Đề án Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay

LỜI MỞ ĐẦU ---–{—--- Lãi suất cơ bản, vấn đề nóng bỏng trong thời gian qua đã trở thành đề tài cho nhiều bài báo khi mà nền kinh tế tài chính toàn cầu rơi vào khủng hoảng. Với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất đã và đang được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và tăng trưởng kinh tế . trong từng thời kỳ nhất định. Việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc về NHNN. Với trọng trách to lớn đó NHNN đã thường xuyên điều chỉnh lãi suất cho phù hợp, làm cơ sở ổn định hoạt động cho các NHTM. Chính vì vậy mà việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của NHNN trong thời gian qua đã tác động nhiều mặt đến hệ thống NHTM trên cả nước. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự trên, em mạnh dạn trình bày đề tài: “Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay”. Đến đây, em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Th.S Bùi Thị Thanh Ngân, gia đình cùng nhiều bạn bè khác đã giúp em hoàn thành đề án này. Kết cấu đề án gồm 3 phần: · Phần I: Lý luận chung. · Phần II: Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ 2008 đến nay. · Phần III:Những vấn đề gặp phải và một số đề xuất trong thời gian tới Do giới hạn về trình độ, kinh nghiệm cũng như thời gian tìm hiểu thực tế nên đề án khó lòng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của giáo viên hướng để bài viết được hoàn thiện hơn. Quy Nhơn, ngày tháng 11 năm 2010. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU2 Phần I: LÝ LUẬN CHUNG3 1.1Khái niệm và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế. 3 1.1.1 Chính sách lãi suất3 1.1.2 Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế. 4 1.2 Cơ sơ điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. 4 1.2.1. Lãi suất cơ bản. 4 1.2.2. Lãi suất tái chiết khấu. 6 1.2.3. Lãi suất tái cấp vốn. 7 Phần II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI7 2.1 Khủng hoảng tài chính năm 2008 và thực trạng nền kinh tế Việt Nam 8 2.1.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. 8 2.1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ cuộc khủng hoảng đến nay. 9 2.1.2.1. Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế. 9 2.1.2.2. Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng. 10 2.1.2.3. Đối với hoạt động xuất khẩu. 10 2.1.2.4. Đối với vốn đầu tư nước ngoài11 2.2 Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 15 2.3 Tác động của chính sách lãi suất đến hệ thống Ngân hàng thương mại18 2.4 Kết quả hoạt động của các Ngân hàng. 21 Phần III: NHỮNG VẤN ĐỀ GẶP PHẢI VÀ MỘT VÀI ĐỀ XUẤT CHO THỜI GIAN TỚI 24 3.1. Những vấn đề gặp phải:24 3.2. Một số đề xuất27 KẾT LUẬN31

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4500 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổng thể quan hệ cung cầu vốn thông qua hàng loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thông thường. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự kiến, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có lãi cho TCTD, yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kì, rủi ro trong hoạt động tín dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường tiền tệ nói chung, mối tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tương quan giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái… Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định và điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa, lãi suất cho vay tối đa, lãi suất tái chiết khấu của NHTW đối với các tổ chức tín dụng hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu: đây là phương pháp phổ biến được NHTW các nước áp dụng. Do lãi suất này được chủ động công bố và được xem xét, tính toán tương đối thường xuyên nên thực sự đóng vai trò quyết định đối với các mức lãi suất kinh doanh cũng như cung cầu vốn của các TCTD. Nhưng lại mang nặng tính chất điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa: Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHTW công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hóa lãi suất cho vay. Các tổ chức tín dụng sẽ ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa: NHTW công bố một mức lãi suất trần nhưng có thể quy định biên độ phù hợp vời từng loại hình TCTD, thời hạn khác nhau. Lãi suất cơ bản là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng: Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất cho vay giữa các NHTM. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành trên cở sở thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Do vậy, lãi suất liên ngân hàng gắn liền với thị trường nhiều hơn và dễ biến động hơn. Thông thường, lãi suất cơ bản bằng lãi suất liên ngân hàng cộng với một biên độ gồm chi phí quản lý món vay, chi phí rủi ro… Sử dụng lãi suất cơ bản phải linh hoạt tùy vào từng thời điểm như: hạn chế tăng trưởng tín dụng bằng cách tăng lãi suất tiền vay và tăng lãi suất tiền gửi. Biện pháp tăng lãi suất tiền vay nhằm khống chế tình trạng đồng vốn vay được sử dụng tự do trên thị trường. Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút một lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Hai biện pháp này sẽ hỗ trợ cho nhau giúp NHNN chủ động “cầm nắm” được thị trường tiền tệ. Nhờ vậy mà góp phần kiềm chế được tình trạng lạm phát, kinh tế vĩ mô được điều tiết hợp lý, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong đó các ngân hàng thương mại được đảm bảo. 1.2.2. Lãi suất tái chiết khấu Khi nền kinh tế phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, NHTW chuyển sang điều hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi suất tái chiết khấu của NHTW. Lãi suất tái chiết khấu tác động và có ý nghĩa hướng dẫn lãi suất thị trường một cách gián tiếp, tức là tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Lãi suất chiết khấu chủ yếu tác động đến cung tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự giảm xuống cho vay chiết khấu sẽ làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung ứng tiền tệ. Còn một sự tăng lên trong cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng cung ứng tiền tệ. Ngoài việc sử dụng làm công cụ để tác động đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ, lãi suất chiết khấu còn được sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính vì NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng. NHTW cung cấp hệ thống dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các ngân hàng bị đe dọa phá sản, do đó ngăn chặn những cơn sụp đổ tài chính. Như vậy, lãi suất chiết khấu chính là một công cụ điều hành lãi suất của NHTW sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. 1.2.3. Lãi suất tái cấp vốn Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi tái cấp vốn cho NHTM, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, đồng thời tạo cơ sơ cho NHTM tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán cho họ. NHTW điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn phù hợp với mục tiêu thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông. NHTW cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM. Phần II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY) 2.1 Khủng hoảng tài chính năm 2008 và thực trạng nền kinh tế Việt Nam 2.1.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ cũng đã qua nhưng cho đến nay dư âm và tác động của nó vẫn còn. Năm 2008, khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm. Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính... đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh này được đánh giá cao bởi các tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không chỉ dừng lại ở đó, nhiều công ty bảo hiểm, trong đó có AIG, còn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này. Chiến lược trên được đưa ra với mục đích giảm rủi ro cho những khoản vay bất động sản. Tuy nhiên, trái lại nó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn. Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản. 2.1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ cuộc khủng hoảng đến nay Biến cố kinh tế thế giới tác động rõ nét tới độ ổn định và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2008 đã đi qua với lãi suất cao và vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, sụt giảm của TTCK đang tiếp diễn… 2.1.2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế đã làm chậm tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam. Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP dự kiến từ 8,5 – 9%. Tháng 5 năm 2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%, nhưng đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế chỉ là 6,52%. Tổng cục Thống kê cho biết, theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý 1/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý 2, quý 3 và quý 4 của năm nay đã nâng dần lên, lần lượt là 4,46%, 6,04% và 6,9%. Và tính chung cả năm tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, vượt mục tiêu kế hoạch là 5% đã điều chỉnh trước đó. Tính theo khu vực kinh tế, năm 2009, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng trưởng 1,83%; công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008 nhưng đã vượt mục tiêu 5% của kế hoạch đề ra trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm, và kết quả trên là một thành công lớn. Mặt khác, tốc độ tăng trưởng GDP quý 1 và 2 của năm 2009 thấp hơn quý 1 và 2 của năm 2008, nhưng quý 3/2009 đã tăng cao hơn tốc độ của quý 3/2008 (6,04% so với 5,98%); tương tự quý 4/2009 cũng tăng cao hơn quý 4/2008 (6,9% so với 5,89%). “Điều này cho thấy kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tăng trưởng, chứng tỏ các giải pháp ngắn chặn suy giảm kinh tế triển khai trong năm qua đã phù hợp với tình hình thực thế, đã và đang phát huy hiệu quả tích cực”, Tổng cục Thống kê nhận định 2.1.2.2. Hệ thống tài chính – ngân hàng Khủng hoảng làm mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài chính bên ngoài và với ngân hàng Mỹ gặp khó khăn. Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế giảm, ảnh hưởng đến nợ vay ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của nhiều ngân hàng giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ bị thua lỗ; nợ xấu tăng lên; nên hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam cho đến nay vẫn còn dấu hiệu của sự ảnh hưởng. Cụ thể, sau một giai đoạn thắt chặt trong năm 2008 để giải quyết tình trạng quá nóng, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng đáng kể nhằm hỗ trợ nhu cầu nội địa. Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm một nửa lãi suất với các khoản vay chính sách xuống còn 7% từ giữa năm 2008 đến tháng 2/2009. Cắt giảm lãi suất đối với vay chính sách và hỗ trợ lãi suất đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Chỉ số định lượng về chất lượng danh mục đầu tư của ngân hàng (dựa trên thời gian thiếu nợ và nợ lũy tiến) đã cho thấy nợ xấu tăng. Do lãi suất cho vay không được phép cao hơn lãi suất đối với vay chính sách quá 50%, nên mức chênh lệch lãi suất của các Ngân hàng thương mại bị thu hẹp đáng kể. Lãi suất thấp còn gây khó khăn cho chính phủ trong việc phát hành trái phiếu và gây ra tâm lý lưỡng lự của các nhà xuất khẩu khi bán ngoại hối. Nhận ra các nguy cơ đang nổi lên từ chính sách nới lỏng tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước gần đây đã yêu cầu các Ngân hàng thương mại lớn phải giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 25% trong năm 2009. 2.1.2.3. Hoạt động xuất khẩu Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20% đến 21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam trong năm 2008 và cả năm 2009. Khủng hoảng tài chính Mỹ còn tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm. Thực tế những tháng gần đây, với tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm sút, kim ngạch xuất khẩu tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất khẩu suy giảm. Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD giảm so với mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được kim ngạch ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu USD của tháng 10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Khủng hoảng tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam giảm giá tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu. 2.1.2.4. Vốn đầu tư nước ngoài Khủng hoảng làm chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn đã làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Mặc dù vậy, nhưng lượng vốn FDI cam kết dành cho Việt Nam vẫn tăng cao kỷ lục. Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 tháng của năm 2008, 1059 dự án FDI được đăng ký mới với qui mô vốn cam kết vượt trên 60 tỷ USD. Đây là con số rất ấn tượng, gấp hơn 3 lần năm 2007 và hơn 8 lần so với năm 2005. Giải ngân vốn FDI năm 2008 cũng lập một kỷ lục với 10,1 tỷ USD cho đến hết tháng 11/2008, tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2007, nhưng cho đến nay tỷ lệ vốn giải ngân mới chỉ bằng 17% con số đăng ký. Theo số liệu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố hôm qua, trong năm 2009, Việt Nam chỉ thu hút được tổng cộng khoảng hơn 21 tỷ đôla đầu tư, vượt qua chỉ tiêu đề ra cho năm nay là 20 tỷ đôla. Tuy nhiên, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ bằng 30% so với năm ngoái. Cũng theo các số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được sử dụng chỉ đạt khoảng từ 9-10 tỷ đôla, thấp hơn mức 11,5 tỷ đôla của năm ngoái. Trong năm tới, theo dự báo đầu tư nước ngoài cũng sẽ không khá gì hơn, nhất là vì tại Việt Nam còn nhiều cản lực đặc biệt là cơ sở hạ tầng yếu kém và nạn quan liêu tham nhũng. Cùng với nguồn tiền cho người Việt ở nước ngoài gởi về vẫn là nguồn ngoại tệ chủ yếu để Việt Nam giảm bớt thâm thủng mậu dịch. Vào tuần trước, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng  tuyên bố là kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng trong năm nay, nhưng mức tăng trưởng này chưa thật sự ổn định do mức thâm thủng mậu dịch tăng cao trong khi lượng ngoại tệ dự trữ sụt giảm, do hậu quả của việc sụt giảm đồng loạt vốn đầu tư nước ngoài, kim ngạch xuất khẩu và tiền gởi của Việt kiều. 2.1.2.5. Hoạt động của thị trường chứng khoán Khủng hoảng tài chính ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới, theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn, họ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp khó. Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khoán chịu những tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu sụt giảm. Đến cuối năm 2008, giá trị các chỉ số chứng khoán giảm tới 70% so với đầu năm. Ngay một số cổ phiếu thuộc nhóm “blue-chip” còn có mức sụt giảm lớn hơn nhiều, như SSI (- 84%) và FPT (- 78%). Khủng hoảng tài chính còn tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam, do đó TTCK cũng bị tác động xấu. Nửa đầu năm 2008, chỉ số chứng khoán tụt dốc nhanh chóng. Đầu tháng 1/2008, VNIndex còn trên 900 điểm. Tới đầu tháng 6/2008, hàn thử biểu kinh tế lần đầu rơi xuống dưới ngưỡng 400 điểm. Thị trường tiếp tục giằng co trong quí III/2008. Từ sau tháng 10/2008, TTCK liên tục giảm điểm. Tới ngày 11/12/2008, VNIndex chỉ còn 288 điểm. Tại Hà Nội, HaSTC-Index còn 101 điểm. Trước đó, thị trường Hà Nội thậm chí còn lùi về sau vạch xuất phát, tụt xuống 97,61 điểm vào kết thúc phiên giao dịch ngày 27/11/2008. Năm 2009 là năm nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua được khủng hoảng và tiếp tục đà tăng trưởng, cùng với sự hồi phục của nền kinh tế, thị trường chứng khoánViệt Nam đã có dấu hiệu hồi phục, tạo đà cho các bước tăng trưởng của những năm tiếp theo. Trong năm 2009 hoạt động của các công ty chứng khoán (CtyCK) được thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, mạng lưới, quy mô hoạt động của CtyCK ngày càng được mở rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, T.p Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng. Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài khoản giao dịch tại các CtyCK cũng tăng mạnh với tổng số tài khoản trên 800.000 tài khoản, tăng 1,5 lần so với năm 2008. Thứ hai, Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CtyCK đã thực hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009 đã có gần 80 CtyCK hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mô vốn hoạt động của các CtyCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CtyCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008. Thứ ba, Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khoán ngày càng tăng. Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán cho 2.744 nhân viên. Nhiều CtyCK đã tuyển dụng được nhân viên có trình độ, chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, góp phần nâng cao năng lực quản lý trong hoạt động. Các CtyCK đã chú trọng đầu tư, hiện đại hóa, hệ thống công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán. Hoạt động giao dịch phục vụ khách hàng diễn ra suôn sẻ và ngày một tốt hơn. 2.1.2.6. Thị trường bất động sản Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực tài chính khá hạn hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng. Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với giá trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 nền kinh tế Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, không bán được sản phẩm lại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao. Đến nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá BĐS giảm kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi. Nếu nhìn vào diễn biến cả năm, thì thị trường này nhìn chung ế ẩm, hoặc chỉ tăng cục bộ ở một số phân khúc. Khảo sát thực tế cho thấy, tại nhiều dự án ở TP.HCM, giá đã tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm 2008. Ở Hà Nội, cách nay khoảng một tháng, người dân đổ xô đi mua chung cư và nhà dự án đã đẩy giá phân khúc thị trường này tăng lên chóng mặt. Ở một số dự án chung cư cao cấp, giá tăng đến 10 – 15 triệu đồng/m2 so với giá gốc. Đất nền dự án tại không ít dự án cũng bị đẩy lên từ 10 – 20% so với trước đó. Sau đó ít lâu, giá nhà đất tự dưng tuột dốc nhanh chóng. Một loạt dự án đình đám trở thành tâm điểm của thị trường đã bắt đầu chững lại và giảm giá. Mặc dù chịu sức ép của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 nhưng thị trườngbất động sản vẫn được đánh giá khá hấp dẫn, đặc biệt hai thành phố lớn Hà Nội và TP HCM. Năm 2009 là năm được mùa của các dự ánbất động sản, trong đó chủ đầu tư lớn đã liên tiếp tung ra hàng loạt dự án lớn. Một loạt dự án mới được khởi công và chào bán ra thị trường tạo một nguồn cung lớn 2.1.2.7. Thị trường hàng hóa dịch vụ Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dùng. Tình hình kinh tế thế giới suy thoái, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn nhiều khó khăn. Trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô do chi phí sản xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một số hoạt động dịch vụ bị thu hẹp trong đó có du lịch. Tổng cục Thống kê cho biết, hoạt động thương mại và dịch vụ sôi động hơn trong những tháng cuối năm 2009 do sản xuất trong nước phục hồi, nhu cầu tiêu dùng tăng lên và giá cả hàng hoá, dịch vụ tương đối ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước tính đạt 1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so với năm 2008. Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%, kinh tế tập thể tăng 18,8%. Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp tăng 18,6%; khách sạn, nhà hàng tăng 18,4%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 1,9% 2.2 Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Sơ đồ 2.1: Lãi suất chủ đạo của NHNN Việt Nam năm 2008 và 2009 (Nguồn: Số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính tiền tệ thế giới có sự phát triển vượt bậc cả về quy mô lẫn chiều sâu, cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước thay đổi theo hướng tự do hóa. Tuy nhiên, ở mỗi nước, NHTW căn cứ vào luật định, điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội, thị trường tài chính tiền tệ cũng như địa vị pháp lý của NHTW, mục tiêu của chính sách tiền tệ (lạm phát hoặc đa mục tiêu) để áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp trong từng thời kì nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Đối với nước ta cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn, từ giữa thán 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng cơ chế điều hành lãi suất. Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM. Đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung - cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước. Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoản 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% - 5%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM. Ngày 30/01/2008, thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu ký ban hành hai quyết định số 305 và 306 điều chỉnh lãi suất cơ bản bằng VND, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Theo đó lãi suất cơ bản VND tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm áp dụng từ ngày 01/12/2008. Mục đích của việc tăng mức lãi suất là nhằm tiến tới thiết lập mối quan hệ hợp lý lãi suất điều hành của nhà nước với lãi suất thị trường, nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ lãi suất, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2008. Như vậy là sau 2 năm được giữ ổn định (từ tháng 12/2005), lãi suất cơ bản VND đã tăng trở lại. Từ tháng 5 – 9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ “thắt chặt”, các mức lãi suất chủ đạo được điều chỉnh tăng. Lãi suất cơ bản tăng từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 11%/năm lên 13%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng 10/2008 đến nay, NHNN chuyển hướng điều chỉnh lãi suất tiền tệ từ “thắt chặt” để chống lạm phát sang “nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cơ bản từ 14% - 13% - 11% - 8,5% - 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15% - 13% - 12% - 9,5% - 8% - 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 13% - 11% - 12% - 10% - 7,5% - 6%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 15% - 14,3% - 13,5% - 11% - 9% - 8% - 7,5% - 7%/năm. 2.3 Tác động của chính sách lãi suất đến hệ thống Ngân hàng thương mại Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định. Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng. Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của Ngân hàng thương mại, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường.  Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của các Ngân hàng thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2009. Thông tư được ban hành nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 627/VPCP-KTTH ngày 23 tháng 01 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ về áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận của các tổ chức tín dụng. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới, việc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định, được thực hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính - tiền tệ ở trong và ngoài nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính. Việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các doanh nghiệp, người dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các NHTM quan tâm theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của các NHTM, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Xử lý vấn đề này, NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. 2.3.3 Kết quả hoạt động của các Ngân hàng Năm 2009, nhờ các chính sách kích cầu của Chính phủ, sự điều hành tỉnh táo và thận trọng của NHNN Việt Nam cộng với những nỗ lực tự thân của các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp nên từ quý II/2009, sự khó khăn đã được giảm đáng kể và hệ thống ngân hàng đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu một cách khá êm đẹp. Mặc dù lãi suất cơ bản năm 2009 không biến động nhiều như năm 2008 nhưng lại được giữ khá lâu ở mức 7% khiến cho hoạt động ngân hàng có nhiều lúc trở nên khó khăn khi lãi suất cho vay bị khống chế ở mức trần 10,5% còn lãi suất huy động thì đã lên tới 9,99%, nhưng hệ thống ngân hàng vẫn cố gắng phát huy tốt nhất vai trò của mình là kênh truyền dẫn vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là dòng vốn hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Nhiều ngân hàng đã thận trọng hơn với các khoản cho vay, tìm mọi cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai. Đồng thời, chủ động chuyển hướng sang các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dịch vụ phi tín dụng. Vì vậy, có không ít ngân hàng thuộc nhóm các ngân hàng lớn trong khối cổ phần đã có tỷ trọng nguồn thu phi tín dụng khá cao. Tỷ trọng đó tại ACB hay Techcombank hiện ở khoảng 50%, tại Sacombank khoảng 40%. Cũng nhờ thế, đến giữa năm 2009, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã dần đi vào hoạt động ổn định. Tính chung cả hệ thống, tăng trưởng tín dụng đến hết tháng 11/2009 là khoảng 34% trong khi năm 2008, con số này chỉ ở mức 21% đến 22%. Tuy con số này được đánh giá là quá nóng nhưng nếu nhìn từ khía cạnh tích cực, có thể thấy rằng đây là một dấu hiệu của sự phục hồi kinh tế. Tổng dư nợ tín dụng tăng lên cũng có nghĩa là nhu cầu vốn của nền kinh tế vẫn còn và cũng có nghĩa là các doanh nghiệp vẫn còn “sống” và đang trong quá trình “hồi phục” - một dấu hiệu rất đáng mừng cho thấy nền kinh tế đã qua giai đoạn khủng hoảng. Hơn nữa, không thể phủ nhận nỗ lực của hệ thống ngân hàng khi nợ xấu toàn hệ thống hiện đã giảm đáng kể so với thời điểm cuối năm 2008, đầu năm 2009. Tất nhiên, một phần không nhỏ là nhờ gói hỗ trợ lãi suất kích cầu, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, tiếp tục kế hoạch kinh doanh để thu hồi vốn trả nợ vay ngân hàng nhưng một phần nữa chính là những nỗ lực của bản thân các ngân hàng. Hiện tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank là 3% (con số này thời điểm đầu năm là gần 4%), của Eximbank chỉ còn trên 2% so với mức 4,71% cuối năm 2008 và 6% thời điểm đầu năm 2009. Các ngân hàng khác như ACB, Sacombank cũng có tỷ lệ nợ xấu ở mức rất thấp (đều dưới 1%). Theo đánh giá của ông Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, “với tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống khoảng 2,46%, không có vấn đề gì đáng lo ngại về sức khoẻ của hệ thống ngân hàng”. Thực tế cho thấy, cho đến hết tháng 11/2009 vừa qua, không ít ngân hàng đã có những kết quả kinh doanh hết sức khả quan. Trong số các NHTM cổ phần, có nhiều ngân hàng đã có lợi nhuận dự kiến vượt 2.000 tỷ đồng như Vietcombank, VietinBank, ACB và Techcombank; nhóm các ngân hàng có lợi nhuận trên 1.000 tỷ đồng gồm: Sacombank, Eximbank, Ngân hàng Quân đội; nhóm các ngân hàng có lợi nhuận dưới 1.000 tỷ đồng gồm: Ngân hàng Hàng Hải, Ngân hàng cổ phần Sài Gòn, Ngân hàng Quốc tế, Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Liên Việt... Tất nhiên, những khó khăn của năm 2008 cũng khiến các ngân hàng dè chừng hơn trong việc đưa ra các mục tiêu cho năm 2009 nên thường họ chỉ đưa ra mục tiêu vừa phải, và tập trung vào việc củng cố hoạt động để phát triển vững chắc hơn. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của năm 2009 dự kiến đạt 19%, tăng so với năm 2007 là 17,8% và vượt xa con số 11,9% năm 2008. Điều quan trọng là các NHTM Việt Nam cũng như cơ quan quản lý là NHNN đều đã ý thức được sự cần thiết phải thực hiện những dự phòng tài chính cho các khoản tín dụng đang tồn đọng và có nguy cơ khó đòi, những dự phòng quan trọng nhằm kiểm soát và ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tín dụng. Hệ thống đang hành động hướng đến mục tiêu an toàn hơn và lành mạnh hơn, với sự tăng cường giám sát rủi ro từ phía các cơ quan quản lý vĩ mô và một sự tự nguyện dành ưu tiên cho các mục tiêu an toàn từ phía các ngân hàng. Khi các ông chủ ngân hàng hành động đúng đắn, đó là một tín hiệu lạc quan giúp phục hồi và phát triển niềm tin, sự tín nhiệm của công chúng, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào hệ thống ngân hàng. Phần III: NHỮNG VẤN ĐỀ GẶP PHẢI VÀ MỘT VÀI ĐỀ XUẤT CHO THỜI GIAN TỚI 3.1. Những vấn đề gặp phải Đối với các nền kinh tế thị trường chưa phát triển như VN, nhiều quan hệ kinh tế chưa thực sự mang tính thị trường thì việc vận dụng các nền tảng lý thuyết (điển hình như quy tắc Taylor - giúp cho một NHTW xác định được các tỷ lệ lãi suất trong ngắn hạn khi các điều kiện kinh tế thay đổi để đạt được hai mục tiêu là ổn định kinh tế trong ngắn hạn và kiểm soát lạm phát trong dài hạn), để hoạch định chính sách lãi suất cần có sự linh hoạt, bám sát mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội cũng như các diễn biến thực tế của thị trường. Trong điều kiện như hiện nay, để đạt được mục tiêu định hướng nêu trên, hoạch định chính lãi suất của NHNN cần phải xem xét đến các yếu tố thực tế. Thực trạng của nền kinh tế VN hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc. Dù tăng trưởng kinh tế quý 1/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quý 1/2009, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại. Cho đến thời điểm hiện nay có thể thấy hệ thống Ngân hàng VN đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. Xét trong hệ thống các TCTD với 73 ngân hàng và 8 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít NHTM có vốn điều lệ và tài sản lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (2 NHTM NN, 3 NHTM mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, 1 ngân hàng chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung ứng tín dụng khoảng 60%. Mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường tồn tại nhiều NHTM có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008, và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quý 1 chỉ đạt 3,34%). Trong quý 1/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng, điều đó cho thấy vốn của các NHTM không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có hững biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng. Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Dư nợ tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển chiếm khoảng 12,1% tổng dư nợ trong nền kinh tế... Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó. vCân nhắc lợi ích Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn”- là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của VN hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào, tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột. Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường quan tâm đến mức lãi suất thực mà mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của VN hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010  khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mãi khác. Tuy nhiên lãi suất thực đang có xu hướng giảm bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần. Như vậy có nghĩa là các NHTM vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát. Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý 1/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế. v Hướng tới tự do hóa lãi suất Là một nền kinh tế USD hóa, lãi suất nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ cộng (+) với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa nội tệ và ngoại tệ của các thành viên trong thị trường. Điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt chính sách khác (như yêu cầu các Tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã  phải hướng tới sự ổn định này. 3.2. Một số đề xuất Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, … NHNN tác động điều tiết mức cung tiền nhằm ổn định tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vai trò to lớn và ngày càng rõ rệt của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ là thực tế hoàn toàn không thể phủ nhận. Từ giác độ NHTM, xin nêu ra một số đề xuất. Thứ nhất, ngoại trừ điều kiện bất khả kháng, nên tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản như thời gian qua. Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản đã thực sự trở thành công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ, chỉ báo nhạy bén của thị trường tiền tệ. Mỗi thay đổi của công cụ này đã gần như ngay lập tức có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Tính đến thời điểm hiện nay đã là hơn 6 tháng NHNN giữ lãi suất cơ bản ở mức 7%. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô – yếu tố rất cần thiết trong giai đoạn “hậu suy thoái”. Vì vậy, lãi suất cơ bản nên tiếp tục giữ ổn định ở mức như hiện nay. Thứ hai, nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tời dừng thực hiện hỗ trợ lãi suất. Gần đây NHNN đang có hướng hạn chế dần mức cung tiền với các biện pháp: khống chế tăng trưởng dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước, giảm lãi suất DTBB (xuống còn 1,2% từ 17/07/09), giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống còn 30% (Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009). Trước hết phải nói rằng, hạn chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay là một động thái đúng đắn khi tín dụng có xu hướng tăng nóng và cần thiết để ngăn chặn nguy cơ lạm phát. Áp lực tăng giá trong năm 2009 có thể còn thấp nhưng chắc chắn sang năm 2010 sẽ lớn hơn do các nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhu cầu đầu vào lớn đẩy giá cả của nguyên nhiên liệu tăng cao. NHNN nên xem xét đề xuất với Chính Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt khác có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác động không tốt cho nền kinh tế và hệ lụy xấu cho các NHTM. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp giảm áp lực bội chi ngân sách, giảm áp lực lạm phát. Tính đến hết tháng 7 năm 2009, tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống đã tăng 22,76% so với cuối năm 2008. Thời gian qua, dư nợ tín dụng tăng mạnh không thể nói là không có lý do từ hiệu ứng của chính sách “hỗ trợ lãi suất”. Từ nay đến hết năm, nếu dừng hỗ trợ lãi suất, dư nợ tín dụng vẫn có thể tăng 28-30%. Trong cơn bão khủng hoảng tài chính thời gian qua, các NHTM Việt Nam vẫn trụ vững nhờ đảm bảo tính an toàn trong hoạt động. An toàn hoạt động của các NHTM là nhân tố hết sức quan trọng đảm bảo tính an toàn của hệ thống, đảm bảo an toàn tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, thời gian tới các NHTM cần đặc biệt chú trọng để duy trì an toàn hoạt động mà một trong các biện pháp là phải đảm bảo sự cân đối cần thiết theo kỳ hạn còn lại của các khoản mục tài sản và công nợ, đảm bảo tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định của NHNN. Thứ ba, các NHTM cần phối hợp chặt chẽ và tăng cường đồng thuận. Mỗi NHTM có một mục tiêu, chiến lược hoạt động riêng. Các NHTM là đối thủ cạnh tranh của nhau nhưng cũng đồng thời là đồng minh của nhau trong những “trận tuyến chung”: chống lạm phát, chống suy giảm kinh tế, … Và sự tương hỗ, phối hợp hành động giữa các NHTM với nhau trong những giai đoạn khó khăn chung là hết sức cần thiết và quan trọng. Vai trò của Hiệp Hội Ngân hàng trong việc tăng cường sự phối hợp và đồng thuận của các NHTM cần được đẩy mạnh hơn nữa. Việc đồng thuận trong huy động vốn đặc biệt là ngoại tệ sẽ tạo thuận lợi cho cả nền kinh tế và phù hợp với mặt bằng thế giới. Đồng thuận trong áp dụng tỷ giá mua bán ngoại tệ sẽ làm giảm áp lực căng thẳng về ngoại tệ. Thứ tư, nên tăng cường cơ chế thông tin đại chúng về các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy, những biến động của thị trường tiền tệ, đặc biệt là diễn biến tỷ giá ngoại tệ chịu sự tác động khá lớn của yếu tố tâm lý. Vì vậy, thời gian tới NHNN cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin đại chúng, định hướng dư luận, … Nên xem xét chủ động và định kỳ công bố thông tin về dự trữ ngoại hối như các quốc gia khác vẫn làm. Thứ năm, cần tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm trong việc thực hiện các quy định liên quan đến chính sách tiền tệ: vi phạm về biên độ tỷ giá, về trần lãi suất, trong cho vay hỗ trợ lãi suất, vi phạm của các đại lý thu đổi ngoại tệ, … Thời gian qua công tác này đã được NHNN hết sức chú trọng. Tuy nhiên để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM và đặc biệt là để các công cụ của chính sách tiền tệ thực sự phát huy tác dụng tích cực, cần phải xiết chặt hơn các chế tài đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng cũng như phát huy cơ chế giám sát chéo, cơ chế giám sát của cộng đồng, công luận, … Nền kinh tế thế giới đang vượt qua suy thoái và dần hồi phục. Kinh tế Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ “hậu suy giảm”. Với những công cụ hữu hiệu và sự điều hành linh hoạt của NHNN, chắc chắn chính sách tiền tệ sẽ là động lực tạo đà thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển bền vững. KẾT LUẬN –— Nền kinh tế luôn luôn có những biến động, chính sách của Nhà nước luôn luôn thay đổi, các chủ thể trong nền kinh tế do vậy luôn luôn chịu tác động. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, người thực thi chính sách tiền tệ, thời gian qua đã rất khôn khéo và linh hoạt khi đưa ra những sự điều chỉnh táo bạo trong chính sách lãi suất. Nhờ các chính sách của Chính phủ, sự điều hành tỉnh táo và thận trọng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cộng với những nỗ lực tự thân của các ngân hàng mà hệ thống ngân hàng đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu một cách khá êm đẹp. Thời gian tới chắc chắn sẽ có những biến đổi mới, tính đúng đắn của các chính sách cũng như sự đồng thuận của những người điều hành và sự sáng tạo của người thực thi sẽ là chìa khóa giúp nền kinh tế nước nhà vực dậy sau những khó khăn, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính-tiền tệ và ngân hàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay.doc
Luận văn liên quan