Chiến lược phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2020

MỞ ĐẦU Phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước. Trong những năm qua, mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ KH&CN trong cả nước, tiềm lực KH&CN đã được tăng cường, KH&CN đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.Tuy nhiên, trình độ KH&CN của nước ta hiện nay còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH&CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của KH&CN và kinh tế tri thức trên thế giới. Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực và khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi KH&CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong giai đoạn tới (2010 - 2020, tầm nhìn 2030), khoa học và công nghệ cần ưu tiên nhằm vào những mục tiêu và phương hướng phát triển nào? Có nhiều yêu cầu phải đáp ứng, trong đó nổi lên hàng đầu là góp phần thực hiện có hiệu quả công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng với việc thâm dụng vốn, tài nguyên, lao động giản đơn và lao động chất lượng thấp chuyển mạnh sang tích cực phát triển theo chiều sâu mà chủ yếu là sử dụng và phát huy các yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ là quan trọng nhất. Trong từng ngành, lĩnh vực, từng vùng của nền kinh tế đều có không ít những vấn đề, những công việc cần và có thể giải quyết có hiệu quả cao, một khi ứng dụng tốt khoa học, công nghệ, trọng tâm là phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh; thật sự gắn nghiên cứu khoa học, công nghệ với đào tạo và sản xuất kinh doanh, làm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cùng với đổi mới, nâng cấp các ngành công nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ, cần coi trọng đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông nghiệp và nông thôn để tạo một chuyển biến mạnh mẽ trong sự phát triển của khu vực này. Công nghệ sinh học (CNSH) được coi là làn sóng thứ năm trong lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ, và đã trải qua các giai đoạn phát triển sau: CNSH truyền thống như các hoạt động chế biến thực phẩm (rượu, giấm, sữa chua, .), diệt khuẩn, ức chế vi sinh vật có hại, v.v .; CNSH cận đại với việc sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm của công nghệ vi sinh (cồn, bột ngọt, các axit amin, các axit hữu cơ, chất kháng sinh, các loại vaccin, kháng độc tố, các kit chuẩn đoán bệnh, thuốc trừ sâu sinh học, phân bón sinh học .); CNSH hiện đại chỉ mới xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. CNSH hiện đại sử dụng các kỹ thuật trao đổi, sửa chữa, tái tổ hợp hoặc cải tạo vật chất di truyền ở mức độ phân tử để tạo ra những loại sinh vật mới hoặc bắt các sinh vật này tạo ra các protein hay các sản phẩm khác mà vốn dĩ chúng không tạo ra được. Ở Việt Nam, CNSH hiện đại tuy mới phát triển song đã được Nhà nước quan tâm đầu tư. Tuy nhiên hiện nay ngành CNSH nước ta chưa thực sự phát triển, đội ngũ nhân lực ngành CNSH chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, CNSH đòi hỏi sự ứng dụng cao trong công tác nghiên cứu và thực nghiệm. Vì vậy, sự cần thiết phải đầu tư chiều sâu và xây dựng một chiến lược phát triển Công nghệ sinh học trong giai đoạn tới 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và 2050, nhằm từng bước đưa nền khoa học công nghệ của Việt nam nói chung cũng như Công nghệ sinh học nói riêng phát triển ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới.

doc23 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2805 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PAGE  BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 LỚP: BỒI DƯỠNG QLNN NGẠCH CHUYÊN VIÊN KHÓA: K23CV Hà Nội – 2011 MỞ ĐẦU Phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước. Trong những năm qua, mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ KH&CN trong cả nước, tiềm lực KH&CN đã được tăng cường, KH&CN đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.Tuy nhiên, trình độ KH&CN của nước ta hiện nay còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH&CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của KH&CN và kinh tế tri thức trên thế giới. Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực và khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi KH&CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong giai đoạn tới (2010 - 2020, tầm nhìn 2030), khoa học và công nghệ cần ưu tiên nhằm vào những mục tiêu và phương hướng phát triển nào? Có nhiều yêu cầu phải đáp ứng, trong đó nổi lên hàng đầu là góp phần thực hiện có hiệu quả công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng với việc thâm dụng vốn, tài nguyên, lao động giản đơn và lao động chất lượng thấp chuyển mạnh sang tích cực phát triển theo chiều sâu mà chủ yếu là sử dụng và phát huy các yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ là quan trọng nhất. Trong từng ngành, lĩnh vực, từng vùng của nền kinh tế đều có không ít những vấn đề, những công việc cần và có thể giải quyết có hiệu quả cao, một khi ứng dụng tốt khoa học, công nghệ, trọng tâm là phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh; thật sự gắn nghiên cứu khoa học, công nghệ với đào tạo và sản xuất kinh doanh, làm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cùng với đổi mới, nâng cấp các ngành công nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ, cần coi trọng đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông nghiệp và nông thôn để tạo một chuyển biến mạnh mẽ trong sự phát triển của khu vực này. Công nghệ sinh học (CNSH) được coi là làn sóng thứ năm trong lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ, và đã trải qua các giai đoạn phát triển sau: CNSH truyền thống như các hoạt động chế biến thực phẩm (rượu, giấm, sữa chua,...), diệt khuẩn, ức chế vi sinh vật có hại, v.v...; CNSH cận đại với việc sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm của công nghệ vi sinh (cồn, bột ngọt, các axit amin, các axit hữu cơ, chất kháng sinh, các loại vaccin, kháng độc tố, các kit chuẩn đoán bệnh, thuốc trừ sâu sinh học, phân bón sinh học...); CNSH hiện đại chỉ mới xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. CNSH hiện đại sử dụng các kỹ thuật trao đổi, sửa chữa, tái tổ hợp hoặc cải tạo vật chất di truyền ở mức độ phân tử để tạo ra những loại sinh vật mới hoặc bắt các sinh vật này tạo ra các protein hay các sản phẩm khác mà vốn dĩ chúng không tạo ra được. Ở Việt Nam, CNSH hiện đại tuy mới phát triển song đã được Nhà nước quan tâm đầu tư. Tuy nhiên hiện nay ngành CNSH nước ta chưa thực sự phát triển, đội ngũ nhân lực ngành CNSH chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, CNSH đòi hỏi sự ứng dụng cao trong công tác nghiên cứu và thực nghiệm. Vì vậy, sự cần thiết phải đầu tư chiều sâu và xây dựng một chiến lược phát triển Công nghệ sinh học trong giai đoạn tới 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và 2050, nhằm từng bước đưa nền khoa học công nghệ của Việt nam nói chung cũng như Công nghệ sinh học nói riêng phát triển ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới.  1. BỐI CẢNH, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM 1.1. Bối cảnh quốc tế a) Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ Cuộc cách mạng KH&CN trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và KH&CN, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến. Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng cách phát triển. b) Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc gia và từng doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định về pháp lý, v.v... thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi. 1.2. Bối cảnh trong nước Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm nền tảng cho giai đoạn phát triển mới: nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, liên tục; tình hình chính trị, xã hội ổn định; xu thế dân chủ hoá, xã hội hoá ngày càng mở rộng; đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt; quan hệ hợp tác quốc tế được cải thiện. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định con đường đổi mới theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết thực hiện các thoả thuận trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tích cực chuẩn bị tham gia WTO; tăng cường đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế tập thể, khuyến khích khu vực dân doanh, hỗ trợ mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ; đẩy mạnh cải cách hành chính, v.v... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc đầu tư phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN). Những công nghệ sản xuất mới, hiện đại đã và sẽ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, giúp chủ động nguồn cung trong nước, thay thế nhập ngoại, giảm giá thành, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá (CNH-HĐH) và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của nước ta đã xác định mục tiêu phát triển tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. 1.3. Cơ hội và thách thức a) Cơ hội Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển KH&CN, các Nghị quyết Đại hội IX, X, XII của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển KH&CN cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình CNH, HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức. Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển KH&CN của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế. b) Thách thức Trong bối cảnh phát triển năng động và khó dự báo cả về KH&CN và kinh tế của thế giới hiện đại, khả năng nắm bắt thời cơ và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tuỳ thuộc nhiều vào trình độ và năng lực KH&CN của quốc gia. Thách thức lớn nhất đối với sự phát triển KH&CN nước ta hiện nay là phải nâng cao nhanh chóng năng lực KH&CN để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn, trong điều kiện nước ta còn nghèo, vốn đầu tư hạn hẹp, trình độ phát triển kinh tế và KH&CN còn có khoảng cách khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Nước ta nếu không sớm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao động thì sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài. Trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và KH&CN, nước ta đang đứng trước những khó khăn về chuyển đổi và xây dựng những thể chế mới về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, v.v... phù hợp với thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành công của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và KH&CN ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi. 2. Ba vấn đề lớn về Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có nhiệm vụ quan trọng là góp phần cùng cả nước tạo ra lực lượng sản xuất mới, tiên tiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của phát triển kinh tế; bảo đảm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Ðể thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng cần xác định và chỉ ra được những vấn đề trọng tâm để tập trung các nguồn lực và giải pháp chính sách thích hợp, nhanh chóng thay đổi môi trường, thiết chế, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong hiệu quả của tổ chức, hoạt động và quản lý KH&CN, làm cho KH&CN thật sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. 2.1. Xác định đúng yêu cầu và nhiệm vụ phát triển KH&CN Trong Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020, chính là khâu xác định đúng những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở các ngành, các cấp, các địa phương. Cần tập trung nỗ lực và đưa ra cơ chế bảo đảm khả năng xác định trúng các nhiệm vụ, đồng thời sàng lọc, hạn chế thấp nhất những nhiệm vụ bị xác định sai, không đúng tầm. Bên cạnh một số kết quả nổi bật, hiệu quả hoạt động KH&CN chưa cao đang là một trong những tồn tại từ nhiều năm nay mà xã hội và bản thân cộng đồng KH&CN nhìn chung chưa hài lòng. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, nhưng trước hết và chủ yếu là do khâu xác định nhiệm vụ còn nhiều hạn chế và bất cập. Bản thân lãnh đạo các cấp cũng chưa quan tâm, chủ động đặt ra và đặt trúng các vấn đề thực tiễn trước mắt và trong tương lai cần thiết phải tiến hành nghiên cứu. Phần lớn các doanh nghiệp chưa quan tâm và thật sự cần đến các giải pháp KH&CN cho nên các vấn đề đặt ra cho KH&CN cũng còn chưa thường xuyên và rõ ràng. Phần đông các nhà KH&CN còn hạn chế về tư duy và nhãn quan liên ngành cho nên chủ yếu mới chỉ đề xuất các vấn đề thuộc chuyên ngành hẹp của mình và ở phạm vi tầm hiểu biết của mình, làm cho tính liên ngành của các nhiệm vụ đặt ra còn chưa rõ. Trong điều kiện như vậy, cần tạo ra cơ chế, quy trình bảo đảm xác định đúng tầm và đúng những vấn đề trọng tâm cho nghiên cứu để không lãng phí các nguồn lực, thời gian và công sức của đội ngũ các nhà KH&CN. 2.2. Tập trung cho các giải pháp về nhân lực và đầu tư tài chính cho KH&CN Ðây là hai điều kiện cơ bản bảo đảm thực thi các nhiệm vụ KH&CN. Về nhân lực, cần tập trung cho một số loại nhân lực nhất định. Ðó là đội ngũ nhân lực có khả năng đặt ra các vấn đề và nhiệm vụ KH&CN, làm các tổng công trình sư có đủ năng lực thiết kế và chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ KH&CN lớn mang tầm vóc quốc gia, các nhóm nghiên cứu liên ngành trong thực hiện các nhiệm vụ KH&CN và đặc biệt cần nâng cấp ngay đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH&CN. Ðào tạo là giải pháp về lâu dài, nhưng trước mắt có thể dùng các chính sách đặc biệt để thu hút và sử dụng kịp thời lực lượng KH&CN hiện có ở cả trong và ngoài nước. Các chính sách này sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả, ít tốn kém tiền bạc và thời gian hơn là đổi mới công tác đào tạo nhân lực mà thông thường chỉ phát huy tác dụng trong tương lai xa (ít nhất 10 đến 15 năm sau). Chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN mặc dù đã được đổi mới, nhưng cho đến nay vẫn còn là khâu yếu trong hệ thống bảo đảm nguồn lực và môi trường thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Kinh phí đầu tư cho các hoạt động KH&CN cần được quản lý thống nhất, phân bổ theo cơ cấu hợp lý giữa các nhiệm vụ bảo đảm hạ tầng (đầu tư phát triển), nghiên cứu và phát triển (theo các kênh chương trình, đề tài trọng điểm cấp nhà nước và hệ thống các quỹ), và các khoản chi thường xuyên. Trong đó, ngoài việc bảo đảm đủ kinh phí hỗ trợ đổi mới công nghệ cho khu vực doanh nghiệp cũng cần đầu tư tới ngưỡng cho các nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, tạo dự trữ cho các ứng dụng vào sản xuất và đời sống trong tương lai. Khắc phục những bất cập trong chế độ chi tiêu và thủ tục thanh quyết toán kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, tạo cơ chế minh bạch về thu nhập để các nhà khoa học có thể đủ sống và làm nghiên cứu một cách trung thực, hiệu quả. 2.3. Tập trung xây dựng và tạo cơ chế để phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH&CN Bên cạnh cơ chế chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các doanh nghiệp KH&CN sẽ là nơi gắn kết hoạt động nghiên cứu và phát triển với hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc hình thành các doanh nghiệp KH&CN sẽ tạo ra một "kênh" liên kết mới cho các hoạt động KH&CN và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, các doanh nghiệp KH&CN thành lập mới sẽ vừa là loại hình tổ chức KH&CN mới (mang bản chất và hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp) lại vừa là loại hình doanh nghiệp mới (sản xuất, kinh doanh dựa trên tri thức và công nghệ mới). Thực chất, các doanh nghiệp KH&CN sẽ trở thành một lực lượng sản xuất mới đi tiên phong trong sản xuất các sản phẩm và dịch vụ mới, tạo ra các ngành sản xuất mới dựa trên tri thức và công nghệ mới, có khả năng cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng cao, lợi nhuận cao, từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, tạo ra nhiều việc làm và phát triển bền vững nền kinh tế. Ðược nuôi sống và phát triển trên nền tảng của ứng dụng tri thức KH&CN, các doanh nghiệp KH&CN sẽ là một trong những nơi đặt ra nhu cầu cụ thể, thiết thực cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đóng vai trò là trung tâm liên kết trong hệ thống đổi mới quốc gia, hỗ trợ cho các tổ chức KH&CN công lập nhanh chóng chuyển đổi và chuyển đổi thuận lợi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thông qua hiệu quả hoạt động và đóng góp của các doanh nghiệp KH&CN này sẽ chứng minh thuyết phục nhất cho vai trò nền tảng, động lực của tri thức KH&CN đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng. Cơ chế, chính sách đầu tư phát triển KH&CN trong giai đoạn 2011-2020 do vậy sẽ cần tập trung cho mục tiêu xây dựng và phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH&CN, coi đây là khâu đột phá quan trọng trong Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020. 3. Thực trạng và chiến lược phát triển Công nghệ sinh học ở Việt Nam 2011 - 2020 3.1. Thực trạng và yêu cầu phát triển Công nghệ sinh học ở Việt Nam - Việt Nam là một nước nhiệt đới có nguồn tài nguyên sinh vật phong phú bảo đảm cung cấp các nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển công nghệ sinh học. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này hiện chưa được sử dụng tốt và đang có nguy cơ bị cạn kiệt do khai thác bừa bãi, không phù hợp với các qui luật sinh trưởng và phát triển tự nhiên của chúng. - Tuy năng lực nghiên cứu triển khai về công nghệ sinh học của chúng ta hiện nay đã có khả năng đáp ứng được một số yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, tiếp thu và vận dụng các thành tựu của thế giới vào điều kiện của Việt Nam, song nhìn chung còn rất hạn chế cả về trình độ của các công trình lẫn khả năng tạo ra các công nghệ mới phục vụ nền kinh tế quốc dân. Cho đến nay chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ công nghệ sinh học thuộc các chuyên ngành ở các trình độ khác nhau, song đội ngũ này chưa đồng bộ, thiếu cán bộ đầu đàn và chuyên môn giỏi. Trong thời gian qua đội ngũ này chưa phát huy được tác dụng do thiếu điều kiện làm việc, thiếu thông tin nghiêm trọng và kiến thức ít được đổi mới. Chúng ta đã có một hệ thống các cơ quan khoa học công nghệ về công nghệ sinh học. Những cơ quan này đang cố gắng hướng các hoạt động của mình vào việc phát triển các công nghệ thích hợp phục vụ nền kinh tế quốc dân. Song do phát triển tự phát và thiếu qui hoạch, hệ thống này còn phân tán, không đồng bộ, cơ sở vật chất lạc hậu, do đó hoạt động kém hiệu quả. - Ngành công nghiệp sinh học của Việt Nam chưa phát triển, phần lớn các sản phẩm có liên quan đến công nghệ sinh học đều là sản phẩm nhập ngoại, trong khi đó chúng ta lại đang xuất khẩu nông sản dưới dạng nguyên liệu. - Tuy công nghệ sinh học và ngành công nghiệp sinh học của chúng ta chưa phát triển, song nước ta có những tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng công nghệ sinh học: công cuộc đổi mới nền kinh tế quốc dân tạo ra nhu cầu lớn về công nghệ và một môi trường thuận lợi cho công nghệ sinh học phát triển; 70 triệu người Việt Nam với sức mua đang dần được nâng cao sẽ là một thị trường tiêu thụ rộng lớn kích thích sự phát triển công nghệ sinh học. Công nghệ sinh học thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn mà chúng ta có thể tiếp thu và vận dụng; chúng ta có tiềm lực khoa học công nghệ nguồn nhân lực dồi dào và nguồn tài nguyên phong phú. Thực trạng trên đòi hỏi phải nhanh chóng phát triển công nghệ sinh học góp phần đẩy nhanh tiến trình đổi mới nền kinh tế quốc dân. 3.2. Chiến lược phát triển Công nghệ sinh học đến năm 2020 3.2.1. Yêu cầu chung a. Nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phải đáp ứng yêu cầu về phát triển một hướng khoa học và công nghệ trọng điểm; xây dựng và phát triển công nghiệp sinh học ở nước ta trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, có vai trò quan trọng, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. b. Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực: nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, y - dược và bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường, đồng thời thúc đẩy sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ về công nghệ sinh học, hoạt động đạt hiệu quả cao. c. Phát triển công nghệ sinh học trên cơ sở xây dựng và phát huy mạnh mẽ nội lực, kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc, nhanh chóng tiếp cận và làm chủ các thành tựu khoa học, công nghệ sinh học tiên tiến của thế giới, đồng thời hiện đại hoá các công nghệ truyền thống. d. Phát triển công nghệ sinh học đòi hỏi đầu tư cao, thiết bị hiện đại, do vậy cần có sự lựa chọn để đầu tư đúng hướng, đúng mức và đồng bộ; lựa chọn một số sản phẩm chủ lực, thiết yếu để đầu tư phát triển. e. Đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ về công nghệ sinh học đủ về số lượng và có chất lượng cao là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong phát triển công nghệ sinh học ở nước ta. 3.2.2. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống; xây dựng công nghiệp sinh học trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao, sản xuất được các sản phẩm chủ lực, thiết yếu và đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân; tập trung nguồn lực, đa dạng hóa hình thức đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư đối với công nghệ sinh học, hình thành và phát triển thị trường công nghệ sinh học để đến năm 2020 công nghệ sinh học của Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, một số lĩnh vực thiết yếu đạt trình độ, tiêu chuẩn quốc tế. Mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn: a) Giai đoạn đến năm 2010: - Tiếp nhận, làm chủ và nghiên cứu tạo ra một số công nghệ quan trọng; triển khai ứng dụng rộng khắp và có hiệu quả các công nghệ này vào các lĩnh vực: nông - lâm - ngư nghiệp, y - dược, công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường, quốc phòng và an ninh. - Nghiên cứu tạo ra và ứng dụng mạnh mẽ các sản phẩm mới, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao về giống cây trồng, vật nuôi, chủng vi sinh vật, vắc-xin, sản phẩm chế biến công nghiệp... phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. - Xây dựng và tăng cường được một bước về tiềm lực cho hệ thống cơ quan nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về công nghệ sinh học. - Xây dựng được một số doanh nghiệp công nghệ sinh học và tạo lập thị trường thuận lợi, thông thoáng để các doanh nghiệp này sản xuất, kinh doanh và dịch vụ đạt hiệu quả tốt nhất.  b) Giai đoạn 2011 - 2015: - Tiếp nhận và làm chủ được các công nghệ nền của công nghệ sinh học tiên tiến và hiện đại của thế giới, trên cơ sở đó nghiên cứu tạo ra được nhiều công nghệ có giá trị phục vụ sản xuất và đời sống; tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ, sâu, rộng công nghệ sinh học trong nhiều lĩnh vực, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. - Xây dựng được một số trung tâm nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sinh học đạt tiêu chuẩn khu vực ASEAN. - Xây dựng được ngành công nghiệp sinh học phát triển, bảo đảm sản xuất được các sản phẩm chủ lực có chất lượng và sức cạnh tranh cao, phục vụ tốt cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. c) Tầm nhìn đến năm 2020: - Đào tạo đủ nguồn nhân lực khoa học và công nghệ về công nghệ sinh học có chất lượng cao, giàu năng lực sáng tạo và làm chủ công nghệ, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường sống. - Xây dựng được một số trung tâm nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về công nghệ sinh học tiên tiến, hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Phát triển mạnh ngành công nghiệp sinh học, đáp ứng năng lực sản xuất các sản phẩm chủ lực, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. 3.2.3. CÁC NHIỆM VỤ CHỦ YẾU 2.2.3.1. Nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống a) Lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp và phát triển nông thôn: - Về cây nông nghiệp: tập trung nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ gen (công nghệ chuyển gen và phương pháp chỉ thị phân tử) để tạo ra các giống cây trồng mới, cây trồng biến đổi gen có các đặc tính nông học ưu việt, phù hợp với yêu cầu của thị trường; công nghệ vi nhân giống để đáp ứng nhu cầu cây giống có chất lượng cao, sạch bệnh; ứng dụng rộng rãi công nghệ cao nhằm tối ưu hoá năng suất, chất lượng cây trồng nông nghiệp. - Về cây lâm nghiệp: nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ tế bào, công nghệ vi nhân giống để nhân nhanh các giống cây lâm nghiệp có tốc độ sinh trưởng cao, chất lượng gỗ tốt; nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ gen để tạo cây lâm nghiệp chống sâu, bệnh. - Về giống vật nuôi: nghiên cứu cải tiến các công nghệ sinh sản, đặc biệt là công nghệ tế bào động vật trong đông lạnh tinh, phôi và cấy chuyển hợp tử, thụ tinh ống nghiệm; áp dụng phương pháp chỉ thị phân tử, công nghệ chuyển gen trong chọn, tạo các giống vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao; ứng dụng công nghệ gen trong xác định giới tính phôi một số loại gia súc quan trọng; nghiên cứu và nâng cao năng lực sản xuất, bảo đảm đủ lượng vắc-xin thú y, đặc biệt là vắc-xin phòng, chống bệnh cúm gia cầm, bệnh lở mồm, long móng ở gia súc và các bệnh nguy hiểm khác. - Về vi sinh vật: nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ vi sinh, công nghệ enzym và protein để sản xuất quy mô công nghiệp các chế phẩm vi sinh dùng trong bảo vệ cây trồng, cải tạo đất, chế biến và bảo quản nông sản - thực phẩm, sản xuất thức ăn chăn nuôi, làm sạch nước sinh hoạt và xử lý các phế, phụ phẩm, chất thải từ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt nông thôn. - Ứng dụng có hiệu quả công nghệ di truyền trong việc bảo tồn, lưu giữ và khai thác hợp lý nguồn gen cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật phục vụ cho công tác cải tạo giống. - Về nuôi trồng thuỷ sản: nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học để: điều khiển giới tính nhằm sản xuất con giống đơn tính quy mô công nghiệp; tạo giống thuỷ sản có chất lượng cao, kháng bệnh tốt; tiến hành các phương pháp sinh sản nhân tạo ở một số loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu; bảo tồn và khai thác có hiệu quả nguồn gen các loài thuỷ sản đặc hữu phục vụ cho công tác giống thuỷ sản; sản xuất các chế phẩm sinh học phục vụ nâng cao năng suất nuôi trồng và xử lý môi trường nuôi trồng thuỷ sản; sản xuất một số loại kit chẩn đoán nhanh bệnh ở thuỷ sản; nghiên cứu ứng dụng sinh học phân tử và miễn dịch học, vi sinh vật học trong phòng, trị một số loại dịch bệnh nguy hiểm đối với thuỷ sản; sản xuất thức ăn thuỷ sản chất lượng cao thay thế thức ăn ngoại nhập. - Về chế biến thuỷ sản: nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ enzym và protein để nâng cao chất lượng và tạo mặt hàng mới trong công nghiệp chế biến thuỷ sản; ứng dụng phương pháp sinh học phân tử trong bảo đảm vệ sinh, an toàn sản phẩm thuỷ sản; ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý phế thải, chất thải trong chế biến thủy sản nhằm bảo vệ môi trường và sản xuất các chế phẩm bảo quản sản phẩm thuỷ sản. b) Lĩnh vực y tế và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng: Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học trong lĩnh vực y - dược để tạo ra các sản phẩm y - dược mới, hiệu quả chữa bệnh cao, các dịch vụ y học công nghệ cao nhằm phòng, chống hữu hiệu các loại dịch bệnh nguy hiểm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng về chăm sóc sức khỏe của người dân. - Về y tế: + Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ tế bào gốc phục vụ chữa bệnh; mở rộng quy mô ứng dụng công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm để giải quyết vấn đề vô sinh; phát triển công nghệ đơn dòng tế bào và ứng dụng vào việc chẩn đoán và điều trị bệnh. + Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ gen trong chẩn đoán và điều trị bệnh, nâng cao chất lượng nòi giống con người Việt Nam. + Nghiên cứu và sản xuất các loại vắc-xin thế hệ mới (vắc-xin tế bào, vắc-xin tái tổ hợp, vắc-xin ADN) để bảo đảm đáp ứng 80 - 90% nhu cầu trong nước và một phần cho xuất khẩu. - Về dược phẩm: + Nghiên cứu các chất có hoạt tính sinh học từ động vật, thực vật và vi sinh vật để sản xuất quy mô công nghiệp các loại thuốc, mỹ phẩm và thực phẩm chức năng. + Nghiên cứu và sản xuất các loại thuốc kháng sinh, vitamin, axit amin, protein bằng công nghệ lên men vi sinh và vi sinh tái tổ hợp. + Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tế bào trong bảo tồn và phát triển các nguồn dược liệu quý hiếm. c) Lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: - Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra các công nghệ, sản phẩm thân thiện với môi trường, sản xuất nhiên liệu sinh học (khí sinh học, xăng sinh học, diezel sinh học...) phục vụ mục tiêu sản xuất sạch hơn và bảo đảm an ninh năng lượng. - Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý các chất thải gây ô nhiễm, phục hồi và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên, bảo vệ môi trường. - Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học để lưu giữ, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học, đất đai, nước, không khí vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước.   d) Lĩnh vực công nghiệp chế biến:  - Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ enzym, protein, vi sinh để sản xuất quy mô công nghiệp các axit amin, protein, axit hữu cơ, dung môi hữu cơ, chế phẩm vi sinh phục vụ công nghiệp chế biến thực phẩm, sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhiên liệu sinh học, thuốc chữa bệnh, xử lý ô nhiễm môi trường. - Nghiên cứu chế tạo dây chuyền, thiết bị công nghệ sinh học phục vụ công nghiệp chế biến thực phẩm. đ) Lĩnh vực quốc phòng và an ninh: - Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các phương pháp phòng, chống các loại vũ khí sinh học. - Nghiên cứu, xây dựng tàng thư gen người trên một số đối tượng cần quản lý; nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong đấu tranh phòng, chống, truy tìm tội phạm, quản lý nguồn nhân lực, phục vụ công tác bảo đảm an ninh, quốc phòng. 3.2.3.2. Xây dựng và phát triển tiềm lực cho công nghệ sinh học a) Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hoá máy móc, thiết bị: - Quy hoạch và đầu tư tập trung, đúng mức và đồng bộ để hiện đại hóa mạng lưới các viện nghiên cứu, trường đại học và phòng thí nghiệm về công nghệ sinh học trong phạm vi cả nước. - Hoàn thiện việc xây dựng và đưa vào hoạt động có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, đồng thời xây dựng và phát triển thêm các phòng thí nghiệm công nghệ sinh học mới, được trang bị máy móc, thiết bị hiện đại và đồng bộ. - Xây dựng một số trung tâm công nghệ sinh học tiên tiến, hiện đại mang tính chất vùng, liên vùng, ngành, liên ngành nhằm thực hiện những nhiệm vụ quốc gia, nhiệm vụ liên vùng, liên ngành và nhiệm vụ đặc thù của ngành, vùng. - Xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về công nghệ sinh học đạt tiêu chuẩn quốc tế, các phòng thí nghiệm khác chuẩn hoá theo tiêu chuẩn phòng thí nghiệm được công nhận (VILAS). b) Đào tạo nguồn nhân lực:  - Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực khoa học đáp ứng nhu cầu về lượng và chất của việc phát triển công nghệ sinh học và ngành công nghiệp sinh học ở nước ta. Chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, tiến sĩ và sau tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư công nghệ, kỹ thuật viên và đào tạo theo nhóm nghiên cứu về công nghệ sinh học. - Chủ động và thường xuyên nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ khoa học thuộc mọi trình độ về công nghệ sinh học ở trong nước. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho công nghệ sinh học của Việt Nam. Tiếp tục gửi người đi đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài bằng vốn ngân sách nhà nước. Khuyến khích việc du học tự túc bậc học đại học, sau đại học, sau tiến sĩ về công nghệ sinh học. - Tổ chức đào tạo lại về công nghệ sinh học cho các cán bộ khoa học kỹ thuật đang làm việc trong lĩnh vực công nghệ sinh học nhưng trước đây không được đào tạo chuyên sâu về công nghệ sinh học, đi đôi với việc tổ chức các lớp tập huấn về chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực công nghệ sinh học cho các cơ sở sản xuất và địa phương. - Thực hiện cơ chế liên kết giữa đào tạo sau đại học với nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để bảo đảm các đề tài nghiên cứu triển khai ở cấp bộ, cấp nhà nước đều góp phần đào tạo được những cán bộ có trình độ cao về công nghệ sinh học. - Giai đoạn 2006 - 2010: đào tạo được trên 8.000 cán bộ khoa học có trình độ đại học và sau đại học về công nghệ sinh học, trong đó có: 200 tiến sĩ, 800 thạc sĩ, gửi đi đào tạo ở nước ngoài khoảng 100 lượt người; đào tạo ở trong nước được 3.000 kỹ thuật viên. - Giai đoạn 2011 - 2015: đào tạo được trên 12.000 cán bộ khoa học có trình độ đại học và sau đại học về công nghệ sinh học, trong đó có: 300 tiến sĩ, 1.200 thạc sĩ, gửi đi đào tạo ở nước ngoài khoảng 300 lượt người; đào tạo ở trong nước được 4.500 kỹ thuật viên. 3.2.3.3. Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp sinh học a) Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp sinh học ở Việt Nam đến năm 2020, trong đó chú trọng quy hoạch phát triển công nghiệp sinh học trong lĩnh vực: công nghiệp chế biến sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, y - dược với quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện phù hợp với điều kiện của nước ta. b) Hình thành và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp sinh học sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong lĩnh vực chế biến nông, lâm, thuỷ, hải sản; sản xuất rượu, bia, nước giải khát, nước chấm; sản xuất các axit amin, axit hữu cơ, enzym công nghiệp, phụ gia thực phẩm; sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi, giống thuỷ sản, phân bón, thuốc trừ sâu sinh học, vắc-xin thú y, vắc-xin phục vụ chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, vắc-xin cúm gia cầm, thuốc chữa bệnh, kháng sinh và các loại dược phẩm khác; sản xuất các chế phẩm vi sinh để xử lý rác thải, nước thải, khí thải, làm sạch nước sinh hoạt và các sự cố môi trường. c) Tạo lập thị trường thông thoáng, thuận lợi, phát triển thêm các ngành công nghiệp phụ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành công nghiệp sinh học. 3.2.3.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống a) Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích nghiên cứu khoa học, phát triển, chuyển giao và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống cũng như đầu tư phát triển ngành công nghiệp sinh học ở Việt Nam; chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy, hải sản đầu tư phát triển công nghệ sinh học; chính sách thu hút và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho phát triển công nghệ sinh học; chính sách ưu đãi cán bộ khoa học kỹ thuật và trọng dụng nhân tài về công nghệ sinh học. b) Xây dựng chính sách về quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, một chương quan trọng của Luật Đa dạng sinh học và các nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành chương này. c) Xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, vay vốn, hỗ trợ chuyển giao, nhập khẩu công nghệ và bí quyết công nghệ, phát triển thị trường công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực... cho các doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển ngành công nghiệp sinh học.  3.2.3.5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ sinh học a) Tiến hành các hợp tác song phương và đa phương với các nước trong khu vực và trên thế giới có nền công nghệ sinh học tiên tiến để học hỏi kinh nghiệm, thu hút đầu tư, tranh thủ sự giúp đỡ nhằm phát triển nhanh, mạnh và vững chắc công nghệ sinh học ở nước ta. b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các đề tài, dự án hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học; chuyển giao công nghệ, dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị về công nghệ sinh học giữa các viện nghiên cứu, trường đại học của nước ta với các viện nghiên cứu, trường đại học của các nước có nền công nghệ sinh học tiên tiến trên thế giới. 3.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với sự phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất và đời sống. Hình thành hệ thống chỉ đạo phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Đẩy mạnh và đa dạng hoá các loại hình tuyên truyền, phổ biến kiến thức về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học; tiếp tục tuyên truyền sâu rộng Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chương trình hành động của Chính phủ và nội dung Kế hoạch tổng thể về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam đến các cấp, các ngành, địa phương và cộng đồng dân cư để thực hiện. 3.3.2. Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng và ưu đãi cho phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học, đồng thời nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hoạt động nghiên cứu phát triển, ứng dụng và sử dụng các sản phẩm công nghệ sinh học ở Việt Nam. 3.3.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc, thiết bị cho công nghệ sinh học. Chú trọng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, hệ thống theo quy hoạch thống nhất trong cả nước, trong từng địa phương để sử dụng có hiệu quả các máy móc thiết bị, các phòng thí nghiệm đã được đầu tư. 3.3.4. Tăng cường và đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư cho phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học. Lựa chọn đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tổ chức thực hiện có hiệu quả, đồng thời quản lý chặt chẽ các chương trình, đề án, dự án về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học. Chú trọng huy động nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp và người sản xuất cho phát triển công nghệ sinh học ở nước ta. Nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sinh học trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm cho khoa học và công nghệ. Việc ưu tiên bố trí kinh phí cho các chương trình, quy hoạch, đề án và dự án trọng điểm trong “Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2020” thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.   3.3.5. Khôi phục và phát triển các kinh nghiệm bản địa, đồng thời nhanh chóng áp dụng các công nghệ tiên tiến để đẩy mạnh việc phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, hình thành thêm ngành nghề mới để phát triển mạnh ngành công nghiệp sinh học. 3.3.6. Tăng cường hợp tác quốc tế để nhanh chóng tiếp thu, giải mã, làm chủ một số lĩnh vực quan trọng của công nghệ sinh học hiện đại. Thực hiện việc mua công nghệ và thuê chuyên gia nước ngoài trong những trường hợp nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sinh học cần thiết. KẾT LUẬN Thống kê mới nhất cho thấy, số người có trình độ trên ĐH ở nước ta là khoảng 30.000, với hơn 13.000 tiến sĩ và khoảng 6.000 GS, PGS. Với lượng người có học hàm, học vị tính trên trung bình dân số thuộc loại cao hàng đầu khu vực, chắc chắn xã hội cũng đã đặt ra nhiều kỳ vọng. Nhưng nếu lấy số lượng các công trình KH được công bố của Việt Nam so với thế giới giai đoạn 2004-2008 đối với mỗi quốc gia cũng như đối với từng cá nhân nhà KH thì chúng ta còn thua xa Thái Lan chứ chưa nói đến Ấn Độ, Hàn Quốc. Ngoài ra, thực trạng "hành chính hóa" các chức danh KH khi nhà nghiên cứu "rẽ ngang" sang ngạch quản lý nổi lên rất rõ, làm cho nhân lực KHCN đã yếu càng yếu. Mục tiêu phát triển KHCN đến năm 2020 là làm sao rút ngắn được khoảng cách với các nước khác, tức là trong một thời gian ngắn phải làm chủ được nhiều thành tựu công nghệ tiên tiến. Bài toán sử dụng trí thức thông qua việc quy tụ họ trong các tập thể nghiên cứu tiên tiến ở các viện nghiên cứu, các trường đại học ngang tầm thế giới là con đường ngắn nhất. Đây chính là lực lượng nòng cốt, là chủ thể, hiện thân của nền khoa học và CN của đất nước. Để phát triển Khoa Học Công Nghệ nói chung và Công nghệ sinh học nói riêng đã đến lúc phải thay đổi tư duy, bỏ cách nghĩ cảm và duy ý chí. Thay vào đó là cái nhìn toàn diện hay cách nhìn tổng thể theo một hệ thống đồng bộ. Nước ta còn nghèo, ta càng cần phải tìm cách đi khôn ngoan và phù hợp, làm sao để phát triển Công nghệ sinh học trong thời gian ngắn nhất và đạt hiệu quả nhất. Để xây dựng, phát triển và phát huy có hiệu quả hệ thống Khoa Học Công Nghệ cần phải vận hành đồng bộ tất cả các yếu tố cấu thành hệ thống. Sự yếu kém hoặc thiếu hụt dù một yếu tố trong đó cũng có thể dẫn đến thất bại, hệ thống không những không phát huy tác dụng mà còn gây lãng phí lớn về tài nguyên con người và nguồn kinh phí đầu tư. Đầu tư cho Khoa Học Công Nghệ nói chung và Công nghệ sinh học nói riêng, không chỉ là lấy tiền nhà nước cấp cho các đề tài nghiên cứu mà cần có cách nhìn mới theo tư duy mới: nhà nước chỉ đầu tư cho các nghiên cứu Công nghệ sinh học cơ bản và định hướng và đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó nhà nước cần tạo môi trường và khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng Công nghệ sinh học cho sản xuất và nhờ sản xuất thành công chính doanh nghiệp tự đầu tư để phát triển Công nghệ sinh học nhằm tạo ra các sản phẩm Công nghệ sinh học có sức cạnh tranh trên thị trường. Khi Công nghệ sinh học biến thành sức mạnh vật chất, khi có nhu cầu thật sự, doanh nghiệp không những sẽ tự tổ chức nghiên cứu những gì họ cần mà còn đầu tư cho các Phòng thí nghiệm Công nghệ sinh học thông qua hợp đồng nghiên cứu những công nghệ hay sản phẩm mới mà tự họ chưa hoặc không tự làm được. Như vậy, bài toán Khoa Học Công Nghệ nói chung, trong đó có Công nghệ sinh học không thể được giải bằng tư duy đang vận hành. Nếu thật sự muốn Công nghệ sinh học trở thành động lực phát triển cần phải đổi mới mang tính chất đột phá từ tư duy chiến lược, các chính sách khả thi, nguồn nhân lực đủ tâm đủ tầm đến tổ chức thực hiện. Để làm được như vậy cần phải có chiến lược phù hợp để phát triển Công nghệ sinh học trong giai đoạn tới.  TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH Ban Tư tưởng Văn hoá- Trung ương, Bộ Nông nghiệp và PTNT (2002). Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. NXB. Chính trị Quốc gia, 368tr. Luật Khoa học và Công nghệ (2000). NXB. Chính trị Quốc gia, 49tr. Quyết định số 14/2008/QĐ-TTg về việc “Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng CNSH ở Việt Nam đến năm 2020 (11-03-2008). Tài liệu bồi dưỡng về quản l‎ hành chính Nhà nước (2010), Quyển 1: Nhà nước và Pháp luật, Nhà XB Khoa học và Kỹ thuật. Tài liệu bồi dưỡng về quản l‎ hành chính Nhà nước (2010), Quyển 2: Hành chính Nhà nước và công nghệ hành chính, Nhà XB Khoa học và Kỹ thuật. Tài liệu bồi dưỡng về quản l‎ hành chính Nhà nước (2010), Quyển 3: Quản lí Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực, Nhà XB Khoa học và Kỹ thuật. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (340tr). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006). NXB. Chính trị Quốc gia, 375tr.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23.doc