Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 3 CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG FDI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM 4 1.1. Tình hình kim ngạch FDI 4 1.1.1. Giai đoạn thăm dò 1988-1993 5 1.1.2. Giai đoạn bùng nổ 1994-1997 6 1.1.3. Giai đoạn suy thoái 1998-2002 8 1.1.4. Giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ năm 2003 đến nay: 10 1.1.5. Xét trong cơ cấu dòng FDI của Nhật Bản vào châu Á 11 1.2. Cơ cấu FDI 13 1.2.1. Cơ cấu đầu tư theo ngành 13 1.2.2. Cơ cấu theo địa phương 16 1.2.3. Cơ cấu theo hình thức đầu tư 20 1.3. Qui mô dự án và hiệu quả đầu tư FDI 22 1.3.1. Qui mô dự án 22 1.3.2. Hiệu quả đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 23 CHƯƠNG 2:CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM 24 2.1. Cơ hội, thách thức cho Việt Nam 24 2.1.1. Cơ hội 24 2.1.1.1. Môi trường đầu tư Việt Nam có những lợi thế nhất định 24 2.1.1.2. Môi trường đầu tư Việt Nam có những cải thiện đáng kể 25 2.1.2. Thách thức 26 2.1.2.1. Những tồn tại trong môi trường đầu tư Việt Nam 26 2.2.2.2. Cạnh tranh từ các quốc gia khác ngày càng gay gắt 28 2.2.2.3 Thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật Bản 28 2.2. Giải pháp cho Việt Nam 29 2.2.1. Giải pháp tổng thể 29 2.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI 29 2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI 30 2.2.1.3. Cải cách các thủ tục hành chính 32 2.2.1.4. Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư 32 2.2.1.5. Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI 35 2.2.2 Một số giải pháp cụ thể đối với Nhật Bản 36 KÕt luËn 38

doc38 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3563 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chững lại hay giảm sút. Điều này tiếp tục cho thấy sự nhạy bén của các nhà đầu tư Nhật Bản trong nắm bắt tình hình để giữ an toàn cho nguồn vốn của họ, đặc biệt là những quan tâm sâu sắc về môi trường đầu tư của nước chủ nhà trong quá trình tìm hiểu và tiến hành đầu tư. 1.1.4. Giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ năm 2003 đến nay: Đây được coi là giai đoạn các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý trở lại thị trường Việt Nam. Dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từng bước hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ, đạt được những con số đáng kể. Năm 2003, tổng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tăng gần gấp đôi so với mức 163 triệu USD vào năm 2002, đạt 324 triệu USD. Đến năm 2004, con số này đã tăng lên gấp hơn 2,5 lần so với năm 2003, đạt 890 triệu USD và gần 4 lần so với năm 2002. Năm 2005, vốn đầu tư của Nhật Bản tiếp tục tăng lên 960 triệu USD với 119 dự án mới. Trong năm này, Nhật Bản giành lại vị trí thứ 3 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam, chỉ sau Hàn Quốc và Hồng Kông. Cùng với sự sôi nổi của hoạt động FDI cả nước, dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam năm 2006 đạt kỉ lục: 1,5 tỉ USD vốn đăng kí với 160 dự án được cấp phép, tăng 57% về vốn và 34,4% về số dự án so với năm 2005. Vào năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật Bản chỉ đứng thứ 9 với tổng vốn đăng ký là 372,7 triệu USD chiếm 1,7% tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam, nhưng tính đến hết năm 2010, Nhật Bản có 1397 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 20,8 tỷ USD, đứng thứ 3 trong 91 Quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Tính từ đầu năm 2011 đến hết tháng 3 năm 2011, đã có 22 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,08 tỷ USD, chiếm 46,74% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; trong tháng 3/2011 Hồng Kông đã vươn lên đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 331,54 triệu USD, chiếm 13,98% tổng vốn đầu tư; BritishVirginIslands đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 277,37 triệu USD, chiếm 11,69% tổng vốn đầu tư; Tiếp theo là Hàn Quốc đứng ở vị trí thứ 4 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 193,29 triệu USD, chiếm 8,15% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng thứ 5 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 131 triệu USD, chiếm  5,5% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nguyên nhân của quá trình phục hồi nhanh chóng này trước hết phải kể đến sự quan tâm của các nhà đầu tư Nhật Bản tới Việt Nam như một địa điểm tiềm năng cho chiến lược “Trung Quốc +1”, chiến lược tìm một thị trường đầu tư để phân tán rủi ro khỏi Trung Quốc. Sự quan tâm này đã thúc đẩy những nỗ lực hợp tác của Chính phủ và các doanh nghiệp hai nước, thể hiện cụ thể trong việc kí kết Hiệp định về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư vào 14/11/2003 cũng như việc thực thi Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản từ năm 2003. Tiếp đến, việc thực hiện có hiệu quả Sáng kiến chung đã tăng đáng kể tính “hấp dẫn” của môi trường đầu tư Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản. Thêm vào đó, từ 1/7/2006, Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp mới được đưa vào thực hiện, đánh dấu bước tiến quan trọng trong lộ trình hội nhập kinh tế nói chung và đầu tư nói riêng trên lĩnh vực lập pháp, xoá bỏ việc phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo tâm lý bình đẳng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, việc phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố thẩm định và cấp phép, quản lý nhà nước các doanh nghiệp FDI đã hình thành phong trào thi đua cải thiện thủ tục và môi trường đầu tư giữa các địa phương. 1.1.5. Xét trong cơ cấu dòng FDI của Nhật Bản vào châu Á Rõ ràng, trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, FDI của Nhật Bản là nguồn ngoại lực dồi dào và quan trọng. Tuy nhiên, tầm quan trọng của dòng vốn này trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như hiệu quả thu hút hay mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam như thế nào thì không thể chỉ căn cứ vào tỉ trọng trong cơ cấu FDI vào Việt Nam để khẳng định. Do đó, để có thể đánh giá rõ hơn thực chất kim ngạch FDI Nhật Bản vào Việt Nam cần phải xem xét trong mối quan hệ với dòng FDI ra của Nhật Bản. (Nguồn: Thống kê của Jetro, 2007, Xem xét cơ cấu dòng vốn FDI Nhật Bản vào châu Á, dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong tất cả các giai đoạn đều chiếm tỉ trọng không lớn. Tỉ trọng này trong giai đoạn thăm dò chỉ đạt 0,17%; thậm chí cả trong giai đoạn bùng nổ 1994-1997 cũng chỉ lên tới 2,19%. Con số này trong thời kì suy thoái giảm xuống chỉ còn 0,97% và trong giai đoạn hiện nay là 2,48%. Như vậy, chưa có thời kì nào đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đạt tới 3% trong tổng dòng FDI ra của Nhật Bản. Những con số trên nếu so với mức tăng FDI của Nhật Bản vào các quốc gia và vùng lãnh thổ khác thì còn rất khiêm tốn, đặc biệt khi tính đến khả năng và tiềm lực vốn của các công ty Nhật Bản. Chẳng hạn, FDI của Nhật Bản vào Trung Quốc từ năm 1994 luôn chiếm tỉ trọng trên dưới 20% và từ 2003 đến nay là 53,47% trong tổng FDI Nhật Bản vào châu Á. FDI Nhật Bản vào Việt Nam cũng thua xa dòng vốn này vào Thái Lan và Inđônêxia, trên 15%; vào Malayxia, gần 10%; vào Singapo, gần 8%. Có thể nói, Việt Nam vẫn chưa thu hút được nhiều tiềm năng của các nhà đầu tư Nhật Bản. Tuy nhiên, vào năm 2006, tình hình có dấu hiệu thay đổi. Trong khi đầu tư vào các nước trong khu vực đang có xu hướng giảm nhẹ hay chững lại thì đầu tư vào Việt Nam lại tiếp tục tăng 56% so với năm 2005, đạt kỉ lục 1,5 tỉ USD. Chẳng hạn, đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc, thị trường trong một thời gian dài vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong dòng ra FDI của Nhật Bản, giảm từ 6,5 tỉ USD năm 2005 xuống 6,1 tỉ USD năm 2006, và đầu tư vào Thái Lan giảm từ 2,1 tỉ USD xuống 1,9 tỉ USD trong cùng thời gian đó. Điều này là tín hiệu cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản đang rất quan tâm đến Việt Nam, muốn dần dịch chuyển dòng vốn sang thị trường này. Đây là cơ hội cho Việt Nam để có thể thu hút dòng vốn tiềm năng này trong tương lai. 1.2. Cơ cấu FDI Cũng như các dòng vốn FDI từ các quốc gia khác, Cơ cấu dòng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam có một số đặc trưng riêng, thể hiện ở cả ba phương diện: cơ cấu theo ngành, cơ cấu theo địa phương và cơ cấu theo hình thức đầu tư. Đặc điểm cơ cấu FDI của Nhật Bản ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam, gây ra những tác động nhất định đối với cơ cấu kinh tế nước ta. 1.2.1. Cơ cấu đầu tư theo ngành Nền kinh tế Nhật Bản có đặc thù là một nền kinh tế hướng ngoại với cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh. Vì vậy, FDI của Nhật có mặt trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nước ta từ công nghiệp, nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nhưng tập trung chủ yếu vẫn là trong lĩnh vực công nghiệp. Công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngành, tiếp ngay sau đó là công nghiệp nhẹ. Thời gian đầu, Nhật Bản quan tâm nhiều đến các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên và các dự án phát triển dịch vụ. Nhật Bản là một nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên, đây là lý do khách quan thúc đẩy các công ty Nhật Bản thực hiện chiến lược phát triển hướng ngoại trên cơ sở nhập nguyên liệu. Trong những thập kỷ 70 - 80; Nhật Bản đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường do hậu quả của quá trình công nghiệp hoá. Vì vậy, chiến lược đầu tư của Nhật Bản vào Châu Á từ cuối thập niên 80 đến nay vẫn là nhằm vào khai thác nguyên liệu từ bên ngoài. Ngoài ra, cũng từ thực trạng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở Việt Nam giai đoạn này, đó là các ngành thuộc cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp yếu kém, có nhu cầu thu hút FDI. Điều này góp phần lý giải tại sao cơ cấu đầu tư theo ngành của Nhật Bản trong giai đoạn đầu khi đầu tư vào Việt Nam. Bảng 1: Tỷ lệ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong tổng số vốn đầu tư (Tính hết năm 1994) Đơn vị: triệu USD Số dự án Tổng số vốn đầu tư Tỷ lệ của Nhật trong tổng vốn đầu tư theo từng ngành Tổng dự án Nhật Bản Phần chung Từng ngành Công nghiệp 492 40 3.838,2 Công nghiệp 492 Dầu khí 25 4 1.284,9 Dầu khí 25 Ngư nghiệp 20 - 60,4 Ngư nghiệp 20 GTVT-Bưu điện 21 - 636,8 GTVT-Bưu điện 21 Khác sạn du lịch 104 5 1.954,1 Khác sạn du lịch 104 Dịch vụ 127 12 729,6 Dịch vụ 127 Tài chính-Ngân hàng 15 - 176,6 Tài chính-Ngân hàng 15 Các ngành khác 51 - - Các ngành khác 51 Tổng số 930 66 9066,4 Tổng số 930 Ở giai đoạn sau, FDI đã có sự cải thiện theo hướng đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư. FDI đã được phân bố vào các lĩnh vực: công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, công nghiệp chế biến, nông nghiệp, tài chính - ngân hàng, dầu khí, bảo hiểm và các ngành khác. Sự đa dạng hoá này là một bước tiến lớn trong hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam, phù hợp với lợi ích của phía Nhật Bản và nhu cầu của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá. Bảng 2: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam phân theo ngành (Tính đến hết 20/12/2002) Đơn vị tính: triệu USD Ngành Số dự án Vốn đăng ký (triệu $) Vốn thực hiện Vốn thực hiện/vốn đăng ký Công nghiệp nặng 117 1.846,8 954 51 Công nghiệp nhẹ 59 341,1 231,8 68 Xây dựng 18 423,6 295 70 Công nghiệp thực phẩm 18 122,9 74,8 60,8 Công nghiệp dầu khí 4 131 434 - Nông, lâm nghiệp 17 53,5 30,9 57,8 Thuỷ sản 5 20 14,5 72,5 Khách sạn, du lịch 8 142,9 84 58,8 Xây dựng hạ tầng KCX 3 53,2 14 26,3 Tài chính - Ngân hàng Văn hoá - Y tế - giáo dục 4 7 56 35,9 49,2 20 87,9 55,7 Xây dựng văn phòng, căn hộ 13 173 133 76,9 Dịch vụ 20 29 4,5 15,5 Tổng số 310 3.941,9 2.664 67,6 Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ KH & ĐT Nếu tính chung cả toàn bộ lĩnh vực công nghiệp thì FDI đã chiếm tới 65% số dự án, 61% tổng số vốn cho tới thời điểm cuối năm 2000. Có thể nói những lĩnh vực mà Nhật Bản đầu tư vào hầu hết thuộc những ngành, lĩnh vực mũi nhọn mà nước ta còn yếu và đang chú trọng phát triển, đòi hỏi kỹ thuật cao như sản xuất ô tô, xe máy, sản xuất Robot, điện tử, vật liệu xây dựng... Sau công nghiệp, một số lĩnh vực được các nhà đầu tư Nhật ưu tiên đầu tư theo thứ tự: dịch vụ với 6,5% tổng số dự án, 0,7% tổng vốn đăng ký; giao thông vận tải, bưu điện chiếm 5,4% số dự án, 7,3% vốn đăng ký; xây dựng chiếm 5,8% trong tổng dự án, 10,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Như vậy, mặc dù số dự án đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ đứng vị trí thứ hai sau công nghiệp về số dự án nhưng lượng vốn đăng ký lại không đáng kể chiếm 0,7% tổng vốn FDI. Ngược lại, ngành giao thông vận tải, bưu điện và xây dựng xếp vị trí sau dịch vụ về số dự án nhưng lại có vốn đăng ký chiếm tới 7,3% và 10,7% tổng vốn đăng ký. Lĩnh vực nông, lâm nghiệp đến nay chiếm khoảng 5,5% số dự án và 1,4% tổng số vốn đầu tư. Nhìn chung số dự án trong lĩnh vực này tăng chậm, nguyên nhân chính là việc đầu tư vào lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn về cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, về giải quyết đất đai, chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu... Rõ ràng là những biến động trong quy mô và tốc độ thực hiện của dự án FDI tiến triển theo chiều hướng tích cực. Thực tế cho thấy, đối với ngành công nghiệp nặng, tính đến thời điểm tháng 12 năm 2001 tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký đạt khoảng 51%; công nghiệp nhẹ 68%; công nghiệp thực phẩm 60,8%; xây dựng 70% văn phòng, xây dựng văn phòng và căn hộ cho thuê là 70%; riêng ngành dầu khí, khi triển khai thực hiện dự án, phía Nhật Bản đã tăng vốn đầu tư đưa trị giá thực hiện lên đến 434 triệu USD gấp 9,2 lần so với vốn đăng ký ban đầu. Nhìn chung tiến độ thực hiện đầu tư là khá nhanh so với các đối tác nước ngoài khác. Điều đó thể hiện tiến độ thực hiện dự án của các nhà đầu tư Nhật Bản đạt hiệu quả cao hơn cả. Tỷ lệ vốn thực hiện trung bình đạt 67,6% tổng số vốn đăng ký. Tính đến hết tháng 1 năm 2011, Vốn đầu tư của Nhật Bản tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 870 dự án có tổng vốn đầu tư là 18 tỷ USD; lĩnh vực thông tin và truyền thông có 159 dự án với tổng vốn đầu tư là 1 tỷ USD, còn lại là các dự án thuộc lĩnh vực khác. 1.2.2. Cơ cấu theo địa phương Cơ cấu FDI theo vùng, lãnh thổ đã có chuyển biến tích cực. Thời gian đầu, FDI chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam, đến nay đã có sự quan tâm hơn đối với khu vực miền Bắc; có tới 28/6tỉnh thành trong cả nước có các dự án đầu tư của Nhật Bản đang được tiến hành thực hiện. Đây là những tỉnh thành có cơ sở hạ tầng (cả cứng và mềm) thuận lợi tương đối hơn so với các địa phương khác và có nguồn lực được đào tạo có tay nghề như ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai...; Riêng TP. Hồ Chí Minh tập trung được nhiều dự án cũng như vốn đầu tư nước ngoài, với hơn 90 văn phòng đại diện của các hãng và ngân hàng Nhật Bản; Cao nhất là Hà Nội với 59 dự án với số vốn là 867,933 triệu USD chiếm 19,7% tổng dự án và 22,5% tổng số vốn; TP. Hồ Chí Minh có 118 dự án chiếm 39,5% với số vốn là 45,141 triệu USD chiếm 19,3 % tổng số vốn; tiếp đến là Đồng Nai 28 dự án với số vốn là 729,929 triệu USD; Thanh Hoá chỉ có 2 dự án nhưng vốn chiếm tới 373,6 triệu USD.... Tuy nhiên gần đây có nhiều dự án đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng như khu chế xuất Tân Thuận, Linh Trung, dự án Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh, dự án đô thị mới Nam Sài Gòn và dự án nhà máy nước Bình An. Bảng 3: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ (Tính đến năm 2000 - Chỉ tính dự án còn hiệu lực) Đơn vị: triệu USD, % Địa phương Số dự án Vốn đầu tư đăng ký Vốn đầu tư thực hiện Vốn thực hiện/Vốn đăng ký Hà Nội 59 867,93 319,08 37,8 TP. Hồ Chí Minh 118 745,14 358,19 48,1 Đồng Nai 28 729,93 304,53 41,7 Thanh Hoá 2 373,60 235,35 63,0 Bình Dương 17 295,43 94,74 32,0 Vĩnh Phúc 6 220,67 165,40 75,0 Bà Rịa Vũng Tàu 7 169,26 159,32 94,1 Bắc Ninh 1 126,00 126,00 100 Hải Phòng 18 108,00 57,45 52,0 Quảng Ninh 5 22,34 21,54 96,4 Hà Tây 3 19,48 15,37 74,0 Khánh Hoà 3 18,94 17,72 94,0 Lâm Đồng 6 17,44 3,16 18,1 Đà Nẵng 5 16,35 13,15 80,4 Bình Định 1 14,12 14,62 103,6 Thái Nguyên 4 9,33 0,60 6,4 Bạc Liêu 1 8,96 9,78 109,1 Thừa Thiên Huế 2 8,75 4,90 56,0 Hải Dương 1 8,00 6,00 75,0 Bình Thuận 2 4,88 0,79 16,0 Nghệ An 1 4,51 1,89 42,0 An Giang 1 4,50 1,60 35,6 Hưng Yên 1 4,44 3,78 84,2 Cần Thơ 2 3,80 0,87 23,0 Hoà Bình 2 2,38 0,86 36,2 Thái Bình 1 0,90 - - Hà Tĩnh 1 0,53 0,87 164,5 Tổng số 298 3.805,61 1.937,56 50,9 Nguồn: Vụ quản lý dự án đầu tư - Bộ KH & ĐT (Không tính các dự án dầu khí) Từ số liệu ở bảng trên, chúng ta có thể thấy động thái FDI ở Việt Nam. Mặc dù TP. Hồ Chí Minh là thành phố có số dự án cao nhất nhưng quy mô trung bình của một dự án chỉ khoảng 6,31 triệu USD, trong khi đó Hà Nội và Đồng Nai là hai vùng có số dự án chỉ bằng 1/2 và gần 1/4 TP. Hồ Chí Minh nhưng quy mô trung bình của một dự án là 14,7 triệu USD và 2,6 triệu USD; đặc biệt Bắc Ninh là một trong những tỉnh có duy nhất một dự án nhưng có quy mô vốn đầu tư là cao nhất 126 triệu USD. Qua sự phân tích trên phần nào cho thấy quy mô các dự án ở TP. Hồ Chí Minh nhỏ, chủ yếu hoạt động ở các lĩnh vực dịch vụ. Trong khi đó ở Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai... là những địa phương mà Nhật Bản đạt cơ sở sản xuất, nhà xưởng như liên doanh sản xuất xe máy Sirius với 24,25 triệu USD; liên doanh Yamaha Sóc Sơn 80 triệu USD; đây là những ngành tạo ra giá trị gia tăng một cách trực tiếp. Cho đến thời điểm này, đã có rất nhiều công ty hàng đầu của Nhật Bản có mặt và đầu tư tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như sản xuất phụ tùng, lắp ráp ô tô, xe máy; sản xuất phân bón, hoá chất; dầu khí... một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam Có thể nói, cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ của FDI tại Việt Nam không cân đối, với một biểu hiện nổi bật là chỉ tập trung vào một số địa phương. Điều này cho thấy đối tác Nhật rất kén địa điểm đầu tư. Mười địa phương dẫn đầu đã chiếm tới 87,6% tổng số dự án và 91,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Sự phân bố này khá tương ứng với tính chất, mức độ mở cửa và tiềm năng của các vùng kinh tế ở Việt Nam. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận FDI nói chung và FDI nói riêng đã góp phần hình thành nên các vùng kinh tế trọng điểm quốc gia và ở giai đoạn đầu tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì đây là một tất yếu khách quan; và như vậy mới tạo ra được những chuyển biến cần thiết cho nền kinh tế. Tính đến hết 2010, trừ 4 dự án trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, các dự án đầu tư của Nhật Bản có mặt tại 42 tỉnh, thành phố của Việt Nam nhưng tập trung tại các địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai. Bốn địa phương này có 910 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 7,9 tỷ USD. Hà Nội với 344 dự án có tổng số vốn đăng ký 3 tỷ USD. Thành phố Hồ Chí Minh với 378 dự án có tổng vốn đăng ký 2,39 tỷ USD. Bình Dương với 247 dự án có tổng vốn đăng ký 1,26 tỷ USD. Đồng Nai với 96 dự án có tổng vốn đăng ký 1,52 tỷ USD. 1.2.3. Cơ cấu theo hình thức đầu tư Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam được thực hiện dưới ba dạng chủ yếu sau: Doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức mà các đối tác nước ngoài thường trọn trong giai đoạn đầu khi đầu tư vào bất kỳ một thị trường mới nào. Đây được coi là hình thức tối ưu hơn cả bởi lẽ ở giai đoạn này các nhà đầu tư chưa thực sự tin tưởng và hiểu đối tác của mình. Các nhà đầu tư Nhật cũng vậy, thông qua hình thức này hay thông qua liên doanh, phía Nhật Bản sẽ hiểu hơn về thị trường Việt Nam, về hệ thống pháp luật cũng như phong tục tập quán địa phương nơi mà họ sẽ tiến hành đầu tư. Do vậy thông thường đối tác liên doanh với Nhật trong hình thức này là các doanh nghiệp Nhà nước và phần góp chủ yếu của phía Việt Nam là đất, bất động sản nên việc đánh giá gặp nhiều khó khăn đã làm ảnh hưởng tới hiệu quả liên doanh. Hiện nay vốn đầu tư của Nhật theo hình thức này chiếm 60% với xấp xỉ 50% số dự án. Nếu so với mức chung hiện nay 70% số vốn đầu tư và 62% dự án thì các nhà đầu tư Nhật Bản không phải là những người ưa chuộng hình thức này. Trong khi đó, đối với Singapore chiếm tới 75% dự án, gấp 1,4 lần so với Nhật Bản; Inđônêxia là 61% gấp gần 1,2 lần... Hình thức liên doanh chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam với Nhật Bản liên quan chủ yếu đến các dự án chế biến sản phẩm nông - lâm nghiệp, dịch vụ, sản xuất xe máy v.v... Doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản: Đây là hình thức được nhiều nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm nhất là trong những năm gần đây. Bởi chỉ ở hình thức này, nhà đầu tư mới có quyền độc lập, tự quyết định hoạt động kinh doanh của mình, chủ động trong chiến lược kinh doanh thích hợp với môi trường luôn có sự biến động. Nhằm thu hút và khuyến khích đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt Nam đã có những sửa đổi các đạo luật liên quan theo hướng tạo thuận lợi hơn đối với loại hình này. Có thể nói các công ty thuộc loại hình này hoạt động kinh doanh như các công ty trách nhiệm hữu hạn của Việt Nam. Nhờ đó loại hình này đang ngày càng gia tăng. Nếu năm 1997 loại hình này mới chiếm 40% số dự án, năm 1998 đã là 42% và đến nay nó đã chiếm gần tới 50% số dự án. Đây là con số khá cao so với mức trung bình 30% số dự án tổng FDI vào Việt Nam. Hình thức này được tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng và đặc biệt là các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như sản xuất điện lạnh, thiết bị quang học. Ví dụ công ty sản xuất linh kiện máy tính Fujisu ở Đồng Nai; công ty điện máy Sanyo v.v.... Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Hình thức này được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, viễn thông,... những lĩnh vực then chốt mà phía Việt Nam muốn hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài mặc dù ở lĩnh vực này rất cần đến kỹ thuật công nghệ hiện đại. Bảng 4: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam theo hình thức đầu tư (Tính đến năm 2000 - Chỉ tính dự án còn hiệu lực) Đơn vị: triệu USD, % Hình thức đầu tư Số dự án Tỷ lệ Tổng vốn đăng ký Tỷ lệ Vốn thực hiện Tỷ lệ Vốn pháp định Tỷ lệ Liên doanh 138 46,1 2.250,5 58,4 1.362,4 57,4 918,1 49,1 100% vốn Nhật bản 249 49,8 1.205,2 31,2 550,6 23,2 597,7 30,2 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 12 4,1 69,6 10,4 457,5 19,4 369,9 20,7 Tổng số 299 100 3.825,6 100 2.370,5 100 1.913,1 100 Nguồn: Vụ quản lý dự án Hết năm 2010, các dự án đầu tư của Nhật Bản chủ yếu đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài với 1.125 dự án có tổng vốn đăng ký khoảng 9,9 tỷ USD. Tiếp đến là hình thức liên doanh với 234 dự án có tổng vốn đăng ký đạt 9,4 tỷ USD. Số còn lại theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, hình thức BTO,BT,BTO và Công ty cổ phần (biểu chi tiết kèm theo). 1.3. Qui mô dự án và hiệu quả đầu tư FDI 1.3.1. Qui mô dự án Qui mô dự án hay qui mô đầu tư cũng là một nhân tố quan trọng thể hiện tình hình đầu tư của một quốc gia. Theo Cục ĐTNN, trước năm 1994, qui mô vốn trung bình của một dự án FDI Nhật Bản là 6 triệu USD, tương đối thấp so với mức bình quân của toàn bộ các dự án FDI lúc bấy giờ là 9 triệu USD. Đến năm 1995, năm bùng nổ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam, mức vốn trung bình cho một dự án được mở rộng ra, đạt 25,6 triệu USD, gấp gần 3 lần so với thời kì trước. Cũng từ năm này, Nhật Bản bắt đầu chú ý đến một số dự án lớn tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp quan trọng, như: thăm dò khai thác dầu khí, xi măng, hoá chất, luyện kim…Trong đó có các dự án lớn đáng chú ý như: liên doanh sản xuất phân bón hoá học ở phía Nam với vốn đầu tư là 35 triệu USD, nhà máy cán thép Vinakyoei với vốn đầu tư trên 46 triệu USD, công ty kính Nippon Sheet Glass với vốn đầu tư là 118 triệu USD hoạt động trong 50 năm, công ty nhựa Mitsui Vina Plastic với vốn đầu tư trên 90 triệu USD hoạt động trong 30 năm… Tuy nhiên, vào những năm tiếp theo, qui mô dự án lại nhanh chóng thu hẹp lại. Trong những năm gần đây, mặc dù các công ty lớn Nhật Bản đã bắt đầu quan tâm đến những dự án qui mô lớn nhưng nhìn chung các nhà FDI Nhật Bản vẫn ưa thích các dự án đầu tư qui mô vừa và nhỏ là chủ yếu. -Hiện Nhật Bản là nước đứng thứ 3 trong số các nước có vốn đầu tư cao nhất vào Việt Nam sau Đài Loan và Hàn Quốc. Đây cũng là quốc gia dẫn đầu về vốn FDI thực hiện tại VN, có 591 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 6,2 tỷ USD, qui mô vốn đầu tư bình quân một dự án Nhật Bản hiện khoảng 10,5 triệu USD. Rõ ràng, theo thời gian, qui mô các dự án ngày càng nhỏ lại. Nguyên nhân một phần là do các dự án kiểu này cần nhiều lao động với tiền lương thấp, phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản. Khảo sát mới đây của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) cho thấy 80% doanh nghiệp Nhật Bản có vốn FDI tại Việt Nam sẽ mở rộng kinh doanh trong vòng 3 năm tới 1.3.2. Hiệu quả đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam Hiệu quả đầu tư là một nhân tố vô cùng quan trọng phản ánh chất lượng thực của quá trình đầu tư, là một trong những yếu tố cân nhắc hàng đầu khi nhà đầu tư đưa ra quyết định hay xem xét qui mô đầu tư. Trong những năm qua, hoạt động của các công ty Nhật Bản ở Việt Nam là tương đối khả quan, nhiều doanh nghiệp đã có những sản phẩm thay thế nhập khẩu và tham gia tích cực vào làm tăng lượng hàng xuất khẩu. Hiệu quả đầu tư FDI của Nhật Bản được thể hiện rõ qua số vốn thực hiện cao, tỉ lệ vốn thực hiện cao, tỉ lệ dự án giải thể trước thời hạn thấp… Thứ nhất, trong khi vốn đăng kí đầu tư chỉ là con số danh nghĩa mà nhà đầu tư cam kết đầu tư thì vốn thực hiện mới thể hiện nhà đầu tư thực tế đã bỏ ra bao nhiêu. Lượng vốn này mới thực sự tác động tới nền kinh tế của nước tiếp nhận. Hàng năm, vốn thực hiện của các dự án FDI Nhật Bản luôn ở mức cao và đặc biệt trong những năm gần đây liên tục tăng. mặc dù Nhật Bản chỉ là nhà đầu tư có vốn đăng kí FDI lớn thứ 4 vào Việt Nam nhưng tỉ lệ vốn thực hiện lại cao nhất (trên 60%). Ngoài ra, doanh thu của các dự án đầu tư trên vốn thực hiện đạt con số rất cao: 2,2 lần trong khi con số chung của FDI vào Việt Nam là 1,7 lần .Những con số này cho thấy tiềm năng trong kinh doanh tại môi trường Việt Nam đối với các công ty Nhật Bản, là dấu hiệu khả quan nhất lôi cuốn các nhà đầu tư tương lai. CHƯƠNG 2:CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM 2.1. Cơ hội, thách thức cho Việt Nam 2.1.1. Cơ hội 2.1.1.1. Môi trường đầu tư Việt Nam có những lợi thế nhất định Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình chính trị ổn định khiến Việt Nam ngày càng trở thành mối quan tâm của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới với quy mô vốn đầu tư cho mỗi dự án vượt xa giai đoạn trước. Môi trường đầu tư hấp dẫn của Việt Nam, đặc biệt là giá nhân công và tình hình chính trị ổn định, đang thuyết phục các công ty nước ngoài chọn nơi đây làm cơ sở đầu tư cho cả khu vực”, tờ Financial Times (Anh) ra ngày 26-7-2010 viết. Theo bài báo trên, khi Tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries Aerospace (MHI) của Nhật Bản lên kế hoạch xây dựng một nhà máy lắp đặt cánh phụ máy bay cho Hãng Boeing, họ đã khảo sát nhiều nước ở Đông Nam Á trước khi đặt bút chấm một địa điểm sẽ nhanh chóng trở thành điểm đến hàng đầu của khu vực - Việt Nam. Chủ tịch MHI tại Việt Nam, ông Hirotaka Masuda, nói: “Đề nghị ban đầu của tôi là Thái Lan, bởi chúng tôi đã có một chi nhánh sản xuất điều hòa nhiệt độ ở đây nhưng mức lương nhân công ở Thái Lan quá cao”. Một cuộc khảo sát của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) đối với các doanh nghiệp nước này hoạt động ở nước ngoài cho thấy Việt Nam vượt Trung Quốc và Ấn Độ xét về tiêu chí giá nhân công rẻ. Việt Nam cũng vượt xa Brazil, Nga và Thái Lan - những điểm đến vốn được các công ty Nhật Bản ưa chuộng. Ông Alain Cany - Chủ tịch Eurocham - Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam nhận định: “Điểm hấp dẫn đầu tư, kinh doanh của Việt Nam là Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, có thị trường lớn, dân số đông và tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh”. Theo dự báo, trong vòng 10-15 năm tới, dân số Việt Nam sẽ tăng nhanh hơn nữa. Điều này đặc biệt hấp dẫn các doanh nghiệp châu Âu đang có mức tăng trưởng chậm và âm do tác động của khủng hoảng kinh tế. Bởi vậy, trong khoảng thời gian tương lai này, Việt Nam là lựa chọn đầu tiên của các doanh nghiệp châu Âu khi quyết định đầu tư, kinh doanh so với một số quốc gia khác: Trung Quốc, Brazin… Các doanh nghiệp châu Âu cũng ghi nhận sự hợp tác tích cực từ phía Việt Nam, lắng nghe và thay đổi một số chính sách, tạo điều kiện thuận lợi hơn thu hút đầu tư nước ngoài. Năm 2008, Eurocham đã xuất bản cuốn sách Trắng lần thứ nhất trong đó có những kiến nghị cụ thể với môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam. Năm nay, một số kiến nghị đã được giải quyết hoàn toàn và lĩnh vực tài chính, ngân hàng đi đầu trong sự thay đổi này. Ví dụ: Luật Thuế thu nhập cá nhân mới với tỷ lệ giảm thuế từ 5% đến 35% đã được trì hoãn, sau đó miễn thuế thu nhập cá nhân 6 tháng đầu năm 2009, xóa bỏ thuế cho một số loại trợ cấp đối với lao động người nước ngoài. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống còn 25%. Theo Eurocham, trước khi chính sách thuế trên được thay đổi như hiện nay, một số nhà đầu tư châu Âu đã chọn Malaysia để đầu tư kinh doanh thay vì lựa chọn Việt Nam, bởi tại Malaysia, họ được hưởng ưu đãi hơn. 2.1.1.2. Môi trường đầu tư Việt Nam có những cải thiện đáng kể FDI của Nhật Bản đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực sản xuất của Việt Nam. Không tính dầu khí, kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. FDI của Nhật Bản góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Theo thống kê từ cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài với đầu tư nước ngoài tập trung 50,5 % vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, còn lại 45,5% vào dịch vụ. Đây là nhân tố quan trọng tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài từ Nhật đã góp phần giải quyết việc làm cho gần hàng chục vạn lao động trực tiếp, không kể khoảng 1 triệu lao động gián tiếp khác 9 theo cách tính của WB, cứ 1 lao động trực tiếp tạo ra việc làm cho khoảng 2-3 lao động gián tiếp trong xây dựng và cung ứng các loại dịch vụ khác). Đầu tư nước ngoài đã phóp phần chuyển giao công nghệ sang Việt Nam những công hiện đại và tương đối hiện đại so với khu vực và thế giới. Đây là yếu tố rất quan trọng cho ta thực hiện CNH - HĐH đất nước. Chiến lược tăng tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế của Việt Nam đang đi đúng hướng khi tạo thêm động lực cho doanh nghiệp từ hai góc độ: thứ nhất là phát triển thị trường dịch vụ, chống độc quyền; thứ hai là nâng cao quan hệ hợp tác quốc tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực. Các chuyên gia kinh tế của WB cũng ghi nhận sự chuyển biến tích cực của Việt Nam trong việc nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo hướng tạo cho doanh nghiệp những tập quán tốt về môi trường, về đối xử với người lao động, nâng cao tính xã hội của sản phẩm. Nếu làm tốt điều này, cộng đồng doanh nghiệp sẽ phát huy được truyền thống quan tâm đến nhau trong cuộc sống của người Việt Nam để tạo thương hiệu cho sản phẩm, cho doanh nghiệp, cho quốc gia, trở thành một lợi thế so sánh hơn các quốc gia khác. 2.1.2. Thách thức 2.1.2.1. Những tồn tại trong môi trường đầu tư Việt Nam “Việt Nam vẫn là một trong những lựa chọn hàng đầu tại khu vực Đông Nam Á của các nhà đầu tư Nhật Bản nhưng rõ ràng tình hình lạc quan này không thể được duy trì mãi nếu để một số cản ngại tồn tại kéo dài” - ông Shigeru Takayama, cố vấn cao cấp Tổ chức Thúc đẩy Ngoại thương Nhật Bản, nhận định. Ông Takayama phân tích rằng, ngành công nghiệp hỗ trợ (supporting industry) của Việt Nam hầu như là con số 0. Không có nguồn cung ứng (suppliers) tại chỗ buộc các nhà đầu tư phải nhập linh kiện, khiến giá thành cao, sức cạnh tranh giảm. Ví dụ như trong ngành lĩnh vực ô tô – xe máy, Việt Nam chỉ có 11 đơn vị hỗ trợ – cung ứng và công nghệ mới chỉ dừng lại ở khả năng lắp ráp một vài công đoạn. Trong khi ở Thái Lan, con số này nhiều gấp 10 lần và họ chủ động đi tìm nhà đầu tư để tự tiếp thị. “Nhờ đó, ở Thái Lan, các nhà đầu tư lớn như Toyota, Honda… rất thành công. Sản phẩm được bán với giá rẻ hơn khiến thị trường tiêu thụ bùng nổ, dòng FDI chảy vào ồ ạt” – ông Takayama nói. Thay vì phải chờ ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam lớn mạnh, các nhà đầu tư Nhật đã chủ động mở hội chợ cung – cầu về công nghiệp để tìm các nhà cung ứng tại chỗ. Làm ăn theo kiểu “cọc đi tìm trâu” này cho thấy thiện chí của các nhà đầu tư Nhật Bản. Điều quan ngại lớn thứ hai của các nhà đầu tư Nhật Bản là chính sách về thuế thiếu nhất quán. Đặc biệt là thuế tiêu thụ đặc biệt (SCT) đánh vào ô tô nhập khẩu từ nay trở đi tiếp tục theo lộ trình tăng (năm 2005: 40%; 2006: 56%; 2007: 80%). Con số 42.500 ô tô được bán mỗi năm tại Việt Nam chẳng có gì hấp dẫn. Thị trường chưa kịp lớn đã bị “co” lại vì mức thuế. Sức mua sẽ giảm, nhà đầu tư không thể yên tâm. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang đứng quanh và tiếp tục… nghía Việt Nam. “Nếu khắc phục hai vấn đề trên càng sớm càng tốt, dòng FDI vào Việt Nam sẽ tăng ngoạn mục” – ông Takayama khẳng định. Từ trước đến nay, môi trường lao động Việt Nam luôn là thế mạnh khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), số lượng đình công tăng liên tục theo từng năm. Năm 2008, cả nước có 762 vụ đình công, tăng gần 40% so với cùng kì năm 2007. Một rào cản khác là hệ thống luật pháp Việt Nam thay đổi liên tục và không thống nhất. Nhiều nhà đầu tư phàn nàn rằng, Chính phủ ban hành quy định mới nhưng các cấp địa phương lại không thực hiện đúng chủ trương. Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính rất phức tạp. Để được thông quan tại các cảng biển, doanh nghiệp phải hoàn thành 127 loại giấy tờ so với con số nhỏ bé ( khoảng 7 loại) của các nước ASEAN khác. 2.2.2.2. Cạnh tranh từ các quốc gia khác ngày càng gay gắt Hạn chế lớn nhất là chi phí hạ tầng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với Trung Quốc và các nước trong khu vực. Đơn cử, cước điện thoại quốc tế gọi từ TP HCM đi Nhật Bản là 8,52 USD/3 phút đầu, gọi từ Thượng Hải chỉ 4,3 USD, phí vận chuyển ở Việt Nam cũng cao gần gấp đôi... Trong khi đó, thuế thu nhập cá nhân và thuế doanh nghiệp ở Việt Nam được xếp vào loại cao nhất khu vực, chiếm tới 50% lợi nhuận của các công ty. Để cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, giảm các loại cước phí xuống ngang bằng khu vực. Đặc biệt, cần tăng cường các hoạt động giới thiệu và xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Hiện tại, các doanh nghiệp chỉ tìm được rất ít thông tin về Việt Nam qua Internet và một số tham tán thương mại. Ngoài ra, các tỉnh, thành phố tránh cạnh tranh không cần thiết. Chẳng hạn, Hà Nội và TP HCM có thể tập trung thu hút các ngành dịch vụ, kỹ thuật cao, tư vấn... để các địa phương khác kêu gọi đầu tư vào dệt may, da giày... 2.2.2.3 Thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật Bản Thảm họa xảy ra ở Nhật Bản sẽ ảnh hưởng mạnh đến tâm lý của các nhà đầu tư nhiều hơn, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và thị trường chứng khoán toàn cầu. Đa số các chuyên gia cho rằng, với uy tín của mình Nhật sẽ vẫn giữ nguyên cam kết nguồn vốn ODA, FDI vào Việt Nam dù trong bối cảnh phải tập trung tái thiết đất nước. Tuy nhiên, Nhật Bản là một quốc gia lớn ở châu Á, muốn có tầm ảnh hưởng mạnh đến các nước trong khu vực nên Nhật Bản sẽ cố gắng ưu tiên thực hiện các cam kết đã ký. Hiện nay chưa có dấu hiệu này cho thấy các dòng vốn này bị rút ra khỏi thị trường Việt Nam. Về thương mại, sau trận động đất và sóng thần này nếu kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái thì nhu cầu về nhập khẩu lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng từ các nước khác sẽ tăng. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam biết tận dụng cơ hội thì đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang Nhật. Theo ông Tống Minh Tuấn - Nghiên cứu vĩ mô CTCK BIDV, trong ngắn hạn (1 -3 năm) nguồn vốn ODA từ Nhật Bản vào Việt Nam sẽ không bị ảnh hưởng, đặc biệt là những cam kết trong năm nay thì sẽ khó bị giảm. Tuy nhiên, về dài hạn thì rất có thể nguồn vốn này sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều do Nhật Bản cũng phải tập trung các nguồn lực để khắc phục lại những thiệt hại. Ông Nguyễn Minh Phong - Viện nghiên cứu Phát triển kinh tế xã hội Hà Nội: Nhật Bản là quốc gia có nhiều hỗ trợ cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tôi tin rằng, mặc dù gặp phải thiên tai bất khả kháng, thiệt hại lớn bên cạnh dành nguồn lực cho các nơi Nhật Bản sẽ không cắt bỏ hoàn toàn các cam kết viện trợ cấp quốc gia. Trong thời gian tới có ảnh hưởng đến tiến độ, trình tự dự án nhưng những cam kết ODA với Việt Nam sẽ được thực hiện trọn vẹn, có thể có sự dịch chuyển. 2.2. Giải pháp cho Việt Nam 2.2.1. Giải pháp tổng thể 2.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI Việc xây dựng, hoàn thiện này cần theo hướng: thiết lập mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, tiến tới xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền , nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trước mắt, rà soát lại tất cả các loại giá cả hàng hoá, dịch vụ, lệ phí do nhà nước qui định… để có sự điều chỉnh hợp lý, thu hẹp và tiến tới áp dụng mặt bằng giá thống nhất đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể: Cần phải đa dạng hoá các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới Cần phải mở rộng lĩnh vực thu hút FDI phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Đẩy nhanh việc thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ Tiếp tục cải cách hệ thống thuế Đẩy mạnh các tiến trình XNK và bảo hộ đầu tư Giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án Triển khai xây dựng đề án hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài Nghiên cứu có hệ thống tình hình, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước trọng điểm, các tập đoàn lớn 2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI Nâng cao trách nhiệm của các Bộ, các ngành, uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh trong việc quản lý các doanh nghiệp FDI theo luật định, bảo đảm hiệu quả hoạt động của các trung tâm xử lý ‘nóng’; định kỳ tiếp xúc với các doanh nghiệp, đối thoại với các nhà đầu tư FDI để tìm hiểu những vướng mắc của họ. Đẩy mạnh việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp Cần mạnh dạn hơn nữa trong việc phân cấp, uỷ quyền hơn nữa cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên đại bàn để đơn giản hơn nữa thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Việc phân cấp này phải trên cơ sở đảm bảo bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về qui hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế; trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án FDI; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ chương phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc phải chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai qui định. Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI. Đối với doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có những biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế. Tháo gỡ các vướng mắc của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần tích cực doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh. Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy viêc triển khai trong một thời gian và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án. Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, cần kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho nhà đầu tư khác. Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp (KCN) Đánh giá tình hình triển khai các KCN đã có quyết định thành lập; bổ sung các mô hình về KCN nhỏ phục vụ cho việc phát triển ngành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị; điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào; tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng. 2.2.1.3. Cải cách các thủ tục hành chính Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư FDI. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối trung ương và ở địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư FDI. Để tạo bước căn bản về thủ tục hành chính, cần thực hiện các giải pháp sau: Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư FDI: phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc của cơ quan quản lý Nhà nước với các nhà đầu tư FDI. Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư FDI theo hướng tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư : mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư; rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép,các qui định liên quan đến hoạt động FDI, trên cơ sở đó bãi bỏ những loại giấy phép, qui định không cần thiết đối với hoạt động FDI. Các Bộ , các Ngành và địa phương phải qui định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính: kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm cuả cán bộ công quyền. 2.2.1.4. Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai doạn đầu thì các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như ‘bà mối’ giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Có thể nói xúc tiến đầu tư tác động trực tiếp tới FDI, là công cụ để chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống, khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài. đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hội đầu tư trên thế giới, sự lựa chọn của nhà đầu tư là phải tiên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lợi và rủi ro. Cạnh tranh thu hút FDI cũng là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến, vận động đầu tư. Chúng ta cần phải có những biện pháp xúc tiến sau: Đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư + Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm ; xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ, có thế mạnh ở những lĩnh vực ta có nhu cầu; có kế hoạch vận động trực tiếp các tập đoàn có tiềm lực về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ… + Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại Giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại trong việc nghiên cứu thị trường đầu tư thế giới và khu vực, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính…, phối hợp trao đổi thông tin: tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại từ bên ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại nước ngoài của Việt Nam ở các nước và địa bàn trọng điểm để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm + Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam; Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xúc tiến thương mại của các nước ở Việt Nam để giới thiệu luật pháp, chính sách , quảng bá các chương trình, dự án đầu tư; Tổ chức định kỳ các cuộc gặp cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đang đầu tư tại Việt Nam. + Công bố danh mục dự án gọi vốn FDI ; soạn thảo in tài liệu,sách phổ biến luật pháp, chính sách về FDI bằng các thứ tiếng thông dụng như Anh, Pháp, Nhật, Trung Quốc… Đồng thời, các bộ các ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố phải chủ động và có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo đàm phán, ký kết hợp đồng các dự án FDI. Chú trọng cả xúc tiến đầu tư nhằm thu hút các dự án FDI mới và triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động + Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các nhà đầu tư FDI hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà FDI có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. + Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp… + Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội. + Các cơ quan đại diện ngoại giao - thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương. + Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. + Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. + Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào trang Web về đầu tư trực tiếp nước nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ chương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công. 2.2.1.5. Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI Vấn đề tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân lành nghề luôn là nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý Nhà nước. Trước hết, trong liên doanh các cán bộ bên Việt Nam là người đại diện cho quyền lợi phía Việt Nam nên họ phải là những người có đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ . Có như vậy, họ mới đảm bảo được lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam, cho người lao động Việt Nam khi cần, tránh tình trạng bị ‘lép vế’ trước bên nước ngoài. Tiếp đến, đối với những công nhân làm việc trong doanh nghiệp có vốn FDI, bao gồm cả liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, nghĩa là bao gồm cả hình thức có lãnh đạo doanh nghiệp FDI là người Việt Nam hay không, thì ngoài trình độ tay nghề cũng phải có một hiểu biết nhất định về luật pháp, chẳng hạn như luật lao động, thì mới biết bảo vệ những lợi ích hợp lý của mình. Muốn vậy, cần phải: + Tổ chức bồi dưỡng, năng cao trình độ về luật pháp, chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ đối với đội ngũ cán bộ làm hợp tác với nước ngoài. + Thí điểm hình thức thi tuyển hoặc có cơ chế bổ nhiệm hợp lý các chức vụ quan trọng trong liên doanh. Rà soát, sàng lọc để nâng cao chất lượng cán bộ, chấm dứt tình trạng hễ có đất góp vốn thì mặc nhiên được cử người của mình tham gia vào Hội Đồng Quản Trị và Ban Giám Đốc. + Phối hợp với Bộ lao động, Thương binh và xã hội và các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức tốt việc nâng cao tay nghề cho người lao động. 2.2.2 Một số giải pháp cụ thể đối với Nhật Bản Trước hết, Đảng và nhà nước ta cần phải nhận thức đúng vai trò và định hướng rõ ràng vấn đề thu hút FDI từ Nhật Bản. Bên cạnh việc thực hành và thực thi các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài nói chung, cần tiếp tục bổ sung các các ưu đãi khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của Nhật Bản vào các lĩnh vực theo hướng chủ yếu sau: Đối với các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu: Thực hiện công bố hạn ngạch công bằng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đối với các mặt hàng xuất khẩu bằng hạn ngạch. Thực hiện chính sách tài trợ xuất khẩu như chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách tỷ giá hối đoái khuyến khích xuất khẩu. Cho phép tự cân đối ngoại tệ . Thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu vào Nhật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính khi xuất khẩu sang Nhật như hỗ trợ một phần lãi suất, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Có chính sách ưu đãi về thuế với điều kiện là sản phẩm được xuất khẩu sang thị trường các nước này. Không thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong vòng 3 - 5 năm kể từ khi sản phẩm được xuất khẩu sang Nhật. Đối với các dự án sử dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của Nhật Bản Đưa các dự án này vào doanh mục vào doanh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư. Nhà nước chịu toàn bộ chi phí đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động để sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại được đưa vào Việt Nam. Thiết lập chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tập đoàn lớn của Nhật đầu tư vào Việt Nam Cho phép thí điểm các tập đoàn lớn của họ được thành lập công ty quản lý vốn, quỹ hỗ trợ đầu tư, công ty đa mục đích, đa dự án . Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ để thu hút vốn đầu tư của các công ty nhỏ và vừa Bằng cách tích cực tuyên truyền về sự hấp dẫn về môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thông qua các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, thông qua hội thảo về xúc tiến đầu tư ở các nước này. Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh tại Việt Nam thông qua quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF) bắt đầu hoạt động từ 1/1999. Giảm và tiến tới không thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ các công ty của Nhật trong việc chuẩn bị tiếp cận thị trường Việt Nam Bằng việc cung cấp các thông tin về các thủ tục để tiến hành đầu tư tại Việt Nam thông qua việc xây dựng trung tâm thông tin về Việt Nam ở các nước này. KÕt luËn Hiện nay, chúng ta đang ở trong một thế giới ngày càng mang tính toàn cầu hoá, không một nước nào có thể tồn tại và phát triển trong sự biệt lập về kinh tế. Trong bối cảnh đó, các nhà đầu tư ngày càng trở nên năng động và luôn có diều kiện so sánh môi trường đầu tư và kinh doanh giữa các khu vực và các nước để quyết định hoạt động đầu tư của mình. Như vậy, để thu hút có hiệu quả FDI từ Nhật Bản, cần thiết phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau nhưng lại gắn bó rất chặt chẽ với nhau như trên. Một mặt, Việt Nam cần tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, mặt khác cần tạo dựng lòng tin và sự hiểu biết về đầu tư tại Việt Nam cho các nhà đầu tư cả trong nước và ngoài nước. Việt Nam đang phải đương đầu với một thách thức rất lớn là các nước trong khu vực đang cạnh tranh quyết liệt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và trên thực tế thì nhiều nước đang thực sự "trải thảm đỏ" mời các nhà đầu tư. Khi mà quốc tế hoá đời sông kinh tế - xã hội đã và đang có xu thế khách quan của thời đại thì sự cạnh tranh là không thể tránh khỏi và có xu hướng ngày càng tăng. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu thu hút vốn FDI phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, tỉnh cần phải xác định rõ chủ trương, quan điểm và các giải pháp cụ thể đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài, trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng những lợi thế và bất lợi thế cạnh tranh của mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDau tư trực tiếp nước ngoài từ nhật bản vào việt nam, thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan