - Hoa Kỳ. Ngoài ra anh còn đ−ợc biết đến với t− cách là một nhà báo, một họa sĩ không chuyên… Thành công ở nhiều lĩnh vực nh−ng thơ ca vẫn là niềm đam mê mãnh liệt nhất của anh. Anh đã có lần tâm sự rằng ngay cả việc vẽ tranh cũng chính là một cách để anh biểu đạt cho một ý t−ởng bằng màu sắc, đ−ờng nét mà anh khó có thể diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn từ. Cũng chính ở lĩnh vực thơ, Nguyễn Quang Thiều đã trở thành tâm điểm cho một cuộc tranh luận kéo dài. Nguyễn Quang Thiều bắt đầu làm thơ từ đầu thập niên 80 và sớm thành công. Năm 1983- 1984, anh đạt giải ba cuộc thi thơ của Tạp chí văn nghệ quân đội, năm 1989 đạt giải th−ởng thơ hay Nhận bài ngày 16/4/2007. Sửa chữa xong 08/6/2007. N Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 14 cũng của Tạp chí ấy. Tập thơ Ngôi nhà 17 tuổi của anh xuất bản năm 1990 và năm 1991 lọt vào vòng bình chọn 5 tác phẩm hay nhất trong năm. Nghĩa là nếu tiếp tục đi theo con đ−ờng ấy, Nguyễn Quang Thiều sẽ vẫn có một vị trí yên ổn trên thi đàn. Nh−ng ng−ời nghệ sĩ ấy đã dũng cảm b−ớc “lạc nhịp” ra khỏi dàn đồng ca, chấp nhận mạo hiểm để đi một con đ−ờng mới. Trong tiến trình thơ sau 75, Nguyễn Quang Thiều có đóng góp thực sự. Tập thơ Sự mất ngủ của lửa đề xuất một quan niệm mới mẻ về thơ. Anh đã thoát ra khỏi lối mòn của những cảm xúc đơn điệu, lối viết khuôn sáo để có một cách nhìn mới về hiện thực. Càng viết, con đ−ờng ấy càng rõ ràng hơn. Nguyễn Quang Thiều cũng có nhiều cách tân về hình thức nh−ng anh không lấy hình thức làm cứu cánh. Với thi sỹ, mọi hình thức thơ đều để chuyển tải những ý t−ởng nhất định. Chính sự đổi mới về cảm xúc đã kéo theo sự đổi mới về hình thức biểu hiện. Một số nhà thơ trẻ công nhận rằng ngòi lửa sáng tạo mà Nguyễn Quang Thiều châm lên từ Sự mất ngủ của lửa đã kích thích họ tìm tòi, đổi mới. Tuy rằng cuộc tranh luận về Nguyễn Quang Thiều còn ngổn ngang những khen chê song ít nhất nó cũng làm cho ng−ời cầm bút có trách nhiệm với nghề ý thức đ−ợc rằng họ không thể viết nh− cũ đ−ợc nữa. Nỗ lực xác lập cái tôi của các nhà thơ trẻ hiện nay là biểu hiện của sự ý thức ngày càng mạnh mẽ về cá tính sáng tạo. Một số cây bút trẻ xác lập cái tôi cá nhân bằng cách chối bỏ cộng đồng, lật đổ mọi giá trị truyền thống. Chính điều này đã tạo nên cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Nguyễn Quang Thiều là một trong số ít những nhà thơ đang nỗ lực thực hiện một bài toán khó. Anh cố tìm cách dung hợp hai yêu cầu: vừa v−ợt khỏi truyền thống vừa biết kế thừa những giá trị mỹ học truyền thống đang còn có tác dụng trong đời sống hiện đại để xây dựng nên những giá trị mới. Anh bền bỉ tạo lập những giá trị mang tính bền vững cho thơ ca. M−ợn cách nói của một nhà phê bình thì Nguyễn Quang Thiều đã chọn cho mình con đ−ờng thứ ba, anh không phủ nhận truyền thống một cách cực đoan và cũng không bảo trì truyền thống một cách cố chấp. Nguyễn Quang Thiều đã lựa chọn một h−ớng đi theo cách mà ng−ời thầy tinh thần vĩ đại của anh- Brodsky- đã chọn. Anh viết những bài thơ về con ng−ời, cho con ng−ời, không cần lựa chọn tỷ mẩn hình thức nào, tr−ờng phái nào. Cứ viết, viết về tất cả, hạnh phúc lẫn khổ đau, l−ơng thiện lẫn tội ác, xấu xa lẫn đẹp đẽ, lầm than lẫn s−ớng vui, tuyệt vọng lẫn hy vọng, tàn tụi lẫn tái sinh. Ngôn ngữ cũng tự nhiên nảy sinh từ chính đời sống ấy mà không cần màu mè, giả tạo. Từ những gì rất thực của đời sống, nhà thơ gợi ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống, của những giá trị vĩnh hằng. Cái tôi trữ tình của Nguyễn Quang Thiều, bởi thế, đ−ợc cấy trồng từ chính đời sống hiện đại này. Cái tôi trữ tình của thi sĩ đã trải qua khá nhiều xung động tinh thần mang dấu vết của thời đại. Khi giã từ “ngôi nhà 17 tuổi” của những hồi ức, kỷ niệm, cái tôi xúc cảm, cái tôi ký ức của nhà thơ đã thâm nhập và hóa thân vào thực tại. Nh−ng rồi cũng chính cái tôi ấy lại chán ngán cái gọi là văn minh vật chất của đời sống hiện đại, nhận ra rằng đời sống vật chất trần trụi đã bóp Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 15 méo những giá trị tinh thần thuần khiết nên không muốn chấp nhận thực tại thô ráp nữa mà khao khát trở lại những giá trị nguyên sơ của tâm hồn con ng−ời. Rõ ràng có một quá trình mâu thuẫn, phủ định và biến đổi không ngừng của cái tôi trữ tình Nguyễn Quang Thiều. Đặc biệt hơn, cái tôi ấy đã biết tạo nên hiện thực mới, nuôi d−ỡng hiện thực đó bằng những giá trị tinh thần mới tìm kiếm đ−ợc. Hành trình của năm tập thơ là hành trình vừa vật vã vừa hạnh phúc, vừa đau đớn vừa đam mê của cái tôi đi tìm kiếm những giá trị tinh thần chân chính… 1. Cái tôi của những đối cực Trong đời sống hiện đại, thi sĩ là ng−ời phải trăn trở với muôn mặt phức tạp, mâu thuẫn trong cuộc sống. Với họ thơ là cuộc tra vấn đầy khổ sở về ý nghĩa nhân sinh, là cuộc tìm kiếm miệt mài bản lai diện mục của chính mình. Giằng xé dai dẳng, quyết liệt giữa bóng tối và ánh sáng, hiện thực và −ớc mơ, ý thức và vô thức, cái hữu hạn của cá nhân và vô hạn của cuộc đời… cái tôi trong thơ hiện đại không thuần nhất mà th−ờng dung chứa những yếu tố đối lập nhau. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều tr−ớc hết là cái tôi của những đối cực, nó nằm chông chênh trên đ−ờng biên của “tuyệt vọng cuối cùng, hy vọng đầu tiên” Giã từ những cám dỗ của tuổi thơ, cái tôi h−ớng về thực tại của Nguyễn Quang Thiều rơi vào bi kịch. Cái thực tại mạnh mẽ, trần trụi, hừng hực sức sống trong Sự mất ngủ của lửa nhanh chóng bị đổ vỡ, bị biến dạng, nứt rạn trong Những ng−ời đàn bà gánh n−ớc sông, cái tôi bị dồn nghẹt, bị áp đảo bởi muôn vàn những giá trị vật chất thực dụng khác. Đó là thế giới ảo t−ởng, mê lầm, vật chất ngự trị, máy móc tiện nghi ngự trị. Con ng−ời bị t−ớc đi nhiều giá trị tinh thần. Hình ảnh thi sĩ đ−ợc ẩn dụ trong một câu thơ đau xót: “Và cá thiêng lại quay mặt khóc. Tr−ớc những l−ỡi câu ngơ ngác lộ mồi”. Con cá thiêng (bống bạc, bống vàng, bống đen nổi giữa dòng sông Đáy) đã sợ hãi và trốn chạy đời sống trần tục ấy. Những ng−ời đàn bà gánh n−ớc sông vẽ ra một cuộc trốn chạy khỏi thế giới “bị bệnh điên ánh sáng”, trốn chạy khỏi đồ vật, khỏi những “ảo giác đê hèn”. Nh−ng sự bủa vây của chính đời sống ấy đã khiến cho thi sĩ vừa phải chấp nhận vừa muốn chối bỏ. Bài thơ Tên gọi đã chỉ đúng trạng thái này: Họ không còn con đ−ờng nào ngoài con đ−ờng phải đến Để gọi chính tên mình, gọi chính nỗi đau. Nh−ng rồi: Họ không còn con đ−ờng nào là chạy trốn nơi họ phải đến Những đồ gỗ trong phòng chết đứng bởi tên cây. Dùng dằng giữa sự lựa chọn đầy bi kịch “phải đến” và “chạy trốn” khỏi thực tại đang sống, cái tôi ấy luôn mang trong mình những “sám hối”, day dứt. Cuộc sống trong thơ anh là một hiện thực chất chồng những mất mát, bất hạnh, đổ vỡ. Giữa ngổn ngang đời sống đó, thi sĩ băn khoăn mãi với câu hỏi đi về đâu: “Cha ơi cha đ−a con về đâu?” lặp lại nhiều lần trong Con bống đen đẻ trứng là câu hỏi đầy nhức nhối của một tâm hồn đã chứng kiến tất cả sự đổ vỡ của thiên nhiên và con ng−ời. Bi kịch chấp nhận- chối bỏ này tạo nên kiểu Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 16 hình ảnh cặp đôi. ở đó có sự trốn chạy, sự ra đi :“ Họ trốn chạy không nguyền rủa, không tuyên bố, không hoảng hốt”, “trong giấc ngủ đêm đêm, chúng ta chạy trốn khỏi ngôi nhà…” và lúc khác lại là sự trở về, tìm kiếm: “Tôi và em chạy về từ cánh đồng xa lạ. Qua những cánh đồng cỏ bần bật run lên”, “ Tôi trở lại v−ờn hoang nơi tôi đã bỏ đi’’, “Tôi trốn lo âu về lại cánh đồng”. Ra đi rồi lại tìm về, kh−ớc từ rồi laị chấp nhận… đó chính là bi kịch của con ng−ời thời hiện đại, muốn bứt ra khỏi đồ thị của đời sống mà không thể nào bứt ra nổi: … Trong giấc ngủ đêm đêm, chúng ta Chạy trốn khỏi ngôi nhà, đi mãi trên cánh đồng hoa vàng Nh−ng danh phận của kiếp ng−ời chúng ta đang sống Lại ném chúng ta trở lại điểm ban đầu (Đồ thị của đời sống) Trong một bài phỏng vấn, thi sĩ tâm sự rằng: “Tôi mang nỗi tuyệt vọng về con ng−ời (trong đó có tôi). Tất cả những gì làm chúng ta đau đớn và trở nên suy đồi lại chính là công việc của chúng ta, những gì chúng ta làm với tất cả sức lực và tâm trí… ch−a bao giờ chúng ta lại sợ hãi chính chúng ta nh− vậy”. Con ng−ời hiện đại đã tạo ra tất cả vật chất, tiện nghi và những quan hệ, giá trị vật chất nh−ng rồi chính họ lại nghẹt thở trong đó, lại muốn trốn chạy khỏi nó. Các “cặp đôi đối nghịch” trong thơ Nguyễn Quang Thiều còn thể hiện ở tình yêu– cô đơn, nỗ lực- bất lực, tuyệt vọng- hy vọng… Cái tôi trữ tình ấy tràn đầy tình yêu cuộc sống. Những hình ảnh thiên nhiên và đời sống ngồn ngộn, ào ạt. Đó không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn là tình yêu với gia đình, với quê h−ơng, với nguồn cội, với thiên nhiên, cỏ cây. Không một hình ảnh nào của tự nhiên mà không mang một dấu vết tình cảm, tinh thần của nhà thơ: Tôi ấp cát vào mặt Tôi khóc Cát từ mặt tôi chảy xuống ròng ròng hay: Những ngọn tóc em đổ xuống ngực anh Nh− rễ cây bò buồn trong sỏi đá Cái tôi ấy bám lấy cuộc sống, tìm kiếm vẻ đẹp diệu kỳ trong những gì thân thuộc nhất. Ta bắt gặp trong thơ anh hình ảnh một con ng−ời luôn khao khát tìm kiếm giá trị cho đời sống. Song dù thơ anh có ngập tràn hình ảnh yêu th−ơng vẫn hé lộ một cái tôi cô đơn khôn cùng. Càng đi xa hơn trên hành trình cái tôi ấy càng cô đơn. Đó là nỗi cô đơn của con ng−ời không tìm kiếm đ−ợc tri âm (Lễ tạ), cô đơn trong những nỗ lực tinh thần của mình (Bài ca những con chim đêm), cô đơn trong một đám đông ngông cuồng “lúc nhúc những tham vọng” (Nhân chứng của một cái chết). Cuộc sống hiện tại khiến lý trí con ng−ời mệt mỏi và tình cảm con ng−ời khô kiệt, cằn cỗi. Con ng−ời tự làm hao tổn đời sống tinh thần của mình mà không thể dừng lại đ−ợc, từ đó tạo nên khoảng trống vắng vô cùng lớn. Những hình ảnh trong thơ Nguyễn Quang Thiều lớp lớp chồng lên nhau, chật cứng, bức bối nh− đổ lấp đầy khoảng trống vô biên đó. Điều này đặt nhà thơ tr−ớc một thử thách khắc nghiệt: hoặc đời sống căng thẳng, dồn ép sẽ đè nát hoặc cái trống vắng kia sẽ xâm chiếm tâm hồn. Và có lẽ chính niềm tin trong sáng vào việc gia tăng “mật độ đời sống” thì có thể lấp đi đ−ợc Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 17 khoảng trống vắng đã giúp nhà thơ trụ vững. Tuy nhiên, khoảng trống vắng ấy trong đời sống hiện đại vẫn ngày càng gia tăng với c−ờng độ mạnh hơn. Bởi vậy con ng−ời hiện đại sẽ vẫn phải không ngừng nỗ lực. Nếu một ngày nào đó sự nỗ lực không còn, chỉ còn lại sự bất lực trong cặp quan hệ đối nghịch ấy thì cái tôi ấy sẽ hoàn toàn sụp đổ. Những đối cực tạo nên biểu t−ợng mang tính hai mặt trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Dòng sông, cánh đồng vừa là nơi gánh chịu đổ vỡ, mất mát lại vừa yên ả, bao dung, là nơi trở về sau chặng hành trình gian nan của kiếp ng−ời. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều vừa ngổn ngang tội lỗi, dung tục, xấu xa, mất mát, vừa ắp đầy những ánh sáng, hy vọng, tốt lành. Đó là nơi vừa có“Những bình minh m−a tối tăm”, vừa có “Những hoàng hôn nắng rực rỡ” … và cái tôi thi sỹ chông chênh giữa hy vọng và tuyệt vọng, hạnh phúc và đắng cay. Bi kịch của cái tôi trữ tình ấy còn đ−ợc biểu hiện ở một ph−ơng diện khác, đó là sự đối lập, giằng xé giữa tinh thần và thể xác của con ng−ời. Trong bài thơ gần đây nhất của anh, Nguyễn Quang Thiều đã m−ợn hình ảnh ng−ời đàn bà để diễn tả bi kịch này: … Sau những giây phút đắm mê thân xác mình, nàng rên rỉ than khóc Con quỷ trong ta nhảy múa, thiên thần trong ta đau khổ Nàng chạy quay cuồng trên mặt đất để tìm cách bay lên Nh−ng đời sống thế gian này là trái núi đè nặng tâm hồn nàng (Bài hát về một ng−ời đàn bà) Một con ng−ời khi đ−ợc sinh ra đều mang gánh nặng của thân xác và một gánh nặng hơn nhiều lần nữa là linh hồn. Hình ảnh ng−ời đàn bà sống trong sự giằng co giữa hai đối cực ấy là t−ợng tr−ng cho bi kịch của con ng−ời trên thế gian. Thân xác ng−ời đàn bà ấy là nhà tù giam cầm “Những con chim xanh của tâm hồn”. “Mỗi sáng mai nàng thức dậy ban mai trong suốt... Những con chim xanh của tâm hồn nàng đập cánh không ngừng nghỉ. Tìm lối thoát ra khỏi thân xác của nàng”. Trong con ng−ời nàng có bóng tối của xác thịt và ánh sáng của tâm hồn. Bóng tối và ánh sáng ấy luôn luôn tìm cách để huỷ diệt nhau “Tâm hồn nàng tỏa h−ơng, thân xác nàng rỉ máu” nh−ng cả hai đối cực ấy sẽ vẫn luôn tồn tại. Và con ng−ời vẫn luôn phải nỗ lực để tranh đấu với chính mình, chỉ khi nào con ng−ời còn biết day dứt, còn “tìm cách bay lên” thì lúc ấy nó mới còn đang sống. Thiên tài Baudelaire đã cảnh báo rằng, khi con ng−ời đánh mất khao khát th−ợng đế, buông lỏng xác thịt thì con ng−ời sẽ tự tàn phá và thối rữa trên đời sống của chính họ. Còn Tuitschev thì bi phẫn: thời nay không phải xác thịt mà tinh thần thối rữa. Nguyễn Quang Thiều đã nỗ lực để giữ đ−ợc vẻ đẹp của tâm hồn, để ít nhất con ng−ời không bị tan rữa. Thơ của anh bởi vậy luôn là tiếng nói của cái tôi khao khát h−ớng đến cái đẹp trong cả những gì thô sơ, bình dị nhất. Nh− vậy, bi kịch tinh thần là một biểu hiện tự ý thức của cái tôi trữ tình. Không phải nhà thơ nào cũng mang bi kịch ấy. Trong vô vàn những biểu hiện phong phú của cuộc sống, các nhà thơ th−ờng chỉ xoáy vào một điểm trọng tâm và bị hút luôn vào dòng xoáy ấy. Những đối cực trong thơ Nguyễn Quang Thiều ẩn chứa chiều sâu của những mối quan hệ mang tính triết học. Trong đời sống của con ng−ời luôn có những mặt Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 18 mâu thuẫn và chúng luôn tự đấu tranh để tồn tại và phát triển - đó chính là phép biện chứng của đời sống, của tâm hồn. Không thể phủ nhận hiện trạng có quá nhiều ng−ời vì mải miết lao theo sự cám dỗ của đời sống vật chất mà đánh mất đi ý thức về đời sống tinh thần. Cố vùng vẫy v−ợt thoát khỏi trạng thái mê lầm, ngộ nhận ấy, có những thi sĩ bằng trực giác nhạy bén và ý thức phản tỉnh th−ờng trực, đã cất lên tiếng kêu đau xót, lo âu về sự mất mát lớn trong đời sống tinh thần, đã tra vấn mình và cuộc đời trong nỗi cô đơn, tuyệt vọng. 2. Cái tôi khát vọng kiếm tìm Đối diện với thực tại trần trụi, cái tôi thi sỹ đứng tr−ớc hai khả năng: hoặc anh ta sẽ bị cuốn vào dòng thác của đời sống và ngày càng lún sâu và tuyệt vọng, hoặc anh ta sẽ phải tìm cách bay lên, thoát khỏi bờ vực ấy. Trong truyện ngắn Bầy chim chìa vôi- một tác phẩm đ−ợc dịch ra nhiều thứ tiếng và rất đ−ợc yêu thích ở n−ớc ngoài - Nguyễn Quang Thiều đã khám phá ra một điều kỳ diệu của đời sống. Câu chuyện ghi lại cảnh t−ợng một đêm m−a lũ, có một bầy chim non đập cánh suốt đêm trên doi cát giữa sông. Trong cơn m−a lớn, n−ớc sông cứ dâng lên và nuốt dần doi cát. Khoảnh khắc dòng n−ớc lũ cuốn trôi đi tất cả cũng là lúc bầy chim non đập cánh một nhịp quyết định và bay lên đ−ợc. Đấy là phút thăng hoa của đời sống. Rồi ban mai tràn ngập thế gian, có hai đứa trẻ suốt đêm tìm cách cứu bầy chim non đã chứng kiến cảnh t−ợng kỳ vĩ ấy. Trong thời hiện đại, khoa học có thể giúp con ng−ời bay lên các vì sao nh−ng đó chủ yếu là sức mạnh của vật chất. Sự bay lên của tâm hồn còn kỳ diệu hơn thế. Chính thi sỹ đã phát hiện ra sức mạnh tiềm ẩn trong tâm hồn con ng−ời. Trong tuyển tập dịch Năm nhà thơ Hàn Quốc, Nguyễn Quang Thiều cũng đã từng bắt gặp một ý t−ởng sâu sắc. Một nhà thơ Hàn Quốc trong số này đã viết một bài thơ nói về con ng−ời thời hiện đại chỉ biết lao vào kiếm tìm những nhu cầu vật chất cho mình. Và họ từ bỏ “những ý nghĩ bay lên”. Vì thế, thân thể họ bắt đầu mọc ra những chiếc vảy giống những chiếc vảy của loài bò sát. Đó là lời cảnh báo về một nguy cơ chung của con ng−ời thời hiện đại. Có thể gọi những khát vọng kiếm tìm trong thơ Nguyễn Quang Thiều là “những ý nghĩ bay lên” của một thi sĩ luôn trở trăn về lẽ sống. Có thể thấy cái tôi trữ tình Nguyễn Quang Thiều khao khát kiếm tìm cái đẹp trong cả sự dung tục lẫn sự linh thiêng. ở bài Chuyển động nhà thơ đã ngợi ca vẻ đẹp của sự chuyển động, dù sự chuyển động ấy chậm chạp và nhớp nhúa. Với bài thơ Cái đẹp, cái đẹp đ−ợc miêu tả trong cảnh huống hết sức thô sơ, một ng−ời đàn bà với khuôn mặt đẹp ngồi trên chiếc xe bò giữa con đ−ờng rét buốt… Bài Cơn mê có một câu thơ gây ra nhiều tranh cãi: “ Con chó liếm mãi, liếm mãi trên ngực anh, l−ỡi nó nh− ngọn lửa nhỏ mang cái ấm của hơi n−ớc. Sự dịu dàng của chó làm anh bật khóc…” Trần Mạnh Hảo đã phê phán rất kịch liệt hình ảnh này, xem đó là thứ thơ phi thơ, thơ phản thơ. Nh−ng nếu đọc cả bài, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa ẩn chìm trong đó. Giữa cảnh chiến tranh, chém giết, tàn bạo ”sự dịu dàng”, “hơi ấm” của một con chó, một sinh vật sống cũng có khả năng đánh thức tính thiện trong con ng−ời. Thù hận sẽ nảy sinh thù hận, chỉ có tình Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 19 th−ơng mới gợi đ−ợc tình th−ơng. Bởi thế nên kết thúc bài thơ, tác giả viết: Con chó liếm mãi, liếm mãi Liếm mãi, liếm mãi, liếm mãi Đó chính là một mong muốn h−ớng thiện, khơi gợi tính thiện trong con ng−ời. Từ ý nghĩa này có thể thấy dù trong một hình ảnh hết sức trần tục, thô sơ, nhà thơ cũng có thể khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp đang ẩn dấu. “Họ lặng lẽ đi nh− đội quân thất trận… Những tấm áo rách sặc mùi bùn phơi trong lòng dậm nh− cờ ngày việc làng giã đám. Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh những tấm huân ch−ơng”. Sự liên t−ởng bất ngờ, táo bạo, có vẻ nh− mâu thuẫn, phi lý nh−ng xét đến cùng cũng là một sự khám phá có lí và thú vị. Đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, độc giả không chỉ bị ám ảnh bởi một thế giới dung tục mà còn đ−ợc sống trong một không khí rất đỗi linh thiêng. Anh gợi cho ng−ời đọc những ám ảnh tâm linh, hé mở một cánh cửa đi vào thế giới bí ẩn, kì diệu: Tôi khép đôi cánh xác xơ tr−ớc ngày cúng giỗ Ngắm những dòng sông sáp nến chảy chan hoà Tổ tiên giơ lên trời xanh chứng minh th− bằng đá Cổ x−a hoang hoang trên mỗi cánh chuồn chuồn ... Những cử chỉ, hành động của cái tôi trữ tình ấy d−ờng nh− đều đ−ợc phổ vào một cảm thức tôn giáo, đ−ợc linh thiêng hoá: - Cỗ xe tang chở cái chết của màu xanh với hai cánh mũi lên cơn sốt rát bỏng Và tất cả những vệt cỏ đang rung lên tiếng hí gọi hồn (Gọi hồn) - Thế giới n−ớc mở ra cánh cửa mềm và nặng Sao ta quỳ xuống đôi bờ, xin lỗi những vầng mây (Dòng sông) - D−ới những lá cờ, thổ dân của máu quỳ lạy và cầu nguyện (Thánh ca tĩnh lặng) Tr−ớc cỏ cây, mây trời, sông n−ớc, ruộng đồng, thi sĩ luôn bày tỏ một sự ng−ỡng vọng. Những hành động mang tính lễ nghi ấy thể hiện quan niệm của nhà thơ về thế giới. Thủ pháp huyền thoại hoá, linh thiêng hoá đã tạo ra một thế giới vừa lạ vừa quen, vừa thân thuộc vừa thần bí xa xôi. Con cá thiêng, rùa thiêng, con chim đêm, bóng cây, đỉnh đồi, ngôi sao… là những biểu t−ợng cho tín niệm, điều thiêng. Những hình ảnh ấy đã ôm chứa trong nó bao huyền thoại về đời sống tâm linh của dân tộc Việt ngàn đời. Nhà thơ, trong những “điều thiêng” ấy, đã đánh thức phần ẩn khuất, sâu kín nơi tâm linh con ng−ời. Thủ pháp này anh cũng đã sử dụng rất đắc địa trong mảng văn xuôi. Đặc biệt, một trong những hình ảnh ấn t−ợng lạ lùng nhất, đập vào trực cảm của ng−ời đọc mạnh nhất là “cây ánh sáng”. Sau cuộc trốn chạy những dục vọng của đời sống vật chất, sau cuộc tìm kiếm, truy lùng bản ngã, sau cơn thiếp ngủ của đời sống, con ng−ời nh− chợt bừng tỉnh và h−ớng đến cây ánh sáng vĩnh hằng. Đó chính là Thiên đ−ờng, là Niết bàn, là cuộc sống, là sự hội tụ của vẻ đẹp tinh khiết nhất. Không có những tín niệm, điều thiêng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 20 ấy, con ng−ời sẽ rơi vào vực thẳm tuyệt vọng, sẽ ngập ngụa trong vật chất dung tục. H−ớng đến điều thiêng cũng chính là một nhịp đập cánh bay lên của tâm hồn thi sĩ. Cái tôi khao khát kiếm tìm trong thơ Nguyễn Quang Thiều cũng h−ớng đến hiện thực mới- đời sống mới- đó là đời sống trong cái chết hay sự tái sinh từ hiện thực lụi tàn. Nguyễn Quang Thiều là một trong số ít ỏi các nhà thơ Việt Nam đ−ơng đại suy ngẫm sâu sắc về lẽ tử sinh trong cõi đời vô l−ợng. Theo triết lý nhà Phật, đời ng−ời phải trải qua: sinh, lão, bệnh, tử. Sinh– tử, một sự khởi đầu và một sự kết thúc là hai mặt của một vấn đề mà nghệ sĩ x−a nay vẫn th−ờng trăn trở. Nguyễn Quang Thiều vốn dĩ đa đoan đa sự, cứ muốn ôm hết thảy cuộc sống vào mình và lí giải cho thấu triệt, cạn cùng về lẽ nhân sinh. ở Nhịp điệu châu thổ mới, nhà thơ đã dựng lên một đời sống mới từ cái chết. Từ nghi lễ trong một đám tang, tất cả linh hồn ng−ời, linh hồn đồ vật… đ−ợc thức dậy. Thế giới trở thành “hoà âm của những đa bào”, tất cả đều mang một hơi thở mới. Và cái chết không phải là h− vô mà là sự gieo cấy một sứ mệnh mới, sứ mệnh thiêng liêng: “Thổ ngữ gieo từ bàn tay Ng−ời Nông Dân Già vào bàn tay Cậu Bé. Cậu Bé chầm chậm mở v−ơng quốc của mình và chầm chậm khép vào”. Từ cái chết đó “tuôn chảy một dòng sông”, “mọc lên những quả đồi”, “mở ra một con đ−ờng”… Tất cả d−ờng nh− lại tái sinh. Trong Con bống đen đẻ trứng, Bài ca những con chim đêm và đặc biệt là Nhân chứng của một cái chết nhà thơ đã đẩy tất cả sự vật, đời sống đến bờ vực tàn lụi, huỷ diệt để cuối cùng khám phá một khả năng kì diệu: sự phục sinh từ cái chết. Đời sống trần tục của con ng−ời có thể mất đi nh−ng sức sống của tâm hồn con ng−ời là miên viễn. Sự phục sinh của thế giới th−ờng gắn liền với hình ảnh trẻ thơ. Trong đống hoang tàn đổ nát, tâm hồn thánh thiện của những đứa trẻ đã đ−ợc các thiên thần bảo vệ “từ phía các ngôi sao các thiên thần bay về đậu trên g−ơng mặt những đứa trẻ”. Những đứa trẻ ấy là hiện thân của sự sống d−ới vòm trời bất diệt: Trong hoang tàn của những lăng tẩm một bầy trẻ ùa vào Với g−ơng mặt không dấu vết gì của thời đại suy tàn Chúng đuổi nhau, nô đùa, c−ời vang và hát D−ới bầu trời lớn lao ngập ánh sáng vĩnh hằng. Khổ thơ gợi nhắc đến một tứ thơ trong bài Mây bay qua của J. Brodsky. Khi cuộc sống đang dần tàn lụi “Chúng ta mang trong mình cái chết của chúng ta, mây chất đầy tiếng nói và tình yêu giữa những cành lá đen” thì lúc ấy vang lên tiếng hát trẻ em. Một điệp khúc đ−ợc láy đi láy lại “Bạn có nghe, bạn có nghe chăng trong những lùm cây tiếng hát trẻ em”, “mây bay qua …”. Tiếng hát ca ngợi thế gian của những đứa trẻ đã cứu rỗi thế giới này: … Mây bay qua phía trên những lùm cây Đâu đây suối n−ớc chạy trốn, chỉ cần hát và chỉ cần khóc dọc theo những vòng rào mùa thu Chỉ cần lúc nào cũng nhìn lên cao hơn, nức nở không thôi, chỉ cần là một trẻ em của đêm… … Phía trên chúng ta, một cái bóng l−ớt qua và tan biến Chỉ cần hát và chỉ cần khóc, chỉ Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 21 cần sống. (Mây bay qua) Bức thông điệp cuối cùng “Chỉ cần hát, chỉ cần khóc, chỉ cần sống”- Sự sống trên thế gian này là bất tử bởi đời sống tinh thần của con ng−ời vẫn còn thổn thức trong tiếng khóc, tiếng hát trẻ thơ. Trong một tác phẩm khác có tựa đề là Khúc bi th−ơng cho John Donne, Brodsky cũng nêu một quan niệm mới mẻ về cái chết, cái chết nh− một giấc ngủ “giống nh− chim, ông ngủ trong tổ chim của mình” và tất cả mọi sự vật quanh ông đều ngủ say… Nh−ng khúc bi th−ơng ấy cũng gợi lên cho chúng ta một nỗi cô đơn khủng khiếp, một nỗi tuyệt vọng cùng cực của con ng−ời. Con ng−ời đã giã từ cuộc đời mà linh hồn vẫn còn thao thức, trở trăn, đau đớn… May thay, cuối cùng, một ngôi sao đã mọc lên và canh gác cho sự ngơi nghỉ của con ng−ời vĩ đại. Đây là một bài thơ chứa đựng nhiều suy ngẫm và xúc cảm của thiên tài Brodsky. Thời gian gần đây, Nguyễn Quang Thiều vẫn tiếp tục mạch suy ngẫm về lẽ sinh tử. Trong bài trả lời phỏng vấn, anh tâm sự: “… cái chết không phải là cái chết nữa mà nó là một đời sống với hình thức mới. Tôi quan niệm đời sống là hiện tại (hôm nay) và cái chết là t−ơng lai (ngày mai). Và chúng ta nhìn nhận cái chết nh− là một ban mai đến với thế gian này”. Anh tìm kiếm sự sống ngay cả trong sự vật đã chết. Bài Những con cá −ớp có đoạn: … Vẫn mang theo những buồng trứng lớn Vẫn chuẩn bị nở ra những con cá Trong đời sống của cái chết. Thay lời nguyện cầu là bài thơ bộc lộ khá rõ quan niệm về cái chết của nhà thơ. Có quá ít ng−ời trong chúng ta chấp nhận cái chết và tìm kiếm vẻ đẹp từ cái chết, từ sự tàn lụi đó: Và quá ít ng−ời trong chúng ta Sau chén trà buổi tối Ngả l−ng lên tràng kỉ Nghe bản điếu văn viết cho mình Vang lên với một giọng trầm Trong buổi tối mùa thu tuyệt đẹp Và lúc đó ở bên ngoài cửa sổ Khu v−ờn giàn dụa trăng Họ đã nhìn thấy vẻ đẹp diệu kì Trong những gì luôn đe doạ ng−ời khác H−ớng đến những vấn đề muôn thuở của con ng−ời, cái tôi trữ tình thi sĩ dồi dào cảm hứng triết luận. Đây cũng là một biến chuyển quan trọng trong sự vận động, phát triển của thơ Nguyễn Quang Thiều: từ cái tôi trữ tình cảm xúc chuyển sang cái tôi triết lí. Sự thay đổi ở ph−ơng diện này sẽ dẫn đến sự thay đổi hình thức biểu hiện. Trong số những ng−ời bạn thơ gần gũi thì Nguyễn Quyến là ng−ời chịu ảnh h−ởng của Nguyễn Quang Thiều rõ nét nhất. Đọc thơ của họ, chúng ta nhận ra một khát vọng mãnh liệt h−ớng đến một thế giới hoàn hảo. Ngay cả khi đau đớn và tuyệt vọng, con ng−ời vẫn khao khát h−ớng đến những giá trị tinh thần tuyệt đối. Trong tr−ờng ca sắp sửa xuất bản, Nguyễn Quang Thiều đã bộc lộ rõ khát vọng này. Câu hỏi nhức nhối đặt ra ở đó là liệu có một thiên đ−ờng hay không? Liệu có một thế giới hoàn hảo Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 22 không có đói khát, buồn phiền, bệnh tật, chém giết, lọc lừa và tất cả hoà đồng trong ánh sáng vĩnh hằng? “Theo linh cảm của một nhà thơ, tôi biết rằng nơi đó mỗi Hiện thể trọn vẹn này lại chan chứa một Hiện thể trọn vẹn khác. Mà sự chan chứa hài hoà trong nhau ấy lại không làm mất đi những đặc tính của nhau”. Có lẽ, đó chỉ là khát vọng đẹp, nh−ng nếu không đ−ợc nuôi d−ỡng bằng khát vọng, cái tôi ấy sẽ sụp đổ. Chính khát vọng kiếm tìm đã thôi thúc nhà thơ hành động, hành động liên tục và bền bỉ. Cái tôi trong thơ anh vận động không ngừng. Hình ảnh con bò b−ớc đi, cày xới và biến mất trên cánh đồng không hề kêu than là một ẩn dụ cho chính cái tôi trữ tình ấy. Cần phải hành động, phải làm một điều gì đó cho cuộc sống này. Đó là một trong những mặt tích cực nhất của cái tôi trữ tình Nguyễn Quang Thiều. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Đăng Điệp, N−ớc, lửa, những cánh đồng và dòng sông, Tạp chí Nhà văn số 2, 2000. [2] Quỳnh Nhi, Nguyễn Quang Thiều - Nơi con sóng trăng đang vật vã, Báo Thể thao văn hóa, số 23/1998. [3] Lê L−u Oanh, Thơ trữ tình 1975 - 1990, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998. [4] Nguyễn Quang Thiều, Vẻ đẹp mới của thơ hiện đại, Báo Giáo dục và Thời đại Chủ nhật, số 1, 2003. Summary The lyrical ego in nguyen quang thieu’S poems The paper studied the lyrical ego in Nguyen Quang Thieu’s poem. He is one the writers who has made important contribution to the innovation process of modern Vietnam poetry. The lyrical ego in Nguyen Quang Thieu poem expresses fresh features including the ego of contrasts and the ego of study inspiration. Five volume of Nguyen Quang Thieu’s collections are the way that is full of sorrow and happiness in addtition to pain and passion aiming at searching for true spiritual values. (a) Khoa ngữ văn, tr−ờng đại học vinh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf2nguyenthihien10tr13_22_091905170835_3973.pdf
Luận văn liên quan