Đề tài Các tổ chức tài chính phi ngân hàng

MỤC LỤC 1. Khái niệm về tổ chức tài chính phi ngân hàng. 4 2. Công ty bảo hiểm 5 2.1 Công ty bảo hiểm nhân thọ. 6 2.2 Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn. 7 3. Các tính chất cơ bản của ngành công nghiệp bảo hiểm 8 3.1 Hợp đồng và phí bảo hiểm 8 3.1.1 Hợp đồng bảo hiểm 8 3.1.2 Phí bảo hiểm 9 3.2 Các nguyên tắc quản trị bảo hiểm 9 3.2.1 Sàng lọc. 10 3.2.2 Phí bảo hiểm rủi ro hợp lý. 11 3.2.3 Các điều khoản cam kết 11 3.2.4 Phòng ngừa gian lận. 11 3.2.5 Hủy bỏ hợp đồng. 12 3.2.6 Khấu trừ. 12 3.2.7 Đồng bảo hiểm 12 3.2.8 Giới hạn số tiền thanh toán bảo hiểm 12 3.3 Thặng dư và các khoản dự trữ. 13 3.4 Doanh thu của công ty bảo hiểm 14 3.4.1 Thu phí bảo hiểm 14 3.4.2 Thu nhập đầu tư. 15 3.5 Bảo đảm Chính phủ. 15 3.6 Chính sách điều hành tác động lên các quyết định đầu tư của công ty bảo hiểm 16 4. Quỹ hưu trí 16 4.1 Định nghĩa. 16 4.2 Đặc điểm 16 4.3 Phân loại quỹ hưu trí: 20 4.3.1 Quỹ hưu trí truyền thống. 20 4.3.2 Quỹ mới 21 4.4 Quỹ hưu trí ở Việt Nam: là một phần của bảo hiểm xã hội, do các cơ quan nhà nước quản lí. 21 5. Công ty tài chính. 22 5.1 Khái quát về công ty tài chính. 22 5.2 Phân loại công ty tài chính. 23 5.2.1 Các công ty tài chính bán hàng (Sale finance company). 23 5.2.2 Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company). 24 5.2.3 Công ty tài chính doanh nghiệp (business finance company). 24 6. Kết luận. 24 Tài liệu tham khảo:. 26 LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển nền kinh tế, bên cạnh các tổ chức ngân hàng thì còn có một bộ phận không kém phần quan trọng trong việc tạo ra dòng luân chuyển vốn từ người tiết kiệm – cho vay đến người chi tiêu – đi vay, đó là các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Ngoài ra, vai trò của các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn được nâng cao trong quá trình sáng tạo và đổi mới trong hệ thống tài chính. Hiện nay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đang cạnh tranh trực tiếp với các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng thông qua việc cung cấp thêm dịch vụ ngân hàng cho khác hàng của mình. Để phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về các tổ chức phi ngân hàng, từ hệ thống các tổ chức, đặc điểm từng loại công ty, đến vai trò của chúng, nhóm chúng tôi thực hiện tiểu luận về đề tài:” Các tổ chức phi ngân hàng”. Tuy nhiên, với thời lượng cho phép, cộng với khả năng nghiên cứu còn hạn chế, nên trong quá trình thực hiện đề tài còn nhiều thiếu sót, mong thầy và các bạn thông cảm và nhóm chúng tôi cũng hy vọng nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy và các bạn để bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. Nhóm thực hiện Nhóm 12.1 Tài liệu tham khảo:- Giáo trình “Các Nguyên Lý Tiền Tệ Ngân Hàng và Thị Trường Tài Chính”. Trần Việt Hoàng (chủ biên) và Cung Trần Việt. - Sách “Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ” của Lê Thị Mận. - Các trang Web: + http://www.vi.wikipedia.org + http://www.saga.vn + http://cafef.vn + http://www.bic.vn của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. + http://www.korealife.com.vn của Công Ty TNHH Bảo Hiểm Nhân Thọ Hàn Quốc ( Việt Nam). + http://www.prudential.com.vn của Công Ty Bảo Hiểm Nhân Thọ Prudential Việt Nam.

docx26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3701 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các tổ chức tài chính phi ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT ------&@&------ CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG GVHD: Hoàng Thọ Phú Nhóm 12.1: Võ Khắc Biên K085041648 Võ Trường Thọ K085041728 Võ Văn Xanh K085041758 Nguyễn Phú Thịnh K085041725 Trà Xuân Thỏa K085041730 Lưu Công Quyền K085041709 TpHCM, tháng 5/2010 LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển nền kinh tế, bên cạnh các tổ chức ngân hàng thì còn có một bộ phận không kém phần quan trọng trong việc tạo ra dòng luân chuyển vốn từ người tiết kiệm – cho vay đến người chi tiêu – đi vay, đó là các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Ngoài ra, vai trò của các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn được nâng cao trong quá trình sáng tạo và đổi mới trong hệ thống tài chính. Hiện nay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đang cạnh tranh trực tiếp với các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng thông qua việc cung cấp thêm dịch vụ ngân hàng cho khác hàng của mình. Để phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về các tổ chức phi ngân hàng, từ hệ thống các tổ chức, đặc điểm từng loại công ty, đến vai trò của chúng, nhóm chúng tôi thực hiện tiểu luận về đề tài:” Các tổ chức phi ngân hàng”. Tuy nhiên, với thời lượng cho phép, cộng với khả năng nghiên cứu còn hạn chế, nên trong quá trình thực hiện đề tài còn nhiều thiếu sót, mong thầy và các bạn thông cảm và nhóm chúng tôi cũng hy vọng nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy và các bạn để bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. Nhóm thực hiện Nhóm 12.1 MỤC LỤC 1. Khái niệm về tổ chức tài chính phi ngân hàng Đây là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. 2. Công ty bảo hiểm Trong sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống của con người luôn chịu sự tác động của thiên nhiên, xã hội. Do quy luật của tự nhiên rất phức tạp, con người không thể một sớm một chiều có thể nhận thức đầy đủ về nó như: bão lụt, động đất, hạn hán, bệnh dịch…có thể gây ra những tổn thất đối với nhà cửa, súc vật , mùa màng, tư liệu sản xuất và con người. Để hạn chế tổn thất do thiên tai gây ra, con người một mặt áp dụng những biện pháp phòng ngừa như xây dựng đê đập, hệ thống thủy nông,dự báo thời tiết…Mặt khác, để khắc phục những hậu quả do thiên tai gậy ra, con người hình thành và hoàn thiện dần việc áp dụng biện pháp kinh tế: thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm nhằm dảm bảo về mặt tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của con người được tiến hành liên tục bình thường. Trong đời sống ngày nay, con người có thể gặp những rủi ro khách quan như tai nạn, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, bị phá sản, bị bệnh. Những rủi ro đó có thể làm cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ sống trong sự sợ hãi của sự suy sụp về tài chính. Để giảm bớt áp lực tài chính nặng nề đó,đảm bảo đời sống ổn định,quỹ dự trữ bảo hiểm của hộ gia đình đã được hình thành. Ở AI Cập khoảng 2500 TCN, những công nhân xây dựng kim tự tháp đã biết lập ra các quỹ chung để trợ giúp lẫn nhau khi có tai nạn trên công trường. Các nhu cầu về bảo hiểm xuất hiện từ rất sớm, những mầm mống đầu tiên của việc dự trữ bảo hiểm xuất hiện từ cuối công xã nguyên thủy. Quỹ dự trữ bảo hiểm ban đầu với hình thức rất đơn giản cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hình thức bảo hiểm được hoàn thiện dần và các loại hình bảo hiểm xuất hiện ngày càng đa dạng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm ngày càng cao của xã hội. Do vậy, bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan vì nhu cầu duy trì một cuộc sống tốt đẹp của các tầng lớp dân cư, nhu cầu duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế và còn vì nó là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt để thu lợi nhuận . Để bảo vệ bản thân khỏi rủi ro chúng ta cần phải mua các hợp đồng bảo hiểm. Với các khoản phí đống góp theo hợp đồng, các công ty bảo hiểm sẽ thanh toán cho chúng ta một khoản tiền để chi trả chi phí nếu rủi ro xảy ra. Các công ty bảo hiểm là các trung gian tài chính thực hiện nhiệm vụ chi trả cho các sự kiện không mong đợi xảy ra(với khoản phí hay giá cả nhất định). Có 2 dạng công ty bảo hiểm: 2.1 Công ty bảo hiểm nhân thọ Công ty bảo hiểm nhân thọ phát hành bảo hiểm chủ yếu cho cái chết và sức khỏe của người chủ sở hữu bảo hiểm. Công ty bảo hiểm nhân thọ cam kết chi trả một lần hay nhiều lần cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm. Thực sự bảo hiểm nhân mạng chưa hẳn là sản phẩm tài chính chủ chốt của các công ty bảo hiểm, phần lớn công việc kinh doanh của Công ty bảo hiểm nhân thọ là cung cấp các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm liên quan đến quỹ hưu trí và sức khỏe. - Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam (Prudential Việt Nam) với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ như: + Phú - Hưng phúc Định kỳ (Mới) + Phú - Hưng thịnh (Mới) + Phú-An Bình + Phú-An Hưởng Thịnh Vuợng + Phú-An Gia Hưu Trí + Phú-Bảo gia Đầu tư + Phú-An Gia Tích Lũy Định Kỳ + Phú-An Gia Thành Tài + Phú-An Khang Thịnh Kỳ + Phú-An Khang Hưu Trí + Phú-Trường An - Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Hàn Quốc (Việt Nam) thì cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính như: + An sinh giáo dục toàn diện. + An sinh tích lũy trọn đời. + An khang linh hoạt trọn đời. 2.2 Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn bảo hiểm cho một loạt các sự kiện không định trước khác nhau liên quan đến tài sản như: - Mất mát hư hỏng tài sản. - Mất hay thiệt hại khả năng tạo thu nhập của tài sản. - Thiệt hại hay thương tật gây ra cho chủ thể khác thứ 3. - Thiệt hại hay thương tật do tai nạn nghề nghiệp. * Vd: Ở Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì cung cấp những sản phẩm bảo hiểm tài sản và tai nạn như: + Bảo hiểm nhà chung cư. + Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khi có rủi ro về tài sản. + Bảo hiểm Mọi rủi ro tài sản. + Bảo hiểm Cháy, nổ bắt buộc. + Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. + Bảo hiểm xe ôtô. + Bảo hiểm môtô – xe máy… Điểm khác biệt chủ chốt giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản là mức độ khó khăn trong việc quyết định chi trả cho người giữ hợp đồng bảo hiểm hay không và nếu có thì chi trả bao nhiêu và như thế nào. Đối với bảo hiểm nhân thọ thì phương diện xác suất thống kê rủi ro là tương đối dễ dàng.Việc tính toán xác định quy mô và thời hạn nghĩa vụ của công ty bảo hiểm tài sản là khó hơn do tính ngẫu nhiên thaát thường của các sự kiện rủi ro,của thiên tai…Do vậy, tính không ổn định về quy mô và thời gian của các khoản chi trả tiền để đáp ứng các nghĩa vụ có tác động lớn đến quyết định đầu tư của các công ty bảo hiểm. Trong thực tế, phần lớn các công ty bảo hiểm lớn thường bán cả hai sản phẩm dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản. 3. Các tính chất cơ bản của ngành công nghiệp bảo hiểm 3.1 Hợp đồng và phí bảo hiểm 3.1.1 Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có bảo đảm luật pháp trong đó người giữ hợp đồng hay người được bảo hiểm đóng các khoản phí nhất định để các công ty bảo hiểm ( hay nhà phát hành bảo hiểm ) chi trả một khoản tiền bảo đảm cho các trường hợp rủi ro cụ thể trong tương lai. Hoặc Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng giao kết về các quyền lợi và trách nhiệm giữa Công ty và Chủ hợp đồng bảo hiểm cũng như các Thành viên được bảo hiểm tham gia sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ nhóm. Hợp đồng bảo hiểm bao gồm nhưng không hạn chế các văn bản sau: Giấy chứng nhận bảo hiểm, Điều khoản bảo hiểm, Danh sách các Thành viên được bảo hiểm, các giấy tờ và phụ lục khác có liên quan. - Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. - Doanh nghiệp bảo hiểm: là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. Công ty bảo hiểm đứng ra gánh chịu rủi ro một phần hay toàn bộ đối với những sự kiện rủi ro không định trước được trong cuộc sống. Tuy nhien bên cạnh việc đứng ra gánh chịu rủi ro đó thì các công ty bảo hiểm cũng rất quan tâm đến những điệu kiện cụ thể của các cá nhân, tổ chức sử dụng bảo hiểm; đánh giá những rủi ro có thể xảy ra cũng như xác suất xảy ra của các rủi ro để có thể ký những hợp đồng bảo hiểm có lợi cho mình cũng như người sử dụng bảo hiểm. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết hợp đồng là giấy chứng nhận bảo hiểm hay đơn bảo hiểm. 3.1.2 Phí bảo hiểm Khi công ty chấp nhận hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm trở thành tài sản cho người được bảo hiểm (là khách hàng của công ty bảo hiểm) và là khoản nghĩa vụ đối với công ty bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm có thể được chi trả cho công ty một lần hay nhiều lần. Tương tự như các loại hợp đồng khác, hợp đồng bảo hiểm sẽ bị hủy bỏ khi người được bảo hiểm không đóng phí, đóng phí không đủ, hoặc không đúng thời hạn. 3.2 Các nguyên tắc quản trị bảo hiểm Với chức năng hoạt động tương tự như các ngân hàng, các công ty bảo hiểm là trung gian tài chính chuyển từ một dạng tài sản tài chính này sang một dạng tài sản tài chính khác. Sản phẩm của các công ty bảo hiểm là cá dịch vụ bảo hiểm, để thay vào đó các công ty bảo hiểm nhận được phí bảo hiểm từ các hợp đồng và dùng chính phí bảo hiểm đó để đầu tư vào các tài sản khác với mục tiêu lợi nhuận: chứng khoán, trái phiếu…rồi lại dùng tài sản này để thanh toán hợp đồng bảo hiểm. Trong nguyên tắc quản trị ngành công nghệp bảo hiểm cần quan tâm tới nguyên tắc rủi ro lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức. - Rủi ro lựa chọn nghịch là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông tin phi đối xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt, đây là một loại thất bại thị trường. Bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm chấp nhận mức trả bảo hiểm cao cho khách hàng ít nguy cơ. Song họ lại có ít thông tin về thứ họ được đề nghị bảo hiểm hơn so với người mua bảo hiểm. Nếu người mua bảo hiểm cung cấp những thông tin không trung thực, thì công ty bảo hiểm có thể sẽ có thể ký hợp đồng trả tiền cao cho đối tượng bảo hiểm nhiều nguy cơ. Ví dụ, người mua bảo hiểm nhân thọ có thể dấu thông tin về tình trạng sức khỏe tồi (ung thư) của mình, cam đoan với công ty bảo hiểm rằng mình có sức khỏe tốt, dẫn tới công ty bảo hiểm có thể đi ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho một người sắp chết. - Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Rủi ro đạo đức xảy ra sau khi hợp đồng bảo hiểm đã được ký. Rủi ro đạo đức là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh trong môi trường thông tin phi đối xứng.Trong hợp đồng bảo hiểm, rủi ro đạo đức xảy ra khi hợp đồng bảo hiểm khuyến khích được bên nhận lấy rủi ro để tăng khả năng được thanh toán tiền bảo hiểm theo hợp đồng. Hầu hết những người mua bảo hiểm đều mua những hợp đồng có lợi cho mình nhất, nghĩa là khi họ gặp rủi ro thì đa phần rủi ro được chuyển cho các công ty bảo hiểm. Nên khi bán hợp đồng bảo hiểm cho những người này, công ty bảo hiểm có khả năng tổn thất tiềm năng lớn. Rủi ro lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức tạo ra các khoản chi phí thanh toán hợp đồng cao từ khiếu nại đòi bồi thường bảo hiềm. Do vậy, để có thể giảm thiểu rủi ro đối với các công ty bảo hiểm, cần có ác nguyên tắc chung sau: 3.2.1 Sàng lọc Công ty bảo hiểm tập hợp bằng nhiều phương pháp, phân tích thông tin để có thể chọn lọc những khách hàng tốt khỏi các đối tác kém, để có thể quyết định chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu bảo hiểm từ phía người mua. Tùy theo từng loại bảo hiểm thì có những phương pháp cũng như cách tiếp cận khác nhau để lấy thông tin, nhưng tất cả đều vì mục đích tránh rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn nghịch. 3.2.2 Phí bảo hiểm rủi ro hợp lý Đối với công ty bảo hiểm, việc thu phí đối với từng mức độ rủi ro của người được bảo hiểm là nguyên tắc quản lý bắt buộc. Lựa chọn mức thu phí tương ứng với từng mức độ rủi ro ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của công ty bảo hiểm. Vd mức giá bảo hiểm trách nhiệm xe cơ giới hiện nay được pháp luật bảo hiểm (Bộ Tài Chính) quy định với các loại xe cơ giới khác nhau là khác nhau như: + Xe ôtô không kinh doanh vận tải dưới 6 chỗ là 379.500 VNĐ, trên 6 chỗ là 759.000 VNĐ (đã có VAT) + Xe máy 50cc là 55.000 VNĐ, trên 50cc là 66.000 (đã có VAT)… 3.2.3 Các điều khoản cam kết Các điều khoản cam kết có thể áp đặt nhằm đòi hỏi hành vi cư xử hợp lý từ phía người được bảo hiểm, làm cho người giữ hợp đồng bảo hiểm nản lòng mà không thực hiện các hoạt động rủi ro để khó xảy ra khiếu nại đòi bồi thường và các công ty bảo hiểm phải bồi thường. VD về nguyên tắc người mua bảo hiểm không được đàm phán, thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung điều khoản của hợp đồng bảo hiểm; hoặc người được bảo hiểm phải để ý, sao cho sự việc bảo hiểm không xảy ra và làm tất cả để nó không xảy ra hoặc làm giảm đến mức tối đa hậu quả của nó (đặc biệt là không chậm chễ đi khám bác sĩ); hoặc phải cung cấp cho hãng bảo hiểm tất cả những thông tin trung thực về sự hình thành, quá trình và hậu quả của sự vụ có bảo hiểm và trong trường hợp có nghi ngờ, chứng minh cho hãng bảo hiểm quyền đòi bồi thường bảo hiểm. 3.2.4 Phòng ngừa gian lận Để giảm thiểu rủi ro, ngoai các biện pháp trên các công ty bảo hiểm cũng cần phải quan tâm đến gian lận của bên mua bảo hiểm để có biện pháp phòng ngừa, chỉ có những người được bảo hiểm hợp lý và có căn cứ mới được thanh toán. Tránh những trường hợp như không thực hiên đúng hợp đồng mà vẫn đòi bồi thường, hoặc khiếu nại đòi bồi thường với những việc mà thực tế không xảy ra, hoặc rủi ro nhỏ thiệt hai không đáng kể nhưng làm phóng đại lên để đòi được bồi thường lớn hơn… 3.2.5 Hủy bỏ hợp đồng Các công ty bảo hiểm luôn sẵn sàng hủy bỏ hợp đồng khi có sự vi phạm các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên đây là chỉ biện pháp hạn chế rủi ro đạo đúc bằng cách đe dọa, nó mang y nghĩa là biện pháp chủ động phòng ngừa hơn là biện pháp chế tài để đối phó. Nó phần nào làm người sử dụng bảo hiểm giảm bớt vi phạm các diều khoản của hợp đồng bảo hiểm. 3.2.6 Khấu trừ Công ty bảo hiểm sẽ khấu trừ một phần tiền bảo hiểm dưới dạng số tiền cố định hay là phần trăm của số tiền bảo hiểm. Biện pháp này phần nào đó thể hiện chế tài của công ty bảo hiểm đối với các vi phạm của bên tham gia bảo hiểm với các điều khoản trong hợp đồng mà chưa đến mức phải hủy bỏ hợp đồng, biện pháp này làm cho người tham gia bảo hiểm cùng gánh chịu với công ty khi thực hiện hợp đồng, làm cho người được bảo hiểm cùng thực hiện hoạt động phù hợp với hướng của hoạt động công ty, vì nếu có hành động gây tổn thất đến hoạt động của công ty bảo hiểm thì cũng chính họ phải chung chịu trách nhiệm do sự khấu trừ của công ty bảo hiểm. 3.2.7 Đồng bảo hiểm Cũng tương tự như khấu trừ bảo hiểm, đồng bảo hiểm là khi có sự dàn xếp giữa người được bảo hiểm va bên bảo hiểm để người được bảo hiểm cùng gánh chịu một tỷ lệ phần trăm tổn thất với công ty bảo hiểm. 3.2.8 Giới hạn số tiền thanh toán bảo hiểm Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong quản trị bảo hiểm. cần phải quy định số tiền bảo hiểm để công ty tránh phải thanh toán những số tiền bảo hiểm vượt quá khả năng có thể dẫn đến phá sản. Dễ xảy ra rủi ro đạo đức cho công ty. Đồng thời làm cho những người được bảo hiểm cẩn thận hơn với chính mình, vì khi họ co rủi ro thiệt hại lớn đến thế nào thì số tiền bảo hiểm vẫn là cố định. Trong khi đó các công ty bảo hiểm luôn bảo đảm rằng tiền bồi thường bảo hiểm có thể nằm trong khả năng của họ và nó không cao đến mức làm cho rủi ro đạo đúc có thể xảy ra. Tóm lại, toàn những nguyên tắc quản trị bảo hiểm nói trên, từ sàng lọc khách hàng, quy định phí bảo hiểm, các khoản cam kết, đến ngăn nhừa gian lận, các biện pháp mag một ít tính chất chế tài như đồng bảo hiểm, khấu trừ… tất cả đều giúp công ty bảo hiểm lựa chọn đối tác và tránh các rủi ro co thể gặp, tăng tính sinh lợi của các hoạt động bảo hiểm, thu hút người lao động tham gia vào ngành công nghiệp bảo hiểm nhưng ngược lại làm giảm khả năng kiếm lợi của người sử dụng bảo hiểm thông qua hợp đồng đã ký với công ty bảo hiểm, có thể dẫn đến số người sử dụng bảo hiểm giảm đi. Tuy nhiên, để có thể đạt được mục tiêu cao nhất thì trong quá trình quản trị bảo hiểm cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp và cân nhắc trong giới hạn có thể c1 của chúng. Không những quan tâm đến lợi nhuận, doanh thu mà cũng cần quan tâm đến số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm, nếu quá khắc khe thì có thể dẫn đến mất khách hàng. Do đó nhiệm vụ quan trọng của quản trị bảo hiểm là tìm ra chiến lược phát triển phù hợp đối với từng thời kỳ phát triển của công ty, cũng như phù hợp với phát triển của xã hội. 3.3 Thặng dư và các khoản dự trữ Thặng dư (thặng dư pháp lý) của công ty bảo hiểm là khoản chênh lệch giữa tài sản và nghĩa vụ của công ty, được thực hiện bởi các quy định của pháp luật dành cho các công ty bảo hiểm. Trong quá trình xác định giá trị thặng dư đó thì cần phải xác định giá trị của các tài sản và các nghĩa vụ, ma đặc biệt là giá trị nghĩa vụ, vì nó khá phức tạp và phải chi trả ở thời diểm nhất định trong tương lai, nó không chắc chắn, phụ thuộc vào sự xảy ra của các sự kiện dẫn đến các rủi ro. Do vậy các công ty bảo hiểm cần có một tài khoản dự trữ để có thể thể hiện chính xác và phù hợp các nghĩa vụ không chắc chắn có thể gặp này. Tài khoản dự trữ cảu công ty bảo hiểm là một dạng tài khoản mà các công ty bảo hiểm sử dụng một phần vốn hay doanh thu mình kiếm được lập ra một tài khoản để góp phần giúp công ty tránh khỏi tình trạng khủng hoảng tài chính khi có rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát. Thặng dư đóng vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả hoat động kinh doanh của công ty bảo hiểm, xác định tổng số quỹ cuối cùng của công ty để từ đó công ty dựa trên cơ sở này để xác định mức chi trả cho người được bảo hiểm, xác định dạng hoat động kinh doanh nào có thể được bảo hiểm rủi ro khi khoản thặng dư tăng lên. Và để đánh giá khả năng nhận các rủi ro của các công ty bảo hiểm liên quan tới các hợp đồng bảo hiểm, ta dựa vào tỷ lệ sau đây: Khả năng nhận rủi ro=Tổng phí thu hàng nămThặng dư pháp quy Thông thường tỷ lệ này là 2:1 hay 3:1. Nghĩa là khi thu phí 2 hay 3 đồng thì sẽ được hỗ trợ bảo hiểm bằng 1 đồng thặng dư pháp quy. 3.4 Doanh thu của công ty bảo hiểm Thông qua các hoạt động của công ty, dựa vào những nguyên tắc để giảm thiểu rủi ro thì doanh thu một năm của một công ty bảo hiểm được huy động từ 2 nguồn chủ yếu sau: 3.4.1 Thu phí bảo hiểm Thu phí bảo hiểm là số tiền thu được thông qua hoạt động bán hợp đồng bảo hiểm của công ty. Trong tính toán thu phí cũng có những quy định riêng của nó, chẳng hạn không phải hầu hết tất cả phí thu được trong năm đều là thu nhập của năm đó. Chỉ tính những khoản thu nhập mà nhận được trong năm tài chính đó, không thể lấy giá trị của hợp đồng bảo hiểm hay những khoản thu nhập mà trong tương lai chắc chắn có (trừ những trường hợp khách quan) nhưng không thuộc năm tài chính đó để tính vào thu nhập của năm đó. Vd ông A ký hợp đồng bảo hiểm với công ty bảo hiểm B về bảo hiểm sinh mạng với giá 30 triệu VNĐ vào ngày 15/12/2009 nhưng bắt đầu thực hiện hợp đồng là ngày 1/1/2010 (giả sử năm tài chính của công ty B kết thúc vào 31/12 hàng năm) thi số tiền 30 triệu VNĐ vẫn không được tính vào khoản thu phí năm 2009 của công ty bảo hiểm B, mà sẽ tính vào khoản phí của năm 2010 của công ty B. 3.4.2 Thu nhập đầu tư Thông thường khi thu được phí bảo hiểm, hầu hết các công ty chỉ giữ lại một phần trong số tiền để thu được để phòng khi thanh toán hợp đồng hoặc chi trả bảo hiểm, vì các hợp đồng sẽ không thanh toán cùng một lúc, cũng như các rủi ro sẽ không ít khi xảy ra cùng một lúc. Số tiền còn lại, các công ty bảo hiểm sẽ đầu tư để sinh lợi nên thu nhập của công ty ngoài thu nhập từ thu phí bảo hiểm thì còn thu nhập đầu tư từ các tài sản đầu tư. Và để xác định lợi nhuận của công ty bảo hiểm, ngoài xác định doanh thu, ta cần xác định chi phí. Chi phí được xác định dưới 2 hạng: - Chi phí bù vào khoản bổ sung cho dự trữ. - Chi phí liên quan đến quá trình bán các hợp đồng bảo hiểm. Lợi nhuận được xác định: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí + Nếu doanh thu > chi phí, tức lợi nhuận > 0 công ty hoạt động có lời, tuy nhiên khoản lợi nhuận đó không được chia cho các chủ sở hữu mà phải nhập vào thặng dư pháp quy. + Nếu doanh thu < chi phí, tức lợi nhuận < 0 công ty hoạt động thua lỗ, khoản thua lổ đó sẽ được cắt ra từ thặng dư pháp quy để bù vào. 3.5 Bảo đảm Chính phủ Không giống như các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính khác, hoat động của các công ty bảo hiểm là hoạt động của các doanh nghiệp khác và chịu tác động của luật doanh nghiệp, không được bất kỳ cơ quan nhà nước hay chính quyền nào bảo đảm. hợp dồng bảo hiểm dựa trên nguyên tắc tự nguyện giữa người mua dịch vụ (người được bảo hiểm) với người bán dịch vụ (công ty bảo hiểm). Tuy vậy, hệ thống xếp hạng chuyên nghiệp đánh giá mức phí bảo hiểm và sức mạnh bảo hiểm của từng công ty. Các tổ chức lớn trong hệ thống xếp hạng bảo đảm tín nhiệm của thế giới hiện nay: Moody’s, Standart & Poor’s Corporation (S&P), Fitch’s… 3.6 Chính sách điều hành tác động lên các quyết định đầu tư của công ty bảo hiểm Để đảm bảo độ tin cậy, tính an toàn cũng như bảo vệ lợi ích của người mua bảo hiểm, hoạt động của công ty bảo hiểm đều được điều hành bởi chính phủ các nước, các khu vực, điều hành từ chính quyền trung ương đến các cơ quan chuyên ngành. Cũng giống như các công ty thuộc các lĩnh vực khác, các công ty bảo hiểm muốn hoạt dộng phải được cơ quan chức năng trung ương cấp giấy phép, trong quá trình hoạt động phải báo cáo cụ thể từ hoạt động đến doanh thu, phải thực hiện đúng các quy định của nhà nước. Có 3 lĩnh vực chính tác động lên quyết định đầu tư của các công ty bảo hiểm: Các yêu cầu vốn rủi ro. Phương pháp đánh giá tài sản cho các mục tiêu báo cáo. Các xu hướng đầu tư. Các nhà điều hành quan lý hoat động của công ty thông qua đánh giá tình hình tài chính của công ty, cụ thể là quy mô vốn. Vốn bảo hiểm là thặng dư pháp quy cộng với các giá trị điều chỉnh đặc trưng theo pháp quy. 4. Quỹ hưu trí 4.1 Định nghĩa Quỹ hưu trí nhận đóng góp từ người lao động trong các doanh nghiệp hoặc trong khu vực nhà nước, tiền thu được thường đầu tư vào các loại chứng khoán. Tiền được trả lại cho các thành viên của quỹ dưới hinh thức tiền hưu. 4.2 Đặc điểm Trong các quá trình thực hiện chức năng trung gian chuyển đổi hình thức của các tài sản, quỹ hưu trí cung cấp cho công chúng dạng bảo vệ khác: chi trả thu nhập khi về hưu. Chủ doanh nghiệp , công đoàn hay từng cá nhân có thể thực hiện từng kế hoạch hưu trí, trong đó sẽ huy động vốn thông qua các khoản đóng góp của các thành viên tham gia. Một trong những yếu tố chính tác động lên sự hình thành và phát triển các quỹ hưu trí là chính sách thuế của chính phủ: các khoản đóng góp của chủ doanh nghiệp cho các kế hoạnh hưu trí của các nhân viên sẽ được miễn hay giảm thuế hoàn toàn. Thêm vào đó, chính sách miễn giảm thuế trên các kế hoạch hưu trí còn khuyến khích các doanh nghiệp và các cá nhân tạo ra lá chắn thuế cho mình từ các quỹ hưu trí. Các quỹ hưu trí đầu tư vào các chứng khoán dài hạn, tập hợp tài sản của quỹ hưu trí thường bao gồm các trái phiếu, chứng khoán và cho vai dài hạn có thuế chấp. Mối quan tâm chủ chốt của công tác quản trị quỹ hưu trí bao gồm các vấn đề quản trị tài sản: các quản trị gia quỹ hưu trí cố gắn giữ các tài sản với suất sinh lời cao và rủi ro thấp thong qua đa dạng hóa. Họ cũng áp dụng các kỹ thuật quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất thấp chúng ta đã bàn trong chương trước. Chiến lược hoạt động của các quỹ hưu trí là phụ thuộc vào tình hình kinh tế chung và phụ thuộc vào mức chi tiêu lâu dài của chủ sở hữu và quản trị quỹ. Hiện nay các quỹ hưu trí là những người tham gia chủ chốt trên thị trường tài chính thế giới. Các chương trình lương hưu thường được tổ chức dưới dạng quỹ tín thác: +Chủ doanh nghiệp lập nên quỹ tín thác do một người được ủy thác quản lí vì lợi ích của các thành viên của quỹ. +Tài sản của quỹ được tách rời khỏi doanh nghiệp tài trợ và không được thể hiện trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Những người thuê nhân công, các liên hiệp hoặc các cá nhân có thể đề ra những chương trình trợ cấp, các chương trình này thu nhận tiền vốn do các người tham dự chương trình đó nộp vào. Tuy mục đích của tất cả các chương trình trợ cấp là như nhau, các chương trình này có thể khác nhau theo một số đặc tính. Thứ nhất là điều kiện để thuộc vào chương trình, tức là số thời gian mà một cá nhân phải được ghi tên vào chương trình trợ cấp đó (do là một thành viên của một liên hiệp hoặc do là một người làm thuê cho một công ty) trước khi được quyền nhận trợ cấp. Nói chung các công ty thường đòi hỏi một người làm thuê làm việc 5 năm cho công ty trước khi người đó được coi là đủ điều kiện thuộc về một chương trình và có thể nhận các trợ cấp, nếu người làm thuê đó rời bỏ công ty đó trước khi đủ 5 năm, dù là tự ý ra đi hoặc bị thải hồi, tất cả quyền hưởng trợ cấp bị mất. Thứ hai là phương pháp thanh toán: +Nếu các khoản trợ cấp được xác định bằng các khoản đóng góp vào chương trình và các khoản thu nhập, thì sự trợ cấp này là một chương trình đóng góp được định rõ. +Nếu các khoản tiền thanh toán thu nhập tương lai (các khoản trợ cấp, được để ra từ trước), thì sự trợ cấp này là một chương trình trợ cấp được định rõ. Đối với trường hợp một chương trình trợ cấp được định rõ, có thêm một đặc tính nữa có liên hệ đến việc chương trình đó được cấp vốn như thế nào. Do đặc tính này phức tạp hơn, chúng ta sẽ xem xét nó một cách chi tiết hơn. Một chương trình trợ cấp được định rõ, gọi là được cấp vốn đủ nếu các khoản đóng góp vào chương trình này và các thu nhập chúng qua các năm đủ để thanh toán các khoản trợ cấp được định rõ khi đến kỳ hạn thanh toán. Nếu các khoản đóng góp và các khoản thu nhập không đủ, thì chương trình như vậy được gọi là chương trình được cấp vốn thiếu. Ví dụ, nếu Jane Brown góp 100 đôla mỗi năm vào một chương trình trợ cấp của cô ta và lãi suất là 10%, sau 10 năm các khoản đóng góp của cô và các thu nhập do chúng mang lại sẽ đáng giá 1753 đôla. Nếu món trợ cấp được định rõ này đối với chương trình trợ cấp của cô ta thanh toán cho cô ta 1753 đôla hoặc ít hơn sau 10 năm, thì chương trình được cấp vốn đủ bởi các đóng góp của cô ta và các thu nhập sẽ đủ cho cuộc thanh toán này. Nhưng nếu khoản trợ cấp được định rõ này là 2000 đôla, thì chương trình gọi là được cấp vốn thiếu bởi vì các đóng góp của cô ta và các thu nhập không đủ trang trải món tiền trợ cấp đã định rõ 2000 đôla này. * Để nghiên cứu kỹ hơn, chúng ta xem xét 2 trường hợp:(xét mô hình ở Mỹ) - Các chương trình trợ cấp riêng( kế hoạch hưu trí với cá nhân và doanh nghiệp) Các chương trình trợ cấp riêng được quản lý bởi một ngân hàng, một công ty hoặc bảo hiểm sinh mạng, hoặc một người quản lý quỹ trợ cấp. Trong các chương trình trợ cấp do những người thuê nhân công đỡ đầu, các khoản đóng góp thường được chia sẻ giữa người thuê và người làm thuê cho người đó. Một sự hấp dẫn về thuế quan trọng đối với các chương trình này là ở chỗ những khoản đóng góp của người làm thuê nhân công là những khoản khấu trừ thuế. Vì các khoản trợ cấp được thanh toán do quỹ trợ cấp hàng năm có thể dự tính ở mức độ chính xác cao, các quỹ trợ cấp đầu tư vào các chứng khoán dài hạn, với hơn 1/2 giá trị tài sản có của họ là các trái khoán và các cổ phiếu. Chương trình trợ cấp của nhiều công ty là cá chương trình được cấp vốn thiếu bởi vì họ dự tính thanh toán hết nghĩa vụ trợ cấp của họ nhờ các thu nhập hiện hành khi các khoản trợ cấp đến hạn thanh toán. Chừng nào các công ty còn có đủ thu nhập, việc cấp vốn thiếu không gây ra vấn đề gì, nhưng việc này không luôn luôn như vậy. Do các khó khăn tiềm ẩn trong việc cấp vốn thiếu của công ty, do quản lý tồi, do các thủ đoạn gian lận, và do những lạm dụng khác của các quỹ trợ cấp riêng gây ra{ các qũy trợ cấp của những người lái xe tải là nổi tiếng), Quốc hội Hoa Kì đã ban hành Đạo luật về bảo đảm thu nhập hưu trí của những người làm công (the Employee Retirement Income Security Act-ERISA) năm 1974. Đạo luật này đã thiết lập tiêu chuẩn tối thiểu cho việc báo cáo và tiết lộ thông tin, đặt ra các quy tắc về điều kiện để thuộc vào chương trình và mức độ của việc cấp vốn thiếu, và đã đặt các hạn chế về các phương thức thực hành đầu tư. ERISA cũng đã lập ra Công ty Bảo đảm Trợ cấp (được gọi là "Penny Benny", công ty này thực hiện vai trò tương tự vai trò của FDIC(tập đoàn bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ). Nó bảo hiểm các khoản trợ cấp lên tới một giới hạn 2250 đôla một tháng một người nếu một công ty với một chương trình trợ cấp thuộc loại cấp vốn thiếu đi đến chỗ phá sản hoặc không thể thanh toán các nghĩa vụ trợ cấp của mình vì những lý do khác. Penny Benny thu của các chương trình trợ cấp các phí bảo hiểm để thanh toán cho sự bảo hiểm này. Không may là Penny Benny người bảo hiểm các trợ cấp của một trong 3 người làm công, đang đụng phải những khó khăn tài chính nghiêm trọng, điều đó có thể cần đến một sự bảo lãnh liên bang. - Các chương trình trợ cấp cộng đồng Chương trình trợ cấp cộng đồng quan trọng nhất là bảo hiểm xã hội, nó bảo hiểm cho hầu hết mọi cá nhân làm thuê cho giới tư nhân. Vốn thu được từ những người lao động của FICA (đạo luật đóng góp bảo hiểm liên bang) được tính từ những séc thanh toán và từ thuế theo bảng lương của các chủ thuê nhân công. Các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội bao gồm tiền thu nhập hưu trí, tiền thanh toán y tế và trợ giúp người tàn tật. Khi Bảo hiểm xã hội được thành lập năm 1935, chính phủ liên bang đã dự định cho nó hoạt động như một quỹ trợ cấp riêng. Tuy nhiên không giống như một chương trình trợ cấp riêng, các khoản trợ cấp thanh toán không bị gắn vào những đóng góp trong quá khứ của một người giam gia, do đó nói chung các khoản trợ cấp này được thanh toán theo những đóng góp hiện hành. Hệ thống "trả khi có đủ tiền" (pay - as - you - go) này đã dẫn đến một sự cấp vốn thiếu to lớn của quỹ Bảo hiểm xã hội, ước tính trên 100 tỉ đôla. Các vấn đề của hệ thống Bảo hiểm xã hội này có thể trở nên tồi tệ hơn trong tương lại bởi vì số người Mỹ già đi ngày càng nhiều sẽ dẫn đến số người hưu trí lớn hơn so với số người đang làm việc. Quốc hội vẫn đang vật lộn với các vấn đề của hệ thống bảo hiểm xã hội từ nhiều năm nay và có tiến bộ trong việc tạo việc làm giảm được vốn cấp thiếu là nhờ cách tăng các khoản đóng góp FICA và giới hạn các khoản trợ cấp. Các chính quyền tiểu bang và địa phương và chính phủ liên bang, giống như những người chủ thuê tư, cũng đã đặt ra các chương trình trợ cấp cho những người làm thuê cho họ. Các chương trình này hầu như tương tự về hoạt động như các chương trình trợ cấp riêng và nắm giữ những tài sản có tương tự. Việc cấp vốn thiếu của các chương trình cũng thường thấy và một số nhà đầu tư trái khoán địa phương lo ngại rằng nó có thể dẫn đến những khó khăn tương lại về khả năng của các chính quyền tiểu bang và địa phương trong việc thanh toán nợ của họ. 4.3 Phân loại quỹ hưu trí: Có 2 loại quỹ hưu trí là quỹ truyền thống và quỹ mới 4.3.1 Quỹ hưu trí truyền thống +Doanh nghiệp và người lao động đều đóng góp vào quỹ lương hưu. +Người được uỷ thác có trách nhiệm bảo đảm rằng tài sản có của quỹ đủ trang trải các khoản nợ +Doanh nghiệp tài trợ chịu rủi ro còn lại 4.3.2 Quỹ mới +Chỉ có những đóng góp của doanh nghiệp là xác định +Tiền hưu cuối cùng phụ thuộc vào giá trị của các khoản đầu tư khi nghỉ hưu. 4.4 Quỹ hưu trí ở Việt Nam: là một phần của bảo hiểm xã hội, do các cơ quan nhà nước quản lí. Người lao động đóng góp một phần, doanh nghiệp đóng góp một phần. Hằng tháng nguời lao động đóng 5% tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho tới khi đạt mức 8%. Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội là 11% vào quĩ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi cứ hai năm đóng thêm 1% cho tới khi đạt mưc 11%. Thực tế: Luật BHXH đã không có chế tài đủ mạnh để răng đe NSDLĐ trốn đóng BHXH, còn khống chế mức trần bằng 20 tháng lương tối thiểu, khiến một bộ phận NLĐ có chuyên môn tay nghề cao đang hưởng lương đúng với chất xám của họ (thu nhập trên 9 triệu đồng/tháng) bị thiệt hại, về già họ cũng không đủ sống bằng lương hưu. Vì thế, Quỹ HTBS (Quỹ Hưu trí bổ sung) là một mô hình hợp tác giữa NSDLĐ và NLĐ nhằm xã hội hoá BHXH, tạo tương lai tốt đẹp hơn cho NLĐ". Kết quả khảo sát của Cty môi giới bảo hiểm và tái bảo hiểm Aon VN cho thấy, riêng TPHCM có trên 100 DN đặt vấn đề tìm hiểu về hoạt động của nguồn quỹ này để lo cho tương lai của NLĐ. Tại Cty Unilever, từ 2001 đã thực hiện chương trình bảo hiểm sức khoẻ cho nhân viên như chi trả tiền khám chữa bệnh, bồi thường thương tật và tử vong... Vừa qua, Cty còn tổ chức lấy ý kiến nhân viên để thực hiện 1 trong 2 chương trình: Đầu tư nguồn quỹ vào ngân hàng, hàng tháng có báo cáo lãi cụ thể cho NLĐ và nhận một lần khi nghỉ việc; hoặc mở chương trình tài chính trọn đời (có sinh lãi), đến tuổi hưu thì NLĐ được nhận lương hưu hàng tháng, đến khi qua đời được thêm khoản tiền bồi hoàn sinh mạng. Tương tự, Công ty Dutch Lady VN cũng đã thực hiện chương trình Quỹ HTBS qua ngân hàng. Theo thông tin từ Câu lạc bộ Giám đốc nhân sự TPHCM, rất nhiều DN đang tính toán sử dụng phần BHXH chênh lệch của nhân viên có thu nhập cao (sau khi đóng BHXH) vào các quỹ HTBS để bảo đảm tương lai cho NLĐ. Một quan chức của Vụ BHXH - Bộ LĐTBXH thừa nhận: "Đáng tiếc, trong hàng trăm cuộc hội thảo lấy ý kiến xây dựng Luật BHXH trước đây, chưa ai đặt vấn đề về Quỹ HTBS! Nếu có thì chính sách về HTBS đã có trong luật". 5. Công ty tài chính 5.1 Khái quát về công ty tài chính Công ty tài chính là các trung gian tài chính huy động vốn bằng cách phát hành thương phiếu, cổ phiếu và trái phiếu hay vay từ các ngân hàng, sau đó dùng số tiền thu được đem cho vay ( thường là các khoản vay nhỏ thích hợp với nhu cầu tiêu dùng và các nhu cầu kinh doanh). Trong quá trình trung gian tài chính này, các công ty tài chính đã đi vay các khoản vay lớn và cho vay lại với quy mô nhỏ hơn. Đây là điểm khác biệt với hoạt động ngân hàng là huy động các khoản nhỏ và cho vay các khoản lớn. Một đặc điểm khác của công ty tài chính là không huy động các khoản tiền gửi như ngân hàng thương mại và cũng không được thực hiện các dịch vụ thanh toán (1). Các công ty tài chính lợi thế hơn về tính năng động và tự do trong hoạt động. Ví dụ: tại Hoa Kỳ, chính phủ điều hành và quy định về quy mô số tiền mà công ty tài chính có thể cho khách hàng tiêu dùng cá nhân vay cũng như thời hạn cho vay nhưng họ không bị hạn chế về việc lập chi nhánh, quy định về các tài sản phải giữ hay quy quy định làm thế nào để huy động vốn ( hạn chế về phương pháp huy động vốn). Điều này tạo điều kiện cho các công ty tài chính điều chỉnh các khoản cho vay của mình sao cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng tốt hơn trong các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Mặc dù các công ty tài chính thường thực hiện các khoản cho vay với khả năng phá sản khá cao nhưng nhìn chung họ vẫn thu được lợi nhuận bởi vì họ có thể áp lãi suất cao hơn cho các khoản vay rủi ro đó. Tại Việt Nam hiện nay cũng đã có nhiều công ty tài chính (nhà nước và tư nhân ) được thành lập và hoạt động. Trong đó có các công ty trực thuộc các tập đoàn kinh tế nhà nước như : Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ… 5.2 Phân loại công ty tài chính 5.2.1 Các công ty tài chính bán hàng (Sale finance company) Các công ty tài chính này gián tiếp cấp tín dụng cho người tiêu dùng để mua hàng hóa từ các nhà bán lẻ hay nhà sản sản xuất nào đó. Công ty tài chính bán hàng thường do các công ty sản xuất và bán hàng làm chủ sở hữu và thực hiện các khoản cho vay tài trợ cho khách hàng mua các sản phẩm, hàng hóa dịch vụ của công ty. Ví dụ hệ thống bán lẻ Sears tài trợ cho khách hàng mua các hàng hóa và dịch vụ tại các cửa hàng của Sears, GM Acceptance Corporations tài trợ cho khách hàng mua ô tô của GM. Công ty tài chính bán buôn cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng về các khoản cho vay tiêu dùng và có được khá nhiều khách hàng bởi vì thông thường các khoản vay này được thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn ngay tại các địa điểm mua hàng. 5.2.2 Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company) Các công ty tài chính này cung cấp phần lớn nguồn vốn của mình cho các cá nhân và hộ gia đình vay để mua sắm hàng hóa tiêu dùng như đồ nội thất (giường, tủ…) và vật dụng gia đình (máy giặt, tủ lạnh…), hoặc vay để sửa chửa nhà cửa hay giúp đỡ chi trả các khoản nợ nhỏ. Các công ty tài chính tiêu dùng có thể là các doanh nghiệp riêng biệt dưới hình thức công ty cổ phần hay do các ngân hàng là chủ sở hữu ( ví dụ: Citicorp, Owns Person-to-Person Finance Company, hoạt động khắp các nước trên thế giới). Thông thường các công ty này cho các khách hàng không có khả năng vay từ các nguồn khác và định lãi suất cao hơn. 5.2.3 Công ty tài chính doanh nghiệp (business finance company) Công ty tài chính doanh nghiệp cung cấp các hình thức tín dụng chuyên biệt cho các doanh nghiệp bằng cách thực hiện cấp tín dụng dưới hình thức mua có chiết khấu các khoản phải thu của doanh nghiệp (dạng tín dụng này còn được gọi là Factoring), ví dụ: một xí nghiệp may mặc có hóa đơn chưa thanh toán từ các cửa hàng bán lẻ đã mua hàng của xí nghiệp với giá trị $100.000. Nếu xí nghiệp này cần tiền mặt ngay để mua trang thiết bị, họ có thể bán tài khoản thanh toán này với công ty tài chính với giá $90.000 và giao lại quyền thu số nợ $100.000 cho công ty tài chính. Ngoài nghiệp vụ factoring, công ty tài chính doanh nghiệp còn thực hiện hình thức tín dụng cho thuê tài chính ( nghiệp vụ Leasing ) cụ thể là các công ty tài chính sẽ cho các doanh nghiệp thuê trang thiết bị máy móc ( ví dụ: ô tô, xe tải, toa hàng, máy bay, tàu thủy…) mà mình mua về trong những khoản thời gian nhất định. 6. Kết luận Nghiên cứu về thị trường tài chính thì không thể bỏ qua các công ty tài chính phi ngân hàng vì nó là một bộ phận không thể thiếu trong sự trong hoạt động của thị trường tài chính-tiền tệ. Cùng với các ngân hàng, công ty tài chính phi ngân hàng là các trung gian tạo nên sự vận động và phát triển của thị trường tài chính, đem lại lợi ích cho cả nền kinh tế. Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam nói chung, thị trường tài chính nói riêng thì việc hiểu và nắm vững kiến thức về cơ cấu tổ chức, hoạt động của các tổ chức tài chính là điều bắt buộc đối với những ai đã, đang và sẽ tham gia vào lĩnh vực này. Tài liệu tham khảo: - Giáo trình “Các Nguyên Lý Tiền Tệ Ngân Hàng và Thị Trường Tài Chính”. Trần Việt Hoàng (chủ biên) và Cung Trần Việt. - Sách “Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ” của Lê Thị Mận. - Các trang Web: + + + + của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. + của Công Ty TNHH Bảo Hiểm Nhân Thọ Hàn Quốc ( Việt Nam). + của Công Ty Bảo Hiểm Nhân Thọ Prudential Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCác tổ chức tài chính phi ngân hàng.docx
Luận văn liên quan