Cuộc khủng hoảng Nga năm 1998 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Năm 1998 là một năm khó khăn đối với nền kinh tế thế giới. Tờ USA Today đã tóm tắt thị trường toàn cầu một cách chính xác vào cuối năm 1998: “Khó khăn tràn từ lục địa này sang lục địa khác như một con vi rút”. Nước Nga cũng không nằm ngoài vòng xoáy ấy. Nga đã bắt đầu tất cả mọi thứ hầu như từ số 0. Đối với nước Nga, thời gian cuối những năm 90 in đậm bởi những cơn chấn động nghiêm trọng về chính trị và kinh tế. Kết cục là những chấn động đó đưa đến sự đổ vỡ khủng hoảng năm 1998, đặt nền kinh tế Nga trước thảm cảnh tê liệt. Đòi hỏi nỗ lực khổng lồ của ban lãnh đạo mới cũng như toàn thể cộng đồng nói chung để cứu vãn tình thế. Trong tác phẩm “Chiếc Lexus và cây ôliu” của Thomas L. Friedman cũng đã đề cập rất rõ nét về toàn cảnh nền kinh tế thế giới những năm 90 và đặc biệt là nước Nga. Vào thời điểm đó, hầu hết những thứ nước Nga tạo ra được xem là có giá trị âm. Các thông báo bất ổn thị trường tài chính Nga đến một mức độ đáng kể và dẫn đến một sự suy giảm nhanh chóng trong giá trị đồng Rúp, một sự sụp đổ trong giá trị vốn chủ sở hữu chứng khoán được giao dịch tại công ty của Nga và quốc tế, thu nhập cố định dịch vụ chứng khoán của cả Nga và công ty tổ chức phát hành. Điều này làm suy giảm hệ thống tài chính Nga và áp lực giảm sâu hơn về giá trị của đồng Rúp hành động tiếp theo của Ngân hàng Trung ương và đại diện hành động của Chính phủ Nga đã làm ít để tạo sự tự tin trong cộng đồng đầu tư cho vấn đề tài chính của Nga có thể được giải quyết nhanh chóng. Nền kinh tế Nga phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ và khí đốt, và khi nước Nga gặp khủng hoảng, kéo theo đó là những khó khăn với nhiều quốc gia khác. Nước Nga đã trải qua khủng hoảng như thế nào, đã vượt qua khủng hoảng ra sao? Bài tiểu luận này sẽ giúp giải quyết những câu hỏi đó. Bài tiểu luận có đề tài: “Cuộc khủng hoảng Nga năm 1998” gồm 2 phần chính. · Phần 1 sẽ nghiên cứu Toàn cảnh về cuộc khủng hoảng Nga 1998, bao gồm Diễn biến, nguyên nhân, tác động và biện pháp của cuộc khủng hoảng. · Phần 2 là những bài học và biện pháp dành cho Việt Nam. Việt Nam chúng ta là một quốc gia nhỏ, còn phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới. Vậy chúng ta đã rút ra được những bài học gì từ cuộc khủng hoảng Nga 1998 và những biện pháp giúp Việt Nam không đi vào vết xe đổ của Nga. Chủ đề về cuộc khủng hoảng ở nước Nga năm 1998 còn khá mới mẻ. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, tìm hiểu về các quốc gia khác, đặc biệt là một vấn đề kinh tế đối với một sinh viên kinh tế là điều vô cùng cần thiết. Do thời gian nghiên cứu và hiểu biết còn hạn hẹp, bài tiểu luận của nhóm chúng em còn nhiều thiếu sót. Chúng em mong thầy cô nhận xét và góp ý để bài tiểu luận của chúng em có thể hoàn thiện một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn!

doc28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6255 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cuộc khủng hoảng Nga năm 1998 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG I. Khủng hoảng Nga I.1 Diễn biến của cuộc khủng hoảng I.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng I.2.1. Nguyên nhân chính trị I.2.2. Nguyên nhân kinh tế 1. Tình trạng đình đốn sản xuất, mà nguyên nhân chính là khủng hoảng thanh toán, nợ và chiếm dụng vốn lẫn nhau 2. Báo động về ngân sách 3. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới 3.1. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới nói chung 3.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 I.3 Tác động của cuộc khủng hoảng 1. Tác động tới nền kinh tế Nga 2. Tác động tới các nước khác. I.4. Ứng phó của Nga trước cuộc khủng hoảng II. Bài học cho Việt Nam II.1. Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng Nga II.2 Một số biện pháp chung đối phó với khủng hoảng II.3 Một số biện pháp đối phó với khủng hoảng cho Việt Nam KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU Năm 1998 là một năm khó khăn đối với nền kinh tế thế giới. Tờ USA Today đã tóm tắt thị trường toàn cầu một cách chính xác vào cuối năm 1998: “Khó khăn tràn từ lục địa này sang lục địa khác như một con vi rút”. Nước Nga cũng không nằm ngoài vòng xoáy ấy. Nga đã bắt đầu tất cả mọi thứ hầu như từ số 0. Đối với nước Nga, thời gian cuối những năm 90 in đậm bởi những cơn chấn động nghiêm trọng về chính trị và kinh tế. Kết cục là những chấn động đó đưa đến sự đổ vỡ khủng hoảng năm 1998, đặt nền kinh tế Nga trước thảm cảnh tê liệt. Đòi hỏi nỗ lực khổng lồ của ban lãnh đạo mới cũng như toàn thể cộng đồng nói chung để cứu vãn tình thế. Trong tác phẩm “Chiếc Lexus và cây ôliu” của Thomas L. Friedman cũng đã đề cập rất rõ nét về toàn cảnh nền kinh tế thế giới những năm 90 và đặc biệt là nước Nga. Vào thời điểm đó, hầu hết những thứ nước Nga tạo ra được xem là có giá trị âm. Các thông báo bất ổn thị trường tài chính Nga đến một mức độ đáng kể và dẫn đến một sự suy giảm nhanh chóng trong giá trị đồng Rúp, một sự sụp đổ trong giá trị vốn chủ sở hữu chứng khoán được giao dịch tại công ty của Nga và quốc tế, thu nhập cố định dịch vụ chứng khoán của cả Nga và công ty tổ chức phát hành. Điều này làm suy giảm hệ thống tài chính Nga và áp lực giảm sâu hơn về giá trị của đồng Rúp hành động tiếp theo của Ngân hàng Trung ương và đại diện hành động của Chính phủ Nga đã làm ít để tạo sự tự tin trong cộng đồng đầu tư cho vấn đề tài chính của Nga có thể được giải quyết nhanh chóng. Nền kinh tế Nga phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ và khí đốt, và khi nước Nga gặp khủng hoảng, kéo theo đó là những khó khăn với nhiều quốc gia khác. Nước Nga đã trải qua khủng hoảng như thế nào, đã vượt qua khủng hoảng ra sao? Bài tiểu luận này sẽ giúp giải quyết những câu hỏi đó. Bài tiểu luận có đề tài: “Cuộc khủng hoảng Nga năm 1998” gồm 2 phần chính. Phần 1 sẽ nghiên cứu Toàn cảnh về cuộc khủng hoảng Nga 1998, bao gồm Diễn biến, nguyên nhân, tác động và biện pháp của cuộc khủng hoảng. Phần 2 là những bài học và biện pháp dành cho Việt Nam. Việt Nam chúng ta là một quốc gia nhỏ, còn phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới. Vậy chúng ta đã rút ra được những bài học gì từ cuộc khủng hoảng Nga 1998 và những biện pháp giúp Việt Nam không đi vào vết xe đổ của Nga. Chủ đề về cuộc khủng hoảng ở nước Nga năm 1998 còn khá mới mẻ. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, tìm hiểu về các quốc gia khác, đặc biệt là một vấn đề kinh tế đối với một sinh viên kinh tế là điều vô cùng cần thiết. Do thời gian nghiên cứu và hiểu biết còn hạn hẹp, bài tiểu luận của nhóm chúng em còn nhiều thiếu sót. Chúng em mong thầy cô nhận xét và góp ý để bài tiểu luận của chúng em có thể hoàn thiện một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG I. Khủng hoảng Nga năm 1998 I.1 Diễn biến của cuộc khủng hoảng 1. Giai đoạn cuối năm 1997: trong giai đoạn này, nền kinh tế Nga đã bắt đầu có những dấu hiệu suy giảm: Thặng dư thương mại sau 1 thời gian đã dần trở lại mức cân bằng Lạm phát khoảng 11 % Dầu mỏ, mặt hàng xuất khẩu chủ lực, ở mức giá 23$/ 1 thùng và đang bắt đầu giảm Các ngân hàng Nga gia tăng các khoản nợ nước ngoài Mức lương thực tế ngày càng giảm. Chỉ khoảng 40% công nhân được trả lương đầy đủ và đúng hạn Thâm hụt ngân sách ở mức cao Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã tạo nên 1 đợt tấn công đầu cơ nhằm vào đồng rup. Ngày 11-11, Ngân hàng trung ương Nga đã tung ra 6 tỷ $ để ổn định giá trị đồng rup. Năm 1997 Nga chỉ đạt mức tăng trưởng GDP 0.8% 2. Năm 1998: Tháng 3 – 4 : Tổng thống Yelstin sa thải toàn bộ chính phủ thủ tướng Chernomyrdin và bổ nhiệm Sergei Kiriyenko làm tân thủ tướng. Quyết định này ngay lập tức vấp phải sự phản đối từ hạ viện Nga. Tuy nhiên trước đe dọa giải tán hạ viện của tổng thống, sau 1 tháng hạ viện đã chấp nhận quyết định bổ nhiệm này. Một cuộc tấn công khác nhằm vào đồng rup Nga kêu gọi IMF hỗ trợ tài chính Tháng 5: Nước Nga bên bờ vực khủng hoảng Tổng thống Yelstin đưa ra kế hoạch cắt giảm chi tiêu khoảng 40 tỷ $ trước tình trạng nguồn thu từ thuế sụt giảm mạnh. Áp lực chi tiêu không ngừng gia tăng, đặc biệt là đòi hỏi trả tiền lương của công nhân. Nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra tại miền bắc. Công nhân ngành than đã biểu tình và phong tỏa hệ thống đường sắt xuyên Siberi. 19/5 Ngân hàng trung ương Nga nâng mức lãi suất cho vay từ 30% lên 50% và tung ra 1 tỷ $ để bảo vệ đồng rup. Giá dầu tiếp tục giảm. Thị trường chứng khoán giảm sau khi 1 sắc luật được thông qua nhằm hạn chế sở hữu của cổ đông nước ngoài tại UES, công ty điện lớn nhất Nga IMF từ chối hỗ trợ tài chính cho Nga Ngân hàng trung ương tiếp tục nâng mức lãi suất cho vay lên tới 150% Tháng 6 – 7: Tổng thống Yelstin kêu gọi các nước phương Tây, Mỹ và IMF hỗ trợ tài chính giúp Nga đối phó với khủng hoảng. Nga cần khoảng 10-15 tỷ $ để giải cứu nền kinh tế. IMF chỉ trích chính quyền Nga đã không hành động đủ mạnh để cắt giảm chi tiêu công và tăng thuế. Trước những đòi hỏi của IMF, ngày 23/6 thủ tướng Sergei Kiriyenko đã đưa ra dự thảo 1 kế hoạch đối phó với khủng hoảng, trong đó sẽ cắt giảm chi tiêu 42 tỷ rup (6.8 tỷ $) và tăng thu thuế 20 tỷ rup (3.2 tỷ $). Ngày 13/7 IMF thông qua gói cứu trợ 22.6 tỷ $ cho Nga. 14.8 tỷ $ giao trong năm 1998 và 7.8 tỷ $ cho năm tiếp theo. Tháng 8: Khủng hoảng bùng nổ Trước những lo ngại của nhà đầu tư về nguy cơ phá giá đồng rup, thị trường chứng khoán và ngoại hối Nga sụt giảm mạnh. Ngày 14/8 tổng thống Yelstin khẳng định sẽ không phá giá đồng rup Tuy vậy, tới ngày 17/8 ngân hàng trung ương Nga đã buộc phải phá giá đồng rup. Đồng rup giảm mạnh, kéo theo sự tụt dốc của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đã mất 80% giá trị so với đầu năm. Hàng loạt các khoản vay bị vỡ nợ hoặc phải trì hoãn hoàn trả. Chính phủ đã phải tuyên bố vỡ nợ 40 tỷ $. Người dân đổ xô đi rút tiền tiết kiệm và mua đô la. Đồng rup sụt giá mạnh khiến lạm phát ra tăng, giá lương thực tăng chóng mặt. Ngày 21/8 Hạ viện Nga kêu gọi tổng thống Yelstin từ chức. Tuy vậy Yelstin hoàn toàn phớt lờ và tiếp tục củng cố quyền lực của mình. Ngày 23/8 Yelstin sa thải toàn bộ chính phủ Kiriyenko và bổ nhiệm lại Viktor Chernomyrdin làm thủ tướng. Quyết định này lại vấp phải phản ứng từ quốc hội Nga. Tháng 9: Khủng hoảng kinh tế tiếp tục lan rộng. Ngày 2/9 ngân hàng trung ương Nga quyết định thả nổi đồng rup Ngày 21/9 tỷ giá lên tới 21 rup/ 1 đô la, đồng rup mất tới 2/3 giá trị sau khoảng 1 tháng Một loạt các ngân hàng bị phá sản: Inkombank, Tokobank, Oneximbank,… Tình hình chính trị càng phức tạp khi Chernomyrdin trong hai lần bỏ phiếu liên tiếp bị quốc hội từ chối bổ nhiệm làm thủ tướng. Để chấm dứt khủng hoảng chính trị, ngày 10/9 Yelstin đã bổ nhiệm ngoại trưởng Primakov làm tân thủ tướng. I.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng I.2.1. Nguyên nhân chính trị Ngày 11/9/98, với 317 phiếu thuận, 63 phiếu chống và 15 trắng, Đuma quốc gia Nga chấp thuận người do tổng thống B. Yeltsin đề cử là ông Y. Primakov làm thủ tướng chính phủ Nga. Ngay sau đó Tổng thống B. Yeltsin đã ký quyết định chính thức bổ nhiệm ông Y. Primakov làm thủ tướng Nga, chấm dứt ba tuần khủng hoảng chính trị. Như đã biết, ngày 23/3/1998, ông B.Yeltsin đã bãi nhiệm toàn bộ chính phủ V.Chernomyrdin và bổ nhiệm S.Kiriyenko (Nguyên bộ trưởng nhiên liệu và năng lượng) giữ chức phó Thủ tướng chính phủ và Quyền Thủ tướng. Một điều không thể phủ nhận là từ khi lên cầm quyền (1993) cho đến khi bị cách chức V.Chernomyrdin đã có công lớn trong việc chèo lái con thuyền kinh tế Nga. Vậy tại sao cuối quý I năm 1998, Tổng thống lại giải tán toàn bộ chính phủ này ? Bên cạnh những nguyên nhân kinh tế là những mâu thuẫn chính trị sâu sắc. Trước hết có thể nói, mâu thuẫn B. Yeltsin - V. Chernomyrdin là một nhân tố quan trọng tác động đến quyết định giải tán chính phủ V. Chernomyrdin. Dưới vẻ êm ả giữa Tổng thống và Thủ tướng là những đợt sóng ngầm. Trong số các tập đoàn kinh tế chi phối chính trường Nga, Gasprom là công ty có thế lực nhất mà V. Chernomyrdin là cha đẻ của nó. Ai muốn lãnh đạo nước Nga thì phải biết chung sống, thỏa hiệp và nắm được tập đoàn này. Tổng thống biết rất rõ điều đó, nhưng những người do Tổng thống đưa vào chính phủ 2/1997 để nắm các lĩnh vực năng lượng, dầu khí, tài chính đã bị thay thế bằng người của Thủ tướng. Tiếp theo những thành tựu nhất định về kinh tế cuối 1997 với các hoạt động ngoại giao nổi trội của Thủ tướng ở nước ngoài đặc biệt là ở Mỹ làm cho uy tín của V. Chernomyrdin tăng nhanh. Trong khi uy tín ông B. Yeltsin đang bị đe dọa. Điều này buộc Tổng thống phải nghĩ cách tính sổ với Thủ tướng để chuẩn bị cho bầu cử Tổng thống năm 2000. Mặc dù đã thông qua được ngân sách năm 1998, thiết lập được cơ chế "4 bên" và "hội nghị bàn tròn" với khẩu hiệu "Năm 1998 là năm của hòa giải" để giải quyết mâu thuẫn giữa các phe phái trên chính trường, nhưng phe đối lập, đặc biệt là những người Cộng sản không ưa gì toàn bộ chính phủ V. Chernomyrdin, nhất là đối với các nhân vật trẻ thân cận với Tổng thống B. Yeltsin như Trubai, Nemxôp... đã yêu cầu Chính phủ phải ra điều trần trước Duma vào ngày 9/4 và nêu lên vấn đề bất tín nhiệm. Đây là thế cờ tiến thoái lưỡng nan đối với tổng thống B.Yeltsin, buộc ông phải ra tay hành động trước. Sau 5 tháng cầm quyền, chính phủ S.Kiriyenko đã thất bại trong những chương trình cải cách của mình. Tình hình kinh tế - xã hội Nga ngày càng trầm trọng. Những chính sách kinh tế của ông S. Kirienco đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của các tập đoàn kinh tế, các thế lực kinh tế ngầm đang thao túng nền kinh tế và chính trường Nga, đẩy cơn bão khủng hoảng ở Nga lên tới đỉnh điểm. Thực trạng kinh tế Nga đã đặt ông B.Yeltsin vào tình thế "Ngàn cân treo sợi tóc" "Chiếc ghế quyền lực" đang bị đe dọa từng giờ, không loại trừ khả năng Tổng thống cũng phải ra đi cùng Chính phủ nếu không ra tay trước. Đối với vị thủ tướng hơn 30 tuổi S.Kiriyenko thì "5 tháng qua là một cuộc tự sát về chính trị" còn đối với B.Yeltsin, việc gạt chính phủ S.Kiriyenko có thể làm giảm bớt sức ép của phe đối lập. Ngày 23/8 (tròn 5 tháng) B. Yeltsin ký lệnh giải tán chính phủ S.Kiriyenko, tái bổ nhiệm ông V.Chernomyrdin làm quyền Thủ tướng và đề nghị Duma thông qua. Sau hai tuần giằng co, trước sự kiên quyết của phe cộng sản không chấp nhận V. Chernomyrdin, cuối cùng ông B.Yeltsin cũng phải nhường bước, đề cử một tân thủ tướng khả dĩ được các phe phái chấp nhận - đó là Y. Primakov, cựu ngoại trưởng Nga, cùng một chính phủ có đại diện của các phe phái chính trị. Đây là lần thứ hai trong liền một năm nước Nga có sự thay đổi nội các. Sự kiện này làm chấn động dư luận trong và ngoài nước, ảnh hưởng sâu sắc đến chính trường và thương trường Nga. Nó làm cho nền kinh tế Nga vốn đã yếu lại càng thêm suy yếu. I.2.2. Nguyên nhân kinh tế 1. Tình trạng đình đốn sản xuất, mà nguyên nhân chính là khủng hoảng thanh toán, nợ và chiếm dụng vốn lẫn nhau Từ  cuối năm 1997, giá dầu thô trên thế giới  đã có sự giảm mạnh. Vấn đề này đã gây ra một sự sa sút thê thảm cho nền kinh tế  Nga vốn coi dầu khí là nguồn xuất khẩu hàng đầu. Bên cạnh đó, Nga đang phải đối mặt với những khoản nợ lớn trong nước cũng như đối với nước ngoài. Nhà nước Nga đang nợ tập đoàn khí đốt Gazprom (của Nga và cũng là tập đoàn khí đốt đứng đầu thế giới với 32% trữ lượng toàn cầu) đến 14 tỷ rúp tiền bán khí đốt trong khi Gazprom lại nợ nhà nước đến 15 tỷ tiền thuế (vào thời điểm trước điều chỉnh tỷ giá khi mà một USD còn đổi được 6,3 rúp). Điều này cho thấy cả nhà nước lẫn các công ty đều là những con nợ khó đòi với nhau, và hậu quả là ngân quỹ nhà nước trống rỗng (nguồn: Le Nouvel Observateur số1763, 20.8.1998). Đây là một hậu quả của chủ trương hy sinh tất cả để kìm chế lạm phát và giữ đồng rúp ổn định bằng mọi giá đã thành công cho đến khi cuộc khủng hoảng bùng nổ tháng 8 năm 1998. Tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi nhà nước Nga dứt khoát không in thêm tiền nhằm tránh lạm phát nên  để bù đắp những thâm hụt trong ngân sách đã phải vay nợ bằng đòn bẩy lãi suất thật kích thích: 150% cho công trái, từ 15 đến 20% cho các trái phiếu châu Âu (Euro - bonds) qua sự  bảo lãnh hàng năm của IMF và G7. Hậu quả là phân nửa ngân sách liên bang được dành cho việc trả nợ, tối thiểu là 1 tỷ USD mỗi tuần. Nay khi tổng số nợ nước ngoài lên  đến xấp xỉ 100 tỷ USD, và các nguồn thu ngoại tệ giảm thiểu, nhất là từ dầu hỏa, không ai còn muốn cho Nga vay nợ nữa. Một trong những "vố nợ" kinh khủng nhất thực hiện trong khoảng 4 tháng cầm quyền của ê kíp Kirienko là việc các ngân hàng tư nhân, do hám thu lợi từ lãi suất công trái, đã vay nóng nợ nước ngoài bằng USD để mua công trái nhà nước bằng đồng rúp. Báo Le Nouvel Observateur đã đưa ra những con số kinh khủng sau: 7 ngân hàng hàng đầu ở Nga hiện phải thanh toán từ nay đến cuối năm 54 tỷ USD nợ tích lũy từ nhiều năm qua trong khi vốn tích lũy gộp lại tất cả mới được không  đầy 1,5 tỷ USD (tính theo tỷ giá trước 17.8.1998 là 6,3 rúp/1USD). Trong tình hình đồng rúp tuột giá 30% từ ngày 17.8 đến cuối tháng 8, số nợ này sẽ tăng lên tương đương 16 tỷ USD. Thế nhưng, với tỷ giá mới nhất ghi nhận ngày 6.9.1998, 1 USD đã lên đến 19,4 rúp (nguồn: Yahoo - Finance 6.9.1998), thì số nợ này coi như đã tăng 300% (tính bằng đồng rúp). Thêm vào đó, bất chấp những nỗ lực của chính phủ, tình trạng nợ lương công nhân và các khoản nợ  của các doanh nghiệp với nhau cũng ngày càng trở nên trầm trọng. Ở nhiều nơi, công nhân đã đình công, sản xuất ngừng trệ. Tình hình mỗi lúc một trở  nên căng thẳng. 2. Báo động về ngân sách Như  đã nói ở trên, ngân sách nhà nước của Nga lúc này trong tình trạng trống rỗng do nhà nước vay nợ quá nhiều và tình trạng đình đốn sản xuất của các công ty khiến cho việc thu thuế trở nên khó khăn hơn. Tiền thu thuế không đủ để bù đắp số tiền trả lãi cho các khoản vay của chính phủ cả ở trong nước lẫn nước ngoài. Điều này đã khiến cho phúc lợi xã hội như việc trả lương hưu và giao thông công cộng bị giảm sút.    3. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới 3.1. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới nói chung Kinh tế thế giới khủng hoảng đã gây ra tình trạng phát triển đình đốn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới nhất là các nước đang phát triển. Nga lại là nước phụ thuộc nhiều vào việc xuất khẩu nguyên liệu thô trong đó, xăng, khí đốt, kim loại, và gỗ chiếm tới 80% xuất khẩu Nga, khiến cho nước này càng dễ bị tác động bởi những thay đổi thăng trầm của giá cả thế giới.Nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ giảm đã tác động mạnh mẽ đến nguồn cung ngoại tệ của Nga, đặc biệt khi mức giá dầu đã rớt xuống 11 USD/ thùng vào cuối năm 1998. Trong khi đó, Nga lại đang phải chống chọi với tình trạng khan hiếm ngoại tệ do tác động của lam phát tăng cao dẫn đến tâm lí trốn chạy đồng rúp của người dân.Tháng 8/1998, Chính phủ đã phải trả 4 tỷ USD để ổn định các cuộc đình công của công nhân mỏ. Lạm phát năm 1998 lên tới 84%. 3.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính trên diện rộng được bắt đầu từ tháng 7/1997 tại Thái Lan và nhanh chóng ảnh hưởng tới các nền kinh tế khác trong khu vực. Cuộc khủng hoảng tuy được nhìn nhận ở khu vực Đông Á, và đây cũng là khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất từ cuộc khủng hoảng này, tuy nhiên như ở hai cuộc khủng hoảng lớn trước, nó tiếp tục phát triển thành một "cơn bão" tiền tệ tầm cỡ quốc tế và ảnh hưỡng đến nhiều quốc gia khác trên thế giới, nhiều quốc gia "xa xôi" nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này như Mỹ, Nga, Brazil... đặc biệt là Nga. Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 cũng gây nên tâm lí lo ngại trong các nhà đầu tư quốc tế, họ nhanh chóng thoái vốn khỏi thị trường chứng khoán Nga cũng như các nước đang trong suy thoái để chuyển sang các kênh đầu tư an toàn hơn như vàng và USD. Hơn nữa trước thời điểm tấng 8.1997 Nga vẫn là một trong những thị trường chứng khoán thành công nhất trên thế giới với 44 tỉ USD huy động được từ các nhà đầu tư quốc tế. Vì vậy, khi xảy ra hiện tượng thoái vốn ồ ạt thì toàn bộ hệ thống tài chính của Nga nhanh chóng sụp đổ. Trong vòng 6 tháng, TTCK mất đi 70% giá trị vốn (so với đại khủng hoảng ở Mỹ làm mất 80%). Ngân hàng Trung ương Nga chi 3,5-3,8 tỷ USD trong tuần cuối cùng cùng của tháng 7 và tuần đầu tháng 8 với nỗ lực làm tăng giá đồng rúp với hy vọng cứu các ngân hàng thoát khỏi phá sản hoàn toàn, Chính phủ đã làm giảm giá tiền tệ và tạm ngưng chi trả các khoản nợ nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng lớn như Inkombank, Oneximbank và Tokobank vẫn bị đóng cửa. Khủng hoảng tài chính Đông Á cũng làm cho mức lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế tăng nhanh. Tâm lí hoảng loạn của các bên cho vay đã dẫn đến việc rút vốn lớn từ các quốc gia khủng hoảng, gây ra một cuộc khủng hoảng tín dụng và phá sản trầm trọng hơn bao giờ hết.Tại Nga In addition, as foreign investors attempted to withdraw their money, the exchange market was flooded with the currencies of the crisis countries, putting depreciative pressure on their exchange rates.,trong khi các nhà đầu tư nước ngoài cố gắng để rút tiền của mình thì thị trường ngoại hối đã tràn ngập đồng rúp càng làm tăng áp lực lên tỷ giá hối đoái đang chao đảo. To prevent currency values collapsing, these countries' governments raised domestic interest rates to exceedingly high levels (to help diminish flight of capital by making lending more attractive to investors) and to intervene in the exchange market, buying up any excess domestic currency at the fixed exchange rate with foreign reserves . Để ngăn chặn giá trị tiền tệ bị sụp đổ, chính phủ Nga cũng giống như nhiều nước khác đã tăng lãi suất trong nước lên mức trần nhằm hạn chế thoái vốn bằng cách trả lợi tức hấp dẫn hơn cho nhà đầu tư và can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng việc mua hết lượng nội tệ dư thừa tại cố định tỷ giá với dự trữ ngoại hối . Neither of these policy responses could be sustained for long. Kết quả là lãi suất cao đã gây thiệt hại lớn cho một nền kinh tế lành mạnh vốn đang lung lay bởi chính trị của Nga. Cuối cùng, When it became clear that the tide of capital fleeing these countries was not to be stopped, the authorities ceased defending their fixed exchange rates and allowed their currencies to float . khi Chính phủ hiểu rằng các triều vốn chạy trốn các quốc gia này không được dừng lại, họ đã ngừng bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định và cho phép thả nổi đồng rúp. Hậu quả kéo dài vô cùng nặng nề. Hàng loạt tài sản ở Nga bốc hơi chỉ trong 1 đêm.The resulting depreciated value of those currencies meant that foreign currency-denominated liabilities grew substantially in domestic currency terms, causing more bankruptcies and further deepening the crisis.Hậu qua I.3 Tác động của cuộc khủng hoảng 1. Tác động tới nền kinh tế Nga Khủng hoảng tài chính Nga đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình phát triển vốn đã không khả quan của Nga trong suốt một thời gian dài từ những năm đầu thập kỷ 90. Mặc dù nền kinh tế của đất nước này đã cho thấy một sự khởi sắc trong nửa đầu những năm 97 nhưng những yếu kém nội tại trong nền kinh tế kết hợp với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 97 đã khiến cho Nga rơi vào tình trạng không thể chống đỡ được. Sức lan tỏa cũng như càn quét của nó đã khiến cho hình ảnh một nước Nga vĩ đại trong lịch sử phút chốc bị lu mờ vì những lỗ hổng của yếu tố kinh tế. Trước hết sự giảm giá của đồng nội tệ đã làm cho hàng hóa trên thị trường tăng giá chóng mặt. Đầu tiên là những mặt hàng nhập khẩu. Lượng hàng hóa nhập khẩu của Nga phụ thuộc khá nhiều từ bên ngoài nên khi đồng nội tệ giảm giá làm cho hàng hóa nhập khẩu đắt hơn tương đối so với hàng hóa trong nước. Thế nhưng hàng hóa trong nước lại vô cùng khan hiếm đẩy giá cả tăng lên chóng mặt. Giá nguyên liệu sản xuất đầu vào cũng tăng lên làm cho hàng hóa sản xuất ra tốn nhiều chi phí hơn và khó bán hơn. Đồng thời khi mà giá tăng thì cung lại giảm, hàng bán ra không tiêu thụ được. Trong tình trạng như vậy, hàng loạt công ty tuyên bố ngừng sản xuất, phá sản. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao là nguyên nhân phát sinh tên nạn xã hội. Nạn trộm cắp, cướp giật diễn ra tràn lan. Cũng tương tự như vậy nhiều ngân hàng như Inkombank, Oneximbank và Tokobank phải tuyên bố đóng cửa vì không còn đủ khả năng chi trả cho khách hàng. Ngân hàng Trung ương Nga chi 3,5-3,8 tỷ USD trong tuần cuối cùng cùng của tháng 7 và tuần đầu tháng 8 với nỗ lực làm tăng giá đồng rúp hy vọng cứu các ngân hàng thoát khỏi phá sản hoàn toàn. Cũng trong thời kỳ này thị trường chứng khoán tại Nga đã giảm hơn 80% giá trị thực của nó. Một khi thị trường chứng khoán rớt điểm trong trạng thái không kiềm chế được tức là sẽ không còn đòn bẩy để đẩy nền kinh tế lên và mỗi ngày thị trường lại bốc hơi một khối lượng tiền tệ lớn. Tình hình càng trở nên xấu đi khi hiện tượng giá đồng nội tệ là làm cho uy tín trả nợ nước ngoài của Nga suy yếu rõ rệt. Việc Chính phủ phá giá đồng rúp dưới danh nghĩa "mở rộng biên độ tỷ giá đồng rúp" ngày 17/8/1998, theo đó tỷ giá thay đổi từ 6,3 lên 9,5 rúp/ 1USD, đồng thời tuyên bố hoãn trả nợ nước ngoài trong thời hạn 90 ngày đã tạo ra những phản ứng tiêu cực. Đây có thể nói là "giọt nước cuối cùng" làm "tràn cốc nước" chống đối của giới tài phiệt, phe cánh tả đối lập, làm giới đầu tư nước ngoài mất lòng tin hoàn toàn. Bởi vì trong khi các đại gia trong làng chủ nợ của Nga như G7 đang chỉ nhăm nhe muốn đòi số nợ mà Nga đã vay và các nhà đầu tư cũng luôn luôn trong tư thế rút vốn tại Nga. Do đó mà tuyên bố hoãn trả nợ nước ngoài với mục đích đi tìm nguồn vốn mới đập vào số nợ cũ đã làm cho chủ nợ và các nhà đầu tư mất niềm tin hoàn toàn vào khả năng phục hồi của nền kinh tế. Và thực tế, quyết định này của Nhà nước đã làm cho tình hình không thể kiểm soát nổi : dân chúng nhốn nháo, các nhà băng hầu như đóng cửa không giao dịch, các chủ nợ nước ngoài phong tỏa những khoản của Nga ở nước ngoài. Thực trạng kinh tế Nga đã đặt vào tình thế "Ngàn cân treo sợi tóc". 2. Tác động tới các nước khác. Việc đồng rúp tuột giá đã kéo theo một tác động dây chuyền cực lớn. Các nước thuộc Liên Xô cũ cũng rung động theo, tiền tệ của Ukraine, của Biélorussie, Lettonie...cũng bị thả nổi theo. Thật dễ hiểu khi mà có tới 40% hàng hóa xuất khẩu của Ukraine là vào thị trường Nga, Ukraine giữ tỷ giá cố định đồng tiền nước mình, trong khi đồng rúp tuột giá, làm cho ngành sản xuất xuất khẩu rơi vào khó khăn nghiêm trọng. Khi đó thì hàng hóa của Ucraina vào Nga tăng giá khiến cho sức cạnh tranh của nó yếu đi. Thế nhưng không chỉ có các nước thuộc Liên Xô cũ hay các nước G7 mới rung động, mà cả châu Á cũng đang thấp thỏm theo dõi phản ứng dây chuyền này. Đồng rúp tuột giá đến chừng mực nào sẽ khiến đồng nhân dân tệ phải bị phá giá khi mà Trung Quốc là một nước xuất khẩu khá nhiều vào thị trường Nga và đang chịu áp lực của các đồng tiền Đông Á tuột giá từ 1 năm qua? Trong tình huống này, tức đồng nhân dân tệ phá giá, các tiền tệ Đông Á sẽ rơi vào một đợt phá giá "không thắng" lần thứ nhì và điều này nhất định sẽ không để châu Âu và Bắc Mỹ chịu ngồi yên mà sẽ lại tiếp tục thu hồi vốn của mình ở thị trường Châu á và tình hình cả khu vực lại có thể diễn biến tồi tệ giống như những gì đã xẩy ra trong những năm 1997. Nhìn chung cuộc khủng hoảng Nga 1998 mà người ta quen gọi đó với cái tên cuộc khủng hoảng đồng rúp đã có những tác động vô cùng tiêu cực cho nền kinh tế của Nga nói chung cũng như của Châu Á và toàn cầu nói chung. Sự càn quét của nó diễn ra trên mọi phương diện của nền kinh tế ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân cũng như nền sản xuất. Nó thể hiện sự quản lý yếu kém của Nhà nước Nga trong cả một quãng đường dài dẫn dắt nền kinh tế. Sự yếu kém này đòi hỏi Nga cần có một biện pháp cải tổ nền kinh tế một cách nghiêm túc nhất mới có thể giúp Nga vượt qua cơn bĩ thái này. I.4. Ứng phó của Nga trước cuộc khủng hoảng Tháng 4/1996, chính quyền Nga Nga bắt đầu đàm phán và lên lại lịch trình các khoản phải trả nước ngoài được để lại từ chế độ Xô Viết. Đàm phán bắt đầu trả nợ trong nước là bước chính trong việc khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, năm 1997, có vẻ như Nga đang chuyển sang thời kì ổn định kinh tế. Cán cân thương mại thặng dư Quan hệ với phương tây có triển vọng : Ngân hàng thế giới chuẩn bị cung cấp sự trợ giúp mở rộng từ 2 đến 3 tỷ mỗi năm và IMF tiếp tục gặp chính quyền Nga và cung cấp viện trơ. Lạm phát đã giảm từ 131% năm 1995 xuống 22% năm 1996 và 11% năm 1997 Sản lượng đã phục hồi nhẹ Tỷ giá dao động là 5 đến 6 rup một USD Vào tháng 9 năm 1997, Nga được gia nhập các nước tín dụng châu Âu sau khi tái kế hoạch lại sự trả nợ trên 60 tỷ đô la thời Xô Viết cũ cho các chính phủ khác. Một thỏa ước khác cho việc trả khoản nợ 33 tỷ đô trong 23 năm cũng được kí một tháng sau với London Club. Các nhà phân tích dự báo rằng mức tín nhiệm của Nga sẽ tăng, cho phép nước này được đi vay với ít chi phí hơn. Hạn mức mua chứng khoán chính phủ cho các nhà đầu tư không cư trú cũng bãi bỏ, thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài vào Nga. Trước cuối năm 1997, có đến 30% của GKO( trái phiếu chính phủ ngắn hạn) nằm trong tay các nhà đầu tư không cư trú. Viễn cảnh nền kinh tế khá lạc quan như báo cáo tăng trưởng kinh tế của Nga cuối năm 1997 lên đến 0.8% Mặc dầu viễn cảnh khá lạc quan nhưng vấn đề vẫn còn tồn tại: Tiền công thực giảm, đầu tư nước ngoài trên đầu người giảm và nguồn thu từ thuế của đất nước có nhiều điểm bất cập dẫn đến thấp và giảm xuống nhanh. Xác nhận của Paris Club dựa trên những cơ sở không tin tưởng, tuy nhiên sự cải thiện trong hạn mức tín nhiệm của Nga đã làm các ngân hàng Nga vay mượn nhiều hơn từ thị trường nước ngoài. Tăng trưởng nợ nước ngoài lên đến 7% năm 1994 lên 17% năm 1997. Trong thời gian đó, các khoản nợ của Nga vẫn gia tăng trong những năm tiếp theo khi mà nguồn tín dụng sớm từ IMF đến. Các nhà hoạch định chính sách đã phải đối mặt với quyết định là phải giảm nguồn tín dụng nội địa và tăng trong nguồn thu thuế bởi các khoản phải trả chịu lãi chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách quốc gia. Vào tháng 10 năm 1997, Nga tính phải tăng trưởng kinh tế 2% vào năm 1998 để coi như bù lại tăng trong nợ. Rất không may, những sự kiên này bắt đầu để lộ ra rằng nền kinh tế của Nga thay vì tăng trưởng, GDP thực đã giảm đến 4.9%. Khủng hoảng tài chính châu Á nhanh chóng ảnh hưởng đến Nga. Vào tháng 11/1997, đồng rup bị tấn công nặng nề. Ngân hàng trung ương Nga( CBR) đã phải trợ giá đồng tiền và bị mất đến 6 tỷ đô trong nguồn dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, các nhà đầu tư vào thời điểm đó nắm giữ trái phiếu chính phủ Nga đã kí hợp đồng kì hạn với Ngân hàng trung ương, giúp họ bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Thiệt hại ròng của các Ngân hàng Nga lên tớ 6 tỷ USD trong đầu năm 1998. Một điều mới thách thức Nga: tháng 12/1997 giá dầu và kim loại không phải sắt, chiếm tới 2/3 lợi nhuận thu bằng tiền tệ của Nga, bắt đầu giảm. Với quá nhiều tín hiệu không chắc chắn từ nền kinh tế Nga, các nhà đầu tư chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro vỡ nợ của Nga. Để thúc đẩy phát triển thị trường đầu tư giữ mức cũ, tháng 2 năm 1998, chính phủ Nga nộp một bản thuế mới tới Duma. Mã thuế mới được chấp nhận vào năm 1998. Tuy vậy, phần chủ chốt mà dự định làm tăng nguồn thu của Nga vẫn bị lờ đi. Chính phủ Nga tìm kiếm quỹ từ IMF nhưng không đạt được thỏa thuận nào. Vào cuối tháng 3, các tổ chức chính trị và kinh tế bắt đầu trở nên lục đục và vào 23/3, tổng thống Nga Yeltsin sa thải toàn bộ chính phủ, bao gồm cả thủ tướng ViKtor Chernomyrdin. Để củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư, Yeltsin chỉ định ông Kiriyenko, 35 tuổi, một nhà sáng lập ngân hàng và công ty chuyên kinh doanh dầu mỏ, người mà mới chỉ ở trong chính phủ ít hơn 1 năm lên thay thủ tướng. Trong mối lo sợ tăng lãi suất ở Mỹ và Đức làm cho nhiều nhà đầu tư cẩn trọng, tình hình cẳng thẳng vẫn gia tăng trong chính phủ Nga. Duma và Ngân hàng Trung ương vẫn mâu thuẫn. Bị thôi thúc bởi mối đe dọa tan rã Nghị viện từ Yeltsin, Duma chấp nhận vị trí của Kiriyenko vào 24 tháng 4 sau 1 tháng chao đảo. Vào đầu tháng 5, chủ tịch CBR Sergei Dubinin cảnh báo thủ tướng chính phủ về khủng hoảng nợ trong vòng 3 năm tới. Không may là các nhà báo cáo đã nghe ngóng được. Do khủng hoảng châu Á làm tăng cao sự nhạy cảm của các nhà đầu tư tới sự ổn định tiền tệ. Bản báo cáo của Dubinin về chính sách ngân hàng đã bị hiểu là Ngân hàng chuẩn bị phá giá đồng rup . Trong một buổi tiếp xúc với công chúng, bị hiểu nhầm, Kiriyenko phát biểu trong một buổi phỏng vấn rằng doanh thu thuế là 26%, dưới mục tiêu và nói rằng Chính phủ bây giờ đang “quá nghèo”. Trên thực tế, chính phủ đang dự định cắt giảm chi tiêu và tăng tốc doanh thu. Tuy nhiên những kế hoạch này lại không được thông báo rõ ràng tới quần chúng và kết cục, thay vào đó, người ta bắt đầu kì vọng sự phá giá đồng rup Cùng vào thời gian đó, IMF rời Nga, không thể đạt được thỏa ước với các nhà hoạch định chính sách với kế hoạch 1998 nghiêm khắc. Chuyện này nhanh chóng truyền đi, các nhà đầu tư lớn bắt đầu bán trái phiếu chính phủ của họ và chứng khoán Nga, quan tâm rằng mối quan hệ giữa Ngà và Hoa kì đang căng thẳng. Do các nhà gửi tiền và đầu tư trở nên ngày càng cẩn trọng với rủi ro, những ngân hàng thương mại này và các hãng lại có ít tiền mặt hơn thế là những trái phiếu này trôi nổi. Chính phủ liên bang đi tiên phong trong thu thuế bằng tiền mặt đã làm giảm tính lỏng của các ngân hàng và các hãng. Cũng như vậy , vào năm 1997 Nga đã tạo ra hệ thống kho bạc kiểu Hoa Kì với cách chi nhánh, tiết kiệm tiền và làm giảm tham nhũng cũng như giảm lượng tiền mặt di chuyển vào Ngân hàng. Ngân hàng trước đây đã từng sử dụng những quỹ này để mua trái phiếu. Cũng như vậy, tiết kiệm đồng rup trong cư dân đã chỉ tăng có 1.3 tỷ vào năm 1998, so với tăng 29.8 tỷ năm 1997. Ngân hàng Trung ương phản ứng bằng cách tăng lãi suất cho vay từ 30 lên 50% và trong hai ngày sử dụng đến 1 tỷ USD trong quỹ dự trữ ít ỏi để phòng vệ đồng rup. Tuy nhiên vào ngày 27/5, nhu cầu trái phiếu giảm mạnh quá nhiều đến mức lợi tức là trên 50% và chính phủ thất bại trong việc bán đủ số trái phiếu trong cuộc đấu giá hàng tuần để tài trợ cho các khoản nợ đến hạn Trong khi đó giá dầu tiếp tục giảm xuống 11 đô la một thùng. Trong giai đoạn này, ngân hàng Trung ương đã tăng lãi suất cho vay một lần nữa, lần này lên tới 150%. Chủ tịch ngân hàng, ông Sergei Dubinin đã phản ứng bằng cách tuyên bố: khi bạn nghe nói về sự giảm giá, hãy nhổ vào mắt kẻ đang nói vấn đề đó. Chính phủ thiết lập và quảng bá một kế hoạch chống khủng hoảng, yêu cầu trợ giúp từ phương Tây và bắt đầu tiến trình giải thể ba công ty với số nợ lớn từ hoàn thuế. Kiriyenko gặp các nhà đầu tư nước ngoài để củng cố lòng tin cho họ. Yeltsin thì xuất hiện hàng tối trên tivi Nga, kêu gọi các nhà tài chính nổi bật cách nước đến môt cuộc họp ở Kremli nơi ông thúc giục họ đầu tư và Nga. Đến tháng 6, Ngân hàng Trung ương lại tiếp tục bảo hộ đồng rup, tiêu tốn mất 5 tỷ đô dự trữ. Nhưng dù tất cả các nỗ lực của chính phủ, người ta ngày càng biết nhiều đến khoản nợ 2.5 đến 3 tỷ vay từ các nhà đầu tư nước ngoài tới công ty và các Ngân hàng Nga mà đến hạn trả nợ vào tháng 9. Vào tháng 7 IMF chấp nhận trợ giúp bổ sung 11.2 tỷ đô, trong đó 4.8 tỷ đô được giải ngân ngay lập tức. Tuy nhiên, sau khi tính thanh khoản sụt giảm nặng nề, IMF đã không còn tin tưởng Nga nhiều. Duma, cũng trong nỗ lực bảo vệ chế độ đưa ra chương trình chống khủng hoảng. Chính phủ hi vọng rằng kế hoạch chống khủng hoảng sẽ mang thêm 71 tỷ rup trong doanh thu nhưng phần mà Duma thực sự làm được chỉ tăng doanh thu lên khoảng 3 tỷ rup mà thôi. Không ăn thua gì, các nhà làm luật cho rằng, cuộc triệu tập của Duma, thậm chí còn làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư xuống sâu hơn. Vỡ nợ và phá giá: Vào 13/8/1998, cổ phiếu Nga, trái phiếu, và thị trường tiền tệ sụp đổ như kết quả của lo sợ của các nhà đầu tư rằng chính phủ sẽ phá giá đồng rup hay là vỡ nợ trong nước. Lợi tức hàng năm trên những trái phiếu đồng rup bây giờ là hơn 200%. Thị trường cổ phiếu đóng cửa sau 35 phút khi giá rơi tự do. Khi thị trường đóng cửa, nó đã giảm đến 65% với chỉ một lượng nhỏ cổ phiếu được giao dịch. Từ tháng 1 đến tháng 8, thị trường cổ phiếu đã mất 75% giá trị của nó, chỉ riêng tháng 5 là 39%. Cơ quan chính phủ Nga đã còn quá ít lựa chọn. Và thế là vào ngày 17/8, chính phủ thả nổi tỷ giá, phá giá đồng rup, không thể trả nợ quốc gia, tạm dừng thanh toán các khoản nợ bằng đồng rup( chủ yếu là KGOs) và tuyên bố 90 ngày hoãn trả nợ đối với các khoản thanh toán cho Ngân hàng thương mại tới các nhà tín dụng nước ngoài. Tóm tắt lại động thái của chính quyền Nga trong khủng hoảng chỉ có những nét nổi bật sau đây: Vào giai đoạn đầu, Nga ngày càng mở rộng khoảng cách tỷ giá đồng rup so với thị trường thực Ngân hàng trung ương cố trợ giá và phòng thủ cho đồng rup nhưng cuối cùng vẫn phải thả nổi đồng tiền, nghĩa là chấp nhận phá giá nó Quỹ dự trữ Ngân hàng trung ương đã giảm nặng nề. Lạm phát hàng tháng trung bình là : 45% 90 ngày hoãn trả nợ nước ngoài để cứu hệ thống ngân hàng. II. Bài học cho Việt Nam II.1. Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng Nga Trong thời đại toàn cầu hóa của chúng ta ngày nay, hệ thống tài chính, đầu tư, chứng khoán... của các nước liên kết với nhau khá chặt chẽ và sâu rộng. Một tập đoàn đa quốc gia bị sụp đổ tại một chi nhánh thì lập tức toàn bộ tập đoàn bị ảnh hưởng. Đó chính là lý do cấp thiết để các quốc gia cùng nhau hợp tác chống khủng hoảng. Nhìn lại, cuộc khủng hoảng Nga năm 1998 đã gây ra không ít những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế Nga nói riêng và toàn đất nước Nga cũng như thế giới nói chung. Vậy bài học được rút ra từ cuộc khủng hoảng này là gì ? Thứ nhất, là bài học về sự mất cân bằng nền kinh tế vĩ mô trong một thời gian dài.Đây cũng là bài học cho rất nhiều nước nhất là khi cuộc khủng hoảng ở Hy Lạp vừa diễn ra do tình trạng nợ chính phủ leo thang. Thứ hai là bài học về kích thước của gói cứu trợ trong thời kì khủng hoảng. Với Nga vào thời kì đó, IMF cho rằng chính phủ không thể bình ổn thị trường và các nhà hoạch định chính sách cũng không có đủ thời gian để khôi phục lại những vấn đề liên quan đến luật ngân sách nhà nước. Trong giữa tháng Bảy, IMF đã quyết định cung cấp 20 tỷ USD tín dụng cho Nga, với đợt đầu tiên là $ 4800000000 tức là khoảng 6,7% GDP của Nga. Với gói hỗ trợ không đáng kể này, không có gì ngạc nhiên khi IMF thất bại trong việc xoa dịu thị trường Nga cũng như làm chậm lại quá trình của cuộc khủng hoảng. Kết quả là, Nga chỉ có thể giải quyết vấn đề của mình bằng cách gia hạn nợ và phá vỡ biên độ tỉ giá trao đổi. Thứ ba là bài học về vấn đề thay đổi nội các của chính phủ. Chỉ trong vòng một năm, Nga đã có hai lần thay đổi nội các làm ảnh hưởng sâu sắc đến chính trường và thương trường Nga đồng thời làm mất lòng tin vào người dân, tất yếu là tình hình sẽ tồi tệ hơn. Vì vậy bài học ở đây là chính trị phải ổn định thì đất nước mới bình ổn, nhân dân mới an tâm và đất nước mới phát triển được. II.2 Các biện pháp chung đối phó với khủng hoảng 1. Thực hiện bình ổn nền kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ phù hợp làm yên lòng nhân dân và các nhà đầu tư trong tình hình nền kinh tế còn nhiều bất ổn. Chẳng hạn áp dụng chính sách thắt chặt chế độ tiền tệ khi tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng. Hay trong lúc khó khăn, tiết tiệm chi tiêu được coi là quốc sách hàng đầu… 2. Công bố các gói kích thích kinh tế phát triển: Đây là một phương thức không thể thiếu trong việc chống lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ và những hệ lụy do khủng hoảng hệ thống tài chính gây ra, đã ảnh hưởng trực tiếp tới mọi doanh nghiệp, người dân và đặc biệt là những người nghèo. Các phương thức tiếp cận nguồn vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, sinh hoạt thường nhật của người dân với những mặt hàng thiết yếu ngày càng trở nên khó khăn hơn. Đây là lúc chính phủ cùng quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB) hỗ trợ cho vay một lượng tiền lớn để phát triển đầu tư công, nâng cao đời sống an sinh xã hội của người dân đặc biệt là những người nghèo hoặc thất nghiệp, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp trước đây làm ăn hiệu quả, có thang điểm tín dụng an toàn và những doanh nghiệp có ảnh hướng lớn đến nền kinh tế-xã hội được vay vốn để vượt qua khó khăn. Điều khác biệt của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà suy thoái đó là tập trung tiền để kích thích xã hội làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của toàn dân thay vì bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo như đất đai, chứng khoán như trước đây. 3. Chủ động nắm bắt nguồn gốc của cuộc khủng hoảng là xuất phát từ đâu để tìm hướng giải quyết. Ngoài việc nhận được sự giúp đỡ từ bên ngoài thì tự bản thân các chính phủ phải tự tiến hành các biện pháp để đưa đất nước mình vượt qua khủng hoảng trước. 4. Điều quan trọng với một đất nước nhất là trong lúc diễn ra khủng hoảng là tình hình chính trị phải ổn định, chính trị ổn định thì chính phủ mới có thể đưa ra được các phương thức đúng đắn trong việc đối phó với khủng hoảng được. Vì vậy đối phó với khủng hoảng thì biện pháp quan trọng là phải đảm bảo sự ổn định trong bộ mát lãnh đạo của đất nước trước đã. 5. Cuộc khủng hoảng Nga cũng là chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu vào năm 1997. Vì vậy, trước tình hình nhận thức được khả năng khủng hoảng hoàn toàn có thể đến với đất nước mình, các nhà hoạch định chính sách cần có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ, đặt nền kinh tế và xã hội dưới tầm kiểm soát của mình để hạn chế được những cú sốc có thể có khi diễn ra khủng hoảng. Thực tế, Nga phục hồi được như ngày hôm nay một phần là do chính phủ đã quản lí và giữ cho các sức ép về kinh tế và chính trị nằm trong tầm kiểm soát kể từ khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính 1998. II.3 Một số biện pháp đối phó với khủng hoảng cho Việt Nam Có rất nhiều yếu tố tác động đến tình hình kinh tế xấu Việt Nam, từ các yếu tố nội tại như mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu đến tác động của các yếu tố vĩ mô như tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế, lạm phát cũng giống như tình trạng của Nga 1998 . Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất chính là thâm hụt thương mại Nếu trong năm 2003 thâm hụt thương mại vào khoảng 2,581 tỷ USD thì đến năm 2008 mức thâm hụt lên đến 12,782 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003. Năm 2009 mức thâm hụt là 15,412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003.Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức thâm hụt vào khoảng trên 12 tỷ USD. Chính vì vậy các biện pháp chủ yếu liên quan đến cải thiện tình trạng cán cân thương mại xấu ,bên cạnh đó là các biện pháp khác về điều tiết kinh tế vĩ 1 ) Các biện pháp cải thiện cán cân thương mại : a) Giảm thâm hụt do tiêu dùng và đầu tư lĩnh vực phi thương mại: Thâm hụt thương mại một phần do các lí do ; -  Thu nhập ở Việt Nam tăng lên sẽ tạo thêm nhu cầu đối với hàng tiêu dùng và xa xỉ phẩm; - Đầu cơ bất động sản và các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn cũng là lý do dẫn tới nhập khẩu gia tăng trong những năm gần đây; Nâng thuế suất các mặt hàng siêu phẩm, xa xỉ ,không cần thiết như ô tô , mỹ phẩm, rượu, thuốc lá, trang sức Thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam và số lượng ô tô nhập khẩu giai đoạn 2000 - 2009. Nguồn: Số liệu thống kê của WB và GSO. Tự do hóa thị trường vốn cần kết hợp với các quy định và giám sát chặt chẽ khu vực tài chính ngân hàng để ngăn chặn tình trạng bùng nổ tín dụng và tăng mạnh bất thường giá bất động sản và giá cổ phiếu . Đặc biệt là khi nhà nước sủ dụng các biện pháp tài khóa và tiền tệ thắt chặt như hiện nay để kiềm chế lạm phát . Lãi suất tăng cao sẽ thu hút nguồn vốn dưới dạng ngoại tệ vào VN ,tuy nhiên nguồn vốn này thường là ngắn hạn ,một phần rất lớn thường đầu tư vào lĩnh vực phi thương mại như bất động sản, chứng khoán,… điều này có thể gây ra bong bóng bất động sản hoặc chứng khoán ,khi bong bóng vỡ rất dễ gây ra khủng hoảng kinh tế ; phần còn lại đầu tư vào các dự án dài hạn như cơ sở hạ tầng ,sự bất cân đối trong sử dụng nguồn vốn này có thể làm cho nợ quốc gia tăng lên ,giảm uy tín quốc gia ,các quốc gia trên thế giới sẽ không tin tưởng vào chính phủ dẫn đến rút vốn khỏi thị trường Vn lại càng làm cán cân vãng lai chiều hướng xấu . Chính vì vậy cần xiết chặt luật về các lĩnh vực bất động sản và chứng khoán. Minh bạch thông tin là điều tối quan trọng để đảm bảo niềm tin của nhà đầu tư và ngăn chặn các hành vi rủi ro đạo đức b) Sử dụng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, ngân sách hiệu quả hơn cải thiện hiệu quả đầu tư, thu hút có chọn lọc các dự án FDI, khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm bội chi ngân sách nhà nước,….. Các nguồn vốn FDI, ODA đang có xu hướng giảm do Việt Nam dần thoát khỏi các nước nghèo được trợ cấp ưu đãi từ quốc tế , hơn nữa Nhật Bản – Đối tác cũng như nhà tài trợ thương mại, đầu tư cực kì quan trọng vào Đông Nam Á đang gặp khủng hoảng hạt nhân, khủng hoảng thiên tai .Trong tương lai gần ,Nhật Bản sẽ rút bớt nguồn vốn tại tại nước ngoài để tái cơ cấu đất nước ,điều này sẽ ảnh hưởng đến luồng vốn nước ngoài vào VN . Việt Nam thâm hụt tài khoản vãng lai lớn ( 20% kim ngạch xuất khẩu ) do một số nguyên nhân trong đó có một phần sử dụng vốn không hiệu quả . Vốn này chủ yếu được các tập đoàn Nhà nước tiếp cận . Các tập đoàn nhà nước tiêu hao nguồn tài chính quốc gia rất lớn nhưng không hiệu quả điển hình như Tập đoàn Vinashin nợ 80000 tỷ phải tuyên bố phá sản khiến thâm hụt ngân sách trầm trọng ,việc Vinashin vỡ nợ còn một phần lý do tham ô ,tham nhũng , chính vì vậy Nhà nước cần có các biện pháp quản lý hiệu quả để bài trừ tệ nạn này . c) Đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách chuyển đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu Đây có lẽ là khó khăn tương đối lớn đối với VN trong năm 2011 ,khi mà các chính sách tài khóa, tiền tệ thắt chặt . Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn để đầu tư phát triển , Hơn nữa giá dầu mỏ ,than đá … có khả năng giảm vì nền kinh tế Nhật – nền kinh tế lớn trên thế giới đang bị chững lại do thiên tai, hạt nhân , điều này ảnh hưởng đến kim nghạch xuất khẩu của Vn vì dầu thô ,than đá chiếm gần 30% kim nghạch xuất khẩu. Cơ cấu xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng nông lâm sản, công nghiệp nặng và khoáng sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (TTCN).Theo thống kê của GSO, trung bình giai đoạn 1999 - 2010F, hàng nông lâm sản chiếm khoảng 15%, trong đó chủ yếu là hàng nông sản với các sản phẩm chính như gạo, hồ tiêu, cao su; hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm khoảng 34% mà chủ yếu là khoáng sản với mặt hàng chính là than đá và dầu thô; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 40% với sản phẩm chủ yếu là hàng dệt may và giầy da . Có rất nhiều mặt hàng trong nhóm hàng công nghiêp nhẹ tiểu thủ công nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất khiến cho tăng lượng nhập siêu . Cơ cấu hàng XK 2010 Cơ cấu hàng Nk 2010 Để giảm thâm hụt, việc chuyển đổi cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu là hết sức quan trọng, việc chuyển đổi cần thực hiện theo hướng gia tăng khả năng sản xuất nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Để chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong những năm sắp tới Việt Nam cần  tập trung đầu tư cho các ngành xuất khẩu chủ lực với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao cấp độ chế biến hàng tinh chế, tạo nguồn nguyên phụ liệu cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, từ đó nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động cạnh tranh. Để làm được điều này, cần thực hiện một số giải pháp như quy hoạch, phát triển các cụm, khu công nghiệp phụ trợ bên cạnh các khu công nghiệp chuyên ngành chuyên sản xuất nguyên phụ liệu, vật tư sản xuất để cung ứng cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu; Chuyển hướng sản xuất và hình thành vùng nguyên liệu cho các ngành đang có thế mạnh như dệt may, xuất khẩu gỗ,… 2) Các biện pháp khác : a)Đảm bảo tính kỷ luật của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Đảm bảo tính kỷ luật của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đúng như những cam kết ban đầu. Uy tín của chính phủ càng cao (thể hiện ở sự thống nhất giữa cam kết và thực hiện) thì kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ theo hướng tích cực và khủng hoảng sẽ không xảy ra. Một chính sách tỷ giá cố định muốn vững bền rất cần sự nhất quán với các chính sách trong nước khác. Nhà nước trong năm 2010 tuy thắt chặt chính sách tiền tệ nhưng lại mở rộng chính sách tài khóa ,điều này khiến cho các biện pháp vĩ mô vô tác dụng . b) Tăng cường liên kết quốc tế Tăng cường liên kết giữa các nước trong khu vực để tạo ra tính bền vững về tài chính cho toàn khối. Một nước có thể vượt qua được khủng hoảng tiền tệ thông qua nguồn hỗ trợ tài chính từ các nước trong khu vực, và điều này quay ngược trở lại sẽ đảm bảo an toàn cho chính các nước này khỏi hiệu ứng lan truyền khủng hoảng. Các nước trong khu vực với những nét tương đồng cần tăng cường tính chủ động và hợp tác thay vì phụ thuộc quá nhiều vào IMF và các tổ chức của các nước phát triển như hiện nay. c) Theo dõi ,phân tích và đưa ra những biện pháp kịp thời về chính sách tiền tệ ,tỉ giá hối đoái Để có thể sớm cảnh báo được nguy cơ khủng hoảng tiền tệ và có những chính sách phản ứng kịp thời, cần theo dõi sát sao các chỉ tiêu kinh tế sau: - Các biến tài khoản vãng lai: (i) tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu; (ii) tỷ số cán cân thương mại trên GDP; (iii) tỷ số tài khoản vãng lai trên GDP, (iv) thay đổi tỷ giá thương mại, (v) độ chệch của tỷ giá thực tế so với xu thế hoặc bình quân các thời kỳ trước. - Các biến tài khoản vốn: (i) chênh lệch lãi suất nội tệ và lãi suất đồng tiền nước ngoài neo theo; (ii) tỷ số nợ nước ngoài trên tổng nợ của các định chế tài chính, (iii) tỷ số nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối; (iv) tăng trường của tài khoản vốn. - Các biến tài chính: (i) lãi suất tiền gửi thực; (ii) chênh lệch lãi suất tiền gửi và tiền cho vay; (iii) thay đổi tỷ số M2 trên dự trữ ngoại hối; (iv) thay đổi tỷ số tín dụng trong nước trên GDP; (v) M1 thực tế dôi ra. - Các biến thực: (i) tỷ số cán cân tài khóa trên GDP; (ii) tỷ lệ lạm phát; (iii) tốc độ tăng trưởng GDP; (iv) biến động giá cổ phiếu. KẾT LUẬN Nga đã tăng trưởng trở lại từ sự sụp đổ tài chính tháng tám năm 1998 với tốc độ đáng ngạc nhiên. Phần lớn lý do của sự phục hồi này là giá dầu thế giới tăng nhanh trong thời gian 1999-2000 cũng như giá năng lượng giảm trên thị trường thế giới đã giúp làm cải thiện sâu sắc những rắc rối tài chính của Nga, do đó, Nga đã chạy một thặng dư thương mại lớn trong năm 1999 và 2000. Một lý do khác là các ngành công nghiệp trong nước, chẳng hạn như chế biến thực phẩm, đã được hưởng lợi từ sự mất giá, mà gây ra một sự tăng vọt giá cả của hàng hoá nhập khẩu. Cuối cùng, nền kinh tế đã được giúp đỡ bởi tiền mặt; doanh nghiệp đã có thể trả hết nợ tiền lương và các loại thuế, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho hàng hoá và dịch vụ của ngành công nghiệp Nga ngày càng tăng. Lần đầu tiên trong nhiều năm, tỷ lệ thất nghiệp trong năm 2000 là doanh nghiệp đã giảm. Kể từ khi cuộc khủng hoảng 1998, chính phủ Nga đã quản lý để giữ áp lực xã hội và chính trị dưới sự kiểm soát, và điều này đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phục hồi hiện nay. Cuộc khủng hoảng 1998 ở Nga đã giúp nước Nga có một nền tảng vững chắc, để trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, nước Nga đã đứng vững. Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998, Nga đã cải thiện được đáng kể vị thế tài chính của mình trên trường quốc tế với việc giảm nợ nước ngoài từ 90% GDP xuống còn 36%, dự trữ ngoại tệ từ 12 tỉ USD đã tăng lên 180 tỉ USD cuối năm 2005. Những thành tựu kinh tế trên đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cũng như tăng thêm sự tin tưởng của các nhà đầu tư vào triển vọng của nền kinh tế Nga. Là một quốc gia có diện tích lớn, nguồn tài nguyên phong phú, xuất khẩu dầu mỏ lớn trên thế giới, nước Nga đang ngày càng hùng mạnh. Đối với Việt Nam, một nước khá gần gũi với nước Nga về mặt kinh tế và cả tinh thần, luôn nhìn theo Nga và định hướng bước đi cho mình, đã tìm ra những bài học cụ thể. Việt Nam cần phải có công cụ điều tiết luồng vốn một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp. Đặc biệt, việc giữ ổn định hệ thống chính trị, nền kinh tế, đảm bảo các mục tiêu về việc làm, tăng trưởng và lạm phát chính là việc làm thiết thực nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách, giáo trình 1) GS.TS Nguyễn Văn Tiến: Giáo trình Tài chính quốc tế, NXB Thống kê, 2009. 2) Krugman and Obstfeld : International Economics: Theory and Policy, Seventh Edition. II. Websites A case study of currency crisis: The Russian default of 1998 – ChiodoQwang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieuluanfix_2083.doc
Luận văn liên quan