Đề tài Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC Lời mở đầu 1 1. Lý luận chung về lạm phát 2 1.1. Khái niệm lạm phát: 2 1.2. Phân loại lạm phát: 2 1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát 3 a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ 3 b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo) 4 c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy 5 d) Lạm phát dự kiến 6 e) Các nguyên nhân khác 7 1.4. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế 7 - Đối với lĩnh vực sản xuất 7 - Đối với lĩnh vực lưu thông 8 - Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng 8 - Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước. 8 2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 9 2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam 9 2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam 10 3. Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay 14 3.1. Các quan điểm và khắc phục lạm phát 14 3.2. Biện pháp chống lạm pháp ở Việt Nam 15 a) Về phía Đảng và Nhà nước 15 b) Các biện pháp về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngân hàng trong hạn chế và chống lạm phát 16 c) Về phía Ngân hàng TW - Ngân hàng thương mại 18 d) Việc điều chỉnh giá cả và sự quản lý của Nhà nước 18 e) Hoạt động đối ngoại trên thương trường của nhà nước. 19 Kết luận. 20 Tài liệu tham khảo 21

doc36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3603 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo. Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước. Giải pháp đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm. Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng. Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới. 15210 8 /2011-02-22-don-suc-chong-lam-phat-trong-nam-2011 Điểm nóng Dồn sức chống lạm phát trong năm 2011 Tác giả: Ngọc Hà (tổng hợp) Bài đã được xuất bản.: 22/02/2011 21:00 GMT+7 Recomend Thanks +1 Red In Email Thảo luận TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm) Lặng lẽ cắt điện luân phiên Thiếu điện do hàng tỷ kWh trễ hẹn USD chợ đen: Đâu có khó trị Siết vốn, chủ đầu tư địa ốc tháo chạy? 1 (VEF.VN) - Sau buổi tham vấn các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế về các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô chiều 22/2, tới đây, một Nghị quyết về những giải pháp cấp bách để ổn định kinh tế - xã hội sẽ được Chính phủ ban hành, trong đó mục tiêu hàng đầu là dồn sức kiềm chế lạm phát. Chi tiêu "thắt lưng buộc bụng" Theo TTXVN, đóng góp vào bản dự thảo Nghị quyết về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội trong năm 2011, các đại biểu tham dự cuộc họp đều nhất trí cho rằng sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Chính phủ trong bối cảnh hiện nay bởi tình trạng lạm phát, giá cả tăng cao đang gây ảnh hưởng tới ổn định kinh tế vĩ mô. Nghị quyết cần mang thông điệp rõ ràng, tư tưởng dứt khoát xác định rõ yêu cầu kiềm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có nhiều chỉ tiêu điều chỉnh cao so với trước đây. Theo các đại biểu việc ban hành Nghị quyết thể hiện sự nhanh nhạy, kịp thời và quyết tâm cao của Chính phủ trong điều hành kinh tế xã hội. Dự thảo Nghị quyết cũng nêu đồng bộ các nhóm giải pháp về chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, tăng cường quản lý đầu tư công; thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thực hiện lộ trình giá bán xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường; tăng cường bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội; đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội và tổ chức thực hiện. Website Chính phủ đưa tin, một số chuyên gia kinh tế đề xuất Chính phủ thể hiện rõ quyết tâm chống đầu cơ ngoại hối, vàng cũng như điều hành giá xăng, dầu, giá điện... theo cơ chế thị trường... Đặc biệt, cần hạ tăng trưởng tín dụng dưới 20%, giảm 10% chi tiêu công, giảm nhập siêu, kiên quyết đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán tổng thể, giảm mặt bằng lãi suất vào thời điểm thích hợp. Tại cuộc họp, Thủ tướng nêu rõ tên Nghị quyết phải thể hiện rõ mục tiêu phấn đấu là thực hiện những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011, trong đó yêu cầu chính là tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát. Trước hết, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, điều hành lãi suất phù hợp để chống lạm phát, tỷ giá điều chỉnh phù hợp... Chính phủ sẽ huy động mọi nguồn lực đảm bảo đủ ngoại tệ, tăng cường quản lý kinh doanh ngoại hối và vàng - Thủ tướng khẳng định. Về thực hiện chính sách tài khóa, Thủ tướng yêu cầu thực hiện thắt chặt chính sách tài khóa, giảm 10% chi tiêu công, giảm bội chi dưới 5%, các bộ ngành phải rà soát cắt giảm dự án đầu tư công báo cáo Chính phủ trong tháng 3 này. Tiếp tục thúc đẩy sản xuất kinh doanh, trước hết là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và kiểm soát chặt chẽ nhập siêu... Điều chỉnh giá điện, xăng dầu xóa bỏ bao cấp gắn với hỗ trợ cho người khó khăn, đồng thời đảm bảo an sinh xã hội. Thủ tướng đề nghị cần làm tốt thông tin tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội, trong đó các bộ trưởng theo lĩnh vực cần chủ động cung cấp thông tin cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận đang quan tâm. "Kê toa" trị lạm phát Tại buổi trực tuyến mới đây do Diễn đàn Kinh tế Việt Nam (VEF.VN) tổ chức, TS. Vũ Đình Ánh (Viện Khoa học Thị trường giá cả - Bộ Tài chính) cho rằng, năm 2010, lạm phát chỉ dừng ở mức 11,75% là nhờ từ tháng 11/2010, Việt Nam đã tuyên bố không tăng giá xăng, không điều chỉnh lãi suất, không điều chỉnh tỷ giá hối đoái, không tăng giá điện... Đồng thời, Chính phủ triển khai một chương trình bình ổn giá tương đối lớn, ở khá nhiều tỉnh thành, với tổng số tiền vài nghìn tỷ đồng. Sang đến năm 2011, Việt Nam phải gánh hậu quả từ việc kìm nén của những tháng cuối năm 2010, cộng hưởng thêm các yếu tố bên ngoài. Theo PGS-TS Trần Hoàng Ngân, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, thì Việt Nam đang phải chịu tình trạng lạm phát kép do kinh tế thế giới phục hồi sau suy thoái khiến giá cả tăng mạnh (trong khi nước ta nhập siêu đến 84 tỉ USD - chiếm 80% GDP cả nước) và ảnh hưởng của tỉ giá kéo theo lạm phát về mặt tâm lý. Cùng với điều chỉnh tỷ giá, nay mai giá điện, giá xăng... cũng không thể không điều chỉnh tăng. Do vậy, chúng ta đặt trọng tâm vào ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát trong năm nay là chính xác. Vậy, giải pháp nào để trị lạm phát cho năm 2011? Báo NLĐ phỏng vấn một số chuyên gia để "kê toa" chữa căn bệnh nan giải này. PGS-TS Trần Hoàng Ngân cho rằng, để kiểm soát lạm phát, Chính phủ cần phải có thông điệp hết sức mạnh mẽ nhằm cắt ngay cơn sốt USD trên thị trường, kéo giá USD chợ đen xuống. Riêng về lãi suất USD, cần sử dụng trần lãi suất tiền gửi theo mức thấp và nâng dự trữ bắt buộc USD ở mức cao. Điều này giúp lãi suất cho vay USD cao mà lãi suất huy động thấp sẽ làm người dân không có nhu cầu gửi USD góp phần giảm tình trạng đô la hóa trên thị trường hiện nay. Trong dài hạn, muốn kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế ổn định, Nhà nước nên đẩy mạnh việc tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng giao thông, gia tăng cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và giảm tỉ lệ cổ phần Nhà nước trong các công ty cổ phần... Điều chỉnh giá cả hàng hóa theo cơ chế thị trường là việc làm cần thiết. Tuy nhiên,  phải có sự quản lý của Nhà nước bằng công cụ pháp luật. Vấn đề đầu cơ, lũng đoạn thị trường hiện nay cũng cần được cơ quan các cấp kiểm tra giám sát tránh tình trạng "té nước theo mưa". Các vụ đầu cơ, lũng đoạn giá cả hàng hóa gây bất ổn kinh tế vĩ mô cần được xử lý bằng cả biện pháp hành chính và hình sự. Ngoài ra, TS Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nôi, khuyến cáo, các mặt hàng tăng giá theo giá thị trường nhưng phải cạnh tranh, vì các mặt hàng đồng loạt tăng giá năm nay đều là mặt hàng thiết yếu do Nhà nước quản lý giá. Nếu không tự do hóa  cạnh tranh, áp lực tăng giá sẽ nhiều hơn vì sẽ lại có những đợt tăng giá mới do giá độc quyền không bao giờ đủ. Điểm mới thứ hai là các lần tăng giá đều gây sốc. Rõ ràng, việc tăng giá như vậy sẽ gây sức ép cuối cùng dồn vào người nghèo và doanh nghiệp nhỏ - những đối tượng sức chịu đựng vốn có hạn. Nếu có tính cạnh tranh, tăng giá sốc cũng được vì chỉ đau một lần rồi thị trường tự điều chỉnh giá. Nếu tính thị trường chưa được thiết lập, mặt tích cực này sẽ không được phản ánh. Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Đo lường Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:     * Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).     * Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).     * Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.     * Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.     * Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.     * Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình. Các loại lạm phát phân theo mức độ Lạm phát thấp Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến dưới 10 phần trăm một năm.  Lạm phát cao (Lạm phát phi mã) Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách. Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải. Siêu lạm phát Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai. Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh. Tiêu chí để xác định siêu lạm phát (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; (4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm. Vai trò trong kinh tế Các hiệu ứng tích cực Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. Các hiệu ứng tiêu cực Đối với lạm phát dự kiến được Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:     * Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.     * Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.     * Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.     * Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.     * Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình. Đối với lạm phát không dự kiến được Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn. Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này. Nguyên nhân Lạm phát do cầu kéo Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Lạm phát do cầu thay đổi Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát. Lạm phát do chi phí đẩy Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. Lạm phát do cơ cấu Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó. Lạm phát do xuất khẩu Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. Lạm phát do nhập khẩu Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. Lạm phát tiền tệ Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Lạm phát đẻ ra lạm phát Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát. Tăng trưởng cà chống lạm phat 2010 ở Việt Nam Từ đầu năm 2010 đến nay, Việt Nam dường như phải lựa chọn: nguy cơ lạm phát, chống lạm phát và bảo đảm tốc độ tăng trưởng. Vấn đề của chúng ta là gì thưa ông? Cách thức tăng trưởng của chúng ta hiện nay thiên về chiều rộng, dựa vào vốn đầu tư là chủ yếu. Sự đóng góp của năng suất lao động và năng suất tổng hợp đối với tăng trưởng thấp. Huy động vốn đầu tư của VN lên tới 42-43% GDP trong khi hiệu quả đầu tư nhìn chung là thấp và có xu hướng giảm dần. Mục tiêu chống lạm phát và bảo đảm tăng trưởng trong dài hạn có thể đi với nhau, song hành với nhau. Nhưng tại thời điểm hiện nay, theo tôi, lạm phát, bất ổn định kinh tế vĩ mô hiện nay  nội sinh từ cách thức tăng trưởng. Nếu như VN tiếp tục đi theo con đường này thì đến một vài năm nữa, có thể đi đến một ngõ cụt. Điều đó cũng có nghĩa là nếu như không thay đổi cách thức tăng trưởng, bất ổn kinh tế vĩ mô luôn luôn thường trực, lạm phát luôn luôn ở mức cao. Muốn chống lạm phát thì chúng ta phải quay trở về cái công cụ là phải nâng cao đuợc hiệu quả sử dụng đồng vốn. Có người lập luận rằng, nếu xây thêm cầu, xây thêm cảng, xây thêm đường, chúng ta có những khoản đầu tư lớn. Điều này về lâu dài cũng là để cải thiện hiệu quả của nền kinh tế? Đầu tư để mà nâng cao chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng là một đầu tư cần thiết và để nâng cao hiệu quả nền kinh tế. Nhưng nếu đó là đầu tư đúng hướng, đầu tư vào giải quyết đúng những vấn đề tắc nghẽn của nền kinh tế. Nếu đầu tư dàn trải, ở đâu cũng cầu, ở đâu cũng cảng, ở đâu cũng sân bay, ở đâu cũng khu công nghiệp, hiệu quả của đồng vốn sẽ giảm xuống và đồng thời, lại không giải quyết được những điểm tắc nghẽn về cơ cấu hạ tầng đối với nền kinh tế. Đây là vấn đề hiện VN đang mắc phải. Đành rằng, xây cầu cảng, dù hàng năm không có ai sử dụng cũng đóng góp tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, Tăng trưởng nêu trên là tăng trưởng kém chất lượng, tăng trưởng không bền vững Với cách thức tăng trưởng như trên, khối doanh nghiệp bị tác động như thế nào? Nếu như cứ đầu tư như vậy và đặc biệt là đầu tư Nhà nước mở rộng như thế thì khu vực DN Nhà nước được hưởng lợi nhiều hơn. Trong khi nếu không giải quyết được những điểm ách tắc của nền kinh tế, nhất là ách tắc trong cơ sở hạ tầng, vận chuyển hàng hóa, những điểm kết nối hàng hóa của nước ta với thị trường bên ngoài, toàn bộ nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng và khu vực kinh tế tư nhân chịu ảnh hưởng, chịu thiệt thòi. Thời gian vừa rồi, dư luận cũng nói rất nhiều về chính sách tiền tệ như cung tiền, lãi suất, tỉ giá… Và thị trường thì cứ hướng vào đó, coi đó là những thủ phạm gây ra lạm phát. Quan điểm của Viện QLKT TW thế nào? Quan điểm của cá nhân tôi thì cho rằng, như trên tôi đã trình bày, bất ổn của nền kinh tế vĩ mô hiện nay nói chung và lạm phát nói riêng là nội sinh từ cách thức tăng trưởng thiên về chiều rộng, đầu tư nhiều mà hiệu quả thì không cao. Do chúng ta theo đuổi mục tiêu tăng trưởng như vậy, cho nên để đạt được điều đó phải huy động vốn nhiều: qua cả ngân sách, qua tiền tệ, tức là chính sách tiền tệ phải mở rộng, chính sách tài khóa cũng tương tự như thế. Đồng thời với đó, quản lí đầu tư của ta, đặc biệt là quản lí đầu tư Nhà nước nó không được tốt, kém hiệu quả. Nguyên nhân cốt lõi là hiệu quả đầu tư kém, không phải chính sách tiền tệ. Cho nên, việc xử lí chỉ thông qua chính sách tiền tệ như hiện nay, theo tôi, nếu có tác dụng thì cũng rất ngắn hạn, không giải quyết được vấn đề cốt lõi phát sinh ra thực trạng hiện nay. Giảm bội chi ngân sách bằng giảm đầu tư Nhà nước Các nước láng giềng, những nước có trình độ tương đương với VN có gặp phải vấn đề như trên không và họ đã xử lý như thế nào? Chúng ta cũng bàn nhiều và cũng đã nhìn đến kinh nghiệm các nước trong thập kỉ 90 của thế kỉ trước dẫn tới cuộc khủng hoảng năm 1997. Những vấn đề VN gặp phải hiện nay, các nước họ cũng đã gặp phải. Sau khủng hoảng như thế, họ tái cơ cấu lại nền kinh tế và nhấn mạnh đến cái hiệu quả và cái năng suất chất lượng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tại thời điểm hiện nay, chúng ta phải thay đổi càng sớm càng hay việc chuyển từ thiên về tăng trưởng theo chiều rộng, sang tăng trưởng theo chiều sâu. Và phải đặc biệt lưu ý đến việc nâng cao được hiệu quả đầu tư Nhà nước nói chung và đầu tư của các DN Nhà nước nói riêng. VN cần cơ cấu lại nền kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh của DN và tăng cường hiệu quả của đầu tư công. Viện Quản lí kinh tế Trung ương,đã đề đạt ra những biện pháp cụ thể nào? Tại thời điểm hiện nay, chúng tôi nghĩ rằng là phải cắt giảm bội chi ngân sách bằng cách giảm chi, giảm đầu tư Nhà nước. Cơ cấu lại, rà soát lại các dự án đầu tư, tập trung vốn vào những dự án đầu tư tập trung vào cơ sở hạ tầng, giải quyết các vấn đề tắc nghẽn của nền kinh tế. Đầu tư như vậy sẽ phát huy ngay hiệu quả là góp phần vào nâng cao hiệu quả đầu tư Nhà nước nói riêng và đầu tư của nền kinh tế nói chung. Ở điểm này, việc cắt giảm đầu tư ngân sách, nâng cao hiệu quả đầu tư công là một mũi tên bắn trúng được rất nhiều đích. Đó là nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời bắn ra một tín hiệu rằng đây đang là một cách thức thay đổi, thay đổi cách thức tăng trưởng, nhấn mạnh hơn đến nâng cao hiệu quả tăng trưởng theo chiều sâu. Và như vậy, nó giảm áp lực đối với lạm phát đồng thời, tăng dư lượng cho chính sách tiền tệ. Anh có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để mở hơn và tăng thêm vốn cho khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, vừa đảm bảo được tăng trưởng lại vừa giảm được áp lực lạm phát. Dù sao đó vẫn là những giải pháp dài hạn, còn ở ngắn hạn thì sao? Hiện nay không nên chạy theo các giải pháp ngắn hạn mà là giải pháp căn bản. Giải pháp căn bản có thể có cả tác động ngắn hạn hay đồng thời với nó phát huy được cả tác động trung và dài hạn tích cực. Nếu giải pháp nào ngắn hạn mà có thể xử lí được vấn đề một vài ba tháng, sau đó thì lạm phát, bất ổn lại quay trở lại, theo tôi, không nên dùng. Chúng ta nên dùng những giải pháp tác động ngắn hạn và dài hạn cùng chiều nhau, tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư, đảm bảo tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ đã từng có quyết tâm mạnh mẽ cắt giảm đầu tư công Năm 2008, Chính phủ đưa ra rất nhiều những dự án phải cắt giảm đầu tư nhưng dường như chưa kịp thực hiện. Sang năm 2009, chúng ta lại phải tiếp tục giải ngân cho những dự án đó. Thậm chí, chúng ta tiếp tục phải tìm những dự án có thể giải ngân để có thể ứng vốn của năm sau cho dự án đó. Như vậy, chúng ta đã siết lại, sau đó lại nới ra. Còn xu hướng hiện tại là gì, thưa ông? Đúng là điều đáng tiếc! Vào tháng 4/2008, tôi cảm nhận một quyết tâm cắt giảm đầu tư công hết sức mạnh mẽ. Tại thời điểm đó, chúng tôi cũng kì vọng rằng những giải pháp như thế nó sẽ là bước đột phá để cơ cấu lại, bố trí lại, sắp xếp lại đầu tư Nhà nước và nâng cao hiệu quả của đầu tư Nhà nước. Đáng tiếc rằng là sau đó thì khủng hoảng và buộc chúng ta phải thực hiện những chính sách như trên vừa mới mô tả, và dẫn đến những tác dụng, những tác động, những tính hữu ích. Quyết tâm tại thời điểm tháng 4/2008 không còn nữa. Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề đó vẫn là vấn đề thời sự và việc giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước, thu hẹp lại đầu tư công, bố trí lại, sắp xếp lại đầu tư và nâng cao hiệu quả của nó có lẽ vẫn là một trong những giải pháp căn bản, vừa tác động trực tiếp trước mắt, vừa tác động về lâu dài là tích cực.   Thuốc nào trị lạm phát “đặc thù” của Việt Nam? (08:18 05/03/2011 ) Lạm phát sẽ tác động trước hết đến những người lao động có thu nhập thấp - Ảnh: DNSG. Lạm phát ở Việt Nam có những nét “đặc thù”, và do đó cần những chính sách ứng phó phù hợp Báo cáo nghiên cứu mới nhất của các chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra những kiến giải đáng chú ý về tình hình lạm phát tại Việt Nam. Trong báo cáo nhan đề “Nguồn gốc lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010: Phát hiện mới từ những bằng chứng mới”, các tiến sĩ kinh tế Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành thuộc VEPR cho biết lạm phát ở Việt Nam có những nét “đặc thù”, và do đó cần những chính sách ứng phó phù hợp. “Chính phủ phải kiên nhẫn” Theo báo cáo này, thứ nhất, người Việt Nam có khuynh hướng lưu giữ ấn tượng về lạm phát trong quá khứ, đồng thời có kỳ vọng nhạy cảm về lạm phát trong tương lai. Đây là hai yếu tố đồng thời chi phối mức lạm phát hiện tại. Điều này hàm ý rằng uy tín hay độ tin cậy của Chính phủ trong các chính sách liên quan đến lạm phát sẽ có vai trò to lớn trong việc tác động tới mức lạm phát hiện thời. Ký ức hay ấn tượng về một giai đoạn lạm phát cao trong quá khứ thường chỉ bắt đầu mờ nhạt dần sau khoảng 6 tháng có lạm phát thấp liên tục và ổn định. Do đó, theo các tác giả, Chính phủ trước hết phải giữ được mức lạm phát thấp ít nhất trong vòng sáu tháng, qua đó dần lấy lại niềm tin của công chúng về một môi trường giá cả ổn định hơn. “Chính phủ phải kiên nhẫn trong quá trình chống lạm phát. Sáu tháng có thể được xem như giới hạn thấp nhất cho nỗ lực duy trì môi trường lạm phát thấp của Chính phủ nhằm lấy lại niềm tin của công chúng, để công chúng cho rằng Chính phủ đang cam kết chống lạm phát một cách nghiêm túc, và do đó là cam kết xây dựng một môi trường vĩ mô ổn định”, báo cáo viết. Thứ hai, khác với những giải thích thường xuyên của Chính phủ là lạm phát chủ yếu do các yếu tố bên ngoài như giá cả thế giới (nhập khẩu lạm phát), báo cáo cho rằng lạm phát ở Việt Nam có nguyên nhân chủ yếu từ nội địa. Thừa nhận rằng giá thế giới thực sự có ảnh hưởng lên giá sản xuất nhưng  theo các tác giả thì hiệu ứng gây lạm phát theo kênh lan truyền từ giá sản xuất đến giá tiêu dùng phải mất vài tháng mới phát huy tác dụng. Thứ ba, tốc độ điều chỉnh của thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối khi có biến động là rất thấp và thậm chí gần bằng không. Điều này cho thấy một khi các thị trường này lệch khỏi xu hướng dài hạn, nền kinh tế sẽ mất rất nhiều thời gian để cân bằng trở lại dù Chính phủ có nỗ lực can thiệp về chính sách. “Điều này có ý nghĩa quan trọng về chính sách kiểm soát lạm phát: các giải pháp nhằm ngăn ngừa với mục tiêu lạm phát rõ ràng sẽ có kết quả tốt hơn nhiều so với việc cố gắng xử lý lạm phát khi nó đã tăng lên. Đồng thời, phản ứng chính sách không phù hợp sẽ rất khó điều chỉnh trở lại và lạm phát sẽ kéo dài”, báo cáo viết. Thứ tư, kết quả nghiên cứu cho thấy Chính phủ đã thực sự có những phản ứng chống lạm phát thông qua các chính sách tiền tệ và tài khóa, nhưng thường phản ứng chậm hoặc thụ động trong đa số trường hợp. Đối với chính sách tài khóa, có thể dễ dàng hiểu được điều này vì để thay đổi một kế hoạch tài khóa thường mất nhiều thời gian tranh luận, đạt tới sự nhất trí rồi thực hiện triển khai. “Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là chính sách tiền tệ cũng tỏ ra được thực thi khá chậm trễ kể từ khi những tín hiệu đầu tiên của lạm phát xuất hiện. Điều này có thể được giải thích thông qua thực tế là ngay cả việc xác định và thừa nhận lạm phát cũng luôn là một vấn đề gây tranh cãi”. Thêm vào đó, tại Việt Nam nhìn chung thường có khuynh hướng đổ lỗi cho lạm phát bắt nguồn từ những nguyên nhân “khách quan”, hay từ những nguồn gốc “bên ngoài”. Do đó, thường mất một thời gian để chuyển hóa nhận thức lạm phát từ công chúng thành nhận thức của nhà điều hành. Ngay cả khi chính sách thắt chặt tiền tệ được thực hiện, thì thường mất khoảng 5 tháng nó mới phát huy tác dụng lên lạm phát. Như vậy, vào lúc đó, lạm phát đã cao được khoảng 7 đến 8 tháng. Quãng thời gian này đủ để tạo nên một ký ức về lạm phát và do đó việc kiềm chế lạm phát sẽ khó khăn hơn. Không nên buông lỏng ổn định vĩ mô Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong các công cụ của chính sách tiền tệ, tăng lãi suất thường có hiệu ứng tức thời lên lạm phát, so với độ trễ dài hơn của chính sách thắt chặt tín dụng và tiền tệ. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của thay đổi lãi suất lại khá nhỏ. Kết quả là, công cụ tiền tệ ở Việt Nam không hoàn toàn là một công cụ phản ứng nhanh và hiệu quả như vẫn tưởng. Thứ năm, trái ngược với những nghiên cứu đã có, các tác giả cho rằng thay đổi tỷ giá cũng có tác động đáng kể làm tăng áp lực lạm phát. Từ cuối năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành phá giá nhiều hơn và với mức độ lớn hơn. Thêm vào đó, những biến động gần đây trên thị trường ngoại hối, đặc biệt là thị trường tự do, trong năm 2009 và 2010 do niềm tin của vào tiền đồng bị sụt giảm, do hoạt động đầu cơ và tình trạng Đô la hóa đã dẫn đến kỳ vọng về lạm phát trở lại của người dân tăng lên. Điều này có thể khiến cho tác động của tỷ giá đối với lạm phát tăng lên, như kết quả của nghiên cứu này cho thấy. Cuối cùng, nghiên cứu không cho thấy tác động rõ ràng của thâm hụt ngân sách đối với lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu. Điều này không có nghĩa là thâm hụt ngân sách không có ảnh hưởng đến lạm phát. Nguyên nhân của điều này là do việc tài trợ ngân sách thường có hai tác động trái chiều. Một mặt, tài trợ ngân sách bằng việc gia tăng vay nợ của Chính phủ làm tăng lãi suất do nhu cầu vay cao hơn. Điều này cũng tương tự như chính sách tiền tệ thắt chặt và do đó góp phần giảm phần nào lạm phát. Mặt khác, tài trợ ngân sách thông qua việc tăng cung tiền (nếu có) cũng tương tự như chính sách tiền tệ mở rộng và gây áp lực lạm phát. Từ những đặc điểm trên của lạm phát ở Việt Nam, các tác giả cho rằng Chính phủ nên có những cam kết mạnh mẽ trong việc chống lạm phát không chỉ khi lạm phát đang cao, mà còn phải có những cam kết duy trì lạm phát thấp ngay cả khi lạm phát đang khá thấp và ổn định. “Tuy nhiên, thực tế cho thấy chiến lược này của Chính phủ thường rất khó được thực thi, vì Chính phủ thường có khuynh hướng ưu tiên tăng trưởng kinh tế nhiều hơn, và coi nhẹ việc giữ cho môi trường vĩ mô được ổn định”, báo cáo đưa ra nhận định trong phần kết luận. Lạm phát: Thực trạng và giải pháp Posted on January 10, 2011 by admin Mặc dù năm 2010, bội chi ngân sách đã được kéo xuống còn dưới 6%, nhưng nếu tính cả huy động trái phiếu, thì tỷ lệ vẫn còn ở mức 7%. Đó là mức rất cao, không những là một trong những nguyên nhân của lạm phát cao, mà còn làm gia tăng nợ nần. Nhập siêu năm 2010, so với năm trước và so với kế hoạch năm, đã giảm và thấp hơn cả về kim ngạch tuyệt đối cũng như tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu, nhưng nhập siêu liên tục, kéo dài và hiện ở mức khá cao (năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm 2008 là 18,0 tỷ USD, năm 2009 gần 12,9 tỷ USD, năm 2010 khoảng 12 tỷ USD). Điều này đã tác động tiêu cực tới cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối và tạo sức ép lên tỷ giá. Giá USD trên thế giới giảm, nhưng ở trong nước vẫn tăng (năm 2008 tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,7%, 11 tháng năm 2010 tăng 6,63%), làm tăng mạnh gánh nặng lạm phát … Ông Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, ngay từ quý I/2011, cần tiếp tục thắt chặt để đạt được mục tiêu quan trọng nhất vào thời điểm này là giảm lạm phát. Hiện tại, một số tổ chức nước ngoài đưa ra dự báo lạm phát của Việt Nam năm 2011 vào khoảng 7-8%/năm cho mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 7,5%. Điều này cho thấy, khả năng kiềm chế lạm phát dưới 7% cho năm 2011 là rất khó khăn nếu đặt mức tăng trưởng cao. Đặc biệt, dự báo này đưa ra một thực tế là, nếu không kiên định, nhẫn nại với mục tiêu kiềm chế lạm phát, thì bất ổn kinh tế vĩ mô năm 2011 có thể sẽ cao hơn năm 2010. Theo ông, nếu kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thì tăng cung tín dụng không thể cao hơn năm 2010, chỉ nên khoảng 22-23%. Có nghĩa là, mục tiêu chính sách tiền tệ phải chặt chẽ hơn năm 2010. Cùng với điều hành linh hoạt hơn, nền kinh tế sẽ dần ổn định và tránh được những cú sốc lớn cho doanh nghiệp. Ông Võ Trí Thành cho rằng, điều đầu tiên phải xác định là kiềm chế lạm phát một cách nghiêm khắc. Ngay cả tỷ lệ lạm phát 7% vẫn là quá cao, sẽ dẫn tới những khó khăn trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là không thể có chính sách lãi suất và tỷ giá nhất quán được. Lạm phát cao cũng sẽ khiến dòng tiền đổ vào sản xuất giảm, thay vào đó là các hoạt động đầu cơ ngắn hạn. Tất nhiên, chúng ta cũng không thể đặt mức lạm phát khoảng 3-4% như mức trung bình của các nước đang phát triển, vì việc kéo lạm phát từ gần 12% năm 2010 xuống mức 3-4% trong năm tới sẽ gây ra những cú sốc lớn không cần thiết. Theo quan điểm của Ông Võ Trí Thành, chúng ta nên đặt mục tiêu khoảng 6% trong năm 2011, làm cơ sở đưa tỷ lệ lạm phát của Việt Nam về mức tương đương với các đối tác thương mại trong những năm tới. Quan trọng hơn nữa, quyết tâm này phải được hiện thực hóa một cách mạnh mẽ và hợp lý theo nghĩa có sự phối hợp tốt hơn giữa chính sách tiền tệ và tài khóa, cân nhắc tốt hơn giữa chính sách tiền tệ và điều tiết hệ thống ngân hàng. Khi đó, tăng trưởng có thể sẽ giảm, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn, nhưng với môi trường vĩ mô rõ ràng, doanh nghiệp sẽ tự điều chỉnh, tái cơ cấu một cách hợp lý theo hướng dài hạn. Ông Võ Trí Thành cũng nhắc tới yêu cầu nghiêm khắc hơn với chính sách tài khóa, để giảm áp lực cho chính sách tiền tệ, giảm áp lực cho doanh nghiệp khi buộc phải thực hiện thắt chặt để ổn định kinh tế vĩ mô. Ông Võ Trí Thành nhấn mạnh, để chống lạm phát, biện pháp quan trọng mà cả thực tiễn và lý luận đều đã chứng minh là thắt chặt tài khóa (các khoản chi tiêu) và thắt chặt tiền tệ (cung tiền). “Trong ngắn hạn không thể có mục tiêu hoàn hảo. Để kiềm chế lạm phát và đạt được mục tiêu lớn là ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ phải thắt chặt và nhiều khi phải chấp nhận đánh đổi lợi ích của một số doanh nghiệp,” ông khẳng định. Với đặc thù “cơ thể” kinh tế hiện chưa thể “hấp thụ” vốn hiệu quả, việc tăng cung tiền đã đẩy đồng Việt Nam mất giá cao hơn nhiều so với các đồng tiền khác, dẫn tới “vòng xoáy” USD, vàng… Bên cạnh đó, với đặc điểm là nước nhập siêu, khi tăng cung tiền đồng, giá tiền đồng sẽ mất giá so với USD, dẫn tới vòng xoáy lạm phát. Đặc biệt, với kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng cao trong đầu tư công, tình hình lạm phát hiện nay là do áp lực của tổng cầu bao gồm đầu tư và tiêu dùng. Quyết liệt kiềm chế lạm phát Xem tin gốc  CAND Portal - 2 tuần trước 84 lượt xem Đó là thông điệp được đưa ra bởi người đứng đầu các cơ quan của Chính phủ và Quốc hội tại phiên họp hôm qua (18/2) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh cho biết, Chính phủ sẽ sớm có nghị quyết mới về thực hiện các giải pháp tổng thể để kiềm chế lạm phát. Facebook Quyết liệt kiềm chế lạm phátTwitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này Cụ thể, tới đây chính sách tài chính sẽ được điều hành hết sức chặt chẽ, chi tiêu công sẽ được quản chặt hơn để tiết giảm thêm 10%. Đồng thời không tăng đầu tư xây dựng cơ bản, kể cả trong điều kiện trượt giá. Về bố trí vốn, trừ các công trình đầu tư chống lũ lụt, an ninh quốc phòng thực sự cấp bách, còn lại các công trình khác nếu thực hiện không hết thì không cho chuyển vốn sang năm sau… Về chính sách tiền tệ, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cho biết, tăng trưởng tín dụng được tính toán giữ dưới mức 20%, mà không phải là 23% hay 25% nữa. Đây có thể là mức tăng trưởng tín dụng thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Ngân hàng Nhà nước cũng đã chuẩn bị đưa ra các giải pháp mạnh để giảm tổng cầu. Các việc trên nằm trong các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa chặt chẽ hơn nhằm mục tiêu chống lạm phát và nó là tín hiệu tốt cho thị trường. Trình bày báo cáo của Chính phủ tại phiên họp, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ khẳng định: Chính phủ vẫn đang tập trung cho nhiệm vụ số 1 là tăng cường ổn định vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát. Để kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định thị trường, Chính phủ cũng sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động linh hoạt và thận trọng, kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng và bảo đảm lãi suất ở mức hợp lý. Tuy Chính phủ đã đưa ra thông điệp như vậy, phía các cơ quan của Quốc hội vẫn đề nghị rằng các giải pháp hiệu quả để kiềm chế lạm phát cần được quan tâm hơn nữa và phải được triển khai đồng bộ, kịp thời, bởi những dự báo mới nhất đều cho thấy kinh tế thế giới dù phục hồi nhưng sẽ chậm hơn so với năm 2010. Thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp cũng sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều mặt. Còn ở trong nước, lạm phát, lãi suất có sức ép tăng ở mức cao, cung - cầu vốn tín dụng căng thẳng, gây khó khăn cho điều hành chính sách tiền tệ khi vừa phải bảo đảm thanh khoản cho nền kinh tế, vừa phải thực hiện kiềm chế lạm phát, vừa phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2010… Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Hà Văn Hiền đề nghị: "Để kinh tế vĩ mô ổn định và có tính bền vững lâu dài, song song với các giải pháp thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2010, cần ưu tiên xây dựng lộ trình và khẩn trương thực hiện ngay từ năm 2011 quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế. Trước hết là điều chỉnh cơ cấu đầu tư để nâng cao hiệu quả đầu tư, sử dụng hợp lý các nguồn lực, tạo tiền đề vững chắc thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011-2015". Về thực hiện thu chi ngân sách năm 2011, Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng: Diễn biến của lạm phát 2 tháng đầu năm dự kiến đạt trên 3,4% và có xu thế đạt 4% trong quý I-2011, cùng với sự điều chỉnh tỉ giá của ngân hàng vừa qua, sự lên giá của đồng USD… đã có tác động bất lợi cho sản xuất, đời sống, ảnh hưởng tới thu, chi ngân sách Nhà nước. Vì vậy, Chính phủ cần điều hành chủ động, phản ứng linh hoạt, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô ngay từ những tháng đầu năm, tránh tình trạng lạm phát hai con số như năm 2010. Kéo bội chi xuống dưới 5% Xem xét báo cáo bổ sung của Chính phủ về kết quả thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2010, Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng thu vượt dự toán từ 5% - 10% thì có thể chấp nhận được do dự báo có sai số. Nhưng vượt dự toán quá lớn, cá biệt đến hơn 21% là vấn đề cần được xem xét, phân tích kỹ hơn. Một trong những nguyên nhân là chất lượng công tác lập dự toán chưa cao, chưa thật sự tích cực, công tác dự báo thu ngân sách Nhà nước chưa sát thực tế. "Đây cũng là tồn tại diễn ra trong nhiều năm nhưng chậm được khắc phục ở nhiều bộ, địa phương" - báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách cũng chỉ ra rằng, một số địa phương đã ước thu ngân sách năm 2010 thấp, lập dự toán thu ngân sách năm sau không tích cực để giảm số điều tiết về ngân sách Trung ương hoặc tăng số bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương. Thực tế là năm 2011 đã có 55/63 tỉnh, thành phố lập kế hoạch thu cao hơn mức được Trung ương giao. Bên cạnh đó, báo cáo thẩm tra cũng cho biết: số liệu kiểm toán hàng năm cho thấy vẫn còn có sự thất thu cao ở các địa phương có nguồn thu lớn (Hà Nội, TP HCM...) và còn có tình trạng thất thu ở khu vực ngoài quốc doanh và các hoạt động chuyển nhượng đất đai, bất động sản... Về bội chi ngân sách năm 2011, tại kỳ họp cuối năm 2010, Quốc hội đã chốt mức 5,3% GDP. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh cho biết, mới đây Chính phủ đã đặt quyết tâm giảm bội chi ngân sách năm 2011 xuống dưới 5% và tăng thu ngân sách nhà nước lên trên 7%. Cần quản chặt vàng, USD Cũng tại phiên họp của UBTVQH hôm qua (18/2), các ủy viên UBTVQH bày tỏ lo ngại tình hình giao dịch hàng hóa bằng USD và vàng vẫn tràn lan, gây nhiều tác động xấu và gây khó khăn cho công tác điều hành tỉ giá, tiền tệ. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước nói rằng, ở nước ta, nhiều nhà hàng ghi giá bằng USD công khai, trong khi pháp luật cấm. Vậy mà cũng không bị xử lý gì. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận cũng lo ngại cho rằng, ngay việc thu đổi ngoại tệ tự do, nếu không có biện pháp mạnh thì sẽ khiến giá ngoại tệ tiếp tục tăng, ảnh hưởng đến cân đối, gây sức ép lên tỷ giá. Ý kiến chung của UBTVQH cho rằng cần triển khai mạnh mẽ và đồng bộ các biện pháp quản lý thị trường vàng và thị trường ngoại tệ nhằm ngăn chặn tình trạng gia tăng đôla hóa, vàng hóa trong nền kinh tế. Chính phủ Việt Nam bắt đầu xem chống lạm phát là ưu tiên hàng đầu Đồng bạc Việt Nam lại bị phá giá thêm 8,5% so với đôla. REUTERS/Kham Thanh Phương Sau nhiều năm theo đuổi chính sách thúc đẩy tăng trưởng bằng mọi giá, nay chính phủ Việt Nam mới xem chống lạm phát là ưu tiên hàng đầu với việc ban hành một loạt các biện pháp nhằm kiềm lại đà tăng giá, đang khiến đời sống người dân ngày càng khó khăn. Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia châu Á mà lạm phát nghiêm trọng nhất, với chỉ số giá tiêu dùng trong tháng này đã lên tới 12,31%, mức cao nhất từ hai năm qua. Theo dự báo, giá cá sẽ còn leo thang hơn nữa trong những tháng tới do tác động của việc tăng giá điện và xăng dầu, cũng như biện pháp gần đây phá giá đồng bạc Việt Nam thêm 8,5% so với đôla.  Trong số các biện pháp được thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thông qua, có việc giới hạn mức tăng tín dụng trong năm nay ở mức chưa tới 20%, so với mức hơn 28% vào năm 2010. Thâm thủng ngân sách sẽ được giảm xuống mức dưới 5%, so với chỉ tiêu trước đây là 5,3%. Chính phủ cũng ra lệnh cho các doanh nghiệp nhà nước bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước để giảm bớt áp lực giảm giá lên tiền đồng.  Theo lời bà Sherman Chan, một nhà kinh tế thuộc ngân hàng HSBC ở Hồng Kông, những biện pháp nói trên cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam nay mới nỗ lực kiểm soát nền kinh tế vẫn tăng nhanh. Bà Sherman Chan cho rằng : « Việt Nam nay đã đến một giai đoạn mà không thể quay trở lại các chính sách cũ và chúng tôi dự đoán sẽ có thêm những biện pháp thắt chặt tiền tệ trong những tháng tới».  Rõ ràng, theo nhận định của tờ nhật báo The Wall Street Journal, trong một bài báo đăng trên mạng hôm nay, vấn đề bây giờ là Việt Nam có chịu đựng nổi trong ngắn hạn những biện pháp thắt chặt như thế, hay là sẽ vội vã quay trở lại chính sách thúc đẩy tăng trưởng như cũ. Vào năm ngoái, các nhà hoạch định chính sách cũng đã từng kềm chế lạm phát bằng biện pháp tăng lãi suất và hạ thấp mức tăng tín dụng. Nhưng khi tình hình có vẻ được cải thiện vào giữa năm, họ lại thả nổi mức tăng tín dụng và thế là lạm phát lại phi mã lên mức hai con số.  Cũng theo The Wall Street Journal, trong một đất nước công an dày đặc như ở Việt Nam, khả năng xảy ra những cuộc biểu tình chống chế độ giống như ở Trung Đông là điều khó xảy ra, nhưng đối với tuyệt đại đa số người dân ở Việt Nam hiện nay, cuộc sống càng thêm khó khăn, hết tăng gia điện, giờ đến tăng giá xăng.  Chính phủ Việt Nam vẫn trợ giá nhiên liệu và gánh một số chi phí cho các nhà nhập khẩu. Nhưng tình hình bất ổn tại Libya đang khiến giá dầu thế giới tăng vọt và do dầu hỏa vẫn được tính bằng đô la, cho nên việc phá giá tiền đồng càng làm phức tạp thêm vấn đề.  Theo một số nhà phân tích, chính sách mới của Việt Nam có thành công hay không còn phụ thuộc vào tiền đồng. Tính từ giữa năm 2008 đến nay, đơn vị tiền tệ của Việt Nam đã mất 20% giá trị và nhiều người ở Việt Nam, thay vì giữ tiền đồng, mua vàng hoặc đầu tư vào địa ốc, hoặc mua ngoại tệ. Xu hướng đôla hóa mọi giao dịch là một nguy cơ rất đáng ngại đối với bất cứ một đất nước nào. Chỉ một khi người dân yên tâm sử dụng đồng bạc Việt Nam, lúc đó mới có thể nói là chính phủ thành công.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn liên quan