Đề tài Cán cân thanh toán của Thái Lan

Mục Lục Lời nói đầu. 2 I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ3 1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế (CCTTQT). 3 1.1 Khái niệm3 1.2 Ý nghĩa kinh tế của CCTTQT.4 2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán quốc tế. 5 2.1. Các thành phần của cán cân thanh toán. 5 2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán. 5 3. Thặng dư và thâm hụt CCTTQT13 3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại14 3.2 Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai15 3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB). 17 3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể. 18 II/Cán cân thanh toán Thái Lan qua các thời kỳ. 20 1/Khái quát chung Kinh tế ngoại thương Thái Lan. 20 2/Phân tích cán cân thanh toán Thái Lan giai đoạn 2005-nay:27 3/Cơ cấu kinh tế và xu hướng của mối quan hệ giữa Thái Lan và EU31 III. Giải pháp đối với Việt Nam32 3.1/Tổng quan chung nền kinh tế Việt Nam:32 3.2. Các giải pháp chung. 35 3.3. Các giải pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế tại Việt Nam37

doc38 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3122 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cán cân thanh toán của Thái Lan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh. 2.2.2. Cán cân vốn Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai. Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn ghi lại những giao dịch về tài sản tài chính. Tài khoản vốn và lãi suất: Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong nước r. Khi lãi suất tăng lên mức r’, tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất hạ xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt. Vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có quan hệ mật thiết với lãi suất. Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi. Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi lãi suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện. Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái: Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện. 2.2.3. Cán cân cơ bản Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu nhập, mà đặc trưng của chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa người cư trú với người không cư trú. Chính vì vậy tình trạng của cán cân vãng lai có ảnh hưởng lâu dài đến sự ổn định của nền kinh tế mà đặc biệt là lên tỉ giá hối đoái của nền kinh tế. Tổng của cán cân vãng lai và cán cân dài hạn gọi là cán cân cơ bản. Tính chất ổn định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế và tỉ giá hối đoái. Chính vì vậy cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch định chính sách kinh tế quan tâm. Cán cân cơ bản = các cân vãng lai +cán cân vốn dài hạn Những hạng mục hay thay đổi như vốn ngắn hạn và thay đổi dự trữ ngoại 2.2.4. Cán cân tổng thể (overall balance) Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và sai sót bằng không ) thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Trong thực tế do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu nhập số liệu và lập CCTTQT do đó thường phát sinh những nhầm lẫn và sai sót. Do đó cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn và hạng mục sai sót trong thống kê. Ta có : Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai +cán cân vốn + nhầm lẫn và sai sót 2.2.5. Cán cân bù đắp chính thức(official finacing balance) Cán cân bù đắp chính thức (OFB) bao gồm các hạng mục : - Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia (ΔR) - Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác (L) - Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân thanh toán (≠) OFB = ΔR + L + ≠ Một thực tế rằng, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và giảm thì ghi có (+), do đó nhầm lẫn thường xảy ra ở đây. Điều này được giải thích như sau : Chúng ta hình dung, quốc gia Việt Nam được chia thành hai bộ phận gồm NHTW và phần còn lại không bao gồm NHTW (gọi là nền kinh tế - NKT). Tiêu chí để phân thành NHTW và NKT là: NHTW có chức năng can thiệp lên cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, còn nền kinh tế thì không có chức năng can thiệp. Theo quy tắc CCTTQT được lập trên cơ sở của nền kinh tế, do đó, các hoạt động can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối (mua bán nội tệ) nhằm tác động lên nền kinh tế, được xem là quan hệ giữa người cư trú với người không cư trú. Khi NHTW can thiệp bán ngoại tệ ra, làm cho dự trữ ngoại hối giảm, đồng thời làm tăng cung nội tệ cho nền kinh tế, do đó ta phải ghi có(+) . Khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào làm cho dự trữ ngoại hối tăng, đồng thời làm tăng cầu ngoại tệ đối với NKT , do đó ta phả ghi nợ (-) 2.2.6. Nhầm lẫn và sai sót OB + OFB = 0 →OB = - OFB →CA+K+OM= - OFB →OM =-(CA+K+OFB) Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Bởi vì cán cân bù đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được xác định (luôn thể hiện là một số cụ thể trên CCTTQT ), do đó đẳng thức trên được áp dụng số dư nhầm lẫn và sai sót khi lập CCTTQT trong thực tế. 3. Thặng dư và thâm hụt CCTTQT CCTT được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi có luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này có nghĩa là, về tổng thể thì CCTTQT luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư, thâm hụt CCTTQT là nói đến thặng dư thâm hụt của một hoặc của một nhóm các cán cân bộ phận chứ không nói đến toàn bộ cán cân. Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của CCTTQT được xác định theo hai phương pháp: Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ phận. Phương pháp tích lũy. 3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại TB=X-M Như vậy cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu về hàng hóa Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết: - Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú - Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết: Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại có vai trò to lớn trong nền kinh tế, bởi vì: Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai, Thâm hụt và thặng dư cán cân thương mại thường quyết định đến tình trạng của cán cân vãng lai. Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa, trong khi đố việc thu thập các số liệu về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai thường diễn ra chậm hơn, tức là có một độ lệch về thời gian nhất định. Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát triển thường công bố tình trạng cán cân này hàng tháng. Để cân bằng cán cân thương mại, các biện pháp chủ yếu thường được áp dụng sẽ tác động vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua các hình thức thuế quan, quotas, v.v… và tác động vào tâm lý tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu của công chúng. 3.2 Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng thể thì nó quan trọng hơn cán cân thương mại. Công thức xác định: CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+ êR - Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0 Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú lớn hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.cung ngoại tề lớn hơn cầu ngoại tệ. - Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0 Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống. cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ. - Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được giả thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không đổi ( quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên ( vị thế quốc gia là chủ nợ ). Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên ( vị thế quốc gia là con nợ). CA = 0, trong dài hạn Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là: ( X- M + Se + Ic + Tr ) = 0 Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do đó chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức: êR= 0 - Kl + Ks = 0.có 2 khả năng xảy ra + TH1: Kl 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực thanh toán của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp suất và giảm giá nội tệ + TH2: Kl > 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. CA = 0 trong ngắn hạn Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là Kl=0, Ks + êR = 0 có 2 khả năng xảy ra: + TH1: êR > 0 và Ks < 0. Dây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế tình huống này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chảy ra nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá, tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do vậy cho dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối + TH2: êR 0. Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào làm tăng ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr xảy ra, khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa ( tức ngăn không cho nội tệ tiếp tục giảm giá. Phân tích cán cân vãng lai có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô vì tình trạng của cán cân này tác động trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và cuối cùng tác động đến cán cân tổng thể. Để tác động đến tình trạng của cán cân vãng lai, cần phải có thêm các giải pháp tổng thể về tài khoá và tiền tệ hơn là chỉ các giải pháp về chính sách thương mại quốc tế và tác động vào tâm lý tiêu dùng. 3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB) BB = CA + Kl Khi CA 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh toán. Chính vì thế mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì; vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc gia và thế giới. - Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy, nghĩa là cho dù cán cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu. Ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân vãng lai & đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiến cho cán cân cơ bản trở lên thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hện những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập mày sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư. *) Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ ràng đến nền kinh tế tuỳ theo cách tiếp cận. *) Đối với các nước đang phát triển, vốn là yếu tố cần thiết để thực hiện công nghiệp và hiện đại hoá, thặng dư cán cân cơ bản nhìn chung được coi là dấu hiệu tích cực. *) Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp là giải pháp cơ bản cho vấn đề này. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư. Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư của cán cân cơ bản như sau: - Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc gia có khả năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có vấn đề gì phải lo lắng khi cán cân vãng lai bị thâm hụt. - Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải xem xét, bởi vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh toán các khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai. Điều này có thể làm cho cán cân vãng lai trở lên xấu đi trong tương lai. 3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của Ngân hàng Trung ương trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế. OB= X-M + Se + Ic +Tr + Kl + Ks OB = - OFB Cán cân tổng thể có ý nghĩa vì: (i) Nếu thặng dư nó cho biết số tiền có sẵn để một quốc gia có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối; (ii) Nếu thâm hụt nó cho biết số tiền một quốc gia phải hoàn trả bằng việc bán ngoại hối. Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi. Sở dĩ vậy là do, nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như thế thì cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng , vì Ngân hàng trung ương không can thiệp mua vào hay bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi. Trong tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung của đồng tiền đó thì tỷ giá của nó sẽ tăng và ngược lại , do đó thông qua cơ chế biến đổi tỷ giá mà cán cân tổng thể sẽ luôn có xu hướng chuyển về vị trí cân bằng. Tuy nhiên, cán cân tổng thể là rất quan trọng đối với tỷ giá cố định vì nó cho biết áp lực dãn đến phải phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để tránh phá giá, Ngân hàng trung ương phải tiến hành bán dự trữ *) Tình trạng của cán cân tổng thể là rất quan trọng và tác động trực tiếp đến nền kinh tế và sự vận hành các chính sách vĩ mô, đặc biệt khi cán cân tổng thể ở tình trạng thâm hụt *) Các giải pháp cân bằng đối với cán cân tổng thể khi ở tình trạng thặng dư không những không khó mà luôn mang lại những hiệu ứng tích cực, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn *) Ngược lại, các biện pháp cân bằng khi ở tình trạng thâm hụt không những khó khăn hơn mà tác động mặt trái thường rất nặng nề, thậm chí có thể mang lại những hậu quả trong dài hạn *) Cân bằng cán cân tổng thể cần lựa chọn và thực hiện các giải pháp một cách hết sức thận trọng. II/Cán cân thanh toán Thái Lan qua các thời kỳ 1/Khái quát chung Kinh tế ngoại thương Thái Lan: Nền kinh tế Thái Lan là một trong những nền kinh tế phát triển mạnh mẽ ở châu Á. Trong thập niên 1960, nền kinh tế của chủ yếu là nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào sản xuất phong phú các loại cây trồng như lúa, sắn, ngô, cao su, mía đường, cùng với sản xuất thủy sản, chủ yếu là tôm. Vị trí chiến lược của nó và tài nguyên thiên nhiên phong phú đã tạo một lợi thế tốt cho Thái Lan, nó cho phép các quốc gia tăng cường tối đa hóa các mặt hàng trong thương mại quốc tế. Nhưng phải đến những năm 1980 đến giữa thập niên 1990 mới đánh dấu sự bùng nổ của nền kinh tế và sự xuất hiện của nó như là một nền kinh tế đa dạng, hiện đại, và công nghiệp hóa. Cho đến năm 1996, nền kinh tế Thái Lan đã phát triển qua 7 kỳ kế hoạch 5 năm. Với 7 kỳ kế hoạch 5 năm này đã đưa lại kết quả là trình độ phát triển kinh tế của Thái Lan tương đối cao so với một số nước ASEAN. Khu vực tư nhân tương đối phát triển. Các chính sách kinh tế vĩ mô và công nghệ hoá của đất nước đang chuyển dần từ thay thế nhập khẩu sang khuyến khích xuất khẩu. Các quyết định kinh tế được đưa ra theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường chứ không phải theo hướng can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Trong 30 năm qua kể từ khi thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế cho đến nay đã chứng kiến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ ở Thái lan. Từ một đất nước chủ yếu là sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng sơ chế, Thái lan đã phát triển lên thành một quốc gia công nghiệp lớn trong khu vực. Hiện nay nông nghiệp chỉ chiếm 11,5% hoạt động kinh tế trong khi sản xuất công nghiệp đóng góp khoảng 31,4%. Chiến lược cơ cấu tăng tỷ trọng các nghành công nghiệp dùng nghiều lao động và tài nguyên là hợp lý đối với một nước nông nghiệp như Thái Lan. Mặt khác nhờ phát triển nhanh các nghành công nghiệp nhẹ dựa chủ yếu vào công nghệ nhập khẩu và sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Bảng 1: Một số số liệu kinh tế Thái Lan. 1995 1996 1997 1998 1999 2000 GDP và các thành phần chính(% thay đổi qua các năm) GDP DANH NGHĨA (TỶ USD) 164,8 183,26 150,23 112,22 121,92 124,44 GDP THỰC TẾ 8,6 5,9 -1,4 -10,8 4,2 4,4 Đầu tư tư nhân 10,3 3,4 -31,7 -52,4 -6,5 14,2 Đầu tư chính phủ 19,18 28,93 16,12 26,52 -16,37 -7 Xuất khẩu(Tỷ USD) 23,6 -0,2 29,8 21,9 -1,4 27,1 Nhập khẩu(Tỷ USD) 30,5 2,3 4,3 -10,5 7,3 39,6 Các cán cân tài chính và đối ngoại (% thay đổi qua các năm ) Cán cân ngân sách 2,7 2,3 -0,7 -2,5 -2,9 -2,4 Cán cân mậu dịch -4,9 -9,1 -1,8 10,9 7,6 4,4 Cán cân tài khoản vãng lai -8,1 -14,4 -3,1 14,3 12,5 7,5 Cán cân vốn 12,97 19,5 -4,3 -9,8 -7,9 -9,5 Các chỉ số kinh tế (% thay đổi qua các năm) Tỷ giá hối đoái hiệu quả thực tế (lấy gốc năm 1997 = 100) 109,2 102,4 90 93,5 86,9 Tỷ lệ thất nghiệp (%) 1,7 1,5 1,2 4,4 4,2 3,6 Bảng 2: Tỷ lệ các ngành trong nền kinh tế Thái Lan (%). Năm Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ 1970 30,2 30,7 44,1 1980 32,2 28,7 48,1 1990 12,7 37,1 50,2 1994 10,0 39,2 50,8 Là một nước nông nghiệp truyền thống với các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, và với gần 50% dân số tham gia vào nông nghiệp, Thái Lan đã nổi lên là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Hơn nữa, các sản phẩm nông nghiệp khác, cả hai đều từ nông nghiệp và thủy sản, bao gồm cả chế biến sản phẩm nông nghiệp, rất quan trọng với xuất khẩu của Thái Lan. Hiện nay, tuy nhiên, cả hai con số lực lượng lao động và số lượng sản xuất đã giảm trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi ngành công nghiệp và du lịch đã trở nên đáng kể cho GDP của Thái Lan. Thái Lan lại đạt được thành công lớn trong cơ cấu lại sản xuất theo hướng đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Một số loại cây trồng chủ yếu: lúa, ngô, sắn, mía...ngoài ra còn mở rộng một số loại cây trồng lấy sản phẩm xuất khẩu như: dứa, thuốc lá, đậu tương... Diện tích rừng chiếm khoảng 26,6% diện tích lãnh thổ. Chính phủ cấm hoàn toàn việc xuất khẩu gỗ và đưa ra chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc. Thái Lan có diện tích ngư trường lớn thứ 3 trong khu vực Châu á, sau Nhật Bản, Trung Quốc. Sản lượng đánh bắt cá hàng năm đạt xấp xỉ 3 triệu tấn/năm. Công nghiệp gồm 4 ngành: công nghiệp chế biến lâm hải sản, công nghiệp dệt, công nghiệp điện tử và điện dân dụng, công nghiệp sản xuất xi măng, trong đó ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất. Dịch vụ gồm: ngân hàng, du lịch, khách sạn... Trong đó, ngành du lịch chiếm tỷ trọng cao nhất. Cùng với công nghiệp hoá, cơ cấu các ngành trong GDP đã thay đổi căn bản. Thái Lan là một trong số ít nước bị thiệt hại nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính năm 1997. Từ năm 1999 Thái Lan ra khỏi cuộc khủng hoảng, kinh tế dần dần được phục hồi. Nền kinh tế Thái Lan phụ thuộc nhiều vào việc xuất khẩu. Hai thị trường lớn nhất của Thái Lan là Mỹ và Nhật Bản, tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ là 20% và sang Nhật là 15% buôn bán của Thái Lan đối với thế giới. Nhưng do tác động mạnh mẽ của sự suy giảm nền kinh tế thế giới đặc biệt là ở hai nền kinh tế Mỹ và Nhật Bản cùng với sự giảm giá mạnh của nhiều mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế, nhất là giá gạo đã làm cho xuất khẩu của Thái Lan suy yếu. Sau sự kiện 11/9, sự phục hồi kinh tế Mỹ càng chậm, dự kiến năm 2001 kinh tế Mỹ chỉ đạt mức tăng trưởng dưới 1,5 % và kinh tế thế giới cũng chỉ đạt 2,7%. Năm 2001 kinh tế Thái Lan cũng chỉ tăng từ 1,3 – 1,8%. Do tác động của kinh tế Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, chính phủ đã điều chỉnh kinh tế hướng vào nội lực, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của dân. Chính phủ đã đề ra hàng loạt chính sách, biên pháp như: tăng tiêu dùng chính phủ, duy trì thuế giá trị gia tăng là 7% đến tháng 12-2003 để đảm bảo sức mua của người dân, hoãn nợ cho nông dân, gây quỹ làng bản bằng cách cho vay mỗi làng bản 1 Triệu Baht, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu – mỗi làng một sản phẩm, đẩy mạnh du lịch và đánh thuế cao đối với một số mặt hàng xa xỉ như rượu bia, thuốc lá v.v... Kết quả là từ đầu năm 2002 kinh tế Thái Lan đã có dấu hiệu phục hồi. Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm 1997 – 2000 (%) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tốc độ tăng trưởng kinh tế(%) -1,7 -10,8 4,2 4,3 1,7 3,0 Nguồn: Báo cáo tình hình thị trường Thái Lan năm 2001của Thương vụ Việt Nam. Tuy nhiên để thực hiện có hiệu quả các chính sách quan trọng do chính phủ đề ra vừa qua nội các Thái Lan đã xem xét lại kế hoach tổng thể 5 năm 2001 – 2006 và điều chỉnh tốc độ phát triển kinh tế hằng năm như sau: Bảng 4: Tốc độ phát triển kinh tế từ năm 2001-2006(%) Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1,3 – 2 % 3 % 4 % 5 % 5 % 5,5 % Nguồn: Báo cáo tình hình thị trường Thái Lan 6 tháng đầu năm 2002 của Thương vụ Việt Nam. Về công nghiệp: Sau 5 năm từ kể cuộc khủng hoảng 1997, công nghiệp Thái Lan có dấu hiệu phục hồi. Quý 1 – 2002 chỉ số công nghiệp tăng lên 117,9 (thời điểm thấp nhất quý 3 –1998 là 95,8) tổng công suất năm 2001 là 53,3 % do sức mua giảm và xuất khẩu khó khăn.Tổng sản lượng công nghiệp năm 2001 xấp xỉ mức năm khủng hoảng 1,97. Hàng công nghiệp xuất khẩu giảm 7%, chỉ đạt 40,3 tỷ USD. Dầu khí giảm 11,5 % đạt 1,7 tỷUSD. Đồ điện và điện tử chiếm 20 % trị giá xuất khẩu. Sang năm 2002 tình hình xuất khẩu sáng sủa hơn, 5 ngành công nghiệp chiếm 1/3 tổng trị giá xuất khẩu tăng năm 2002 là: công nghiệp ôtô, chế biến thực phẩm, điện tử, cao su và sản phẩm cao su, hàng dệt may. Về nông nghiệp: Lĩnh vực nông nghiệp được coi là cột sống của nền kinh tế Thái Lan, thu hút hơn một nửa dân số và chiếm 42 % lực lượng lao động xã hội. Chính sách nông nghiệp được chính phủ đặc biệt quan tâm. Từ khi thủ tướng Thaksin lên cầm quyền, Chính phủ đã can thiệp giá thu mua thóc nhằm nâng giá gạo xuất khẩu bên cạnh việc hợp tác với các nước xuất khẩu gạo như Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan và Miến Điện v.v...Xuất khẩu gạo năm 2001 đạt 7,52 triệu tấn trị giá 1,538 tỷ USD tăng 13,9 % so với mức 6,6 triệu tấn năm 2000. Về thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế do đó đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế Thái Lan. Với nền kinh tế chính là xuất khẩu, ngành công nghiệp xuất khẩu chiếm khoảng 65% GDP của Thái Lan và cũng là nguồn ngoại tệ được sử dụng trong nhập khẩu hàng hóa sang Thái Lan. Thái Lan luôn coi xuất khẩu là trọng tâm của hoạt động kinh tế đối ngoại Bảng : Các mặt hàng xuất khẩu chính của Thái Lan 3 năm gần đây Năm Mặt hàng 1999 2000 2001 Triệu tấn Tr. USD Triệu tấn Tr. USD Triệu tấn Tr. USD Gạo 6,84 1949 6,12 1641 7,52 1583 Cao su 2,03 1159 2,54 1525 2,55 1326 Hải sản hộp 0,55 2010 0,53 2067 0,57 2015 Tôm 0,14 1283 0,14 1510 1,15 1244 Sắn 5,31 609 4,62 513 5,97 577 Gà 0,26 560 0,31 615 0,4 800 Đường 560 4,09 658 3,24 692 Nguồn: Bộ Thương mại Bảng 8 : Kim ngạch buôn bán của Thái Lan : (Tỷ USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu 1999 68,24 65,79 2000 69,87 67,86 2001 63,203 61,081 5 tháng đầu năm 2002 22,55 24,6 Nguồn : Vụ Ngoại thương Bộ Thương mại – Thái Lan Về đầu tư: Năm 2001 có khoảng 842 dự án đầu tư trị giá 4,21 tỷ USD, giảm so với 1142 dự án trị giá 10,59 tỷ USD năm 2000. Nửa đầu năm 2001 Thái Lan cấp giấy phép cho 295 dư án đầu tư trị giá gần 2 tỷ USD. Cục quản lý đầu tư BOI đã từ chối không cấp giấy phép cho 4 dự án sản xuất xe máy của Trung Quốc nhằm bảo hộ sản xuất trong nước đối vơí 7 nhà máy của Thái Lan. Cục quản lý đầu tư đã quyết định miễn thuế nhập khẩu máy móc cho dự án sản xuất ôtô để khuyến khích xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan còn khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua việc cho nứơc ngoài mua đất 99 năm và người nước ngòai góp cổ phần 49 % thay cho tối đa 25 % quy định trước đây trong kinh doanh viễn thông. Chính phủ sẽ cho thành lập 1 Uỷ ban quản lý mới nhằm thu hút đầu tư trong thị trường Chứng khoán (SET) Thái Lan sẽ áp dụng việc miễn giảm thuế đối với công ty nước ngoài nhằm biến Thái Lan thành trung tâm thương mại ở Đông Nam á thay thế Singapore. Trước đây Thái Lan đánh thuế cao nhất vùng 30% nay giảm xuống còn 10%. Về du lịch: Thái Lan là một “điểm đến” hết sức hấp dẫn với du khách thế giới. Sự kiện 11/9 làm cho ngành hàng không và du lịch nhiều nước bị tổn hại nặng. Riêng Thái Lan số du khách dự kiến năm 2001 là tăng 8,4% so với 10,3 triệu du khách năm 2000, nhưng Cục du lịch Thái Lan đã phải điều chỉnh con số này xuống còn 2 % .Trong 5 tháng đầu năm 2002 số du khách đến Thái Lan đạt 4,6 triệu người. Dự kiến số du khách đến Thái Lan đạt 10,86 triệu người . Theo dự báo của Tổng cục du lịch Thái Lan năm 2003 số lượng du khách đến Thái Lan sẽ đạt 11,13 triệu người, doanh thu đạt 8,4 tỷ USD. Năm 2003 phấn đấu trở thành “ thủ đô du lịch của Châu Á” nhằm thu hút số lượng lớn du khách từ Trung Quốc, Nhật Bản và Trung Đông. Các lĩnh vực khác như Ngân hàng Tài chính tương đối ổn định, các khoản vay khống giảm lãi suất tăng và tỷ giá đồng Baht so với ĐôLa Mỹ cũng tăng lên chút ít. Dự trữ ngoại tệ tính đến tháng 6/2002 là 36,3 tỷ USD. Nợ nước ngoài 64,4 tỷ USD, tỷ lệ lạm phát là 1,5 %, thất nghiệp chỉ khoảng 2,9 %. 2/Phân tích cán cân thanh toán Thái Lan giai đoạn 2005-nay: Xuất khẩu của Thái Lan, trong số nhiều nhân tố khác, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phục hồi của đất nước từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998. Các điểm đến chính cho xuất khẩu của Thái Lan là những đất nước cùng trong hệ thống châu Á và Mỹ. Thái Lan đứng ở mức cao trong các ngành xuất khẩu ô tô của thế giới và các nhà sản xuất hàng điện tử. Từ năm 2005, sự gia tăng nhanh chóng trong việc xuất khẩu xe ô tô được sản xuất bởi các công ty Nhật Bản, như Toyota, Nissan và Isuzu, đã giúp Thái Lan cải thiện đáng kể cán cân thương mại của nó. Từ năm 2005, hơn 1 triệu xe hơi được sản xuất mỗi năm. Kết quả là, Thái Lan là một trong mười quốc gia hàng đầu của thế giới ô tô xuất khẩu. _Thương mại Thái Lan, xuất khẩu và nhập khẩu: Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 đã gây trở ngại đến nền thương mại của Thái Lan trong năm 2009. Trong khi giá trị xuất khẩu hàng hóa trị giá 175.3 tỉ $ trong năm 2008, xuất khẩu giảm xuống 150.9 tỉ $ trong năm 2009. Hoa Kỳ là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Thái Lan và nhà cung cấp lớn thứ ba sau Nhật Bản và Trung Quốc. Mặc dù theo truyền thống của Thái Lan,thị trường chính là các nước thuộc khu vực Bắc Mỹ, Nhật Bản và châu Âu.sự phục hồi kinh tế các đối tác thương mại khu vực của Thái Lan cũng đã giúp thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Thái Lan. Thái Lan cũng đã tăng xuất khẩu của mình tại một số thị trường xuất khẩu phi truyền thống của nó, bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc và Trung Đông. Sau đây là các sản phẩm có tính năng nổi bật trong xuất khẩu của Thái Lan: + Dệt may và da giày +Sản phẩm thuỷ sản +Gạo +Cao su +Trang sức +Ô tô +Máy tính +Điện gia dụng Các đối tác xuất khẩu lớn năm 2009 là:      Mỹ - 10,9%      Trung Quốc - 10,6%      Nhật Bản - 10,3%      Hong Kong - 6,2%      Australia - 5,6%      Malaysia - 5% Theo như hàng nhập khẩu có liên quan, họ cũng đã giảm trong năm 2009, so với mức đạt được trong năm 2008. Khối lượng nhập khẩu giảm từ 157.3 tỉ $trong năm 2008 xuống 131.5tỉ$ trong năm 2009. Các sản phẩm nhập khẩu chính là:      Vốn      Hàng hóa thô sơ và nguyên liệu      Hàng tiêu dùng      Nhiên liệu Các đối tác nhập khẩu chính của Thái Lan như năm 2009 là:      Nhật Bản - 18,7%      Trung Quốc - 12,7%      Malaysia - 6,4%      Hoa Kỳ - 6,3%      UAE - 5%      Singapore - 4,3%      Hàn Quốc - 4,1% Năm 2010: Trong quý đầu năm 2010, nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng 12,0%, tăng trưởng hàng quý cao nhất kể từ năm 1995. Các sự gia tăng chủ yếu do xuất khẩu mạnh (tăng 32%)do sự hồi phục của nền kinh tế toàn cầu, bất chấp các cuộc biểu tình tháng Ba-tháng Năm tại Bangkok, tăng trưởng tiếp tục thông qua các quý thứ hai và thứ ba của năm. Nền kinh tế Thái Lan mở rộng bằng 9,3% (năm-ngày-năm) trong ba quý đầu năm 2010, hiệu suất mạnh thứ hai ở Đông Nam Á, chỉ đứng sau Singapore. Chính phủ ước tính tăng trưởng gần 8% (năm-ngày-năm) cho năm 2010 và dự kiến ​​đầy đủ tăng trưởng để tiếp tục vào năm 2011, nhưng ở một mức giá thấp hơn (3% -5%). Tăng trưởng năm 2011 dự kiến ​​sẽ được thúc đẩy bởi xuất khẩu và sự gia tăng nhu cầu trong nước Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tại Thái Lan được mở rộng với nhiều chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài thông qua Hội đồng Đầu tư. Để thu hút thêm đầu tư nước ngoài, chính phủ của Thủ tướng Abhisit đã hứa sẽ tìm cách để mở rộng cơ hội đầu tư, tập trung nhiều hơn vào công nghệ xanh trong lĩnh vực sản xuất. Khoảng 40% lực lượng lao động của Thái Lan được sử dụng trong nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp chiếm chỉ 12% GDP gạo là cây trồng quan trọng nhất của đất nước (dữ liệu dựa trên các quốc gia Thái Lan Thống kê.); Thái Lan là nước xuất khẩu lớn nhất trong thị trường gạo thế giới . mặt hàng nông nghiệp khác sản xuất với số lượng lớn bao gồm cá và các sản phẩm thuỷ sản, khoai mì, cao su, ngô, và đường. Xuất khẩu thực phẩm chế biến như cá ngừ đóng hộp, dứa đóng hộp, và tôm đông lạnh cũng đáng kể. Đăng ký các ngành công nghiệp gia tăng nhanh chóng trong sản xuất bao gồm máy tính và điện tử, đồ gỗ, sản phẩm gỗ, thực phẩm đóng hộp, đồ chơi, sản phẩm nhựa, đá quý và đồ trang sức. Các sản phẩm công nghệ cao như mạch tích hợp và các bộ phận, ổ đĩa cứng, thiết bị điện, xe cộ, và các bộ phận xe đang dẫn đầu tăng trưởng trong xuất khẩu của Thái Lan. Với xuất khẩu mạnh mẽ hơn và tăng áp lực lạm phát, Ngân hàng của Thái Lan bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ của mình vào giữa tháng Bảy năm 2010 sau khi có tiếp một chính sách lãi suất thấp kể từ tháng Tư năm 2009. thặng dư lớn trong cả hai tài khoản hiện hành và vốn góp để tăng giá đồng Baht của Thái Lan tương đối so với đồng USD trong suốt năm 2009 và 2010. Máy móc và các bộ phận, xe cộ, các mạch điện tử tích hợp, hóa chất, dầu thô và nhiên liệu, và sắt thép là một trong hàng nhập khẩu chủ yếu của Thái Lan. Qua năm 2010, Thái Lan là nước lớn thứ ba sau Trung Quốc và Nhật Bản, và nhà cung cấp lớn thứ ba sau Nhật Bản và Trung Quốc trong thương mại hàng hóa với Hoa Kỳ. Thị trường xuất khẩu đang phát triển bao gồm Trung Quốc, Hong Kong, Australia, Trung Đông, Nam Phi, và Ấn Độ. Do sự phục hồi kinh tế toàn cầu, xuất khẩu của Thái Lan trong năm 2010 tăng 25,1% so với năm 2009. Thái Lan là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Nhóm Cairns các nước xuất khẩu nông nghiệp. Năm 2011: Bộ Thương mại Thái Lan ngày 19-3 cho biết kim ngạch xuất khẩu tháng 2-2011 của Thái Lan đạt 18,86 tỉ đô la Mỹ, tăng 31% so cùng kỳ năm ngoái, mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp của Thái Lan. Nhờ nhu cầu thế giới tăng, xuất khẩu trong tháng tăng trưởng trong tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, ngành nông nghiệp và công nghiệp lần lượt tăng 32,8% và 29,9%. Trước đó, kim ngạch xuất khẩu trong tháng 1-2011 cũng tăng 22,5% so cùng kỳ năm ngoái, lên mức 17,1 tỉ đô la Mỹ. Tính chung hai tháng đầu năm, Thái Lan có mức thặng dư thương mại 910,8 tỉ đô la Mỹ. Bộ trưởng Thương mại Porntiva Nakasai cho biết Thái Lan vẫn giữ mục tiêu kim ngạch xuất khẩu năm nay là 215 tỉ đô la Mỹ, tăng 10% so năm trước. Bà Nakasai cho rằng khủng hoảng hạt nhân tại Nhật Bản chỉ tác động đến tình hình xuất khẩu của Thái Lan trong ngắn hạn và dự kiến xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ tăng từ 10-20% lên mức 24 tỉ đô la Mỹ trong năm nay.Bà nhận định Nhật Bản sẽ có nhu cầu nhập khẩu cao để giúp phục hồi sau khủng hoảng, đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm, điện tử và vật liệu xây dựng. Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan về mặt hàng rau và trái cây tươi, chủ yếu là xoài, sầu riêng và măng cụt. Trước mắt, Thái Lan sẽ điều chỉnh kế hoạch, tập trung xuất khẩu sang thị trường các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. 3/Cơ cấu kinh tế và xu hướng của mối quan hệ giữa Thái Lan và EU Thương mại hàng hóa và dịch vụ EU là một đối tác lớn và trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 của Thái Lan. Từ đầu năm 1990 cho đến năm 2007, một sự mở rộng,phát triển liên tục của thương mại giữa Thái Lan và EU-27 có thể được quan sát thấy trong khi mức tăng của xuất khẩu (7,9% trung bình năm) vượt quá nhập khẩu (6,0% / năm).. Trong năm 2006, khối lượng thương mại giữa Thái Lan và EU-27 chiếm 0,9%, trong khi Singapore là1,5% tổng khối lượng thương mại với EU-27. Từ đầu năm 1990, Thái Lan đã bị thâm hụt thương mại sang EU do việc nhập khẩu hàng hoá vốn như máy móc, điện tử thiết bị, vật tư văn phòng tăng cao. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ tài chính năm 1997, giảm nhập khẩu đã xảy ra và từ đó Thái Lan đã được hưởng thặng dư thương mại với EU-27 quốc gia.Thương mại của Thái Lan tập trung giữa các thành viên chính của EU-27, xếp hạng giữa ba đối tác đầu tiên lớn nhất là Đức, Anh và Hà Lan. Thị trường xuất khẩu chính bao gồm Vương quốc Anh, Hà Lan và Đức trong khi thị trường nhập khẩu bao gồm Đức, Ý và Pháp. Trong thập kỷ qua, hơn 80% sản phẩm xuất khẩu từ Thái Lan sang EU-27 là sản phẩm công nghiệp, tiếp theo là mặt hàng nông sản (9,3%) và hàng hóa nông nghiệp (5,6%). Các mặt hàng hàng hóa nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong xuất khẩu từ ​​Thái Lan sang EU, thị trường trọng yếu trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đối với các nước ASEAN.Các mặt hàng chủ yếu bao gồm cao su, gạo, chế biến gia cầm, hoa quả và rau. Tỉ trọng xuất khẩu tăng đáng kể đối với mặt hàng cá tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh (41,1% / trung bình mỗi năm), tiếp đến là mặt hàng cá thái lát, ướp lạnh hoặc đông lạnh (23,2% trung bình mỗi năm), gia cầm chế biến (22,2% / năm). Các mặt hàng Thái Lan có một vị thế khá cạnh tranh trong thị trường của EU về chế biến gia cầm và thủy sản. EU nhập khẩu gạo, gia cầm chế biến từ Thái Lan đã vượt xa những hàng nhập khẩu từ các nước khác, Trong 2001-2005, EU nhập khẩu thủy sản chế biến, đặc biệt là mặt hàng tôm và cá ngừ đóng hộp từ Thái Lan xếp hạng thứ bảy trên thế giới lớn nhất và đứng đầu trong các thành viên ASEAN. Về nhập khẩu, 80% nhập khẩu của Thái Lan từ EU trong giai đoạn 1997-2006 là hàng hoá vốn và vật chất,20% còn lại là các mặt hàngô tô, thiết bị vận chuyển, nhiên liệu và vũ khí. Về hàng hóa vốn, nhập khẩu chính của Thái Lan từ EU bao gồm máy móc và phụ tùng,thiết bị điện, máy móc và các bộ phận và các sản phẩm kim loại, tương ứng. Nhập khẩu chính của Thái Lan bao gồm các sản phẩm hóa chất, bảng mạch, đá quý và đồ trang sức và các sản phẩm kim loại tương ứng,trong đó có sự gia tăng của nhập khẩu máy bay và thiết bị hàng không được chú ý (135,9%/năm), kim loại sản phẩm (32% / năm) và y tế dược phẩm (10%). Đối với thương mại dịch vụ giữa Thái Lan và EU, trong năm 2003, Thái Lan đã có được một thặng dư đối với EU trong lĩnh vực dịch vụ. Xuất khẩu từ Thái Lan sang EU-27 bao gồm du lịch (chiếm 59% tổng nhập khẩu thương mại dịch vụ), giao thông vận tải (26%) và dịch vụ thương mại khác như xây dựng, bảo hiểm, dịch vụ tài chính (12,3%). Nhập khẩu dịch vụ từ EU sang Thái Lan bao gồm giao thông vận tải (45,3% tổng nhập khẩu của thương mại dịch vụ) và thương mại dịch vụ khác (38,1%) và du lịch (13,5%).Đối tác chính trong thương mại dịch vụ với Thái Lan bao gồm Vương quốc Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Hà Lan và Ý. III. Giải pháp đối với Việt Nam 3.1/Tổng quan chung nền kinh tế Việt Nam: Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư song và đa phương khác. Đặc biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong bối cảnh thị trường tài chính trên thế giới ngày càng có mối liên kết chặt chẽ với qui mô và biến động của các luồng vốn tăng rất mạnh. Đây là cơ hội để tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức do nguy cơ đảo chiều của các luồng vốn, nhất là trong bối cảnh kinh tế Mỹ chưa phục hồi và lạm phát toàn cầu gia tăng. Ý thức được xu thế tất yếu của toàn cầu hóa và hội nhập, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã tích cực đàm phán với các đối tác quốc tế và xây dựng lộ trình thực hiện các cam kết WTO nhằm giành thế chủ động trong quá trình hội nhập. Trong đó, một trong những quan tâm hàng đầu là kiểm soát luồng vốn vào và từng bước tự do hóa tài khoản tài chính; dự trữ quốc gia đã được cải thiện dần từ 6,3 tỉ USD năm 2004 lên 8,5 tỉ USD năm 2005 và đạt gần 12 tỉ USD năm 2006. Đáng chú ý, năm 2007 đạt trên 21 tỉ USD, tương đương 3,3 tháng nhập khẩu. Việc trả nợ các khoản vay nước ngoài cũng được thực hiện nghiêm chỉnh mặc dù thu ngân sách ngày càng khó khăn hơn, nhất là trong xu thế giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết. Tuy nhiên, dự trữ cao chưa khẳng định được khả năng đối phó với luồng vốn ra, khái niệm truyền thống về mức dự trữ phù hợp (bằng 3 tháng nhập khẩu) đang được các nhà hoạch định chính sách và phân tích kinh tế xem xét lại. Trên thực tế, Mêhicô là một quốc gia có mức dự trữ quốc tế tương đối lớn đã phải đối mặt với khủng hoảng lòng tin và luồng vốn ra bất thường đi kèm vào cuối năm 1994 và đầu năm 1995. Hơn nữa, cán cân thanh toán của Việt Nam chưa bền vững, cán cân vãng lai giảm từ 957 triệu USD năm 2004 xuống 217 USD năm 2005 và bắt đầu thâm hụt 164 triệu USD năm 2006 và 6,6 tỉ USD năm 2007. Khả năng tạo được thặng dư tài khoản vãng lai là yếu tố hỗ trợ khả năng thanh toán, nhưng khái niệm ổn định tài khoản vãng lai rất phức tạp vì nó phản ánh mối quan hệ qua lại giữa các quyết định tiết kiệm và đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong các chỉ số kinh tế, cán cân vãng lai liên quan đến nhiều lĩnh vực, cả xuất nhập khẩu, tiết kiệm, đầu tư, GDP, đầu tư nước ngoài và tổng phương tiện thanh toán. Tài khoản cán cân vãng lai phản ánh tiết kiệm và đầu tư của chính phủ và khu vực phi chính phủ. Cụ thể, cán cân vãng lai thể hiện sự tương đồng giữa tiết kiệm của tư nhân, chính phủ và hoạt động đầu tư. Ví dụ, thâm hụt tài khoản vãng lai có thể bắt nguồn từ sự xấu đi rõ rệt của tình hình ngân sách bất chấp việc có hay không sự cải thiện tiết kiệm ở khu vực tư nhân. Như vậy, cán cân vãng lai dù là chỉ số quan trọng, nhưng tự bản thân nó không chỉ ra được yêu cầu phải có hành động chính sách hay chính sách đối phó thích hợp vì một khoản thâm hụt có thể chỉ là sự mất cân đối tạm thời do sự sụt giá hàng nhập khẩu, nhưng thâm hụt cán cân thanh toán đòi hỏi phải có sự điều chỉnh khi một quốc gia không thể tiếp tục tài trợ cho các khoản thâm hụt một cách vô hạn bằng cách vay nước ngoài hay tiêu tan dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, cán cân vãng lai thâm hụt là dấu hiệu báo trước cho các nhà hoạch định chính sách về khả năng đang có chính sách không lành mạnh. Trong mọi trường hợp, nhu cầu đưa ra chính sách đối phó và sự lựa chọn chính sách thích hợp phụ thuộc vào kết quả xác định những nguyên nhân gây ra sự mất cân đối. Nếu thâm hụt cán cân vãng lai quá lớn, Chính phủ phải có hành động chỉnh sửa thích hợp, kể cả trong trường hợp cán cân vãng lai thâm hụt bắt nguồn từ khu vực tư nhân do sự chấm dứt đột ngột của luồng vốn vào, gây ảnh hưởng lây lan đến những khoản nợ khác. Trong nền kinh tế hội nhập, cần có dự trữ lớn để xử lý những cú sốc không dự báo trước được. Mức dự trữ được đánh giá trong mối quan hệ với tổng giá trị các hóa đơn nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ dự kiến, các chỉ số mới đây về mức dự trữ phù hợp lại tập trung vào khả năng dễ bị suy yếu về tài chính. Dù sử dụng bất kỳ chỉ số nào về mức dự trữ phù hợp, bản chất của cơ chế tỉ giá cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định mức dự trữ. Thông thường, một quốc gia với cơ chế tỉ giá cố định cần mức dự trữ lớn hơn nước có cơ chế tỉ giá thả nổi, vì dự trữ là cách duy nhất để chống đỡ các cú sốc. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu lòng tin vào khả năng của chính phủ trong việc duy trì các chính sách hỗ trợ là cao, một nước với cơ chế tỉ giá cố định có thể không cần có mức dự trữ lớn để bảo vệ đồng tiền của mình. Nếu các chính sách kinh tế của chính phủ tạo được độ tin cậy cao trong các thị trường tài chính thì chỉ cần mức dự trữ khiêm tốn (trường hợp Ba Lan, Argentina, Estonia và một số nước khác). Ngay cả trong cơ chế tỉ giá thả nổi có quản lý, việc thiếu những chính sách kinh tế đáng tin cậy có thể nhanh chóng dẫn đến hiện tượng chảy vốn ra ngước ngoài và tiêu tan dự trữ, thậm chí khi các nhà chức trách cho phép phá giá bản tệ. Do đó, về cơ bản, độ tin cậy của chính sách và lòng tin của những người tham gia thị trường đặt vào các chính sách này là yếu tố cơ bản để xác định mức dự trữ phù hợp, chính sách đáng tin cậy cho phép các nhà chức trách tăng dự trữ bằng cách đi vay nước ngoài với những điều kiện ưu đãi. Mức dự trữ phải được xem xét trên cơ sở đánh giá các chỉ số về khả năng dễ bị suy yếu về tài chính. Việc này đòi hỏi phải xem xét các biến số phát sinh truyền thống (cán cân vãng lai và ngân sách) và cả các biến số thời điểm (tiền cung ứng trong nước tính bằng ngoại tệ trên giá trị bằng ngoại tệ của dự trữ quốc tế) nhằm hỗ trợ đồng bản tệ trong trường hợp khủng hoảng lòng tin. Dự trữ cần xem xét trong cơ cấu phân theo thời hạn của các tài sản nợ của khu vực công. Tài sản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ vượt mức sẽ làm tăng khả năng suy yếu về tài chính của đất nước. Mức độ mở cửa của nền kinh tế, phản ánh qua tỉ lệ nợ nước ngoài trên GDP, và của tài khoản vốn đối ngoại đều rất quan trọng. Nó giúp xác định mức rủi ro mà đất nước phải chịu do sự biến động của các luồng vốn, điều này sau đó sẽ tác động đến sự cần thiết phải có mức dự trữ lớn hơn để xử lý các cú sốc không dự báo trước được. Thông tin với mức độ minh bạch chưa cao và cơ chế quản lý chậm thay đổi, nên các dự báo có độ tin cậy thấp, khó đưa ra được những giải pháp hiệu quả, không khuyến khích doanh nghiệp và người lao động, hậu quả là sản xuất đình đốn, chi phí sản xuất cao, giá hàng hóa trong nước cao hơn ở nước ngoài tính theo tỉ giá tính chéo, nhập khẩu tăng. Việc xóa bỏ trợ giá xăng dầu đang giúp cải thiện dần chất lượng các dự báo do giá cả thế giới (trước hết là giá dầu) được chuyển nhanh đến người tiêu dùng trong nước, góp phần giảm thiểu chi phí trung gian và minh bạch hóa giá cả và khối lượng. 3.2. Các giải pháp chung Các nước thường sử dụng các biện pháp sau đây để cải thiện cán cân thanh toán quốc tế khi bi thâm hụt: - Vay nợ nước ngoài: Đây là biện pháp truyền thống và phổ biến. Biện pháp này thông qua các nghiệp vụ qua lại với các ngân hàng đại lý ở nước ngoài để vay ngoại tệ cần thiết nhằm bổ sung thêm lượng ngoại hối cung cấp cho thị trường. Ngày nay việc vay nợ không còn giới hạn bởi quan hệ giữa ngân hàng nước này với nước kia, mà nó đã được mở rộng ra nhiều ngân hàng khác, đặc biệt là với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế trên cơ sở các hiệp định đã được ký giữa các bên. - Giảm dự trữ ngoại tệ: giống với biện pháp vay nợ nước ngoài biện pháp này cũng đơn giản và có thể cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán trong ngắn hạn. Các nước hoàn toàn có thể thực hiện biện pháp này một cách chủ động. Việc giảm giự trữ ngoại tệ có thể bù đắp một phần hoặc toàn bộ mức thâm hụt cán cân thanh toán. Biện pháp này thích hợp với những nước có tỷ lệ dự trữ ngoại tệ lớn, những nước có tỷ lệ dự trữ ngoại tệ nhỏ thì biện pháp này khó có thể thực hiện được. - Thu hút tư bản ngắn hạn từ nước ngoài: Ngân hàng Trung ương của các nước thường áp dụng những chính sách tiền tệ, tín dụng cần thiết thích hợp để thu hút được nhiều tư bản ngắn hạn từ các thị trường nước ngoài di chuyển đến nước mình, làm tăng thêm phần thu nhập ngoại tệ của cán cân thanh toán, thu hẹp khoảng cách về sự thiếu hụt giữa thu và chi trong cán cân thanh toán đó. Trong số những chính sách tiền tệ tín dụng được sử dụng để thu hút tư bản vào, thì chính sách chiết khấu được sử dụng phổ biến hơn. Để thu hút được một lượng tư bản từ thị trường nước ngoài vào nước mình thì Ngân hàng Trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu, dẫn đến lãi suất tín dụng trên thị trường tăng lên làm kích thích tư bản nước ngoài dịch chuyển vào. Thế nhưng biện pháp này chỉ góp phần tạo ra sự cân bằng cho cán cân thanh toán trong trường hợp bội chi không lớn lắm và cũng chỉ giải quyết nhu cầu tạm thời. Cần lưu ý rằng, biện pháp nâng lãi suất chiết khấu chỉ có hiệu quả khi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội...của quốc gia đó tương đối ổn định, tức là ít rủi ro trong đầu tư tín dụng. - Phá giá tiền tệ: Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, một số nước tư bản đã sử dụng chính sách phá giá tiền tệ như là một công cụ hữu hiệu, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và bình ổn tổng giá hối đoái. Phá giá tiền tệ là sự công bố của Nhà nước về sự giảm giá đồng tiền của nước mình so với vàng hay so với một hoặc nhiều đồng tiền nước khác. Phá giá tiền tệ để tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu từ đó cải thiện điều kiện cán cân thanh toán. Nhưng chúng ta cũng cần nhận thấy rằng, phá giá tiền tệ chỉ là một trong những yếu tố có tính chất tiền đề cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Còn kết quả hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh... trên thị trường quốc tế. - Kiểm soát nhập khẩu: việc kiểm soát nhập khẩu hạn chế lượng hàng nhập khẩu do đó giảm lượng tiền đổ ra ngoài đất nước. Biện pháp này sử dụng được thông qua sủ dụng hang dào thuế quan, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hoặc các biện pháp hành chính như dán tem hang nhập khẩu, chống nhập khẩu lậu, xử lý hành chính các vi phạm nhập khẩu. Biện pháp này góp phần làm tăng mức bảo hộ đối với các nhà sản xuất trong nước khuyến khích tăng sản lượng và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên biện pháp này có những hạn chế như làm giảm mức độ hội nhập cảu nền kinh tế, đi ngược với xu thế tự do hóa thương mại, gây ra tâm lý trông chờ, ỷ lại của các nhà sản xuất và làm giảm khả năng cạnh tranh của hành hóa. Ngoài các biện pháp trên còn có thể áp dụng các biện pháp khác như: kiểm soát ngoại hối, cắt giảm chi tiêu ngân sách, khuyến khích đầu tư trong nước, bán vàng dự trữ, .v..v… Như vậy, có nhiều biện pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, song việc lựa chọn phương pháp nào thì phải xuất phát từ kết quả phận tích những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng thiếu hụt của cán cân, phải xem xét tình hình cụ thể, toàn diện của quốc gia đó cũng như tình hình quốc tế có liên quan để lựa chọn và sử dụng biện pháp thích hợp và hữu hiệu. 3.3. Các giải pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế tại Việt Nam Để cải thiện cán cân vãng lai, gia tăng thặng dư cán cân vốn và tài chính, ổn định cán cân thanh toán quốc tế, Chính phủ và các Bộ ngành liên quan (NHNN, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT) tiếp tục triển khai một số giải pháp sau: - Tiếp tục tập trung hỗ trợ xuất khẩu thông qua các biện pháp như: tiếp tục tăng cường xúc tiến thị trường, hỗ trợ về vốn và công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, đặc biệt đối với nhập khẩu hàng tiêu dùng để hạn chế nhập siêu trong những tháng cuối năm. - Đẩy mạnh tiến độ giải ngân các dự án ODA, đặc biệt sớm hoàn thành các thủ tục pháp lý và rút vốn các khoản vay theo chương trình của các Chính phủ và tổ chức quốc tế. Chính phủ sớm tập trung nguồn ngoại thu ngoại tệ quốc gia và hệ thống ngân hàng, hạn chế sử dụng dự trữ ngoại hối Nhà nước cho các mục đích can thiệp thị trường ngoại tệ, tăng cường mua ngoại tệ để bổ sung cho quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước; - Tiến hành quản lý, giám sát chặt chẽ thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và các luồng vốn đầu tư vào các thị trường này, đặc biệt là luồng vốn đầu tư của nước ngoài để có biện pháp phòng ngừa hình thành “bong bóng” tài sản trên các thị trường này; - Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, giải ngân các dự án FDI, đặc biệt là các dự án lớn; tích cực tổ chức xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. - Tích cực rà soát, sửa đổi các quy định hiện hành về theo dõi, thống kê chính xác, đầy đủ các luồng vốn vào, ra khỏi Việt Nam, đảm bảo các luồng vốn này được thống kê phù hợp với phương pháp luận quốc tế và thông kê cán cân thanh toán và thực tiễn của Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCán cân thanh toán của Thái Lan.doc
Luận văn liên quan