Đề tài Bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Không nằm ngoài chiến lược phát triển chung của toàn bộ hoạt động ngân hàng, dịch vụ bảo lãnh cũng được xác định theo phương hướng phát triển phù hợp với xu thể chung đó là thúc đẩy hoạt động cả về chiều rộng và chiều sâu. Cụ thể: - Đa dạng hóa sản phẩm bảo lãnh: NH vừa thực hiện duy trì nhũng sản phẩm bảo lãnh truyển thống vừa triển khai những loại hình bảo lãnh mới nhằm phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng cũng như đáp ứng xu thế của nền kinh tế thị trường năng động. - Nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh đặc biệt là chất lượng ở khâu thẩm định: công tác thẩm định giúp NH giảm thiểu được các rủi ro phát sinh như thông tin bất cân xứng, rủi ro về các khoản nợ quá hạn - Hoàn thiện qui trình bảo lãnh: đơn giản hóa qui trình cũng như thời gian các bước thực hiện trong qui trình rút ngắn nhưng vẫn đạt hiệu quả cao. - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vì y ếu tố con người luôn luôn chi phối sự thành công hay thất bại của không chỉ dịch vụ bảo lãnh nói riêng mà toàn bộ hoạt động NH nói chung.

pdf34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2561 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, thậm chí chỉ mất vài năm, một cá nhân có thể lên làm giám đốc chi nhánh, trưởng phòng trong thời gian sự nghiệp quá ngắn. Từ đó, rủi ro đã xuất hiện chủ yếu do: Một là, rủi ro do trình độ yếu kém của đội ngũ cán bộ tín dụng, năng lực hạn chế của lãnh đạo các ngân hàng thương mại. Hai là, rủi ro về vận dụng các quy định của pháp luật trong nước, quốc tế liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, làm phát sinh những tranh chấp kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngân hàng. Ba là, yếu kém trong năng lực phân tích, thẩm định khách hàng dẫn đến việc ngân hàng bị lừa đảo, mất vốn do phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong khi bên được bảo lãnh mất khả năng thanh toán. Điều này dẫn đến việc người quản lý không hình dung được hết các rủi ro. Một số trường hợp cấp bảo lãnh cho khách hàng chỉ dựa vào uy tín khách hàng mà thiếu sót trong khâu thẩm định các yếu tố khác khi cấp bảo lãnh. Bên cạnh đó cũng có một số trường hợp ngân hàng lấy nhiều lý do khác nhau để không thanh toán nghĩa vụ bảo lãnh, trong đó có lý do như người phát hành cam kết bảo lãnh không đủ thẩm quyền. Trường hợp hai là ngân hàng phát hành chứng thư bảo lãnh vô điều kiện không hủy ngang nhưng nhưng lại kèm theo câu là bên nhận bảo lãnh phải gửi hồ sơ chứng minh vi phạm kèm theo văn bản yêu cầu thanh toán nghĩa vụ bảo lãnh. Việc này thường xảy ra với các ngân hàng quản trị kém về nghiệp vụ cấp bảo lãnh, dẫn đến chỉ cần bên được bảo lãnh cho rằng mình chưa vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch được bảo lãnh và yêu cầu ngân hàng không được thanh toán cho bên nhận bảo lãnh là ngân hàng sẽ vô cùng khó xử. Bởi suy cho cùng, vi phạm hay không vi phạm chỉ có tòa án mới có thẩm quyền phán quyết cuối cùng, nên ngân hàng không thanh toán cho bên nhận bảo lãnh thì cũng khó giải quyết thõa đáng, mà thanh toán thì cũng khó đòi lại được tiền từ bên được bảo lãnh. Ví dụ trong trường hợp bên nhận bảo lãnh bán gạo cho bên được bảo lãnh, khi hàng đã giao, bên nhận bảo lãnh yêu cầu thanh toán tiền nhưng bên bảo lãnh lại cho rằng gạo giao có chất lượng thấp nên chỉ thanh toán khi bên nhận bảo lãnh đổi hàng, khiến xảy ra tranh chấp và ngân hàng cấp bảo lãnh trong trường hợp này sẽ rất khó xử lý việc thanh toán hay không thanh toán nghĩa vụ bảo lãnh. 1.5.2 Rủi ro đối với bên được bảo lãnh: Rủi ro đến từ bên được bảo lãnh chủ yếu do cố ý hoặc vô ý không tuân thủ quy định trong bảo lãnh ngân hàng. Người đứng ra ký tên trên hợp đồng bảo lãnh không đủ thẩm quyền, hoặc có sự câu kết với nhân viên ngân hàng với bên được bảo lãnh làm giả hồ sơ bảo lãnh. Ngoài ra, trình độ nguồn nhân lực trong thực hiện giao kết hợp đồng, khả năng quản trị điều hành, tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo của bên được bảo lãnh còn nhiều hạn chế. Cụ thể là đánh giá không đúng thực lực trong điều hành, cũng như tồn tại những vấn đề bất cập ngay trong chính sự vận hành nguồn lực, nhân lực và kỳ vọng phát triển của khách hàng đã dẫn đến sự đổ vỡ không tránh khỏi. Từ đó, ngân hàng sẽ phải hứng chịu những khoản nợ xấu từ bảo lãnh. Việc chậm hoặc thực hiện không đúng, hay không thực hiện hợp đồng như đã giao kết của bên được bảo lãnh sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của bên thụ hưởng. 1.5.3 Rủi ro đối với bên thụ hưởng bảo lãnh: Việc tìm hiểu đối tác để thực hiện giao kết kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng đối với bên thụ hưởng. Bên thụ hưởng còn nhiều thiếu sót trong việc xem xét đối với các điều kiện trong cam kết bảo lãnh để có thể nhận được quyền thụ hưởng từ ngân hàng bảo lãnh. Trong nhiều trường hợp, khi bên được bảo lãnh không thực hiện các điều kiện như đã giao kết với bên thụ hưởng, ngân hàng bảo lãnh tìm đủ các khe hở pháp lý trong cam kết bảo lãnh để tránh việc phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Không có mẫu chuẩn áp dụng chung cho các cam kết bảo lãnh. Bên thụ hưởng bảo lãnh còn thiếu một đội ngũ tư vấn hiểu rõ về các quy định pháp lý liên quan đến các điều khoản trong cam kết bảo lãnh để có những dự phòng phù hợp. GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 17 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt hơn, đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng phát triển và đổi mới theo hướng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có, tiếp cận và ứng dụng các dịch vụ mới. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ được các NHTM Việt Nam quan tâm phát triển trong thời gian qua. Phát triển nghiệp vụ này không những góp phần đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng mà còn thỏa mãn nhu cầu đa dạng hóa về bảo lãnh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh tế-thương mại. 2.1 Các rủi ro thường gặp trong hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam: 2.2.1 Rủi ro đối với ngân hàng bảo lãnh: a) Rủi ro phát sinh trong nội bộ ngân hàng: - Nhân viên ngân hàng tiếp tay cho bên được bảo lãnh: Ví dụ: Trường hợp tranh chấp về bảo lãnh xảy ra giữa Agribank và các DN như công ty CP Gang thép Thái Nguyên CN. Hà Nội (17.2 tỷ), công ty TNHH TM Tràng An (40 tỷ) công ty CP Thép Việt Nhật (30 tỷ) và chi nhánh công ty TNHH thiết bị nặng Tất Hồng (22 tỷ) có liên quan đến Công ty Tân Hồng. Theo đó, chi nhánh Agribank Hồng Hà đã cấp bảo lãnh cho Công ty Tân Hồng khi tham gia mua hàng hóa của một số DN này. Tuy nhiên, sau đó Công ty Tân Hồng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán và phía Agribank cũng từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Cụ thể: - Agribank chi nhánh Hồng Hà đã phát hành bảo lãnh thanh toán trị giá 40 tỉ đồng cho hợp đồng mua bán bột giấy giữa Công ty CP xuất nhập khẩu Tân Hồng và Công ty TNHH thương mại Tràng An từ ngày 12/8 - 14/12/2011. Theo đó, do đã qua thời hạn thanh toán, nhưng phía Công ty CP xuất nhập khẩu Tân Hồng không trả nợ được. Phía Công ty TNHH thương mại Tràng An đã nhiều lần đề nghị Agribank chi nhánh Hồng Hà thanh toán theo đúng bảo lãnh đã làm, nhưng vẫn chưa nhận được tiền thanh toán theo đúng cam kết. - Cũng với hình thức phát hành bảo lãnh thanh toán cho chính Công ty CP xuất nhập khẩu Tân Hồng, Agribank chi nhánh Hồng Hà đã trở thành “con nợ” của Công ty CP gang thép Thái Nguyên chi nhánh Hà Nội với số tiền 17,2 tỉ đồng (chưa bao gồm lãi suất). - Còn với Chi nhánh Công ty TNHH thiết bị nặng Tất Hồng, Agribank CN Hồng Hà đã phát hành bảo lãnh thanh toán cho hợp đồng mua bán thiết bị máy móc giữa công ty này và Chi nhánh Công ty TNHH thiết bị nặng Tất Hồng trị giá 22 tỉ đồng. Được biết, bảo lãnh thanh toán của Agribank chi nhánh Hồng Hà đã được gia hạn một lần vào ngày 29/6/2011 và hết hạn vào ngày 31/8/2011 nhưng sau khi hết hạn bảo lãnh thanh toán, do không đòi được nợ, phía Chi nhánh Công ty TNHH thiết bị nặng Tất Hồng đã không ít lần có công văn đòi nợ NH. Tuy nhiên, mặc dù đã hết hạn thanh toán hơn 8 tháng nhưng phía Tất Hồng vẫn chưa được thanh toán nợ theo đúng cam kết. GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 18 Các bảo lãnh thanh toán mà Agirbank chi nhánh Hồng Hà ký bảo lãnh thanh toán cho Công ty CP xuất nhập khẩu Tân Hồng mua bán với các công ty, chi nhánh trên đều do ông Đỗ Đức Hưng, nguyên Giám đốc Agribank chi nhánh Hồng . Và lý do mà Agribank đưa ra là bảo lãnh được cấp sai quy trình, không hạch toán…và vì chứng thư bảo lãnh do ông này kí phát đang trong quá trình điều tra và thụ lý nên Agribank không có cơ sở để thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của công ty và chỉ thực hiện nghĩa vụ sau khi có kết luận của cơ quan có thẩm quyền và theo đúng quy định của pháp luật Tuy nhiên, theo Hội đồng xét xử thì các hợp đồng bảo lãnh của Agribank Hồng Hà do Đỗ Đức Hưng- giám đốc tại thời điểm đó ký đóng dấu với giá trị như trên là nằm trong thẩm quyền phán quyết 80 tỷ đồng. Và việc ông này vi phạm một số quy trình nội bộ của Agribank khi cấp bảo lãnh như không có hồ sơ lưu, không được hạch toán... thì phải chịu trách nhiệm trước Agribank về hành vi của mình. Do đó, quan điểm của Agribank cho rằng các bảo lãnh vô hiệu là không có cơ sở. Cuối cùng, Hội đồng xét xử đã buộc Agribank phải thanh toán cả gốc và lãi cho các bên được bảo lãnh. Rõ ràng đây là một loại rủi ro cho ngân hàng khi nhân viên đã tiếp tay cho bên bảo lãnh, gây tiệt hại hàng trăm tỷ đồng cho Ngân hàng. Cụ thể giám đốc Đỗ Đức Hưng đã kí các bảo lãnh thanh toán vượt quyền phán quyết, không có hồ sơ, không theo dõi trên hệ thống sổ sách, không thu phí và cũng không có tài sản bảo đảm cho công ty Tân Hồng. - Rủi ro xuất phát từ sự yếu kém trong năng lực phân tích, thẩm định khách hàng dẫn đến việc ngân hàng bị lừa đảo, mất vốn do phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong khi bên được bảo lãnh mất khả năng thanh toán. Ví dụ: Trường hợp xảy ra vào tháng 1/2010, khách hàng tại một Ngân hàng thương mại cổ phần đã sử dụng hợp đồng kinh tế giả mạo để yêu cầu Ngân hàng này phát hành thư bảo lãnh. Do năng lực thẩm định và phân tích khách hàng của cán bộ ngân hàng chưa tốt, việc kiểm tra phê duyệt của lãnh đạo ngân hàng cũng có vấn đề nên khách hàng đã lừa đảo chiếm đoạt được 3 tỷ đồng trong tổng số tiền 12 tỷ đồng mà Ngân hàng này đã thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng. Tuy số tiền bị mất không lớn nhưng sự việc chỉ được phát hiện sau khi khách hàng đã chiếm đoạt được số tiền của ngân hàng và cơ quan an ninh vào cuộc. Qua trường hợp này có thể thấy rằng việc thiếu thận trọng, thiếu kiến thức và kỹ năng trong thẩm định khách hàng và kiểm soát lỏng lẻo của đội ngũ cán bộ ngân hàng sẽ để lại những hệ lụy không những về tài sản mà còn về danh tiếng của ngân hàng thực hiện bảo lãnh. b) Rủi ro đến từ bên bảo lãnh: Đây là nguy cơ phổ biến đối với các ngân hàng vì việc đánh giá khách hàng- bên bảo lãnh hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. - Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh "bắt tay", chủ động làm giả con dấu, chữ kí, hóa đơn, hợp đồng mua bán... để ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh./hợp đồng bảo lãnh (trong trường hợp bảo lãnh vay vốn) - Rủi ro không thu hồi được tiền do bên bảo lãnh phá sản: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến phá sản của bên bảo lãnh trong đó có nguyên nhân về trình độ nguồn nhân lực trong thực hiện giao kết hợp đồng, khả năng quản trị điều hành, tầm nhìn GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 19 của đội ngũ lãnh đạo của bên được bảo lãnh. Sự đánh giá không đúng thực lực, khả năng của mình, nôn nóng trong điều hành, những vấn đề bất cập ngay trong chính sự vận hành nguồn lực, nhân lực và kỳ vọng phát triển của khách hàng đã dẫn đến sự đổ vỡ không tránh khỏi và hậu quả là ngân hàng sẽ phải hứng chịu những khoản nợ xấu. Vấn đề này không chỉ làm ảnh hưởng tới hình ảnh ngân hàng, mà có thể dẫn đến những vấn đề rất nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có cả yếu tố con người. Ví dụ 1: Hợp đồng bảo lãnh vay nợ của công ty CP Dược Phẩm Viễn Đông (DVD) cho công ty CP liên doanh Lili of France (công ty LOF). Cụ thể: - Tháng 9/2019, công ty DVD vay ABB số tiền là 100 tỷ đồng để thanh toán tiền hàng. Đến tháng 3/2010, để có tiền đáo hạn cho ABB, Cao Hồng Vân- Ủy viên HĐQT, Phó tổng giám đốc phụ trách tài chính của DVD đã thực hiện sự chỉ đạo của Lê Văn Dũng- chủ tịch HĐQT kiêm Tông giám đốc DVD, chủ tịch HĐQT công ty LOF tiến hành làm giả một số tài liệu và đưa vào hồ sơ cầm cố cổ phiếu của Lê Văn Dũng và Đào Xuân Hưởng- thành viên HĐQT công ty DVD và là Tổng giám đốc LOF để vay tiền ABB. ABB đã giải ngân cho ông Dũng vay 34 tỷ đồng và ông hưởng là 27 tỷ đồng. Số tiền này được sử dụng để đáo hahn cho khoản vay 100 tỷ đồng của DVD vay ABB. Sau đó, ABB tiếp tục cho ông Dũng vay lại 30 tỷ đồng và ông Hưởng vay lại 21 tỷ đồng Đến tháng 9/2010, để có tiền đáo hạn cho ABB, các đối tượng trên đã làm giả tài liệu để vay tiền Tienphongbank. Do công ty LOF tại Bắc Ninh có 97% cổ phần của DVD, 1% cổ phần của Lê Văn Dũng, 1% của Đào Xuân Hưởng nên Lê Văn Dũng đã kí thư bảo lãnh của DVD gửi Tienphongbank cam kết bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ tài chính vô điều kiện và không hủy ngang cho công ty CP liên doanh Lili of France (công ty LOF) vay trên 100 tỷ đồng đồng thời làm giả các hợp đồng mua bán (xuất hóa đơn GTGT khống, giả con dấu và chữ ký lãnh đạo) với công ty TNHH Thực phẩm châu Úc và công ty Dược phẩm Savi để LOF được giải ngân. Trên thực tế, Tienphongbank đã giải ngân tổng cộng khoảng 83.5 tỷ đồng cho LOF Tại thời điểm bảo lãnh, DVD là một doanh nghiệp lớn và được đánh giá là có tiềm năng phát triển cao. Tuy nhiên, đến tháng 8/2011, DVD tuyên bố phá sản và đây là một điều mà ngân hàng hoàn toàn không ngờ trước. Và các cam kết bảo lãnh của DVD trở thành vô giá trị, gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Ví dụ 2: Trường hợp bảo lãnh của một số ngân hàng thương mại lớn trong nước đối với Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Trong các năm 2005 và 2006 để Tập đoàn này thực hiện hàng loạt các hợp đồng đóng tàu xuất khẩu sang Anh, Nhật cho các đối tác nước ngoài. Những yếu kém và sai phạm trong quản trị điều hành của Ban lãnh đạo Tập đoàn này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện đóng một số con tàu theo đúng hạn vào các năm 2008, 2009, do đó, các ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trả thay cho Vinashin, Vinashin đã nhận nợ bắt buộc đối với các ngân hàng nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được nghĩa vụ hoàn trả cho các ngân hàng thương mại trong khi khoản vay bắt buộc đã quá hạn. - Rủi ro do chứng thư bảo lãnh bị làm giả chữ ký, con dấu giả mạo người có thẩm quyền của bên ngân hàng phát hành bảo lãnh: Nguyên nhân của trường hợp này là do ngân hàng thụ hưởng bảo lãnh chủ GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 20 quan, làm tắt quy trình, không xác nhận lại với ngân hàng bạn về chứng thư bảo lãnh. Thường có 2 trường hợp xảy ra: - Ngân hàng cho vay và nhận bảo lãnh thanh toán từ ngân hàng nhưng chữ ký và con dấu của ngân hàng bạn lại bị làm giả. - Trường hợp mặc dù chữ ký thật, con dấu thật nhưng thực tế người ký và con dấu đóng tại thời điểm cá nhân đó lại không có đủ thẩm quyền ký 2.2.2 Rủi ro đối với bên nhận bảo lãnh: a) Rủi ro đến từ điều kiện thanh toán không khả thi: Thực tế đã phát sinh một số chứng thư bảo lãnh yêu cầu bên nhận bảo lãnh phải gửi hồ sơ chứng minh bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ. Điều khoản như trên thường dẫn đến bế tắc cho cả 3 bên: Bên bảo lãnh- ngân hàng, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Ngay cả khi bên thụ hưởng bảo lãnh cung cấp hồ sơ đầy đủ và yêu cầu thanh toán bảo lãnh thì bên được bảo lãnh cũng cho rằng mình chưa vi phạm nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này là do theo quy định của pháp luật, việc xác định bên được bảo lãnh có vi phạm hay không lại phụ thuộc vào phán quyết của cơ quan duy nhất là Tòa Án. Do đó, nếu chỉ dừng ở mức tranh chấp giữa 2 bên, ngân hàng không thể biết được có vi phạm hay không. Và nếu không được khách hàng- bên được bảo lãnh chấp nhận là đã vi phạm, thì ngân hàng không thể thực hiện thanh toán bảo lãnh, bởi sau đó ngân hàng sẽ không thể buộc khách hàng nhận nợ được. Như vậy, ngân hàng tự đưa mình vào thế "Tiến thoái lưỡng nan'", thanh toán bảo lãnh thì không đòi nợ khách hàng được, mà không thanh toán bảo lãnh thì bên thụ hưởng sẽ đòi tiền và dễ dẫn đến tranh chấp, khiếu nại. Và một khi ngân hàng từ chối thanh toán sẽ ảnh hưởng rất xấu đến bên nhận bảo lãnh Ví dụ: Trường hợp tranh chấp từ hợp đồng thuê cọc của Công ty CP XNK Thép hình miền Bắc (bên A) và Công ty CP Đầu tư Văn Phú Building (bên B): CTCP Xuất nhập khẩu thép hình miền Bắc (“Công ty Thép hình” - bên A) và CTCP Đầu tư Văn Phú Building (“Công ty Văn Phú” - bên B) ký hợp đồng thuê cọc. Để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng, bên A yêu cầu phải có bảo lãnh thanh toán của ngân hàng. Một ngân hàng TMCP lớn ở miền Bắc đã phát hành chứng thư bảo lãnh cam kết không hủy ngang và khẳng định chịu trách nhiệm thanh toán tối đa theo giá trị thư bảo lãnh ngay sau khi nhận được văn bản yêu cầu đầu tiên kèm theo hồ sơ chứng minh bên B đã vi phạm hoặc không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, khi bên đi thuê không trả tiền, ngân hàng yêu cầu bên cho thuê phải chứng minh sự vi phạm của bên đi thuê mới thanh toán bảo lãnh, dẫn đến tranh chấp xảy ra. Và kết quả là trong vòng 7 tháng kể từ ngày công ty thép gửi văn bản yêu cần thực hiện bão lãnh, ngân hàng không trả tiền cũng không có văn bản trả lời. b) Chứng thư bảo lãnh vô giá trị do người kí phát không đúng thẩm quyền: Về nguyên tắc, pháp luật chỉ khống chế hai nội dung cơ bản liên quan đến thẩm quyền mà người tham gia giao dịch buộc phải biết. Một là, đại diện theo pháp luật được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là người có thẩm quyền ký kết tối cao. Mọi văn bản phát ra phải do người này ký hoặc do người này ủy quyền. Một hợp đồng do chủ tịch HĐQT ký vẫn có thể vô hiệu nếu như không được người đại diện theo pháp luật ủy quyền. Hai là, thẩm quyền tối cao về quyết định của CTCP là HĐQT. Luật Doanh nghiệp quy định, những hợp đồng giao dịch vượt quá 50% GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 21 tổng tài sản đều phải được HĐQT thông qua. Tuy nhiên, trên thực tế các vấn đề thuộc về phân quyền nội bộ trong Ngân hàng như trên thì người tham gia tham gia giao dịch mà cụ thể là bên nhận bảo lãnh thường không biết được hoặc bỏ qua, không xem xét đến. Do đó, bên phát hành bảo lãnh có quyền viện dẫn pháp luật để từ chối bảo lãnh khi phát sinh nghĩa vụ. Rủi ro người ký phát không đúng thẩm quyền thường rơi vào trường hợp người ký không phải là đại diện theo pháp luật, không được người đại diện ủy quyền, phân cấp hoặc giao dịch có giá trị quá lớn. Và việc ký kết không đúng thẩm quyền thường xuất phát từ dấu hiệu cố ý làm trái để thu lợi bất chính đối với cán bộ ngân hàng. c) Chứng thư bảo lãnh giả ( bị làm giả chữ ký, con dấu giả mạo người có thẩm quyền của bên phát hành bảo lãnh) Ngân hàng cho vay và nhận bảo lãnh thanh toán từ ngân hàng, nhưng chữ ký, con dấu của ngân hàng bạn bị làm giả. Người ký không có thật, dấu chưa từng đóng. Cũng có trường hợp, chữ ký thật, con dấu thật, nhưng thực tế người ký và con dấu đóng tại thời điểm cá nhân đó không có thẩm quyền ký. Nguyên nhân của các trường hợp này đều do ngân hàng nhận bảo lãnh chủ quan, làm tắt quy trình, không xác nhận lại với ngân hàng bạn về chứng thư bảo lãnh được làm trước. Ví dụ: Việc làm giả chứng thư bảo lãnh của ngân hàng bắt đầu được dư luận chú ý sau sự kiện 2 chứng thư bảo lãnh của Ngân hàng HSBC bị làm giả. Lợi dụng việc quản lý con dấu của Ngân hàng HSBC sơ hở một nhân viên của ngân hàng này đã lấy dấu đóng lên phôi giấy có biểu tượng HSBC rồi liên hệ với những doanh nghiệp có nhu cầu xin chứng thư bảo lãnh để lừa đảo. Do cần tiền, nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận chi 4% để có được chứng thư bảo lãnh này. Cơ quan điều tra đã làm rõ, các chứng thư bảo lãnh mà các đối tượng này làm giả có giá trị lên đến 80 tỷ đồng. Ngày 14-8 Cơ quan CSĐT - Bộ Công an đã chuyển hồ sơ sang VKSND Tối cao đề nghị truy tố vợ chồng Nguyễn Thị Mỹ Linh và Phạm Phước Anh Huy (TP.HCM) và 3 đồng bọn về hành vi làm giả giấy tờ, tài liệu chiếm đoạt nhiều tỷ đồng. Trước đó vợ chồng Linh - Huy đã làm giả con dấu của Ngân hàng HDB chi nhánh Nguyễn Trãi (TP.HCM) và làm giả dấu tên của Giám đốc Chi nhánh ngân hàng này với mục đích làm giả các văn bản như giấy xác nhận số dư tài khoản ngân hàng, chứng thư bảo lãnh thanh toán nhằm chiếm đoạt tiền của doanh nghiệp. Sau những vụ việc làm giả chứng thư bảo lãnh, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các tổ chức tín dụng rà soát và ban hành đầy đủ quy trình quản lý, sử dụng và bảo quan con dấu tại đơn vị. Ngoài ra, các Ngân hàng cũng đã tăng cường công tác quản lý nhân sự, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về quan lý và sử dụng con dấu. d) Nội dung trong chứng thư bảo lãnh không rõ ràng Có trường hợp ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng để thi công công trình xây dựng trên cơ sở nhận được bảo lãnh từ phía ngân hàng bạn. Khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng cho vay yêu cầu thanh toán bảo lãnh thì nhận được trả lời từ chối thanh toán, vì đã hết thời hạn. Xem lại chứng thư bảo lãnh thì do câu chữ không chặt chẽ, dẫn đến mỗi bên hiểu một kiểu. Ngân hàng phát hành ghi bảo lãnh có hiệu lực trong 180 ngày kể từ ngày phát hành bảo lãnh. Ngân hàng thụ hưởng bảo lãnh lại hiểu 180 ngày làm việc, trừ ngày nghỉ, thứ Bảy, chủ Nhật… Bởi vậy, khi ngân hàng thụ hưởng bảo lãnh yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thì ngân hàng bảo lãnh GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 22 cho rằng, đã hết hạn bảo lãnh. d) Những thay đổi về điều kiện tự nhiên (thiên tai), chiến tranh, địch họa, dịch bệnh, … điều kiện chính trị, thay đổi trong hành lang pháp lý cũng là những rủi ro tiềm ẩn xảy đến với bên được bảo lãnh. Đây là những rủi ro khó lường, đòi hỏi phải có sự đánh giá, kiểm soát thường xuyên của bên được bảo lãnh, đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo điều hành của bên được bảo lãnh phải có tầm nhìn sâu rộng, và xây dựng được những kế hoạch dự phòng cần thiết. e) Khủng hoảng tài chính tiền tệ, suy thoái kinh tế: Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới rủi ro trong hoạt động bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ cam kết. Ví dụ: Cụ thể trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ giai đoạn 2007-2009 vừa qua là một ví dụ ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô đến nhiều khách hàng của các ngân hàng thương mại. Việc hủy hợp đồng giao kết của các công ty nước ngoài (bên thụ hưởng) làm đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty trong nước (bên được bảo lãnh); hay suy thoái kinh tế làm các chi phí hoạt động để thực hiện giao kết hợp đồng của bên được bảo lãnh gia tăng dẫn tới khó khăn trong thực hiện hợp đồng đúng hạn trong khi việc thỏa thuận với bên thụ hưởng để gia hạn việc thực hiện hợp đồng trở nên khắt khe hơn. Đây là lý do mà ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Tiếp đó, suy thoái kinh tế khiến bên được bảo lãnh khó khăn cả trong việc trả nợ ngân hàng bảo lãnh sau khi nhận nợ bắt buộc từ ngân hàng này. 2.2 Đánh giá kết quả hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng trong hệ thống NHTM Việt Nam: Kết quả hoạt động bảo lãnh của NHTM Việt Nam cho thấy nghiệp vụ này đã có sự phát triển trong thời gian qua. Cụ thể: 2.2.1 Đa dạng về chủng loại: Hiện nay, ở Việt Nam các loại hình dịch vụ bảo lãnh ở các ngân hàng tương đối phát triển. Tủy theo nhu cầu của khách hàng, các NHTM rất linh hoạt trong việc phát hành các loại hình bảo lãnh. Tuy nhiên tùy thuộc vào qui mô vốn mà từng ngân hàng áp dụng đầy đủ hoặc một trong số các loại hình như nói ở trên. Một số dịch vụ bảo lãnh của các ngân hàng: Ngân hàng Các loại bảo lãnh Vietcombank  Bảo lãnh vay vốn  Bảo lãnh thanh toán / Thư tín dụng dự phòng  Bảo lãnh dự thầu  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng  Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm  Bảo lãnh thanh toán tiền ứng trước (Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh hoàn trả tiền đặt cọc hoặc bảo lãnh tiền đặt cọc)  Bảo lãnh khoản tiền giữ lại (Bảo lãnh GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 23 chất lượng công trình/ Bảo lãnh bảo hành/ Bảo lãnh bảo dưỡng)  Bảo lãnh đối ứng  Xác nhận bảo lãnh  Bảo lãnh du học  Các loại bảo lãnh khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế BIDV  Bảo lãnh dự thầu  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng  Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước  Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm  Bảo lãnh thanh toán  Bảo lãnh thanh toán thuế xuất - nhập khẩu  Bảo lãnh vay vốn  Bảo lãnh đối ứng  Các loại bảo lãnh khác theo yêu cầu khách hàng Agribank  Bảo lãnh vay vốn  Bảo lãnh dự thầu  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng  Bảo lãnh thanh toán  Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước  Bảo lãnh đối ứng  Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm  Đồng bảo lãnh  Bảo lãnh khác  Xác nhận bảo lãnh ACB  Bảo lãnh vay vốn  Bảo lãnh thanh toán  Bảo lãnh dự thầu  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng  Bảo lãnh bảo hành  Bảo lãnh hoàn thanh toán  Bảo lãnh thanh toán thuế  Các loại bảo lãnh khác Vietinbank  Bảo lãnh vay vốn  Bảo lãnh tiền ứng trước  Bảo lãnh thanh toán  Bảo lãnh dự thầu  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng  Bảo lãnh bảo hành GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 24  Bảo lãnh thuế quan  Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm  Bảo lãnh hoàn thanh toán  Tái bảo lãnh (phát hành bảo lãnh trên cơ sở cam kết bảo lãnh đối ứng của một ngân hàng khác)  Các loại bảo lãnh khác. 2.2.2 Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh: Không chỉ tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các NH trong nước mà hoạt động tìn dụng cũng đã và đang tạo diều kiện cho cả các NH nước ngoài tham gia vào thị trường VN đầy tiềm năng. Theo cam kết mở cửa hội nhập trong lĩnh vực NH, các NH nước ngoài được phép thực hiện nhiều dịch vụ NH trong đó có dịch vụ bảo lãnh và cam kết. Dịch vụ này là thế mạnh của các NH nước ngoài vì có nhiều kinh nghiệm bảo lãnh, năng lực tài chính lớn và khả năng thẩm định bảo lãnh tốt… 2.2.3 Khả năng sinh lời ngày một tăng: Theo xu hướng chung của hoạt động ngân hàng trên thế giới, hoạt động bảo lãnh NH ở Việt Nam trong những năm gần đây có được sự quan tâm phát triển của NHNN và NHTM. Và tại các NH Việt Nam khả năng sinh lợi của hoạt động này ngày một tăng. Điều này thể hiện ở: doanh thu tăng trưởng nhanh qua các năm; số vụ bảo lãnh tăng cao; qui mô bảo lãnh tăng; tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng đều tăng. Xu hướng nền kinh tế là việc chứng khoán hóa các khoản nợ, các doanh nghiệp ưa thích việc chứng khoán hóa các khoản nợ, các doanh nghiệp ưa thích việc tài trợ vốn thông qua thị trường chứng khoán bằng việc phát hành chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Do đây là kênh huy động vốn trung và dài hjan với chi phí thấp nên được doanh nghiệp ưa chuộng hơn vay ngân hàng. Theo luật Việt Nam chỉ có hai tổ chức được bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng là NHTM và công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động bảo lãnh. Và một nguyên nhân không kém phần quan trọng thúc đẩy hoạt động bảo lãnh gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây là việc cả ngân hàng và khách hàng đểu ý thức được mặt trài của sự tăng trường, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giời đó là hiệu ứng domino của các nền kinh tế trước những biến động kinh tế như: suy thoai, khủng hoảng, lạm phát… (mà thực tế là từ năm 2008 đến nay kinh tế thế giới đang phải gánh chịu) làm tăng nhu cầu về các phương tiện hạn chế rủi ro trong đó có hoạt động bảo lãnh ngân hàng. 2.2.4 Mức độ an toàn được nâng cao: Cùng với việc mở rộng qui mô kinh doanh, các NH cũng ngày càng chú trọng đến mức độ an toàn. Mức độ an toàn được thể hiện ở số vụ ngân hàng phải trả thay khách hàng là không nhiều, nhiều ngân hàng con số này giảm dù qui mô tăng. Cá biệt tại nhiều chi nhánh ngân hàng chưa phải thực hiện nghĩa vụ tài chính cho khách hàng lần nao, nhu tại nhiều chi nhánh của BIDV, Vietcombank…Bên cạnh đó phải GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 25 kể đến số hợp đồng bảo lãnh kí quĩ 100% là khá nhiều, với các hợp đồng này thì mức độ an toàn rất cao. Điều này có được là do công tác thẩm định khách hàng trong hoạt động bảo lãnh là khác nghiêm ngặt. Nhiều NH triển khai xây dựng hệ thống thông tin khách hàng, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ như: BIDV, Vietcombank, NHTM CP Sài Gòn Thương Tín và một số ngân hàng khác đang triển khai thí điểm. Cùng với việc phát triển hệ thống CIC quốc gia góp phần quan trọng trong việc đánh giá đúng khả năng tài chính, lịch sử tín dụng, tình hình sản xuất kinh doanh, tổ chức nội bộ doanh nghiệp, năng lực cán bộ, cổ đông chiến lược, quan hê đối tác, khả năng huy động vốn và chiến lược phát triển trong tương lai…sẽ là nhân tố quyết định khả năng thực hiện cam kết của doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải kể đến môi trường chính trị xã hội luôn được duy trì trong nhiều năm qua, Việt Nam được thế giới lựa chọn là điểm đến an toàn. Cùng với đó là hệ thống pháp luật nói chung và cho hoạt động bảo lãnh nói riêng tương đối hoàn thiện: sự ra đời luật doanh nghiệp thống nhất, luật đầu tư thống nhất, sau đó là luật chứng khoán được coi là những bước ngoặt quan trọng đưa Việt Nam gia nhập sân chơi WTO. 2.2.5 Giúp thúc đẩy các chỉ tiêu khác: Hoạt động bảo lãnh ngân hàng phát triển góp phần nâng cao uy tín ngân hàng, không chỉ với thị trường trong nước mà con cả thị trường quốc tế. Vì thực chất hoạt động bảo lãnh là việc sử dụng chữ “tín” của ngân hàng. Do đó việc phát triển của về qui mô và chất lượng các vụ bảo lãnh trong và ngoài nước sẽ tác động ngược lại làm tăng uy tín ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh góp phần nâng cao uy tín cho ngân hàng và thu hút thêm nhiều khách hàng mới bằng việc thực hiện nghiêm túc các cam kết với khách hàng, thực hiện qui trình thẩm định một cách cẩn thận. Và cùng với đó là giúp đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng cũng như giúp ngân hàng phân tán rủi ro. Thị trường tài chính Việt Nam chưa bao giờ cạnh tranh như bây giờ. Những mảng kinh doanh truyền thống như : nhận gửi tiền và cho vay, kinh doanh ngoại tệ thực sự bị chia nhỏ thị phần rất nhiều, việc phát triển các hoạt động ngân hàng hiện tại như bảo lãnh không chỉ làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng, tăng doanh thu, phân tán rủi ro mà còn nân cao khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng trong điều kiện mới của các ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh kéo theo việc phát triển các hoạt động khác của ngân hàng như: kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán…. 2.2.6 Chất lượng bảo lãnh ngày càng tăng cao: Chất lượng bảo lãnh ngày càng tăng cao đặc biệt là trong những năm gần đây không những tăng nhanh về doanh số cung như thu nhập mà số lượng khách hàng tham gia hoạt động ngày một tăng. Các ngân hàng đang chú trọng tới việc mở rộng đối tượng khách hàng. Phí thu từ bảo lãnh ngày càng tăng góp phần đáng kể vào nguồn thu phí dịch vụ của ngân hàng. Trên bình diện kinh tế, nhiều doanh nghiệp nhờ có bảo lãnh mà giải quyết GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 26 được tình trạng thiếu vốn, tận dụng được cơ hội kinh doanh, mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trường. Với kinh nghiệm ngày càng cao trong thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, các NHTM đã lựa chọn được những dự án khả thi của các doanh nghiệp đầu tư đúng hướng, biết giữ chữ tín trên thị trường để bảo lãnh từ đó giữ chữ tín cho chính ngân hàng. Trong nhiều năm qua, các NHTM đã thực hiện đúng các cam kết trong bảo lãnh, đã thanh toán kịp thời cho người thụ hưởng bảo lãnh trong những trường hợp người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, đặc biệt là trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Các ngân hàng lớn ở Việt Nam thường có uy tín trong nghiệp vụ bảo lãnh như:NH Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank…Chẳng hạn: Agribank bảo lãnh cho nhà máy sản xuất đường Quảng Nam, Đà Nẵng với số tiền 2 triệu USD vay của Ustralia; tái bảo lãnh cho nhà máy sản xuất đường Kiên Giang, Biên hòa với số tiền 2 triệu USD của Ustralia… 2.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam: Có thể nói, hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh NH đã đạt được những thành tựu nhu trên là nhờ sự tác động của nhiều yếu tố. Trong đó phải kể đến một vài yếu tố như: Một là, nền kinh tế nước ta đang bước vào thời kì hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đồng thời các doanh nghiệp kinh tế ngày càng tăng, các mối quan hệ trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng. Do đó làm tăng nhu cầu các dịch vụ ngân hàng trong đó có dịch vụ bảo lãnh. Hai là, sự phát triển của hệ thống ngân hàng cung với sự tăng nhanh về nguồn vốn của các ngân hàng giúp ngân hàng có thể thực hiện được nhiều hợp đồng bảo lãnh hơn, thực hiện các hợp đồng bảo lãnh với giá trị lớn hơn thông qua các hoạt động bảo lãnh. Ba là, sự quan tâm của nhà nước trong việc hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động của các ngân hàng trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh, mặc dù các qui chế ban hành chưa thật sự đồng bộ và phù hợp nhưng cũng giúp các ngân hàng rất nhiều trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. 2.4 Hạn chế và nguyên nhân về dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam: 2.4.1 Hạn chế: a) Chưa đáp ứng được tối đa nhu cầu về bảo lãnh của khách hàng: Nhu cầu về bảo lãnh của khách hàng đang ngày càng tăng cao. Bảo lãnh NH được xem như tấm giấy thông hành cho DN trong các hoạt động mua bán trả chậm, vừa tạo thuận lợi cho công việc kinh doanh vừa nâng cao sự tin tưởng của các đối tác với doanh nghiệp. Tuy nhiên các NH chưa thể đáp ứng được nhu cầu ngày cả về số lượng và chất lượng.  Các doanh nghiệp siêu nhỏ không được bảo lãnh vay vốn. GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 27  Nhiều DN vừa và nhỏ khó thỏa mãn được các điều kiện của các ngân hàng lớn, trong khi uy tín của các ngân hàng nhỏ thì chưa làm hài lòng cả bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Vì thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mất đi nhiều lợi ích khi không sử dụng dịch vụ bảo lãnh.  Chỉ những ngân hàng thỏa mãn điều kiện của Bộ tài chính và được cấp phép mới có quyền cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu, trong khi nhu cầu phát hành trái phiếu để huy động vốn của doanh nghiệp ngày càng cao.  Qui mô bảo lãnh chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, nơi mà giá trị và độ phức tạp của các giao dịch ngày càng cao. Trong khi đó công tác tiếp thị, tìm kiếm khách hàng chưa thực sự được chú trọng.  Doanh nghiệp luôn có những nhu cầu về những loại hình bảo lãnh mới. Tuy nhiên, những qui định khá ngặt nghèo của NH về tài sản đảm bảo và phương án kinh doanh khiến ngân hàng không thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho các trường hợp đó. b) Còn sai sót trong quá trình theo dõi và thực hiện bảo lãnh: Có thể dẫn chứng bằng những vụ việc sau:  Tháng 2/2012, việc công ty TNHH Cao Trường Sơn kiện Agribank chi nhánh Hồng Hà khộng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã báo động tình trạng các ngân hàng chưa có đủ khả năng thanh khoản để thực hiện hợp đồng bảo lãnh với giá trị lớn.  Rủi ro cho NH trong hoạt động bảo lãnh cũng đang ngày càng gia tăng, ảnh hưởng lớn đến cả ngân hàng và bên nhận bảo lãnh. Điển hình là vào T3/2011, cơ quan an ninh đã điều tra vụ làm giả chứng thư bảo lãnh trị gia 18 tỷ đồng của NHTM CP Gia Định chi nhanh Bạch Đằng của Tổng GD công ty Lộc Bình Phú.  Dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều rủi ro, không chỉ đối với bên bảo lãnh mà cả với bên nhận bảo lãnh. c) Qui trình bảo lãnh đôi khi còn phức tạp, gây phiền hà cho khách hàng: - Dù tuân thủ chặt chẽ qui trình bảo lãnh, nhiều thủ tục và qui định có phần cứng nhắc, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Ví dụ: Năm 2009, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDP) được nhà nước giao cho bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn. Tuy nhiên một số doanh nghiệp đã phải vất vả đáp ứng mọi thủ tục của ngân hàng song vẫn phải nhận cái lắc đầu từ phía VDP do những bất đồng quan điểm giữa DN và NHTM, hoặc do những lí do khách không phải lỗi từ phía DN. - Dịch vụ bảo lãnh tuy đã hoạt động được một thời gian dài nhưng vẫn còn nhiều bất cập và chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó việc chưa xây dựng đồng bộ các luật, nghị định, thông tư, qui chế trong bảo lãnh nên dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. - Các bên tham gia bảo lãnh thường phải ký nhiều hơn một hợp đồng đề đảm GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 28 bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Do đó khiến cho các bên tốn nhiều thời gian và công sức. 2.4.2 Nguyên nhân: a) Nguyên nhân khách quan: - Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ:  Việt Nam chưa có đủ các qui định về bảo lãnh theo các văn bản dưới luật của Chính phù, một số khoản bảo lãnh còn có sự chồng chéo không phân biệt được phạm vi bảo lãnh, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Đặc biệt là khi bảo lãnh vay vốn ra nước ngoài, phía ngân hàng sẽ phải tham khảo thêm nhiều các thông lệ chung trên thị trường quốc tế để đưa ra các điều khoản trong hợp đồng và thường gặp khó khăn trong giải quyết các tranh chấp.  Các văn bản pháp quy của nước ta về hoạt động kinh tế chưa rõ ràng cụ thể và thường xuyên thay đồi; các văn bản của các bộ, các ngành thường chồng chéo và chưa đồng bộ. Do vậy, khi xin bảo lãnh khách hàng thường phải thực hiện qua nhiều thủ tục tốn rất nhiều thời gian và công sức. - Môi trường kinh doanh ngày càng khó khăn và tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Do các hành vi lừa đảo ngày càng tinh vi, các nghiệp vụ kinh doanh ngày càng phức tạp, khối lượng thông tin ngày càng lớn và lượng thông tin sai lệch cũng lớn theo, khiến cán bộ ngân hàng gặp nhiều khó khản trong việc thu thập và xử lý thông tin về khách hàng. - Trình độ và năng lực quản lý của các DN còn thấp.  Do trình độ quản lý còn yếu kém nên các doanh nghiệp thường không nắm chắc các qui định về bảo lãnh, yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, về tài sản đảm bảo khiến ngân hàng mất nhiều thời gian hơn để hướng dẫn, kiểm tra hồ sơ tài liệu của khách hàng.  Trong quan hệ vay vốn nước ngoài, nhận thức của nhiều doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa đúng mức, chưa nắm và dự đoán đúng tình hình, diễn biến của thị trường dẫn đến một số doanh nghiệp không tiêu thụ được hoặc phải bán rẻ hàng nhập khẩu làm cho khó có khả năng trả nợ. Các doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệm trong việc đàm phán hợp đồng thương mại với nước ngoài, gây nhiều bất lợi cho bên ngoài như: giá cao, chất lượng không đảm bảo, máy móc thiết bị lạc hậu, thiếu đồng bộ…thường bị bên nước ngoài ép theo những điều khoản có lợi cho họ như: lãi suất, thời hạn trả nợ, các loại dịch vụ khác…  Các doanh nghiệp trong nước thường vay vốn nước ngoài để nhập thiết bị máy móc còn tiền vốn xây dựng cơ bản do ngân sách nhà nước cấp. Song do tình trạng quan liêu và khó khản của ngân sách nên nguồn vốn xây dựng cơ bản này thường không được cấp đúng thời hạn hoặc bị cắt giảm nên không đảm bảo đúng tiến độ thi công. Hàng hóa nhập về không có nơi bảo quản, cất giữ, bị hỏng hóc…nên khi sử dụng không đạt được công suất như dự tính. Việc hoàn thành không đúng tiến độ, máy móc sử dụng không đạt được công suất cần thiết ảnh hưởng dến khả năng trả nợ đúng hạn của doanh nghiệp. GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 29 b) Nguyên nhân chủ quan: - Đội ngũ cán bộ trong ngân hàng tuy đã được đào tạo song trình độ nghiệp vụ chưa cao, khả năng ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Đội ngũ các bộ còn thiếu kinh nghiệm trong việc đánh giá tính khả thi của các dự án, tình hình tài chính doanh nghiệp, năng lực hoạt động của doanh nghiệp…dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không trả nợ đủ, đúng thời gian hoặc làm ăn thua lỗ không thể trả được nợ, và ngân hàng phải chịu trách nhiệm thanh toán thay cho khách hàng. - Sự xuống cấp đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ Ngân hàng. - Quá trình đào tạo, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ chưa thực sự được chú trọng, có một số nhân viên có thái độ không thực sự niềm nở thoải mái với khách hàng, vô tình khiến khách hàng có ác cảm với ngân hàng và làm giảm uy tín của ngân hàng. - Công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng; cán bộ chậm thích nghi với những công nghệ mới nên hạn chế trong việc phân tích, theo dõi tình hình thị trường tài chính. Đặc biệt các ngân hàng nhỏ do qui mô vốn nhỏ, không được trang bị những máy móc thiết bị hiện đại cần thiết, khiến cho quá trình kiểm tra tinh hình công nợ của khách hàng, hay qua trình thu thập thông tin của cán bộ tin dụng gặp nhiều khó khản. Việc đối chiếu giữa các khâu không nhanh gọn, còn mất nhiều thời gian. Đồng thời, việc không trang bị cơ sở hạ tầng tốt có thể làm giảm sự tin tưởng của khách hàng về uy tín của ngân hàng và khách hàng dễ nghi ngờ về khả năng bảo lãnh của ngân hàng. - Bản thân các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế trong GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 30 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BẢO LÃNH TẠI NHTM VIỆT NAM 3.1 Định hướng phát triển: Không nằm ngoài chiến lược phát triển chung của toàn bộ hoạt động ngân hàng, dịch vụ bảo lãnh cũng được xác định theo phương hướng phát triển phù hợp với xu thể chung đó là thúc đẩy hoạt động cả về chiều rộng và chiều sâu. Cụ thể: - Đa dạng hóa sản phẩm bảo lãnh: NH vừa thực hiện duy trì nhũng sản phẩm bảo lãnh truyển thống vừa triển khai những loại hình bảo lãnh mới nhằm phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng cũng như đáp ứng xu thế của nền kinh tế thị trường năng động. - Nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh đặc biệt là chất lượng ở khâu thẩm định: công tác thẩm định giúp NH giảm thiểu được các rủi ro phát sinh như thông tin bất cân xứng, rủi ro về các khoản nợ quá hạn… - Hoàn thiện qui trình bảo lãnh: đơn giản hóa qui trình cũng như thời gian các bước thực hiện trong qui trình rút ngắn nhưng vẫn đạt hiệu quả cao. - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vì yếu tố con người luôn luôn chi phối sự thành công hay thất bại của không chỉ dịch vụ bảo lãnh nói riêng mà toàn bộ hoạt động NH nói chung. 3.2 Giải pháp phát triển dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam. Các kế hoạch cần chỉ rõ được vị trí cũng như cơ cấu của các loại hình trong giai đoạn đó ví dụ như loại bảo lãnh nào nên được duy trì, nên thu hẹp và nên tập trung phát triển làm sao cho vừa đảm bảo mục tiêu hoạt động kinh doanh của NH vừa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và xã hội. Để có một ké hoạch cụ thể NH cần đưa ra các bước tiến hành thực hiện kế hoạch trong điều kiện cân đối về nguồn lực và phát huy được thế mạnh của NH trong hoạt động bảo lãnh. Mở rộng hoạt động bảo lãnh: - Đa dạng hóa các sản phẩm bảo lãnh: Hiện nay các mối quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp thì nhu cầu của các doanh nghiệp về dịch vụ bảo lãnh sẽ ngày càng tăng nhanh về số lượng và hình thức, các NH cần nắm bắt được đặc điểm này của thị trường để có thể thiết kế ra các gói sản phẩm phù hợp. Bên cạnh những loại hình bảo lãnh đang được cung cấp các NH cần nghiên cứu và phát triển các loại hình mới. - Mở rộng thị trường cho hoạt động bảo lãnh: Thực tế hiện nay cho thấy các khách hàng của dịch vụ bảo lãnh chủ yếu là DN vừa và nhỏ với những món bảo lãnh nhỏ lẻ. Chính vì vậy, các NH cần tăng cường đối tượng khách hàng là DN lớn vì họ là những người có nhu cầu bảo lãnh với giá trị lớn. Các NH cũng cần mở rộng phạm vi hoạt động của dịch vụ bảo lãnh hơn nữa lan sang cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp đầy triển vọng thay vì quá chú trọng vảo lĩnh vực thương mại như hiện nay. GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 31 Việc NH thực hiện đa dạng hóa thị trường là mở rộng phạm vi hoạt động và cung cấp dịch vụ của bảo lãnh chứ không có nghĩa là bỏ quên thị trường truyền thông. NH cần chú ý để tránh đầu tư lãng phí, nên có ưu đãi cụ thể khác nhau cho mỗi phân khúc thị trường khác nhau. - Thực hiện tốt công tác marketing, tăng cường thông tin đến các khách hàng và mở rộng hoạt động bảo lãnh: Thực tế đã chỉ ra rằng mọi loại hình kinh doanh nếu không thực hiện tốt công tác marketing thì không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh như hiện nay. Thực hiện công tác marketing thực chất là việc NH cần quan tâm đến nghiên cứu thị trường bao gồm các vấn đề: đặc điểm, thị hiếu của khách hàng, nhu cầu về dịch vụ bảo lãnh, các NH cạnh tranh…NH cần tiến hành phân đoạn thị trường để có thể xác định thị trường mục tiêu cũng như chính sách phù hợp với mỗi đoạn thị trường. Ví dụ: Với khách hàng truyền thống nên áp dụng chính sách ưu đãi và nên linh hoạt trong việc xử lý vì các khách hàng đã có quan hệ lâu dài. Hay với các DN lớn, có uy tín làm ăn lâu dài và đang tham gia đầu thầu các công trình trọng điểm của Nhà nước cũng nên ưu tiên xem xét trước…việc linh hoạt giải quyết tình huống là rất cần thiết, tránh cứng nhắc để tăng cường lợi ích cho khách hàng và NH. Ngân hàng cần nâng cao hình ảnh của mình hơn nữa đặc biệt là thông qua cán bộ nghiệp vụ người trực tiếp giao dịch với khách hàng. Cán bộ nghiệp vụ cần tỏ thái độ niềm nở và tư vấn tận tình khi khách hàng có khúc mắc. Để thu thập thêm thông tin về khách hàng cũng như tạo mối quan hệ tốt đẹp NH có thể tổ chức các buổi tọa đàm chia sẻ với khách hàng để hiệu khách hàng đang cần gì và từ đó hoàn thiện sản phẩm hơn nữa. - Nâng cao uy tín của NH với các NH khác để đẩy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh; Với các khoản bảo lãnh vượt quá khả năng thực hiện của 1 NH thì việc đồng bảo lãnh là cần thiết. Vị trí của NH trong ngành NH sẽ quyết định đến khả năng hợp tác để tham gia đồng kiểm soát cũng như những lợi ích thu được từ hoạt động đồng kiểm soát. Nếu NH không có uy tín và vị thé mời các NH lớn tham gia đồng kiểm soát là khó khản và bị động, quan trọng hơn NH sẽ hầu như không có cơ hội tham gia đống kiểm soát nếu họ không chủ động nắm bắt được các dự án lớn. a) Các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh.  Đối với Ngân hàng: - Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng trong công tác bảo lãnh: Nghiệp vụ bảo lãnh thực chất là một hình thức của nghiệp vụ tín dụng nhưng quan hệ vay mượn ở đây chỉ thực sự phát sinh khi NH phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết trong hợp dồng bảo lãnh. Việc bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh sẽ buộc NH có trách nhiệm bồi thường và khoản bồi thường đó sẽ được thu hồi từ bên được bảo lãnh. Xác suất mà bên được bảo lãnh không thanh toán là lớn nên rủi ro của bảo lãnh cao. Chính vì vậy công tác thẩm định trước khi chấp nhận bảo lãnh là cơ sở để NH giảm thiểu rủi ro. Cán bộ thẩm định nên sử dụng thông tin đa chiều để không gặp rủi ro thông tin bất cân xứng đồng thời thẩm định chặt chẽ các điều kiện thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong chứng thư bảo lãnh, áp đặt các phương pháp bảo đảm rủi ro, các nội dung bảo lãnh cần phải được hiểu và lập một cách rõ ràng. GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 32 - Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ: Chất lượng đội ngũ cán bộ sẽ tạo sự thuận tiện và niềm tin của khách khi sử dụng dịch vụ của NH. Việc đào tạo chuyên môn nên tập trung vào:  Đào tạo bài bản và có hệ thống các vấn đề cơ bản cho tất cả nhân viên. Đối với cán bộ nghiệp cần đào tạo chuyên sâu và tập trung.  Phương thức đào tạo có thể là mở lớp tại ngay NH hoặc cử người đi học bên ngoài.  Tổ chức sắp xếp công việc phù hợp với trình độ và năng lực.  Yêu cầu cơ bản về trình độ ngoại ngữ và tin học. - Hoàn thiện qui trình để đảm bảo nghiệp vụ thực hiện nhanh gọn đơn giản nhưng đúng đắn. - Đưa công nghệ vào phục vụ hoạt động bảo lãnh để tạo sự thuận tiện cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ và yêu thích dịch vụ của NH hơn là các NH khác.  Đối với doanh nghiệp: - DN cần phải tìm hiểu kỹ ngân hàng bảo lãnh, nắm rõ quy trình bảo lãnh chứ không thể chỉ dựa vào uy tín của Ngân hàng. - Nâng cao kỹ năng với chứng thư bảo lãnh, xem xét kĩ các yếu tố như điều kiện, thời hạn, thẩm quyền của người ký kết...tránh trường hợp nhiều ngân hàng từ chối thực hiện nghĩa vụ với lý do người ký phát chứng thư bảo lãnh ký không đúng thẩm quyền hoặc người kí không phải là đại diện hoặc được uỷ quyền về mặt pháp luật. - Đối với rủi ro có thể xảy ra do không xác định cụ thể thời gian bảo lãnh hết hiệu lực hợc ngày bảo lãnh hết hạn rơi vào ngày nghỉ: DN chủ động nhắc nhở, thông báo cho ngân hàng để tránh tình trạng bị từ chối thanh toán b) Hoàn thiện hệ thống pháp luật Do một số chính sách không đồng bộ nên việc thực hiện bảo lãnh chưa phát huy hết tác dụng của nó. Điều này đòi hỏi các nhà làm chính sách cần xem xét điều chỉnh kịp thời và ban hành 1 số chính sách đồng bộ, chặt chẽ và phù hợp với nhu cầu phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 33 KẾT LUẬN Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng nâng cao năng lực hoạt động của mình để đứng vững cũng như cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Một trong những hoạt động của ngân hàng là phải hiện đại hóa công nghệ, phát triển các dịch vụ của mình. Dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng không chỉ có vai trò quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng mà còn có vai trò thúc đẩy kinh tế nói chung. Qua nghiên cứu bảo lãnh ngân hàng, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về đặc điểm, bản chất, ý nghĩa cũng như căn cứ phân loại các loại bảo lãnh ngân hàng trên thị trường hiện nay. Đồng thời qua phân tích tình hình thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của các NHTM Việt Nam, chúng ta có thể thấy những thuận lợi, khó khăn trong bảo lãnh ngân hàng và những nguyên nhân làm cho dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam còn kém phát triển. Từ đó đưa ra những giải phát phát triển và hoàn thiện hơn nữa dịch vụ này, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Tạp chí ngân hàng 2) Thời báo kinh tế, thời báo ngân hàng 3) Thông tư số 28/2012/TT-NHNN (Thông tư 28) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng. 4) Lê Nguyên (1997), Bảo lãnh và tín dụng dự phòng, NXB Thống kê Hà Nội. 5) Internet: www.vcbs.com.vn www.bidv.com.vn www.mof.gov.vn www.vneconomy.com.vn GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K2 34

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom7_bao_lanh_tai_cac_nhtm_viet_nam_9562.pdf
Luận văn liên quan