Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và tác động đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Danh mục các từ viết tắt 3 Danh mục bảng biểu 4 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 6 1.1. Lý luận chung về khủng hoảng tài chính 6 1.1.1. Khái niệm khủng hoảng tài chính 6 1.1.2. Lịch sử một số cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới 8 1.1.3. Đặc điểm của khủng hoảng tài chính 24 1.2. Tác động của khủng hoảng tài chính tới hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng 27 CHƯƠNG 2. CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 30 2.1. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 30 2.1.1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng 30 2.1.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 41 2.1.3. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 50 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dưới tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ 60 2.2.1. Thực trạng huy động vốn của các Ngân hàng thương mại dưới tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ 60 2.2.2. Thực trạng cấp tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 67 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 73 3.1. Dự báo về xu hướng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 73 3.2. Định hướng hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 74 3.3. Một số giải pháp cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới 75 3.3.1. Chính sách lãi suất hợp lý 76 3.3.2. Thắt chặt quản lý rủi ro tín dụng 77 3.3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng 80 3.3.4. Phát triển công nghệ ngân hàng và xây dựng hệ thống thông tin tín dụng 81 3.3.5. Chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp nông thôn 83 3.3.6. Kết hợp hoạt động tín dụng và bảo hiểm tín dụng 84 3.3.7. Củng cố niềm tin đối với người gửi tiền 86 Kết luận 89 Tài liệu tham khảo 90

doc93 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4948 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và tác động đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 2007, tăng trưởng huy động vốn của toàn hệ thống TCTD Việt Nam đạt 47,64% cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 36,53% của năm 2006 và 32,08% của năm 2005. Trong đó huy động vốn bằng VND tăng 53,99%, tăng mạnh so với mức 41.15% của năm 2006; huy động ngoại tệ đạt 29,66% tăng so với mức 25,31% của năm 2006. Tăng trưởng huy động vốn của khối NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng mạnh nhất, đạt 101,85%, huy động vốn của khối NHTM nhà nước cũng đạt tốc độ tăng 24,45% Báo cáo thường niên 2007 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam . Kết quả đạt được này là do các TCTD đã có nhiều giải pháp tăng cường huy động vốn như đa dạng hóa các hình thức huy động thông qua việc tăng lãi suất, mở tài khoản thanh toán, dịch vụ thẻ, khuyến mãi hấp dẫn…Việc mở rộng mạng lưới, chi nhánh, phòng giao dịch của hệ thống TCTD trong năm 2007 cũng góp phần thu hút được khá lớn lượng tiền nhàn rỗi của tổ chức kinh tế và trong dân cư. Biểu 17:Huy động vốn từ nền kinh tế 2001-2007 Nguồn : Báo cáo thường niên 2007- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Giai đoạn 2008-2009 Cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng ra toàn cầu trực tiếp tác động đến các nhân tố: chính sách lãi suất của NHNN; cung cầu tiền tệ trên thị trường; niềm tin của khách hàng gửi tiền. Sự biến động trong các nhân tố trên tác động tới hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Kết quả là tăng trưởng huy động vốn năm 2008 giảm so với các năm trước. Các ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn và khan hiếm tín dụng. Thứ nhất, chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam liên tục thay đổi dưới tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ làm hoạt động huy động vốn của các NHTM gặp nhiều khó khăn. Biểu 18: Diễn biến lãi suất ngân hàng năm 2008 Nguồn : Số liệu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Sáu tháng đầu năm 2008, do biến động tiêu cực trên thị trường tài chính toàn cầu, áp lực giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng cao đạt mức kỷ lục 140 USD/1 thùng và các nguyên nhân nội tại của nền kinh tế khiến tỷ lệ lạm phát đầu năm 2008 của Việt Nam tăng nhanh. Chính phủ đã tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Trong quí I/2008, NHNN Việt Nam đã sử dụng đồng bộ các giải pháp thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25% lên 8,75%. Lãi suất cơ bản tăng buộc các NHTM phải đồng loạt tăng lãi suất huy động VNĐ. Tổng dư nợ huy động bằng VNĐ giảm trong khi dư nợ huy động bằng ngoại tệ (USD; EURO) tăng lên. Tình trạng khan hiếm tiền đồng xảy ra trong khi Chính phủ vẫn áp dụng cơ chế trần lãi suất đã ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của hầu hết các NHTM Việt Nam. Ngày 19/5/2008, NHNN ban hành cơ chế mới về điều hành lãi suất, bãi bỏ trần lãi suất Trần lãi suất (Interest rate ceiling):là mức lãi suất cao nhất một TCTD áp dụng để thu hút tiền gửi vào tổ chức của mình -- mức lãi suất trần huy động, hoặc mức cao nhất mà tổ chức áp dụng đối với các khoản vay nợ của người đi vay - lãi suất trần cho vay. và cơ chế lãi suất thỏa thuận. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Dân sự và cơ chế lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu được áp dụng. Lãi suất cơ bản có sự điều chỉnh lớn từ 8,75%/năm lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 13%/năm và lãi suất tái chiết khấu là 11%/năm. Cũng theo qui định mới của NHNN, lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại tối đa sẽ bằng 150% lãi suất cơ bản, tương đương 18%/năm. Đây là mức lãi suất được cho là tương đối phù hợp với tình hình thị trường, góp phần giúp các NHTM tháo gỡ những khó khăn về huy động vốn và khan hiếm tín dụng ngắn hạn. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, trong tháng 5/2008 tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 1,05% so với tháng 4. Trong đó, số dư tiền gửi VND tăng 1,06% và số dư tiền gửi ngoại tệ ước tăng 0,99%. So với cuối năm 2007, tổng số dư tiền gửi tăng 4,1%. Lượng tiền gửi tăng nhờ mức lãi suất huy động bằng VND tăng 1,84-4,5%/năm, lãi suất huy động USD tăng 0,05-0,75%/năm so với trước ngày 19/5, khi còn áp dụng trần lãi suất huy động “Thông tin về hoạt động ngân hàng tháng 5/2008” của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. . Trong tháng 6/2008, lãi suất cơ bản tiếp tục được điều chỉnh từ 12% lên 14%/năm. Lãi suất tái cấp vốn cũng điều chỉnh tăng thêm 2% lên 15%/năm; Lãi suất tái chiết khấu từ 11% lên 13%/năm. Cơ chế lãi suất mới giúp các ngân hàng có thể chủ động hơn trong chính sách kinh doanh và huy động tiền gửi. Các NHTM tiếp tục cạnh tranh lãi suất để giữ thị phần và thu hút tiền gửi trên thị trường. Đi cùng với các mức lãi suất hấp dẫn, các NHTM đồng loạt triển khai các chương trình khuyến mại lớn như thưởng thêm lãi suất, tặng vàng, tiết kiệm dự thưởng… cũng đã giúp hoạt động huy động vốn trở nên thuận lợi hơn. Kết quả hoạt động huy động vốn nửa đầu năm 2008 của các NHTM có bước phát triển khả quan. Nhiều ngân hàng công bố đạt hơn 50% kế hoạch doanh thu và lợi nhuận cả năm mặc dù nhiều ngân hàng thương mại phải điều chỉnh lại mục tiêu lợi nhuận. Chiến lược tăng tốc được áp dụng trong năm 2007 buộc phải chuyển sang những bước tiến thận trọng, bền vững hơn. Sáu tháng cuối năm 2008, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại giảm dần so với đỉnh điểm trong tháng 6/2008. Phần lớn các ngân hàng hiện áp lãi suất huy động VND dưới 18%/năm và dưới 6%/năm đối với tiền gửi USD. Lãi suất huy động vốn của các NHTM giảm khiến tốc độ tăng tiền gửi cũng chậm lại, còn 1,47% trong tháng 7/2008. Và trong tháng 8/2008, tốc độ đó tiếp tục hạ xuống chỉ còn 0,94%. Đây là mức thấp nhất trong vòng 5 tháng từ đầu quí II/2008. Theo báo cáo của NHNN, mặt bằng lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng tiếp tục có xu hướng giảm; trong đó lãi suất huy động bằng USD có xu hướng giảm mạnh hơn. Lãi suất huy động giảm từ 0,05% - 0,9%/năm đối với VND và từ 0,1% - 0,5%/năm đối với USD “Thông tin về hoạt động ngân hàng tháng 8/2008” của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. . Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất cũng đã giảm ở hầu hết các kỳ hạn, mức giảm từ 0,79% - 2,89%/năm; trong đó mức lãi suất cao nhất là 18,97%/năm (kỳ hạn 3 tháng). Theo cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước, từ ngày 19/8/2008, các tổ chức tín dụng chỉ được ấn định lãi suất huy động và lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản. Với cơ chế trên, hoạt động thu lời của một số ngân hàng dư thừa vốn cũng bị khống chế, bởi các mức lãi suất trên 21%/năm sẽ không còn, căn theo mốc 14%/năm của lãi suất cơ bản hiện hành. Theo số liệu thống kê của NHNN Việt Nam, vốn huy động của toàn hệ thống ngân hàng cả năm 2008 chỉ tăng 20,5%; bằng 1/2 tốc độ tăng trưởng của cùng kì năm 2007. Hầu hết các ngân hàng thương mại chỉ đạt được tốc độ tăng trưởng bằng 1/2 kế hoạch đề ra. Ví dụ: tính đến 31/12/2008, tổng số dư huy động vốn của VPBank là 15.853 tỷ đồng, tăng 498 tỷ đồng so với cuối năm 2007 (tương đương tăng 3%), nhưng chỉ đạt 66% so với kế hoạch đề ra Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2008 và kế hoạch hoạt động 2009 của VPBank. ; tổng vốn huy động của ngân hàng Á Châu – ACB là 91.174 tỷ đồng, tăng 16.230 tỷ đồng so với cuối năm 2007,đạt 60% so với kế hoạch. Theo báo cáo tài chính của ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank), tổng vốn huy động được năm 2008 là 160.415 tỷ đồng, chỉ tăng 30.445 tỷ đồng so với cuối năm 2007. Đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam áp dụng từ ngày 01/4/2009 là 7,0%/năm, lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 8,0%/năm, lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 6,0%/năm. Việc tiếp tục hạ lãi suất cơ bản của NHNN nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế và kích thích hoạt động của thị trường tài chính trong nước. Do đó, mặt bằng lãi suất huy động vốn trong các tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định. Song lãi suất huy động có xu hướng tăng lên do tính cạnh tranh giữa các NHTM trong việc phát triển và nắm giữ thị phần. Lãi suất huy động VND và USD của các Ngân hàng thương mại đối với khách hàng duy trì ở các mức sau : Bảng 3: Lãi suất huy động VND và USD của các NHTM quí I/2009 Lãi suất huy động bình quân Loại tiền Không kỳ hạn (%/năm) 3 tháng (%/năm) 6 tháng (%/năm) 12 tháng (%/năm) Nhóm NHTMNN VND 2,85 6,82 7,09 7,45 USD 0,94 2,35 2,83 3,55 Nhóm NHTMCP VND 3,15 7,43 7,42 7,5 USD 1,26 3,04 3,23 3,43 Nguồn : Thông tin hoạt động ngân hàng quí I/2009 của NHNN Việt Nam. Thứ hai, cung cầu tiền tệ trên thị trường thay đổi do tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ và các chính sách điều hành của Chính phủ đã làm tình hình huy động vốn của các NHTM Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Trong năm 2008, do sự sụt giảm kéo dài của thị trường chứng khoán và bất động sản cùng với các chính sách điều tiết của NHNN (qui định hạn mức 30% tăng trưởng tín dụng; tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%; phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD Nguồn: Thông cáo báo chí – Thông tin về hoạt động ngân hàng quí I/2008 của NHNN Việt Nam ) đã làm giảm lượng cung tiền đồng trên thị trường tiền tệ. Cung tiền nội tệ giảm trong khi cầu ngoại tệ tăng lên do khách hàng có xu hướng gửi tiền bằng ngoại tệ tăng. Thực trạng này đã làm biến động cơ cấu tín dụng và cán cân thanh toán của các NHTM. Đầu năm 2009, nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu phục hồi sản xuất. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tăng lên, do đó kích thích hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Theo báo cáo của NHNN Việt Nam, tốc độ tăng trưởng huy động của hệ thống ngân hàng trong 4 tháng đầu năm 2009 vẫn chưa có thay đổi lớn. Cụ thể là tăng trưởng huy động vốn tháng 1 tăng 0,18%, riêng huy động bằng VND giảm 0,47%; tháng 2 tăng 1,62%; tháng 3 tăng 3,4%; tháng 4 chỉ tăng 3,74% so với tháng trước. Thứ ba, khủng hoảng tài chính Mỹ ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của khách hàng gửi tiền tại các ngân hàng. Hàng loạt các vụ sụp đổ của các tập đoàn tài chính lớn tại Mỹ và châu Âu gây ra một tâm lý lo sợ chung. Cho dù các NHTM liên tục nâng lãi suất huy động hấp dẫn khách hàng nhưng nhiều người đã không lựa chọn phương thức gửi tiền vào ngân hàng. Theo báo cáo cuối năm 2008 của các NHTM Việt Nam, tổng số vốn huy động tiết kiệm trong dân giảm. Thực trạng này cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến tổng dư nợ huy động của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008 và nửa đầu 2009. Thực trạng cấp tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ Giai đoạn 2007 Trong năm 2007, song song với mức tăng trưởng cao trong hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng tăng trưởng vượt mức do thị trường tài chính Việt Nam 2007 vẫn duy trì được trạng thái ổn định, chưa chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Mỹ. Biểu 19 : Tăng trưởng tín dụng 2001-2007 Nguồn : Báo cáo thường niên 2007- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Năm 2007, dự nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức tăng 25,44% của năm 2006, góp phần đáp ứng có hiệu quả nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Tăng trưởng tín dụng cao nhất tập trung ở khối NHTM cổ phần, chi nhanh ngân hàng nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng, đạt mức tăng 105,27%. Khối NHTM nhà nước có tốc độ tăng 31,09% Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam . Giai đoạn 2008-2009 Tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có xu hướng giảm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, chế độ quản lý tín dụng và khả năng thu hồi nợ của các NHTM Việt Nam. Tất cả các nhân tố trên đã trực tiếp làm giảm tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng, khiến tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn năm 2008 và đầu 2009 có xu hướng chậm lại. Biểu 20: Tăng trưởng tín dụng 2000-2008 Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng 2008 của NHNN Việt Nam Thứ nhất, chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ tác động trực tiếp tới tăng trưởng tín dụng của khối NHTM Việt Nam. Cụ thể là đầu năm 2008, Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát tăng trưởng tín dụng cả năm không quá 30% Quyết định số 03/QĐ-NHNN ngày 01/2/2008 . Sự khan hiếm tín dụng và chi phí đầu vào tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô và tốc độ tăng trưởng cho vay trong nửa đầu năm 2008. Các ngân hàng đều rất thận trọng trong các dự án cấp tín dụng mới. Mức lãi suất cho vay VND ngắn hạn trong quí I/2008 dao động từ 11% đến 13%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn ở mức 14% đến 16%/năm. Theo số liệu thống kê của NHNN, tốc độ tăng trưởng tín dụng quí I/2008 ước tính là 10,8%. Bên cạnh đó, sự biến động trong chính sách lãi suất cơ bản của NHNN đã trực tiếp ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của các NHTM. Sau khi NHNN bỏ cơ chế trần lãi suất, các NHTM cạnh tranh tăng lãi suất huy động vốn nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm tiền đồng và giữ vững thị phần ảnh hưởng không nhỏ tới chính sách cho vay của các ngân hàng do chi phí đầu vào tăng cao. Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng với mức lãi suất tăng cao cũng không mấy mặn mà. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng tháng nửa đầu năm 2008 chỉ dao động từ 1,5% đến 5%. Sáu tháng cuối năm 2008, mặt bằng lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các ngân hàng có xu hướng giảm. Trong tháng 7/2008. một số ngân hàng như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Eximbank bắt đầu điều chỉnh giảm lãi suất cho vay VND từ 0,5% đến 1%/năm, giảm lãi suất cho vay USD từ 0,5% đến 2%/năm. Trong tháng 8/2008, lãi suất cho vay trung bình giảm khoảng 0,2% - 1%/năm đối với VND và khoảng 0,5% - 1,3%/năm đối với USD Thông cáo báo chí – Thông tin về hoạt động ngân hàng tháng 7/2008, 8/2008 của NHNN Việt Nam. . Tốc độ tăng trưởng tín dụng của tháng 7 chỉ còn 0,7% và tiếp tục giảm xuống 0,56% trong tháng 8-2008. Từ cuối tháng 10/2008 mức lãi suất cơ bản được hạ xuống từ 14%/năm xuống 13%/năm. Trong quý IV-2008, chính sách tiền tệ được NHNN nới lỏng. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm đều đặn mỗi tháng 1%. Ngày 19/12/2008, lãi suất cơ bản ở mức 10%/năm giảm xuống còn 8,5%/năm, theo đó, lãi suất tái cấp vốn là 9,5%/năm và lãi suất tái chiết khấu là 7,5%/năm. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm kéo theo sự sụt giảm nhẹ của lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tiền tệ. Tốc độ tăng trưởng tín dụng các tháng cuối năm 2008 có xu hướng tiếp tục giảm. Theo Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam trong năm 2008 là từ 21-22%, thấp hơn rất nhiều so với giới hạn 30% do các chính sách kiềm chế cho vay nhằm ngăn chặn lạm phát leo thang và thâm hụt thương mại ngày càng lớn. Biểu 21: Tăng trưởng tín dụng năm 2008 Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng 2008 của NHNN Việt Nam Đầu năm 2009, tình hình thị trường tiền tệ duy trì ổn định. Số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc và khả năng thanh toán. Lãi suất cho vay VND nhóm Ngân hàng thương mại nhà nước phổ biến ở mức 8,5-10%/năm. Lãi suất cho vay VND nhóm Ngân hàng thương mại cổ phần phổ biến ở mức 10,5%/năm. Chính sách hỗ trợ lãi suất (4%/năm) cho các khoản vay ngắn hạn và trung hạn tối đa 24 tháng để đầu tư mới phát triển kinh doanh, kết cấu hạ tầng của Chính phủ đã phát huy hiệu quả, kích thích nền kinh tế phát triển dưới tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu. Trong tháng 4 năm 2009, các chỉ số kinh tế có dấu hiệu phục hồi tăng trưởng. Đây chính là những điều kiện cơ bản để các NHTM thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Theo báo cáo của NHNN Việt Nam, trong tháng 4/2009, tổng dư nợ tín dụng tăng 4,86% so với cuối tháng 3 và tăng 11,16% so với cuối năm 2008; trong đó, dư nợ cho vay bằng VND tăng 5,81% và bằng ngoại tệ tăng 0,65% so với cuối tháng 3/2009. Mức tăng trưởng tín dụng 11,16% nói trên cũng đã được Thống đốc NHNN-Nguyễn Văn Giàu xác nhận; thấp hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm 2008 (14,73%), cao hơn mức tăng 9,79% của cùng kỳ năm 2007. Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ đã tăng nhẹ trở lại trong tháng 4/ 2009 sau khi đã sụt giảm ở 3 tháng đầu năm. Cụ thể, đầu tư bằng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng tháng 4/2009 ước tăng 0,65% so với cuối tháng 3; tháng 3 giảm 2,24%, tháng 2 giảm 2,69% và tháng 1 tăng 1,91% so với cuối năm 2008. Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lan rộng toàn cầu buộc các hệ thống các ngân hàng trên toàn thế giới phải thắt chặt chế độ quản lý rủi ro tín dụng. Các NHTM Việt Nam cũng áp dụng triệt để chính sách này. Do đó cơ cấu tín dụng của hầu hết các NHTM có sự thay đổi lớn. Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn tăng lên, trong khi tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn giảm đáng kể. Mục đích của sự chuyển dịch cơ cấu này là nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ rủi ro mất vốn trước những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Bên cạnh đó, các NHTM cũng thắt chặt hơn các điều kiện cho vay vốn, giảm tỷ lệ nợ xấu, và duy trì mức thanh khoản an toàn. Trong năm 2008, hầu hết các NHTM đều hạn chế tỷ lệ nợ xấu ở mức từ 1-3% tổng dư nợ, thấp hơn tỷ lệ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế là 5%. Các NHTM cũng nâng cao chất lượng tín dụng bằng cách kiểm soát chặt chẽ các lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản, tiêu dùng. Thứ ba, khả năng thu hồi nợ của các NHTM cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến dư nợ tín dụng và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, tình hình xuất khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước đình trệ khiến các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc duy trì sản xuất và thanh toán các khoản nợ ngân hàng. Nợ không thu hồi đủ khiến các ngân hàng bị ứ đọng tín dụng, vòng quay vốn giảm khiến dư nợ cho vay và tốc độ tăng trưởng kém. Đối mặt với tình trạng khó khăn này, các NHTM tăng số dư trong các quĩ dự phòng rủi ro tín dụng và tiến hành cơ cấu lại các khoản nợ của khách hàng. Điều này cũng góp phần làm giảm dư nợ cho vay trong toàn hệ thống ngân hàng. Như vậy, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã và đang có những tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng. Trước các biến động mạnh mẽ trên thị trường tài chính thế giới, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Trong ngắn hạn, các chính sách này đã phát huy hiệu quả và tác động đến hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam. CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ Dự báo về xu hướng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ nổ ra từ giữa năm 2007, lan rộng ra toàn thế giới trở thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã tác động mạnh mẽ tới thị trường tài chính thế giới nói chung và thị trường tài chính từng quốc gia nói riêng. Nhiều tập đoàn kinh tế lớn lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Nền kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính còn biến động phức tạp, không thể lường trước được. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục diễn ra trong năm 2009 và nền kinh tế có thể bắt đầu phục hồi từ 2010. Nhưng quá trình hồi phục sẽ kéo dài do thị trường tài chính phải mất nhiều thời gian nữa mới ổn định lại được. IMF điều chỉnh giảm dự báo kinh tế thế giới xuống mức -1,3% trong năm 2009 thay vì mức dự báo -0,5% tới -1% hồi tháng 3/2009, trong đó kinh tế Mỹ giảm 2,8%, khu vực đồng Euro giảm 4,2%, Nhật Bản giảm 6,2%. IMF cũng đánh giá tổng số thiệt hại do cuộc khủng hoảng tài chính tính đến cuối năm 2010 có thể lên tới 4.100 tỷ USD, trong đó, các tổ chức tài chính Mỹ thiệt hại khoảng 2.700 tỷ USD, cao hơn mức 2.200 tỷ USD và 1.400 tỷ USD được dự báo lần lượt tại thời điểm tháng 1/2009 và tháng 10/2008. Tuy nhiên, sau một loạt các chính sách đối phó khủng hoảng tài chính của Chính phủ Mỹ và các nước trên thế giới, đà suy giảm kinh tế Mỹ những tháng đầu năm 2009 đã có dấu hiệu chậm lại, tình hình kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi tăng trưởng. Theo ông Ben Bernanke, chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) dự báo: “Cơn suy thoái tồi tệ nhất của kinh tế Mỹ trong nhiều thập niên qua có thể chấm dứt trong năm 2009 và kinh tế bắt đầu phục hồi”. Định hướng hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ sự sụp đổ của thị trường cho vay cầm cố thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ đã ngày một trầm trọng và bước vào một giai đoạn hỗn loạn từ tháng 9/2008. Tác động của cuộc khủng hoảng đã lan rộng ra hệ thống tài chính toàn cầu, bao gồm cả các thị trường mới nổi với một quy mô ngày càng tăng, trong đó có Việt Nam. Đối với Việt Nam, mặc dù sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính có trễ hơn, nhưng đến nay Chính phủ cũng đã thừa nhận nó có tác động không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam, mà biểu hiện của nó là sự sụt giảm và đóng băng trên thị trường bất động sản, sự sụt giảm của thị trường chứng khoán, cũng như tình trạng kinh doanh thua lỗ của nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xuất khẩu. Điều này cấp thiết phải đặt ra những giải pháp phòng tránh và giải quyết khủng hoảng hữu hiệu, trong đó giải pháp đảm bảo cho hệ thống các NHTM (huyết mạch của nền kinh tế) hoạt động an toàn, ổn định là rất quan trọng. Trước tình hình diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính, các NHTM Việt Nam cần phát triển hoạt động tín dụng theo các định hướng sau: Thực hiện tốt sự điều hành của Chính phủ và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, đảm bảo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tín dụng phù hợp với quy định của NHNN và tình hình thực tế trên thị trường trong từng thời kỳ. Tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật phù hợp với định hướng chiến lược phát triển chung của toàn ngành ngân hàng và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ. Phát triển vững chắc và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn đó cho đầu tư phát triển sản suất. Chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ; nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Phát triển mạnh công nghệ ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội về các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần nâng vai trò, vị thế của Việt Nam trong cộng đồng tài chính, tiền tệ quốc tế. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động ngân hàng, nhằm tạo sự đồng thuận của xã hội đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng, đồng thời, tạo thêm kênh giám sát của xã hội đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng. Một số giải pháp cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn đang tiếp tục tác động đến nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới. Mặc dù hệ thống tài chính của Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng do việc liên kết với thị trường tài chính quốc tế còn nhiều hạn chế, nhưng những tác động gián tiếp đã làm giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng của hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam trong năm 2008 và đầu năm 2009. Vấn đề cấp thiết đặt ra đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam là tìm ra những biện pháp khắc phục ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng để phát triển hoạt động tín dụng, cung cấp vốn cho nền kinh tế tăng trưởng trong giai đoạn tới. Căn cứ vào diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và tình hình thị trường tài chính trong nước, có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn như sau : Chính sách lãi suất hợp lý Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt động tín dụng, cho vay và huy động vốn của ngân hàng thương mại, tác động đến lợi nhuận khi xem xét kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào. Khi lãi suất thay đổi theo diễn biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh đúng tín hiệu của thị trường, các NHTM cần phải phân tích, hoạch định mức lãi suất phù hợp cho mình. Trong trường hợp lãi suất biến động do tác động của các yếu tố phi vật chất (yếu tố tâm lý, yếu tố cạnh tranh không lành mạnh…) sẽ có tác động bất lợi đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Đây là khó khăn đối với các NHTM có qui mô hoạt động nhỏ, vốn tự có và khả năng tài chính thấp. Trong trường hợp đó, việc tăng lãi suất huy động của một ngân hàng sẽ tác động hiệu ứng tới toàn bộ hệ thống, buộc các ngân hàng khác cũng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng gửi tiền trong khi không thực sự có khó khăn về nguồn vốn. Trong nền kinh tế thị trường, các hiện tượng kinh tế thường có diễn biến, thay đổi nhanh. Lãi suất cũng là yếu tố nhạy cảm và thường xuyên thay đổi, gắn liền với sự thay đổi của quan hệ cung cầu về vốn. Vì vậy, một chính sách điều hành lãi suất bất hợp lý ngay lập tức sẽ tác động tới qui mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay, thị trường tài chính có nhiều biến đổi, chính sách điều hành lãi suất cơ bản của NHNN Việt Nam liên tục thay đổi nhằm thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong thời kì khủng hoảng tài chính toàn cầu, các NHTM Việt Nam cần xây dựng cho mình một chính sách lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay phù hợp để ổn định tình hình kinh doanh của mình. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là các NHTM liên tục cạnh tranh tăng lãi suất huy động vốn ở mức 8-9%/năm, nhưng lãi suất cho vay chỉ ở mức bình quân 10-11%/năm. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động quá nhỏ tiềm ẩn các rủi ro tín dụng và tính thanh khoản của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ không đủ nguồn lực tài chính để trích lập các quĩ dự phòng rủi ro tín dụng sau khi chi trả các chi phí hoạt động. Theo nghiên cứu của nhiều chuyên gia kinh tế, một chính sách lãi suất hợp lý và bảo đảm tỷ lệ an toàn khi độ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là trên 3%. Vì vậy, các NHTM cần căn cứ vào lãi suất cơ bản của NHNN và mặt bằng lãi suất cạnh tranh trên thị trường để xây dựng chính sách lãi suất hợp lý thu hút nguồn vốn huy động và tăng trưởng tín dụng lâu dài phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng thanh toán cho nền kinh tế. Thắt chặt quản lý rủi ro tín dụng Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã khiến cho hàng chục ngân hàng Mỹ bị phá sản (Lehman Brothers, Washington Mutual ..) hoặc bị bán lại (Bear Stearns, Merrill Lynch …), buộc phải chuyển đổi mô hình kinh doanh sang tập đoàn ngân hàng đa chức năng (Goldman Sachs, Morgan Stanley…). Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ việc các ngân hàng cho vay dưới chuẩn. Đây là bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng ở những nước khác trên thế giới, trong đó có các ngân hàng Việt Nam, khi xem xét, cho vay đối với khách hàng. Để đánh giá, lượng hóa rủi ro tín dụng và tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra là một việc không đơn giản. Các NHTM Việt Nam cần xây dựng cho mình một chính sách cấp tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng hợp lý dựa trên một số mô hình đánh giá rủi ro tín dụng như: mô hình chất lượng dựa trên yếu tố 6C; mô hình điểm số Z; mô hình xác suất tuyến tính; mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng; mô hình xếp hạng của Moody và Standard&Poor. Đồng thời, các ngân hàng thương mại thắt chặt việc chấp hành quy trình tín dụng, thể lệ cho vay đối với tất cả cán bộ tín dụng, cán bộ kinh doanh, các bộ phận có liên quan. Khâu thẩm định dự án cho vay được tiến hành mang tính thực chất hơn. Thẩm định bao gồm cả hiệu quả dự án, khả năng tiêu thụ hay đầu ra của thị trường sản phẩm và dịch vụ, giá trị đích thực và tính pháp lý của tài sản đảm bảo tiền vay. Uy tín của dự án của khách hàng, năng lực của chủ dự án,...là những yếu tố không thể bỏ qua trong quá trình thẩm định cho vay. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi trong quá trình hoạt đang của các NHTM. Các NHTM cần phải xây dựng các biện pháp xử lý các khoản nợ xấu nhằm hạn chế tối đa những khoản thiệt hại. Để có thể xử lý nợ xấu có hiệu quả thì điều trước tiên là cần phải phát hiện ra càng sớm càng tốt các khoản nợ có vấn đề, các khoản nợ này cần phải được khắc phục ngay. Trong tình hình thị trường tiền tệ biến động liên tục, các khoản nợ xấu của các NHTM có xu hướng tăng do những tác động gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ. Giải pháp trước mắt của các NHTM là phải hạn chế các khoản nợ xấu, xây dựng một qui trình giải quyết có hiệu quả. Qui trình xử lý nợ xấu bao gồm: Khi một khoản nợ được xác định là nợ xấu, ngay lập tức được chuyển sang bộ phận xử lý nợ xấu. Các tài liệu về nợ phải được hoàn thiện với những chứng cớ về tình trạng và nguyên nhân xuống hạng của nợ xấu. Bộ phận xử lý nợ xấu cần phải tiến hành ngay việc rà soát nợ xấu mới phát sinh, thu thập thông tin cập nhật để đánh giá lại tình trạng của khách hàng. Áp dụng các chiến lược khi xử lý nợ xấu: Chiến lược duy trì: có thể tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng giữa khách hàng với ngân hàng. Các khách hàng được tiếp tục duy trì có cơ hội để cơ cấu lại tùy thuộc vào khả năng trả nợ và tồn tại của hoạt động kinh doanh của khách hàng. Chiến lược rút lui: được sử dụng đối với các khoản vay không có khả năng hoàn trả và cần được thanh lý hoặc xóa nợ. Đối với các trường hợp này, NHTM cần thu thập hoặc thu nợ bắt buộc thông qua các thủ tục pháp lý, phát mãi tài sản thế chấp, thu hồi các khoản công nợ của khách hàng một cách kịp thời. Các ngân hàng thương mại cần chú ý hơn việc định kỳ hạn nợ và gia hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và thời gian thi công các công trình. Tập trung thu hồi nợ đến hạn và nợ quá hạn, nợ đã xử lý rủi ro, kiên quyết chuyển nợ quá hạn đối với khách hàng đến hạn trả nợ nếu không có lý do chính đáng để gia hạn nợ. Các NHTM phải thực hiện đúng Quy chế cho vay và Quy chế bảo đảm tiền vay do NHNN ban hành nhằm bảo đảm tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng. Theo quy chế này, các NHTM phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% so với tổng tài sản Có rủi ro. Giới hạn tín dụng đối với 1 khách hàng là không vượt quá 15%, đối với 1 nhóm khách hàng là không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng. Các ngân hàng cũng phải thường xuyên bảo đảm tỷ lệ về khả năng chi trả đối với từng loại tiền tệ. Cụ thể là tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản Có có thể thanh toán ngay và các tài sản Nợ sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo; tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản Có có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản Nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo. Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với các NHTM là 40%. Bên cạnh đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng, các NHTM phải duy trì tỷ lệ nợ xấu (NPL) dưới 3% tổng dư nợ và có hệ thống quản lý tài sản Có và tài sản Nợ tốt. Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng Một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tình trạng buông lỏng quản lý của Chính phủ Mỹ trong giai đoạn từ sau khủng hoảng Dot-com. Sự thiếu minh bạch và yếu kém trong việc kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của các công cụ tài chính mới chứa đựng nhiều rủi ro. Kết quả là thị trường tài chính Mỹ đã lâm vào khủng hoảng trước sự tụt giảm của giá trị các tài sản thế chấp vốn không phải là giá trị thực. Vì vậy có thể thấy rằng một cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động của các NHTM là rất cần thiết. Hoạt động tín dụng của các NHTM chỉ có thể phát triển bền vững và ổn định trong một môi trường minh bạch và ít rủi ro. Trong giai đoạn tới, các NHTM Việt Nam cần nghiêm túc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát tín dụng ngân hàng dựa trên khuôn khổ pháp luật và các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, đi đôi với việc củng cố bộ máy tổ chức, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát ngân hàng. Để công tác giám sát chất lượng tín dụng được thực hiện hiệu quả và nhanh chóng, các NHTM cần dựa vào các công cụ như: các dấu hiệu rủi ro, bảng và đồ thị theo dõi các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp, bảng xếp hạng rủi ro và xếp hạng tài sản đảm bảo. Việc giám sát, kiểm tra phải được thực hiện ở các cấp độ khác nhau: Cán bộ tín dụng giám sát từng tài khoản, kiểm tra việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, kiểm tra các điều khoản của hợp đồng, gặp gỡ khách hàng kiểm tra tại chỗ… Cán bộ tín dụng quản lý rủi ro phải thường xuyên kiểm tra hạn mức, giám sát rủi ro kinh doanh, tiến hành phân tích mọi biểu hiện của ngành kinh doanh đó. Cán bộ hỗ trợ tín dụng tính toán và báo cáo hạn mức tín dụng phục vụ cho các báo cáo nội bộ, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các điều khoản rằng buộc theo hợp đồng. Ban kiểm soát nội bộ kiểm tra thường xuyên và định kỳ các quy chế nội bộ và các quy định của cơ quan chức năng. Ban lãnh đạo giám sát tổng thể tình hình hoạt động tín dụng thông qua các công cụ quản lý và hệ thống báo cáo. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát ngân hàng cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và hoạt động độc lập. Có như vậy, kết quả thanh tra mới được đánh giá một cách khách quan và giúp ngân hàng có những giải pháp kịp thời xử lý các tình huống rủi ro có thể xảy ra. Phát triển công nghệ ngân hàng và xây dựng hệ thống thông tin tín dụng Công nghệ và hệ thống thông tin tín dụng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc dự báo các rủi ro tín dụng có thể xảy ra trong hệ thống ngân hàng. Việc nâng cao công nghệ và cập nhật thông tin thị trường thường xuyên sẽ giúp ngân hàng hạn chế được ảnh hưởng của các biến động trên thị trường tài chính hoặc có thể đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt là trong điều kiện khủng hoảng thị trường tài chính hiện nay, các biến động tài chính liên tục diễn ra. Một qui trình công nghệ bao giờ cũng gồm có 3 yếu tố cơ bản: thiết bị, con người, hệ thống thông tin. Vì vậy, để nâng cao công nghệ của mình, các NHTM cần quan tâm phát triển cả 3 yếu tố trên. Về thiết bị ngân hàng Hiện nay hầu hết các NHTM đứng trước nhu cầu đổi mới, nâng cấp hệ thống mạng máy tính và các thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh. Công nghệ hiện đại là một điều kiện để nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu quản lý và tăng cường sức cạnh tranh. Các NHTM cần hoàn thiện các phần mềm cũng như hệ thống mạng máy tính để thực hiện hoạt động thanh toán qua mạng SWIFT một cách an toàn và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, các NHTM cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các khâu trong hoạt động ngân hàng. Việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc mở rộng hoạt động tín dụng, giúp cho các ngân hàng trong nước theo kịp trình độ công nghệ của các ngân hàng trên thế giới, dần dần xác lập danh tiếng và uy tín cuả ngân hàng Việt Nam trên trường tài chính quốc tế. Về con người Đây được coi là một nhân tố quyết định đến sự thành công của ngân hàng. Để có một khoản tín dụng có chất lượng, yếu tố trước hết thuộc về người cán bộ tín dụng. Họ phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, có thể đánh giá chính xác thực lực tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng, xác định được tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai. Vì vậy, các ngân hàng cần phải kế hoạch hóa công tác đào tạo cán bộ, tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng, đưa việc nâng cao trình độ trở thành mục tiêu phấn đấu và thực hiện thường xuyên. Công tác đào tạo cần tập trung theo trọng điểm và đào tạo một cách toàn diện để thực sự có những cán bộ đủ năng lực và hiểu biết phục vụ yêu cầu công tác kinh doanh, tránh đào tạo tràn lan, lãng phí. Về hệ thống thông tin Ở các nước phát triển, hệ thống lưu trữ và cung cấp thông tin về lịch sử của toàn bộ các con nợ (bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp) đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình thẩm định tín dụng của ngân hàng. Ở Việt Nam cho đến nay hệ thống này vẫn chưa hoạt động có hiệu quả. Các đề nghị được vay vốn chủ yếu được xem xét, đánh giá dựa vào chính sách tín dụng nội bộ của từng NHTM và tình hình lãi suất trên thị trường. Bởi vậy, cơ sở dữ liệu về lịch sử tín dụng của con nợ chỉ mang tính cá biệt, các ngân hàng không hề có sự liên hệ thông tin với nhau. Ví dụ như con nợ A của ngân hàng B đã từng quịt nợ nhưng ngân hàng C không có thông tin và vẫn xếp con nợ A vào loại chất lượng tín dụng cao và quyết định cho vay. Đây là hậu quả của tình trạng thiếu thông tin liên kết. Tình trạng này có thể khiến các NHTM Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ vay nợ quá mức của con nợ, tương tự như nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2007. Vì vậy các NHTM cần liên kết xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung cung cấp thông tin về lịch sử tín dụng của toàn bộ các con nợ; hạn mức cho vay quá khả năng chi trả của con nợ, cũng như các vấn đề liên quan đến thời gian đáo hạn, tình trạng cạnh tranh trên thị trường cho vay…Các NHTM có trách nhiệm và sẵn sàng chia sẻ dữ liệu liên quan về khách hàng với nhau thì chắc chắn vấn đề cho vay dưới chuẩn sẽ không thể ảnh hưởng đến toàn hệ thống tài chính như cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ xảy ra trong năm 2007-2008. Chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp nông thôn Trước những tác động gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính, Việt Nam cuối năm 2008 và đầu năm 2009 có dấu hiệu suy giảm kinh tế. Chính phủ Việt Nam đã kịp thời đưa ra các nhóm giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng nhằm duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội theo nghị quyết số 30/NQ30/NQ-CP ngày 16/12/2008. Đặc biệt là giải pháp kích cầu hỗ trợ lãi suất 4%/năm cho các khoản vay sản xuất kinh doanh, đầu tư mới về cơ sở hạ tầng của Chính Phủ đã phát huy hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có dấu hiệu tăng trở lại. Trong thời gian tới, dưới sự điều hành của NHNN Việt Nam, các NHTM cần thực hiện tốt chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và xuất khẩu để kích thích nền kinh tế phát triển thông qua một số biện pháp sau: Điều chỉnh điều kiện cho vay sát với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam và những diễn biến trên thị trường tài chính, không nên quá nguyên tắc đặt lợi nhuận cao lên hàng đầu khi xem xét, quyết định cho vay, nhất là trong bối cảnh doanh nghiệp đang gặp khó khăn như hiện nay. Tiếp tục hạ dần lãi suất cho vay phù hợp với cơ chế điều hành lãi suất cơ bản của NHNN trong từng thời kỳ và những diễn biến trên thị trường để tạo điều kiện hơn nữa cho DN tiếp cận vốn vay phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng thanh toán của nền kinh tế. Xây dựng hệ thống xếp hạng doanh nghiệp để rút ngắn thời gian thẩm định, xem xét, quyết định cho vay, không nên phân biệt doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ mà chỉ phân biệt doanh nghiệp đủ hay không đủ điều kiện vay vốn (tốt hay xấu). Cơ cấu lại nguồn vốn và tỷ lệ cho vay phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong những tháng đầu năm 2008, các ngân hàng đã hạn chế cho vay đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng mà tập trung cho vay xuất khẩu và hỗ trợ nông nghiệp. Hiện nay, tình hình kinh tế đã có nhiều thay đổi. Do đó, ngân hàng nên xem xét, cho vay tiêu dùng, đầu tư bất động sản nếu khách hàng vay có phương án/dự án đầu tư khả thi, hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn. Giải pháp này có thể được xem là một trong những giải pháp giúp các NHTM huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn đó trong giai đoạn kinh tế khó khăn. Kết hợp hoạt động tín dụng và bảo hiểm tín dụng Trong hệ thống các tổ chức tài chính, NHTM và bảo hiểm là hai định chế quan trọng và to lớn nhất. Hoạt động của các công ty bảo hiểm có nhiều khía cạnh khác biệt so với các loại hình kinh doanh khác, không chỉ ở việc chấp nhận rủi ro về phần mình từ các chủ thể kinh doanh khác, mà còn ở khả năng đánh giá khách quan và quản lý rủi ro. Ngân hàng trong quá trình hoạt động buộc phải chấp nhận rất nhiều loại rủi ro. Vì vậy, rất cần thiết xây dựng mối quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm sao cho một phần rủi ro của ngân hàng được chia sẻ cho nhà bảo hiểm. Khi đó, ngân hàng có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào việc trực tiếp cung cấp dịch vụ ngân hàng, xây dựng một cơ chế hoạt động linh hoạt hơn trong việc xác định lợi ích chiến lược giữa rủi ro và thu nhập. Công ty bảo hiểm thông qua việc gánh lấy một phần rủi ro của ngân hàng sẽ đảm bảo tính bền vững và độ tin cậy của ngân hàng hơn. Các công ty bảo hiểm cũng sẽ đóng vai trò không nhỏ trong việc mở rộng và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Quá trình quản lý rủi ro ngân hàng phức tạp, nhiều cấp độ có thể được đơn giản hóa nhiều lần thông qua việc chuyển một bộ phận rủi ro mang tính kinh tế và phi kinh tế sang công ty bảo hiểm. Các chuyên gia của công ty bảo hiểm có nhiều điều kiện hơn trong chuyên môn hóa đánh giá khách quan rủi ro và xây dựng chiến lược quản trị rủi ro hiệu quả. Nhờ vậy, tính bền vững, độ tin cậy của ngân hàng được tăng cường và có tác động tích cực đến việc nâng cao uy tín, thương hiệu ngân hàng. Tín dụng là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu và tạo nhiều thu nhập cho ngân hàng. Trong khi đó, chất lượng tài sản có của ngân hàng gắn chặt với nhiều nhân tố kinh doanh của người vay, đó là yếu tố cấu thành rủi ro tín dụng. Việc chuyển một phần rủi ro này cho nhà bảo hiểm đảm bảo độ tin cậy của người vay cao hơn, tạo tiền đề giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng và nâng cao chất lượng tài sản có của ngân hàng. Trên thế giới, hoạt động liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng đã rất phổ biến. Tuy nhiên ở Việt Nam hoạt động này chưa được biết đến nhiều. Các NHTM Việt Nam cần xem đây như là một kênh quản trị rủi ro tín dụng, từ đó xây dựng những chính sách bảo hiểm tín dụng hợp lý. Để nâng cao hoạt động tín dụng và phòng ngừa các rủi ro tín dụng có thể xảy ra, các NHTM Việt Nam cần thực hiện các biện pháp bảo hiểm tín dụng như: bảo hiểm tài sản (trong đó có bảo hiểm tài sản đảm bảo); bảo hiểm chu kỳ sản xuất kinh doanh; bảo hiểm trách nhiệm các loại (trong đó có trách nhiệm đối với người thứ 3 khi không hoàn thành nghĩa vụ của hợp đồng); bảo hiểm tín dụng xuất khẩu; bảo hiểm nhân thọ của chủ thể vay vốn; bảo hiểm hàng hóa khi vận chuyển; bảo hiểm mùa vụ các cây công nghiệp… Loại hình bảo hiểm tín dụng có 2 hình thức là: Yêu cầu khách hàng tự bảo hiểm đề phòng bất trắc. Khoản tín dụng trong trường hợp này coi như là được bảo hiểm gián tiếp. Để sử dụng tốt hình thức này, ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay đối với các đối tượng xin vay đã mua bảo hiểm. Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp cho các sản phẩm tín dụng của mình. Hình thức này cho phép các ngân hàng chủ động hơn trong việc xét duyệt đánh giá các đối tượng và loại hình cho vay. Từ đó, các ngân hàng sẽ xây dựng cho mình một chính sách tín dụng phù hợp và hạn chế rủi ro nhất. Củng cố niềm tin đối với người gửi tiền Niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính - ngân hàng quốc gia có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu vì một lý do nào đó mà người gửi tiền ồ ạt kéo đến rút tiền thì dù ngân hàng đó có tiềm lực tài chính vững mạnh đến đâu cũng khó lòng chống đỡ được sự đổ vỡ, nếu như không có sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cũng như các tổ chức tín dụng khác. Do vậy, việc duy trì và củng cố niềm tin đối với người gửi tiền là điều mà các ngân hàng luôn phải quan tâm, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính. Niềm tin của người gửi tiền được hình thành và củng cố dựa trên cơ sở xây dựng hệ thống khung pháp luật có hiệu lực, hiệu quả; việc triển khai các kế hoạch cho việc phát triển các hoạt động kinh doanh; việc xây dựng cấu trúc hành chính kỹ thuật, nâng cao khả năng giám sát, kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và bảo vệ tốt nhất quyền lợi người gửi tiền. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu thời gian vừa qua cho thấy: ngoài việc bộ tài chính, Ngân hàng Trung ương các nước phải “bơm” một khoản tiền lớn để cứu các ngân hàng, tập đoàn tài chính lớn, thì công cụ bảo hiểm tiền gửi cũng đã được phát huy nhằm trấn an người gửi tiền, hạn chế người dân rút tiền hàng loạt gây đổ vỡ ngân hàng. Các công ty bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau như: tiếp nhận xử lý các tổ chức tài chính có vấn đề, nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, tuyên truyền về chính sách bảo hiểm tiền gửi, hoặc công bố chính thức về tình hình tài chính ổn định của quốc gia...Đi tiên phong trong lĩnh vực này là Mỹ, với việc nâng mức nâng bảo hiểm tiền gửi tiết kiệm liên bang từ 100.000 USD lên tới 250.000 USD. Tiếp đến, Liên minh Châu Âu cũng đã nhất trí tăng các mức bảo lãnh tiền gửi ngân hàng tối thiểu ở Châu Âu từ 20.000 Euro lên 50.000 Euro. Một loạt các nước: Đức, Áo, Anh, Đan Mạch, Pháp, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Thụy Điển đã công bố kế hoạch riêng của họ (có nước cam kết bảo hiểm 100% số tiền gửi của người dân tại ngân hàng) để đảm bảo an toàn các khoản tiết kiệm của người dân tại ngân hàng. Ở Việt Nam, từ đầu năm 2008 tới nay, Chính phủ cũng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan tăng cường giám sát an toàn đối với các ngân hàng trong nước, đồng thời rà soát sự an toàn của các ngân hàng nước ngoài mà các ngân hàng Việt Nam có quan hệ để đảm bảo an toàn tiền gửi, từ đó công bố đến người dân được biết để họ thực sự yên tâm vào sự an toàn của thị trường tài chính Việt Nam. Hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại Việt Nam đã một lần được nâng từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và lạm phát gia tăng, thiết nghĩ các nhà hoạch định chính sách cũng cần nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên cao hơn nữa (thậm chí là bảo hiểm toàn bộ trong giai đoạn khủng hoảng tài chính) để người dân yên tâm về khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng. Cùng với việc nâng hạn mức chi trả, cũng cần quan tâm đến loại tiền gửi được bảo hiểm (nên chăng bảo hiểm cả đối với ngoại tệ và vàng) để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Trong bối cảnh tài chính hiện nay, các tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam nên có những hoạt động thiết thực để ngày càng nâng cao được niềm tin công chúng, góp phần đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của khu vực ngân hàng và hệ thống tài chính quốc gia, giảm thiểu lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Kết luận Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, kéo theo sự bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu. Mặc dù hệ thống tài chính Việt Nam chưa liên kết nhiều với thị trường thế giới, song các tác động gián tiếp làm suy giảm kinh tế toàn cầu của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã làm hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, khóa luận đề cập đến một số vấn đề sau: Thứ nhất, khái quát các lý luận cơ bản về khủng hoảng tài chính và tác động của khủng hoảng tài chính tới hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng. Tìm hiểu, phân tích một số cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trong lịch sử tại một số nước trên thế giới, từ đó rút ra các đặc điểm của khủng hoảng tài chính. Thứ hai, nghiên cứu và phân tích cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và thực trạng hoạt động huy động vốn và tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong năm 2008 và nửa đầu 2009. Qua đó đánh giá mức độ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Thứ ba, trên cơ sở đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đến hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam, khóa luận đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới. Những giải pháp đề xuất trong khóa luận chỉ đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng cho các NHTM Việt Nam nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, những giải pháp này có thể phát huy hiệu quả nếu có sự phối hợp đồng bộ giữa NHNN Việt Nam với các NHTM Việt Nam. Tài liệu tham khảo “Nguồn gốc khủng hoảng tài chính” – Georger Cooper. Dịch giả Minh Khôi, Thủy Nguyệt - NXB Lao động – xã hội. “Quản trị rủi ri trong kinh doanh ngân hàng” – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến – NXB Thống kê 2005. Xuất bản lần thứ 2. Báo cáo thường niên 2006; 2007 của Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Báo cáo tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 10 năm 2008 – Vietstock Financial Information. Báo cáo thường niên 2006, 2007 của các ngân hàng thương mại Vietcombank ; Sacombank ; Dong A Bank ; Eximbank; VIB Bank; ACB. Báo cáo “Tổng kết hoạt động Ngân hàng Việt Nam 2008” – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Báo cáo “Tổng quan tình hình kinh tế tài chính thế giới và Việt Nam tháng 11/2008” - Vietstock Financial Information. Báo Pháp luật và xã hội – Số ra Tết 2008. Tạp chí thị trường tiền tệ. Tạp chí ngân hàng Tạp chí nghiên cứu kinh tế . Thông cáo báo chí – Thông tin về hoạt động ngân hàng các tháng năm 2007; 2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các website: Website Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội quốc gia: . Website Bách khoa toàn thư : Website Thời báo kinh tế việt nam: Website Tổng cục thống kê: Website Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam : Website Tổ chức hợp tác và phát triển quốc tế : . Website Ngân hàng thế giới: Website Quĩ tiền tệ quốc tế: Website thời báo New York: Website của hãng thông tấn xã Agence France - Presse (AFP): Website của cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ-FDIC: MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và tác động đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.doc
Luận văn liên quan