Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ giai đoạn 2010 - 2015

CHƯƠNG I:THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ I.Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ 1.Những đặc điêm nổi bật của thị trường Mỹ 1.1Mỹ là thị trường lớn,thị hiếu đa dạng và tương đối dễ tính 1.2 Tính quy chuẩn và thống nhất cao độ của sản phẩm đưa vào thị trường Hoa Kỳ 1.3 Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường 1.4 Tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối 1.5 Thị trường có sức cạnh tranh rất cao 1.6 Các hiệp hội kinh doanh có vai trò không nhỏ 2. Thị trường dệt may Mỹ 2.1Một số nét về văn hóa và lối sống ảnh hưởng đến cách ăn mặc của người Mỹ 2.2.Tình hình cung cầu và nhập khẩu hàng dệt may tại thị trường Mỹ 2.3.Các quy định, đạo luật của Mỹ đối với hàng dệt may Quy định về xuất xứ hàng hoá Quy định về nhãn mác Đạo luật về chống bán phá giá Đạo luật về cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dung Luật bảo vệ môi trường người tiêu dùng Tiêu chuẩn về hàng dễ cháy 3.Kinh nghiệm của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ II.Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ 1.Vai trò của thị trường Mỹ đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 2.Các yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ I.Vài nét về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong thời gian qua 1.Kim ngạch xuất khẩu 2.Thị trường xuất khẩu 3.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 4.Số lượng và quy mô các doanh nghiệp xuất khẩu II.Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ 1.Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ từ 2005 đến nay. 1.1Kim ngach xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng 1.2 Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm 1.3 Về chất lượng và giá cả 1.4 Về mẫu mã, thương hiệu sản phẩm 1.5 Về năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 2. Chính sách của Nhà nước và các biện pháp của Hiệp hội dệt may đã áp dụng để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ 2.1 Chính sách của Nhà nước 2.1.1 Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất Chính sách đầu tư phát triển Chính sách về nguyên phụ liệu Chính sách về khoa học công nghệ Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực Chính sách về tổ chức quản lý 2.1.2Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm Chính sách thị trường Chính sách tỷ giá hối đoái Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu 2.1.3 Đánh giá hiệu quả của các chính sách trong thời gian qua 2.2 Các biện pháp của hiệp hội dệt may Việt Nam III.Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ 1.Những kết quả đạt được 1.1Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã tăng nhanh chóng cả về số lượng và giá trị 1.2 Hàng dệt may Việt Nam có chất lượng khá tốt,kiểu dáng mẫu mã sản phẩm đa dạng 1.3 Một số mặt hàng dệt may đã có thương hiệu trên thị trường Mỹ 2.Những hạn chế 2.1 Quy mô ngành dệt may Việt Nam còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực 2.2 Giá thành sản phẩm dệt may Việt Nam còn cao hơn một số nước khác 2.3 Sản phẩm may của Việt Nam chủ yếu ở dạng gia công 2.4 Năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam còn thấp,chưa đủ cạnh tranh với thương hiệu nước ngoài. 2.5 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được kênh phân phối hàng dệt may trực tiếp vào thị trương Mỹ 3.Nguyên nhân 3.1 Ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển 3.2 Quy mô sản xuất hàng dệt may của Việt Namchủ yếu vẫn còn nhỏ lẻ 3.3 Khả năng tiếp thị yếu, công tác quản lý, thiết kế mẫu mã, chủng loại chưa cao CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ ĐẾN NĂM 2015 I.Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường Mỹ 1.Cơ hội 1.1 Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ trong những năm tới là rất lớn 1.2 Ngành dệt may của Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với các đề xuất bảo vệ ngành công nghiệp dệt may của các nhà sản xuất Mỹ, nhiều nhà nhập khẩu Mỹ đã tìm đến thị trường Việt Nam như một thị trường tiềm năng. 1.3 Quan hệ kinh tế thương mại Việt-Mỹ ngày càng phát triển,góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ trong đó có hàng dệt may. 2.Thách thức 2.1 Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành, thiếu lao động có trình độ chuyên môn. Nhân công giá rẻ không còn là lợi thế của Việt Nam vì hiện có rất nhiều đối thủ cạnh tranh chào mức giá thấp hơn 2.2 Nguồn nguyên liệu trong nước chưa đáp ứng đầy đủ được yêu cầu của ngành và yêu cầu đặc biệt của khách hàng. 2.3 Cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nguy cơ tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá. 2.4Sự cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất khốc liệt trên tất cả các phân khúc thị trường, nhất là Trung Quốc, Ấn Độ với ưu thế về chủng loại hàng hoá giá rất rẻ. II.Những định hướng và triển vọng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015 1.Quan điểm,mục tiêu phát triển 2.Triển vọng phát triển ngành dệt may đến năm 2015 3.Chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho ngành dệt may III.Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ đến năm 2015 1.Giải pháp của Nhà nước 1.1Về xúc tiến thương mại hỗ trợ kinh doanh 1.2Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 1.3 Tiếp tục đổi mới cơ chế, ban hành các chính sách hỗ trợ ngành dệt may 1.4 Hỗ trợ và cũng cố kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu 1.5 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ công 2. Giải pháp của Hiệp hội dệt may Việt Nam

docx56 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5430 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ giai đoạn 2010 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia các tổ chức dệt may quốc tế,cho các công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may”. Như vậy, trong chủ trương và trong các chính sách của mình, Nhà nước luôn thể hiện sự quan tâm tới việc nâng cao chất lượng của người lao động trong ngành dệt may. Quyết định này sẽ đưa ra định hướng cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp. Triển khai Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May Việt Nam theo các nội dung sau: Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán bộ bán hàng chuyên ngành Dệt May, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của các dự án dệt, nhuộm trọng điểm. Mở các khoá đào tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý sản xuất, kỹ năng bán hàng (gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng, kiến thức về tiêu chuẩn nguyên liệu, sản phẩm, tiêu chuẩn môi trường và lao động). Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khoá đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng, đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra nước ngoài để đào tạo. Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May, xây dựng Trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vất chất cho việc triển khai các lớp đào tạo. Duy trì thường xuyên các lớp đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp, công nhân thông qua hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành dệt may nhằm cung cấp đủ nguồn nhân lực cho ngành. Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam là đầu mối để phối hợp và liên kết với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước triển khai Chương trình đạo tạo nguồn nhân lực cho ngành. 2.1.2Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm 2.1.2.1Chính sách thị trường Việc thành lập Cục xúc tiến thương mại thuộc Bộ Công thương đã góp phần rất quan trọng trong việc hỗ trợ các thông tin về hoạt động xuất nhập khẩu, về thị trường…cho các doanh nghiệp hạt động xuất khẩu nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. Bên cạnh đố, để hỗ trợ doanh nghiệp có được những thông tin đầy đủ về thị trường Mỹ, Chính phủ cũng đã tổ chức và hỗ trợ kinh phí để tổ chức nhiều cuộc hội thảo, trao đổi về việc xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là hàng dệt may sang thị trường này. Tất cả những điều này rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để xâm nhập thành công thị trường đầy tiềm năng này. 2.1.2.2Chính sách tỷ giá hối đoái Với xu thế của tự do hóa thương mại, tỷ giá ngày càng được sử dụng như một công cụ chính để điều tiết các quan hệ kinh tế quốc tế bởi sự tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, trạng thái của cán cân thương mại và thanh toán quốc tế. Kể từ đầu quí 4-2008, với tình trạng suy giảm của kinh tế toàn cầu bắt đầu hiện ra bên cạnh những khó khăn từ chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng nhằm kiềm chế lạm phát, xuất khẩu của nước ta đã giảm mạnh.Tình trạng này đã dẫn tới việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện điều chỉnh chính sách tỷ giá theo hướng giảm giá đồng tiền Việt Nam so với đô la Mỹ nhằm tạo thuận lợi cho xuất khẩu. Cụ thể, biên độ tỷ giá đồng Việt Nam/đô la Mỹ đã được nới rộng lên mức ±3% vào đầu tháng 11-2008 sau khi đã duy trì mức ±2% kể từ cuối tháng 6-2008. Mức này sau đó đã được nâng lên ±5% vào ngày 23-3-2009 và đến nay vẫn giữ nguyên. Chính sách nới rộng biên độ tỷ giá (thực chất là giảm giá tiền đồng so với đô la) trong đó có mục đích tạo thuận lợi hơn cho xuất khẩu bởi nó gián tiếp “hạ giá thành quốc tế” của các sản phẩm Việt Nam và tạo sức cạnh tranh với hàng ngoại về giá cả ở phạm vi trong nước cũng như trên thị trường nước ngoài.Bên cạnh đó, việc áp dụng chính sách này cũng hướng tới mục tiêu hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không cần thiết, góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán cũng như tạo hiệu ứng kích thích dùng hàng nội địa. Về lý thuyết, mục tiêu là như vậy. Song trên thực tế, qua số liệu thống kê về xuất nhập khẩu cho thấy, việc giảm giá tiền đồng dường như cũng chưa thấy tác động đối với xuất khẩu.Trong khi đó, các mặt hàng dệt may lại thực sự khó khăn khi tiền đồng giảm giá bởi các doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và chỉ thực hiện gia công, lắp ráp 2.1.2.3Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu Qũy hỗ trợ xuất khẩu, thành lập theo quyết định 195 QĐ/TTG của Thủ tướng Chính phủ có chức năng hỗ trợ về lãi suất,tài chính có thời đối với những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan và thưởng về tìm kiếm và mở rộng thị trương xuất khẩu. Trong thời gian qua, Quỹ hỗ trợ phát triển đã thực hiện hỗ trợ thong qua ba hình thức: cấp tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau dầu tư,bảo lãnh tin dụng đầu tư.Chủ yếu vốn từ quỹ hỗ trợ phát triển tập trung vào một số ngành sản xuất,chế biến nông lâm sản, thủy hải sản,giầy da, cơ khí và đặc biệt là dệt may. 2.1.3 Đánh giá tác động của các cơ chế chính sách trong thời gian qua Trong thời gian qua, Chính phủ đã triển khai áp dụng nhiều cơ chế chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ cho doanh nghiệp duy trì sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh, hỗ trợ cho người lao động giải quyết đỡ khó khăn khi mất việc làm, hỗ trợ đẩy mạnh các hoạt động XTTM…Nhìn chung, đó là những chính sách tích cực, đã hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn vừa qua. Tác động có hiệu quả nhất đến các doanh nghiệp là chính sách hỗ trợ lãi suất 4% khi vay vốn lưu động và gần đây là vốn đầu tư ngắn hạn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn cần thiết cho SXKD với mức lãi suất khá thấp. Tuy nhiên chỉ có Ngân hàng đầu tư phát triển cho DN hạn trả nợ 1-2 năm, các ngân hàng khác khó tiếp cận.Thủ tục cũng khá phức tạp, mất thời gian và chỉ có khoảng 20% số DN nhận được sự trợ giúp này. - Chính sách hỗ trợ cho các DN vay vốn để giải quyết quyền lợi, chế độ cho lao động mất việc làm : thực tế ít DN tiếp cận được nguồn vốn này. - Chính sách hỗ trợ các hoạt động XTTM : Do các chính sách kích cầu của Chính phủ, nguồn vốn XTTM cho ngành năm nay đã tăng lên đáng kể, trong đó có các đề án quan trọng như xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt nam, tham gia hội chợ Las Vegas Hoa kỳ, tổ chức gặp gỡ các khách hàng nhập khẩu lớn, hội nghị khách hàng thời trang…Mặc dù việc phê duyệt các chương trình khá chậm trễ, và gặp nhiều khó khăn do việc điều chỉnh 1 số quy định về XTTM nhưng nhờ sự nỗ lực của các đơn vị, các chương trình đã được triển khai, đóng góp vào thành tích chung của ngành trong việc duy trì và phát triển của ngành trong thời gian qua. - Chính sách miễn giảm thuế TNDN 30% áp dụng từ quý 4/2008 và mở rộng sang năm 2009 ban đầu chỉ áp dụng đối với các DN vừa và nhỏ. Vì vậy rất ít DN dệt may được hưởng lợi từ chính sách này. 2.2 Các biện pháp của Hiệp hội dệt may Hiệp hội Dệt May Việt Nam đã góp phần đưa tiếng nói của doanh nghiệp đến với các cơ quan quản lý, tham gia tích cực vào công tác xây dựng cơ chế chính sách phát triển dệt may, kiến nghị với Chính phủ các giải pháp phù hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ngành  Dệt may Việt Nam phát triển và thực hiện tốt công tác tìm hiểu thị trường để phổ biến thông tin cho doanh nghiệp. Hiệp hội đã xây dựng cổng giao dịch thương mại điện tử riêng cho ngành, AFTEX, thông qua đó rút ngắn thời gian đưa các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp.Hiệp hội cũng đóng vai trò tích cực trong công tác đào tạo cho nguồn nhân lực ngành.  Đại diện cho Hội viên tham gia các hoạt động với các tổ chức Hiệp hội ngành nghề dệt may quốc tế và khu vực để đưa ngành dệt may Việt Nam hội nhập như Liên đoàn các nhà sản xuất dệt may Đông Nam Á (AFTEX), Liên đoàn dệt may các nước châu Á,  v.v. Qua đó trao đổi, học hỏi kinh nghiệm áp dụng kỹ thuật, quản lý và tăng năng suất lao động trong sản xuất, áp dụng kỹ thuật tiên tiến xúc tiến trao đổi thương mại trong nội bộ khu vực cũng như đẩy mạnh xuất khẩu, thống nhất lộ trình chung cho phát triển ngành dệt may ở tầm khu vực; Xây dựng chuỗi cung ứng dệt may ASEAN (SAFSA) để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam nói riêng và hàng dệt may của khu vực ASEAN nói chung. Gần đây nhất, Việt Nam mới gia nhập Liên đoàn Thời trang Châu Á (AFF) qua đó giúp cho các nhà thiết kế thời trang, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội trao đổi, học hỏi và góp phần tạo ra những bộ sưu tập riêng của Việt Nam, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh của Dệt May Việt Nam.  Hiệp hội không chỉ tập hợp các Doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà còn kết nạp thêm các doanh nghiệp hội viên liên kết (Amcharm, Kotra, hiệp hội dệt may Đài Loan...) để có tiếng nói chung của các doanh nghiệp trong ngành nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu phát triển ngành, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh.  Tập đoàn Dệt May Việt Nam (một doanh nghiệp nòng cốt của Hiệp hội) và một số doanh nghiệp hội viên đã triển khai xây dựng trung tâm giao dịch vật tư tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhằm cung ứng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp dệt may tăng các đơn hàng FOB, tăng sức cạnh tranh.  Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng đã tích cực khuyến khích doanh nghiệp tham gia các hội chợ trong và ngoài nước, là đơn vị tổ chức thực hiện các chương trình xúc tiến trong điểm quốc gia (QĐ 279), giúp các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam khuếch trương sản phẩm và thương hiệu. Chính nhờ các hội chợ này mà các doanh nghiệp đã tiếp cận tốt hơn với các khách hàng tiềm năng, đồng thời tìm kiếm được các đối tác trong ngành để hợp tác hiệu quả.  Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng tham gia tích cực trong Đề án 30 về Cải cách Thủ tục hành chính, với tư cách đại diện các Doanh nghiệp trong ngành, đóng góp nhằm làm giảm thủ tục hành chính, giúp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng. *Các biện pháp trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu Việt Nam không có giải pháp nào riêng cho ngành dệt may trong giai đoạn suy giảm kinh tế. Các giải pháp đều được thực hiện chung cho nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn, Việt Nam có đưa ra các biện pháp bảo hiểm xuất khẩu.Chương trình đưa hàng về nông thôn cũng đã được triển khai. Cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp dệt may cũng nhận được hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn được ký kết và giải ngân trong năm 2009 để làm vốn lưu động sản xuất - kinh doanh (theo quyết định số 131/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/01/2009), và đối với các khoản vay trung và dài hạn để đầu tư mới sản xuất kinh doanh (theo quyết định số 443/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/04/2009). Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg về việc hỗ trợ lao động mất việc làm trong các doanh nghiệp do suy giảm kinh tế, qua đó giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp.  Trong khi đó, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng đã tích cực thực hiện công tác xúc tiến xuất khẩu, tìm khách hàng và đơn hàng mới. Thông qua các hoạt động của mình, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng khuyến khích các doanh nghiệp đưa công nghệ mới vào hoạt động của mình, đồng thời định hướng tăng thị phần trên phân khúc thị trường với thu nhập cao hơn, cảnh báo các doanh nghiệp chủ động phòng, chống với nguy cơ bị áp dụng chống phá giá từ các nước nhập khẩu đặc biệt là Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng xúc tiến các hoạt động xây dựng hình ảnh cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu gây nhiều khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp dệt may, Hiệp hội và doanh nghiệp đã chung tay hành động nhằm chuyển hướng sang thị trường nội địa. Đây chính là thị trường tiềm năng cho doanh nghiệp không chỉ trong thời kỳ khủng hoảng, mà cả trong điều kiện kinh tế bình thường.  III.Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ 1.Những kết quả đạt được 1.1Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã tăng nhanh chóng cả về số lượng và giá trị Các sản phẩm dệt may Việt Nam đang dần đứng vững trên thị trường Mỹ và từng bước thâm nhập sâu hơn vào thị trường này. Năm 2009 Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu dệt may lớn thứ hai tại thị trường Mỹ ( sau Trung Quốc). Nếu như trước đây các doanh nghiệp chỉ có thể xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ thông qua các trung gian, các doanh nghiệp thường xuyên bị động trong việc tìm kiếm đối tác, nhưng hiện nay họ không những đã chủ động hơn trong vấn đề này mà còn tiến hành nhiều hình thức như: xuất khẩu trực tiếp cho nhà nhập khẩu Mỹ, tiến hành lien doanh, liên kết với nước ngoài…các doanh nghiệp ngày càng năng động hơn trong quá trình hợp tác với doanh nghiệp Mỹ về thương mại, tham gia vào các hội chợ và lập các văn phòng đại diện của mình ở Mỹ. 1.2 Hàng dệt may Việt Nam có chất lượng khá tốt,kiểu dáng mẫu mã sản phẩm đa dạng 1.3 Một số mặt hàng dệt may đã có thương hiệu trên thị trường Mỹ Kể từ năm 2009, hàng năm DM VN sẽ có mặt ở hội chợ Magic (hội chợ chuyên ngành về hàng DM lớn nhất thế giới được tổ chức ở Las Vegas – Mỹ, vào tháng 2, 8 hàng năm).VN sẽ cố gắng xây dựng hình ảnh tại hội chợ này để các NNK biết đến. Vì các công ty thu mua là NNK đóng vai trò rất quan trọng trong việc mua hàng từ nhà sản xuất, phân phối đến các nhà bán lẻ. Trong 305 triệu dân Mỹ, có đến 65% sử dụng các sản phẩm bình dân. Doanh thu của các cửa hàng bán hàng may mặc cấp thấp cao hơn các cửa hàng cao cấp. Xu hướng kinh doanh nhỏ hơn sẽ đi vào vùng sâu, xa thay cho các chuỗi cửa hàng lớn tại Mỹ. Đây cũng là cơ hội thuận lợi cho hàng DM VN gia tăng thị phần XK vào Mỹ trong thời gian tới. 2.Những hạn chế 2.1 Quy mô ngành dệt may Việt Nam còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực Quy mô sản xuất và xuất khẩu chưa lớn do các đơn vị dệt may Việt Nam chủ yếu là những đơn vị vừa và nhỏ. Điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh trong số 282 doanh nghiệp may mặc thì chỉ có 40 đơn vị có quy mô 200 máy may trở lên phần còn lại là quy mô nhỏ. 2.2 Giá thành sản phẩm dệt may Việt Nam còn cao hơn một số nước khác Giá thành sản xuất một đơn vị sản phẩm may mặc Việt Nam còn cao,chất lượng chưa tốt và thời hạn giao hàng là những yếu tố làm hạn chế xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ. 2.3 Sản phẩm may của Việt Nam chủ yếu ở dạng gia công Sản phẩm may của Việt Nam chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng khoảng 15%-20%. Do đó kim ngạch xuất khẩu tuy lớn nhưng phần ngoại tệ thực tế thu được lại nhỏ. Thị trường Mỹ thường ưu tiên nhập khẩu hàng dệt may theo hình thức FOB, nhưng doanh nghiệp Việt Nam lại thiên về phương thức gia công nên khả năng thâm nhập thị trường Mỹ còn khó khăn. Bên cạnh đó việc thực hiện các hợp đồng gia công lại không ổn định phụ thuộc vào giá nhân công và tình hình cung cấp nguyên phụ liệu. 2.4 Năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam còn thấp,chưa đủ cạnh tranh với thương hiệu nước ngoài. 2.5 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được kênh phân phối hàng dệt may trực tiếp vào thị trường Mỹ Việc tiếp xúc trực tiếp với nhà nhập khẩu tại thị trường Mỹ còn nhiều hạn chế. Việc này có tác động lớn từ việc doanh nghiệp dệt may Việt Nam không có nhiều cơ hội tham gia xúc tiến, quảng bá. Đặc biệt là tiếp xúc trực tiếp tại các hội chợ chuyên ngành lớn tổ chức ở Mỹ hay ở các thị trường khác. Xưa nay, chi phí xúc tiến, quảng bá, giới thiệu ở nước ngoài chủ yếu tự thân DN lo.Và với khoản chi phí khá lớn trong mỗi lần xúc tiến, tham gia hội chợ thì chỉ có các DN lớn mới đủ điều kiện tham gia. 3.Nguyên nhân 3.1 Ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển,dẫn đến việc phải nhập khẩu nguyên phụ liệu làm tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh. Nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc chủ yếu là từ nguồn nhập khẩu. Trong khi đó, ngành dệt hầu như chưa đáp ứng được đủ yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng) cho ngành may. Nói cách khác, mối liên kết giữa ngành dệt và ngành may mặc còn chưa thật sự chặt chẽ. Ngành dệt còn mang hơi hướng thay thế nhập khẩu, nhưng lại chưa đạt hiệu quả và quy mô sản xuất cần thiết. Trong khi đó, ngành may mặc có tính định hướng xuất khẩu cao, nhưng lại phải dựa vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Hiện nay, khó khăn và cũng là áp lực lớn nhất của ngành Dệt may là chưa tạo được nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Nguyên liệu phục vụ cho ngành Dệt may được nhập khẩu tới 90%. Do đó, tuy có kim ngạch XK cao nhưng tỷ lệ thu về lại thấp, chỉ ước khoảng 35-38% tổng kim ngạch. Do đó, ngành Dệt may phải quy hoạch vùng nguyên liệu, đặc biệt là trồng bông. Mục tiêu chiến lược của ngành Dệt may đặt ra đến năm 2010 là phải đạt sản lượng 20.000 tấn bông xơ, năm 2015 đạt 40.000 tấn. Tuy nhiên hiện nay, diện tích trồng bông tại Việt Nam  không đồng đều, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên (42%), vùng duyên hải miền Trung (33%), miền Bắc (20%) và Đông Nam bộ (5%). Theo thống kê cho thấy trong niên vụ niên vụ 2007-2008 diện tích trồng bông trên cả nước là 7.446ha  cho sản lượng 2.709 tấn, đến niên vụ 2008-2009 diện tích trồng bông giảm mạnh còn dưới 3.000 ha. Ngành dệt may đã khuyến khích và quy hoạch tăng thêm diện tích trồng bông. Theo kết hoạch niên vụ 2009-2010 ước đạt khoảng 10.000 nghìn tấn. Tuy vậy con số này vẫn còn xa với mục tiêu 20.000 tấn ngành đã đặt ra. Mặc dù ngành Dệt may đã có kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu và có chính sách hỗ trợ giá cho nông dân, nhưng vấn đề giá còn rất nan giải. Nếu giá thấp hơn so với các cây trồng khác sẽ khó khuyến khích được nông dân tham gia trồng bông, và mục tiêu 1 tỷ mét vải vào năm 2010  sẽ còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Và như vậy, thách thức tiếp theo của ngành Dệt may là phải làm thế nào tạo được vùng nguyên liệu ổn định, không bị phụ thuộc vào nước ngoài như hiện nay. Bảng3: Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may, 2000-2008 Đơn vị tính: Triệu USD 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Nhập khẩu Bông 105.4 190.2 167.21 219.0 268 468 Sợi 317.5 338.8 339.59 544.6 744 788 Vải các loại 1.805,4 1.926,7 2.398,96 2.984,0 3.980 4.454 Nguyên phụ liệu máy móc, phụ tùng 1.825,9 1.724,3 1.774,2 1.952,0 2.152 2.376 Cộng nhập (chưa kể hóa chất thuốc nhuộm) 4.054,2 4.180,0 4.679,96 5.699,6 7.144 8.086 Kim ngạch xuất khẩu 3.609,1 4.385,6 4.838,4 5.834,0 7.794 9.082 Nguồn: Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may 3.2 Quy mô sản xuất chưa lớn do các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu là những đơn vị vừa và nhỏ Theo Cục điều tra của Tổng công ty may mặc Việt Nam quy mô ngành dệt may Việt Nam còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực. Bảng 4- Quy mô ngành dệt may Việt Nam so với các nước trong khu vực Tên nước Sản lượng sợi(100 tấn) Sản lượng vải(1 triệu m2) Sản phẩm may(1 triệu sản phẩm) Kim ngạch XK(triệu USD) Trung Quốc 5300 21000 10000 50000 Ấn Độ 2100 23000 12500 Băngladet 200 1800 4000 Thái Lan 1000 4200 2500 6500 Indonesia 1800 4400 3000 8000 Việt Nam 85 304 400 2000 Nguồn: VINATEX 3.3Do khả năng tiếp thị yếu, công tác quản lý, thiết kế mẫu mã, chủng loại… chưa cao Nói tóm lại,sự kém cạnh tranh về giá thành,thời hạn giao hàng,cùng hàng loạt các lý do khác như bất cập trong khả năng buôn bán quốc tế,tiếp cận thị trường,trình độ chuyên môn,thiết kế mẫu mã,trang thiết bị, máy móc đã làm cho ngành dệt may Việt Nam trở nên nhỏ bé trên đấu trường quốc tế, đặc biệt là khi so với hàng Trung Quốc. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ ĐẾN NĂM 2015 I.Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường Mỹ trong thời gian tới 1.Cơ hội Nhìn chung kết quả xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là khá khả quan và đã tác động đến phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may, đã mở ra cho họ một tầm nhìn mới,một hướng đi mới,hướng tới thị trường Mỹ đầy tiềm năng bởi các yếu tố sau: 1.1 Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ trong những năm tới là rất lớn Mỹ hiện tại là thị trường lớn cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, đây là triển vọng khá sáng sủa vì nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ còn rất lớn.Kinh tế Mỹ đang dần phục hồi sau khủng hoảng và do đó nhu cầu tiêu dùng,đặc biệt là nhu cầu đối với các sản phẩm dệt may cũng dần phục hồi.Tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may năm 2009 đạt 9,1 tỷ USD và ước tính sẽ đạt hơn 10.5 tỷ USD năm 2010. Mỹ là nước nhập khẩu hàng hóa với khối lượng và quy mô lớn.Quan điểm trong chính sách kinh tế của họ là nhập siêu hàng hóa và xuất siêu dịch vụ. Do vậy Việt Nam cần phải tích cực hơn nữa trong việc hoạch định chiến lược để thâm nhập và mở rộng thị trường này, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may-để Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu chính trong tương lai. 1.2 Ngành dệt may của Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với các đề xuất bảo vệ ngành công nghiệp dệt may của các nhà sản xuất Mỹ, nhiều nhà nhập khẩu Mỹ đã tìm đến thị trường Việt Nam như một thị trường tiềm năng. Dệt may là nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ (khoảng 43% trong giai đoạn 2005-2009). Sản phẩm dệt may của Việt Nam đang ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà nhập khẩu và được Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (USITC) nhận định: “Việt Nam là một trong những nước hàng đầu ở châu Á có khả năng cạnh tranh được với Trung Quốc trong lĩnh vực dệt may”. Hiệp hội Nhập khẩu Dệt may Hoa Kỳ cũng cho biết Việt Nam là sự lựa chọn thứ hai của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ sau Trung Quốc khi tìm kiếm nguồn cung cấp hàng từ châu Á.Tổng thống Mỹ Barack Obama gần đây cũng đã lựa chọn Việt Nam là một trong sáu thị trường gắn bó tiếp theo trong Đề xuất về xuất khẩu quốc gia của mình, cùng với Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil.“Tổng thống Mỹ Obama đặt mục tiêu tăng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm tới, Việt Nam là một trong những nước đầu tiên mà Mỹ mong muốn đạt mục tiêu này” 1.3 Quan hệ kinh tế thương mại Việt-Mỹ ngày càng phát triển,góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ trong đó có hàng dệt may. Thương mại và đầu tư phát triển có thể được coi là những gì dễ nhìn thấy nhất trong quá trình cải thiện quan hệ Việt Mỹ. Từ chỗ hầu như không có mối quan hệ thương mại Hoa Kỳ đã trở thành nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hai nước hiện là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và đang trong quá trình tiếp tục mở rộng hợp tác kinh tế song phương trong khuôn khổ các Hiệp định liên khu vực. Ngay sau khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực năm 2001, một trong những tập đoàn thời trang hàng đầu của Mỹ đã bắt đầu hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay, họ có một hệ thống nhà cung cấp đáng tin cậy, ổn định và có chất lượng cao.Các doanh nghiệp dệt may đang đóng góp tích cực vào việc tăng kim ngạch thương mại hai nước. Nếu như năm 2000,thương mại hai chiều Việt – Mỹ mới ở mức 1 tỷ USD, thì năm 2009, đã là 15,6 tỷ USD.Hoa kỳ và Việt Nam sẽ tiếp tục làm sâu sắc thêm quan hệ kinh tế thông qua việc mở rộng thương mại và đầu tư giữa hai nước. 2.Thách thức 2.1 Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành Giá nhân công Việt Nam đang nhích dần lên đồng thời năng suất lao động và sức cạnh tranh của Việt Nam cũng đang giảm dần: không thể cạnh tranh bằng nhân công rẻ khi mức lương tối thiểu tăng nhanh hơn 20% trong hai năm gần đây- không một nước nào trong vùng có mức tăng lương nhanh như thế. Năng suất lao động của công nhân Việt Nam chỉ bằng 70 – 80% so với Trung Quốc. Thêm vào đó, lực lượng lao động Việt Nam không tuân theo quy trình pháp lý khi muốn đàm phán về phúc lợi và lương bổng với ban điều hành doanh nghiệp...Điều này ảnh hưởng không ít đến việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ đang để ý đến Indonesia nhằm thay thế cho Việt Nam. Mặc dù giá nhân công cả hai nước gần như bằng nhau, nhưng điểm mạnh của Indonesia là lực lượng lao động ổn định, năng suất cao và giá đất thấp hơn Việt Nam. Ngoài ra, Indonesia còn có lực lượng doanh nghiệp địa phương hùng hậu sản xuất các mặt hàng vải nguyên liệu, dệt kim rất dồi dào, bên cạnh thế mạnh là tay nghề thành thạo của công nhân. 2.2 Nguồn nguyên liệu trong nước chưa đáp ứng đầy đủ được yêu cầu của ngành và yêu cầu đặc biệt của khách hàng. Nguyên phụ liệu hiện đang là vấn đề nan giải của dệt may Việt Nam. Hiện tại ngành dệt may Việt Nam đang phải nhập khẩu 80% nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Mặc dù trong những năm qua, chính Phủ rất quan tâm đến diện tích trồng bông, nhưng do khí hậu và thổ nhưỡng nước ta chưa phù hợp nên diện tích và sản lượng bông trong những năm qua tuy có tăng nhưng không đáng kể. Còn phụ liệu trong nước cũng đã có nhà máy sản xuất nhưng chỉ đáp ứng được khoảng 20-25% nhu cầu của ngành. Phải nhập khẩu nguyên phụ liệu dẫn đến sự bị động trong việc ký kết và thực hiện các đơn hàng,làm giảm sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Bảng5: Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai đoạn 2010-2020 Mặt hàng Đơn vị 2010 2020 Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Bông 1000 tấn 20 255 235 60 430 370 Sợi nhân tạo 1000 tấn 260 220 600 370 Chỉ và filamen 1000 tấn 350 790 440 650 1.350 700 Vải Triệu m2 1.000 3.525 2.525 2.000 5.950 3.950 Nguồn: Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội 2.3Cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nguy cơ tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá. Hệ thống luật pháp của Mỹ kiểm soát rất chặt chẽ hàng hoá nhập khẩu, cho phép phản ứng nhanh chóng nếu thấy ngành hàng của mình bị phương hại.Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may khoảng 40%, ngành dệt may của Việt Nam có nhiều triển vọng tốt trong hoạt động xuất khẩu trong tương lai. Tuy nhiên, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ vẫn gặp một số những thách thức. Mặc dù không bị áp thuế chống bán phá giá nhưng hàng dệt may của Việt Nam vẫn chịu sự giám sát chặt chẽ bởi cơ chế giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ. Vì vậy, một vấn đề cần giải quyết trong thời điểm hiện tại là các doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình những kiến thức chống bán phá giá, tìm hiểu kỹ lưỡng luật pháp Mỹ để tránh được những vụ kiện có thể xảy ra. 2.4 Sự cạnh tranh ở mặt hàng may mặc trên thị trường Mỹ rất khốc liệt trên cả các phân khúc thị trường, nhất là Trung Quốc, Ấn Độ với ưu thế về chủng loại hàng hoá giá rất rẻ . Các đối thủ cạnh tranh của hàng dệt mayViệt Nam ở thị trường Mỹ rất lớn như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Ấn Độ… đây là những quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Khối lượng hàng dệt may giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã và đang ồ ạt xâm nhập thị trường Mỹvà EU,làm cho hàng nghìn các doanh nghiệp cũng như công nhân nước này phải đóng cửa và nghỉ việc.Trong khi đó, Việt Nam lại là nước đi sau, năng lực sản xuất còn bé, chất lượng sản phẩm chưa cao, thua kém về vốn, công nghệ quản lý, thị phần và kinh nghiệm trên thị trường…Đây chính là thách thức to lớn đối với việc duy trì và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. II.Những định hướng và triển vọng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015 1.Quan điểm,mục tiêu phát triển 1.1 Quan điểm phát triển Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời. Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành. Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn. Đa dạng hóa sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển Dệt May Việt Nam. Trong đó chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm. Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu. 1.2Mục tiêu phát triển ngành dệt may đến năm 2015 Được sự phê duyệt của Thủ tướng, Bộ Công Thương đã ban hành quyết định về quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Theo đó, một số mục tiêu tổng quát là: phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Các mục tiêu cụ thể được thể hiện trong bảng dưới đây. Bảng 6: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015 với tầm nhìn đến năm 2020 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020 1. Kim ngạch XK Triệu USD 12.000 18.000 25.000 2. Sử dụng lao động 1000 người 2.500 2.750 3.000 3. Sản phẩm chủ yếu - Bông xơ 1000 Tấn 20 40 60 - Xơ, sợi tổng hợp 1000 Tấn 120 210 300 - Sợi các loại 1000 Tấn 350 500 650 - Vải các loại Triệu m2 1.000 1.500 2.000 - Sản phẩm may Triệu sản phẩm 1.800 2.850 4.000 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 50 60 70 Nguồn: Bộ Công Thương. 2.Triển vọng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015 Ngành dệt may Việt Nam còn có khá nhiều tiềm năng cho xuất khẩu. Tiềm năng này trước hết là do nguồn lao động còn lớn, đặc biệt là nhờ cấu trúc dân số trẻ, nên chi phí cho lao động không tăng nhanh như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may. Bên cạnh đó, Việt Nam có môi trường đầu tư ổn định, với tiềm năng tăng trưởng cao, nên có sức hấp dẫn với nhà đầu tư và bạn hàng nước ngoài.Hơn nữa, Việt Nam cũng đang tham gia ngày một sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với việc cải thiện hình ảnh của Việt Nam, quá trình này còn giúp gia tăng tiếp cận thị trường cho hàng hóa của Việt Nam nói chung và hàng dệt may của Việt Nam nói riêng.  Triển vọng của ngành may mặc sẽ là sáng sủa hơn một chút so với ngành dệt, do có quy mô lớn hơn, mức độ linh hoạt cao hơn, và có nhiều lựa chọn thay thế ngay cả trong thời kỳ suy thoái (chẳng hạn, phát triển thị trường xuất khẩu mới).  Giá trị gia tăng của ngành hàng may mặc được dự báo sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2011-2013, mặc dù có giảm lần lượt 3,0% và 0,9% vào các năm 2009 và 2010. Đây là triển vọng khá tích cực, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2011-2013 còn thấp hơn so với mức trung bình trong các năm 2003-2008 (11,9%). Cũng do tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với GDP mà tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành may mặc trong GDP trong giai đoạn 2009-2013 sẽ thấp hơn so với mức trong giai đoạn 2006-2008.  Tuy giá trị gia tăng có giảm, nhưng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may chỉ giảm trong năm 2009, và sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2010-2013. Theo BMI (2009), kim ngạch xuất khẩu hàng dệt tăng liên tục từ mức hơn 1,3 tỷ USD vào năm 2009 lên hơn 1,9 tỷ USD vào năm 2013, với tốc độ tăng trung bình khoảng 9,8%/năm trong 2010-2013. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cũng tăng từ mức hơn 7,4 tỷ USD lên hơn 9,5 tỷ USD trong giai đoạn 2009-2013. Mặc dù vậy, triển vọng xuất khẩu này cũng đi kèm những diễn biến đáng lo ngại. Trước hết, cán cân thương mại ngành dệt vẫn có mức thâm hụt lớn, mặc dù mức thâm hụt đã giảm mạnh trong năm 2009 và trong giai đoạn 2011-2013. Điều này cho thấy ngành may mặc của Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục phải dựa vào nguyên liệu dệt nhập khẩu để phục vụ cho các đơn hàng xuất khẩu của mình. 3.Chính sách hỗ trợ của Chính phủ và Hiệp hội dệt may Việt Nam Nhu cầu sử dụng nguyên phụ liệu trong nước của các doanh nghiệp dệt may là rất lớn và chủ động nguồn nguyên phụ liệu trong nước là mong muốn của hầu hết các doanh nghiệp, nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên đây là bài toán không đơn giản nhằm đẩy mạnh việc cung cấp nguyên liệu bông, xơ sản xuất trong nước, từng bước đáp ứng nhu cầu bông, giảm nhập siêu, tạo điều kiện để ngành dệt may tăng trưởng và phát triển ổn định. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015. Theo đó đến năm 2015 sẽ đạt diện tích khoảng 30.000 héc ta, năng suất bình quân đạt 1,5 đến 2 tấn/héc ta, và đến năm 2020 diện tích sẽ tăng lên hơn gấp đôi, với 76.000 héc ta, năng suất cũng tăng lên từ 2 đến 2,5 tấn/héc ta. Việc triển khai chương trình này sẽ từng bước giúp các doanh nghiệp dệt may có thể chủ động nguyên liệu trong nước. Bên cạnh đó, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cũng đang triển khai xây dựng nhà máy sản xuất sợi tổng hợp ở Khu công nghiệp Ðình Vũ (Hải Phòng). Dự kiến, năm 2012, nhà máy sẽ đi vào sản xuất, đáp ứng 100% nhu cầu xơ, sợi tổng hợp cho ngành dệt. Ngoài ra, Vinatex đang xây dựng 4 khu công nghiệp dệt, nhuộm tại các tỉnh Ninh Bình, Nam Ðịnh, Long An, Trà Vinh nhằm khuyến khích các DN trong, ngoài nước đầu tư sản xuất NPL; nâng năng lực sản xuất của tập đoàn tăng thêm 200 triệu mét vải vào năm 2015. Để bảo đảm cho nguyên liệu bông xơ sản xuất trong nước cho ngành dệt may, giảm nhập siêu, Chính phủ dự kiến sẽ huy động các thành phần kinh tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất chất lượng, tăng sức cạnh tranh, xây dựng các vùng chuyên canh ở những nơi có điều kiện tự nhiên phù hợp như các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung bộ, vùng núi phía Bắc. Một quỹ bình ổn giá thu mua bông hạt trong nước cũng sẽ được thành lập từ nguồn trích 2% giá thành sản xuất bông của các đơn vị sản xuất, khi giá thành trong nước thấp hơn giá nhập và các đơn vị này có lãi. Theo đó các đơn vị sản xuất được vay vốn với lãi suất ưu đãi, và các tổ chức, cá nhân cũng sẽ được hỗ trợ đầu tư mua sắm máy móc thiết bị. III.Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ đến năm 2015 1.Giải pháp của Nhà nước 1.1Về xúc tiến thương mại hỗ trợ kinh doanh Để thâm nhập thị trường rộng lớn này công tác xúc tiến thương mại là rất quan trọng và cần phải được quan tâm ở cấp Nhà nước và từng doanh nghiệp.Về phía Nhà nước cần cần xây dựng các chương trình xúc tiến xuất khẩu. Nhà nước đã giao cho Bộ Công thương xây dựng chương trình cụ thể xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ, đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu mấu chốt của ngành may để xuất khẩu vào Mỹ. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp khảo sát thị trường, tham gia hội trợ triển lãm,tổ chức tiếp xúc với các nhà phân phối hàng dệt may Mỹ. Với những nỗ lực của Nhà nước,công tác xúc tiến thương mại sẽ góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ.Để nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại Nhà nước cần: Nâng cao hơn nữa vai trò xúc tiến thương mại của các đại sứ quán ở các thị trường xuất khẩu chính, trong đó có Hoa Kỳ. Đổi mới mô hình các tổ chức, cơ quan xúc tiến thương mại trực thuộc Nhà Nước theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí được Nhà nước cấp. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm hướng vào những mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển các mặt hàng thời trang phù hợp với thị trường Mỹ, nhưng đặc biệt chú ý đến vấn đề giám sát hàng dệt may của Mỹ, khống chế mức giá xuất khẩu ở mức nhất định. Đẩy mạnh phát triển các trung tâm thương mại tại các thị trường xuất khẩu chính nhằm giới thiệu sản phẩm. Có chính sách hỗ trợ sự ra đời của các công ty chuyên cung cấp hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ nhằm tạo ra kênh phân phối trực tiếp hơn đối với thị trường. Cần thành lập cơ quan chuyên trách nhằm phân tích, dự báo thị trường, từ đó có định hướng đúng trong việc ban hành các chính sách phù hợp tạo thuận lợi cho xuất khẩu dệt may trong thời gian tới. Cơ quan này cũng có nhiệm vụ là cung cấp các cơ sở dữ liệu đáng tin cậy về thị trường, đối thủ cạnh tranh, các kênh phân phối nhằm giúp các doanh nghiệp có định hướng tốt trong xuất khẩu hàng hoá sang các thị trường chính. 1.2Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực Để giải quyết vấn đề lao động, ngành Dệt May có đề xuất quy hoạch và di dời ngành sản xuất may về một số vùng phù hợp để tận dụng lao động nhàn rỗi ở các vùng nông thôn, không để các nhà máy dệt và may gia công tập trung phát triển mạnh ở đô thị như hiện nay. Tuy nhiên, đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy sự bấp bênh của việc sử dụng lao động “bán công-bán nông”. Phần lớn các doanh nghiệp đều khẳng định, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất họ không ngại mà cái khiến cho họ chùn tay chính là lao động ngành Dệt May vừa thiếu lại vừa yếu . Nếu không có những biện pháp căn cơ hơn để thúc đẩy đào tạo nghề, nhất là đào tạo công nhân ngành Dệt May thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư phát triển ngành. Cần có những giải pháp giải quyết triệt để về số lượng lao động cung ứng cho yêu cầu phát triển của ngành Dệt May, đồng thời hạn chế và làm mất đi tình trạng tranh giành lao động trong nội bộ ngành. Cần có sự kết nối chặt chẽ giữa các cơ sở đào lạo nghề dệt may và các doanh nghiệp dệt may, để cơ sở đào tạo nghề nắm bắt kịp thời nhu cầu về số lượng, chất lượng lao động của doanh nghiệp mà phục vụ cho tốt, đồng thời tranh thủ được khả năng vật chất cũng như nguồn lực của doanh nghiệp phục vụ cho việc đào tạo. Để giải quyết vấn đề lao động cho ngành Dệt May Việt Nam, thì ngoài việc tăng lương, tăng phúc lợi cho người lao động, quan tâm giải quyết tới vấn đề nhà ở cho công nhân… ngành Dệt May Việt Nam rất cần quan tâm đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đủ để cung ứng cho ngành cả về số lượng và chất lượng, trên cơ sở đó tạo ra những đầu mối cung cấp ổn định nguồn nhân lực, tạo được mạch nối liên hoàn giữa đào tạo và sử dụng. Cụ thể là: Củng cố, hoàn thiện và mở rộng hệ thống đào tạo nghề dệt may theo hướng mở rộng và phát triển của ngành. Mở các khoa, các chuyên ngành dệt may trong các trường đại học và cao đẳng, đầu tư mạnh để có được chất được đào tạo đạt yêu cầu đặt ra của ngành. Cần xây dựng những chương trình đào tạo bằng phương tiện nghe nhìn đạt tiêu chuẩn để cung cấp đồng loạt cho các doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động đã nêu đều trên cơ sở khảo sát kỹ lưỡng yêu cầu của các doanh nghiệp và luôn có thông tin cập nhật có tính liên kết cao từ doanh nghiệp đến cơ sở đào tạo. Song song với điều đó cần tăng cường tuyên truyền về ngành nghề trong cộng đồng để từ đó thu hút người học đến với các cơ sở đào tạo nghề dệt may. Đồng thời nó cũng sẽ làm tăng thêm lòng tự hào của người lao động đang trong ngành để từ đó gia tăng mức độ gắn bó với ngành. Đây là hoạt động song hành và phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong ngành Dệt May. Tăng cường hơn nữa việc liên kết với nước ngoài trong đào tạo các cán bộ ngành Dệt May, đặc biệt là đội ngũ thiết kế mẫu. Tập trung mạnh cho đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ trong các bộ phận xúc tiến bán hàng. Thường xuyên và định kỳ đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có. Nguyên tắc là các doanh nghiệp hợp tác và phối hợp với nhau trong đào tạo và sử dụng các cơ sở đào tạo làm đầu mối liên kết. Nhờ đó mà tăng qui mô các lớp đào tạo và giảm chi phí để các doanh nghiệp có số lượng lao động không lớn cũng thường xuyên được thụ hưởng các chương trình đào tạo. Các doanh nghiệp cần coi đầu tư cho đào tạo là một khoản đầu tư dài hạn hoạch toán như tính toán một dự án đầu tư. Các doanh nghiệp dệt may sẽ đánh giá lựa chọn các cơ sở đào tạo như đánh giá những nguồn cung cấp cho dự án đầu tư và ký kết với cơ sở các hợp đồng đào tạo, dài hạn và ngắn hạn. Tiến tới thành lập hệ thống công ty cung ứng lao động dệt may. Do tính chất của ngành Dệt May ít nhiều mang tính mùa vụ, và mức độ về nhu cầu lao động tuỳ thuộc vào đơn hàng, do đó nếu xây dựng được hệ thống công ty cung ứng lao động thì mức độ linh hoạt trong sử dụng lao động sẽ tăng lên, hỗ trợ được cho các doanh nghiệp trong lúc nhu cầu lao động tăng cao, giảm bớt mức độ nhàn rỗi của lao động khi doanh nghiệp có ít đơn hàng. Và như vậy có thể đảm bảo mức độ ổn định cao về tiền lương của người lao động, khiến họ an tâm và gắn bó hơn với nghề. Trong những kỳ trái vụ của dệt may, các công ty cung ứng sẽ đầu tư đào tạo lại đội ngũ lao động. Nhờ qui mô lớn và đào tạo tập trung, chuyên môn hoá cao hiệu quả đào tạo sẽ tăng lên. Giải pháp này sẽ hỗ trợ cho việc liên kết các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam để tăng qui mô, nâng cao thêm năng lực cạnh tranh của ngành. 1.3 Tiếp tục đổi mới cơ chế, ban hành các chính sách hỗ trợ ngành dệt may Xây dựng cơ chế phù hợp để cho các tổ chức tài chính, ngân hàng hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ, thông qua sự hỗ trợ tài chính này công ty có thể đổi mới máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất. Nhà nước cần hỗ trợ kênh phân phối nước ngoài bằng cách thông qua các cơ chế, chính sách khuyến khích người Việt tại nước ngoài tiêu dùng hàng của dân tộc mình, từ đó họ sẽ nhập khẩu hàng hoá vào nước sở tại, đặc biệt là Hoa Kỳ. Thành lập bộ phận chuyên trách nghiên cứu về các hiệp định, chính sách quốc tế có liên quan đến dệt may, đặc biệt là cơ chế, chính sách của chính phủ Mỹ nhằm đảm bảo khi có tranh chấp, kiện tụng xảy ra sẽ có cơ sở hỗ trợ tư vấn cho các doanh nghiệp dệt may. Tiếp tục đầu tư và khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đầu tư giáo dục,đào tạo kỹ thuật chuyên môn, trình độ quản lý, tay nghề cho người lao động nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp nói chung, cũng như dệt may nói riêng. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho cácdoanh nghiệp được bình đẳng như nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế chính sách và luật pháp. Việc tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ giúp cho các doanh nghiệp phát huy được năng lực hoạt động và cạnh tranh trong điều kiện hội nhập. Để đẩy mạnh cạnh tranh lành mạnh, ngành dệt may cần tăng cường khả năng phối hợp đầy đủ và đồng bộ giữa các đơn vị thành viên trong Tập Đoàn Dệt may Việt Nam, xóa bỏ sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp cùng nhau phát triển và đổi mới. 1.4 Hỗ trợ và cũng cố kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu Nhà nước cần ban hành các chính sách ưu đãi trong hoạt động xuất nhập khẩu,(thuế, thanh toán quốc tế,…) tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may phát triển. Nhà nước cũng cần cải cách thủ tục hành chính, chấn chỉnh bộ máy hoạt động của cơ quan quản lý, góp phần quản lý, sử dụng và khai thác hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Thường xuyên tổ chức hội chợ dệt may và thiết lập mạng lưới xúc tiến thương mại tại thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường Mỹ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia và có nhiều cơ hội trong việc tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác đầu tư và ký kết các hợp đồng xuất khẩu. Cần mở rộng các đối tượng tham gia cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thương mại, xuất nhập khẩu nhất là dịch vụ logistics cho các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, giảm tối đa sự độc quyền trong cung cấp dịch vụ hỗ trợ thương mại. Xóa bỏ hay giảm các chi phí không chính thức của các doanh nghiệp vận tải hàng hóa, thời gian trong các giao dịch liên quan đến dịch vụ công của các cơ quan quản lý nhà nước như các thủ tục liên quan đến xây dựng, xuất nhập khẩu. Dành nguồn vốn của Nhà nước để tập trung đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng phụcvụ cho xuất nhập khẩu, như cải tạo hệ thống giao thông, cảng biển, vận tải nội địa, mở các tuyến đường bộ, đường sắt xuyên quốc gia, cải tạo và nâng cấp năng lực xếp dỡ, hình thành sự liên kết giữa các loại hình vận tải nhằm khai thác và tận dụng ưu thế của mỗi loại hình vận tải trong từng khu vực. 1.6 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ công Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính và quy trình cung cấp dịch vụ công nhằm giảm thời gian chờ đợi cho doanh nghiệp, giảm chi phí và qua đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh. Để thực hiện được định hướng này, các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau: Tăng cường tiếp xúc, tìm hiểu ý kiến đóng góp về thủ tục hành chính và phương thức cung cấp dịch vụ công từ phía khu vực doanh nghiệp, nghiên cứu, xử lý những ý kiến, yêu cầu của doanh nghiệp từ đó đưa ra các chính sách phù hợp với thực tế. Các cơ quan quản lý nhà nước cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo và đào tạo lại để đảm bảo cán bộ, công chức tiếp cận nhanh chóng với công nghệ mới, với hệ thống công nghệ thông tin, internet,… Các cơ quan quản lý nhà nước cần khẩn trương và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử và chính phủ điện tử để đảm bảo giảm chi phí hoạt động, nâng cao tính minh bạch, công khai trong quá trình tiến hành các thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công. 2. Giải pháp của Hiệp hội dệt may Việt Nam Trong thời gian qua hiệp hội dệt may Việt Nam đã làm được một số việc như: đã kiến nghị với Chính phủ về việc mở của thị trường dệt may với Mỹ, mở của thị trường để Việt Nam bình đẳng với các nước khác, quan hệ với các tổ chức nước ngoài quan tâm tới Việt Nam, tổ chức thông tin thị trương và cung cấp cho các doanh nghiệp, xúc tiến thương mại tập trung vào một số thị trường: Mỹ, EU,Nhật Bản.. Trong thời gian tới Hiệp hội cần thu thập tình hình thị trương cung cấp cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển của mình. Hiệp hội cần đại diện cho doanh nghiệp tác động đến Chính phủ,các ban ngành nhằm đưa ra đối sách,cơ chế thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, và đại diện cho doanh nghiệp tham gia với các tổ chức nước ngoài,với Hiệp hội dệt may thế giới,các tổ chức có vai trò tác động đến chính sách quốc tế với Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam phát triển. Hiệp hội nên có các hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách xây dựng,giới thiệu hình ảnh dệt may Việt Nam trên thị trường Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu,tạo sức cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Vai trò của Hiệp hội Dệt May Việt Nam được xác định là tăng cường hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp thông qua các giải pháp sau: Hiệp hội cần nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức, tổ chức lại mô hình hoạt động để thực hiện tốt vai trò là người hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, giúp liên kết các doanh nghiệp với nhau để mở rộng năng lực sản xuất, là đại diện hữu hiệu để phản ánh nhu cầu, yêu cầu của doanh nghiệp tới Chính phủ. Hiệp hội cũng cần có bộ phận, nhóm tổ chức thu thập, phân tích và xử lý thông tin về thị trường, đặc biệt là thị trường Mỹ, về yêu cầu của nhà nhập khẩu, về chính sách nhập khẩu của thị trường nhập khẩu và sự biến động của chính sách nhằm cập nhật kịp thời cho doanh nghiệp, về đối thủ cạnh tranh để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác tiếp cận thị trường. Từ đó có chiến lược tổ chức sản xuất và xuất khẩu cho phù hợp. Phân nhóm doanh nghiệp, đồng thời đề xuất những giải pháp về chuyên môn hoá nhằm giúp những doanh nghiệp có cùng ngành hàng, hoặc ngành hàng hỗ trợ liên kết với nhau thành những nhóm chia sẻ kinh nghiệm tổ chức quản lý, công nghệ, công tác xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển thị trường. Với tư cách đại diện cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Hiệp Hội Dệt May Việt Nam phải làm đầu mối tiếp xúc những tổ chức như Hiệp hội dệt may các nước trong khu vực và các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, những tổ chức dệt may của thế giới… nhằm hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp trên tầm vĩ mô, giúp nâng cao công nghệ sản xuất, và công nghệ quản lý của doanh nghiệp. Hiệp Hội có thể làm vai trò đầu mối để góp phần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tổ chức các hội chợ quốc tế chuyên ngành trong và ngoài nước. Hiệp hội có thể điều phối giá gia công, giá bán sản phẩm đối với các thành viên trong Hiệp hội, tạo sức mạnh chung và đảm bảo không có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong ngành và trong hiệp hội, tránh sức ép về giá từ khác hành nước ngoài. KẾT LUẬN Nghiên cứu mặt hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong thời gian vừa qua em thấy còn nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi các nhà quản lý và các doanh nghiệp của ta cần phải rút kinh nghiệm để đảm bảo tính ổn định của thị trường. Những vấn đề hiện nay là: Vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may Vấn đề tham gia vào các kênh tiêu thụ hàng dệt may tại thị trường Mỹ Sự am hiểu pháp luật, những quy định của Mỹ về sản phẩm hàng dệt may Trước những khó khăn thách thức như vậy thì làm thế nào cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập được vào thị trường Mỹ là vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, để làm được việc này cần có sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa các Bộ, ngành có lien quan với các doanh nghiệp. Cần phải nhác lại rằng thị trường dệt may Mỹ luôn là một thị trường lý tưởng xét cả về quy mô lớn, nhu cầu đa dạng, sức mua luôn tăng. Vì thế, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường mỹ sẽ là bước đi quan trọng của ngành dệt may Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập với thế giới, đưa Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu hàng dệt may, góp phần thực hiện thành công cuộc “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của đất nước. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác thu thập tài liệu, nghiên cứu và xây dựng đề án song do thời gian nghiên cứu cũng như trình độ có hạn nên đề án này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô giáo và bạn bề để đề tài này thêm hoàn thiện và khả thi. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxĐẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ giai đoạn 2010-2015.docx
Luận văn liên quan