Đề tài Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam

Chiến lược phát triển công nghiệp luôn giữa vai trò trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia vì công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế. Đối với Việt Nam, Đảng ta xác định chiến lược của 10 năm đầu thế kỷ XXI là đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa tạo nền tảng hình thành một nước công nghiệp hiện đại. Mới mở cửa phát triển được 20 năm do đó trong việc hoạch định và xây dựng công nghiệp ở nước ta hiện gặp không ít khó khăn, bỡ ngỡ nhưng bên cạnh đó cũng có những thuận lợi nhất định khi chúng ta mở cửa hội nhập vào “sân chơi” chung toàn cầu. Sau đây nhóm thuyết trình xin nêu một vài quan điểm thu nhận được trong quá trình nghiên cứu về chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam. Bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót mong cô và các bạn đóng góp để bài làm của nhóm được hoàn thiện hơn.

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3967 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Chiến lược phát triển công nghiệp luôn giữa vai trò trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia vì công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế. Đối với Việt Nam, Đảng ta xác định chiến lược của 10 năm đầu thế kỷ XXI là đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa tạo nền tảng hình thành một nước công nghiệp hiện đại. Mới mở cửa phát triển được 20 năm do đó trong việc hoạch định và xây dựng công nghiệp ở nước ta hiện gặp không ít khó khăn, bỡ ngỡ nhưng bên cạnh đó cũng có những thuận lợi nhất định khi chúng ta mở cửa hội nhập vào “sân chơi” chung toàn cầu. Sau đây nhóm thuyết trình xin nêu một vài quan điểm thu nhận được trong quá trình nghiên cứu về chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam. Bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót mong cô và các bạn đóng góp để bài làm của nhóm được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Các thành viên của nhóm thuyết trình CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM. Vai trò của công nghiệp đối với kinh tế xã hội: Công nghiệp có vai trò to lớn trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, quốc phòng và đời sống của toàn xã hội. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, các nước đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp ngày càng phát huy vai trò của mình là đầu tàu trong nền kinh tế. Công nghiệp có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế: Công nghiệp tạo ra khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội mà không ngành nào có thể thay thế được (máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất, công cụ, đồ dùng sinh hoạt…). Công nghiệp là ngành có năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn, tốc độ tăng trưởng cao thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Quan sát bảng số liệu dưới đây: Tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng công nghiệp Đơn vị: % Năm GDP Công nghiệp 2006 8,17 17,0 2007 8,48 17,1 2008 6,23 14,6 2009 5,32 7,6 Ta thấy tốc độ tăng trưởng công nghiệp lúc nào cũng cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP Công nghiệp là ngành chiếm tỉ trọng cao trong GDP. Năm 2008 ở Việt Nam: nông nghiệp: 22% GDP, công nghiệp: 39,9% (cao nhất), dịch vụ: 38,1% Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư. Công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng mạnh do thị trường xuất khẩu hàng hoá thu hẹp; nhưng các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế có nhiều cố gắng; Chính phủ và các cấp, các ngành đã đề ra nhiều giải pháp kịp thời, có hiệu quả như hỗ trợ lãi suất vay vốn; mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước thông qua các gói kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng; vận động nhân dân hưởng ứng chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nên kết quả sản xuất, kinh doanh từng bước được khôi phục và tiếp tục tăng trưởng. Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung cả năm là: Điều hòa nhiệt độ tăng 41,8%; khí hóa lỏng tăng 39,3%; tủ lạnh, tủ đá tăng 29,5%; xà phòng, bột giặt tăng 20,2%; xi măng tăng 19,2%; thép tròn tăng 19,1%; điện sản xuất tăng 11,9%; thuốc lá điếu tăng 10,5%; than sạch tăng 9,9%; dầu thô khai thác tăng 9,8%; nước máy thương phẩm tăng 9,7%; giầy, dép giả gia tăng 9,6%; bia tăng 8,5%. Một số tỉnh, thành phố có quy mô sản xuất công nghiệp lớn đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung cả nước là: Quảng Ninh tăng 15,8%; Thanh Hóa tăng 13,9%; Đồng Nai tăng 10,6%; Bình Dương tăng 10,3%; Khánh Hòa tăng 10%; Hà Nội tăng 9,4%; Cần Thơ tăng 9,1%; Đà Nẵng tăng 8,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Hải Phòng tăng 7,7%. Bên cạnh đó, một số tỉnh có tốc độ tăng thấp như: Hải Dương tăng 6,2%; Phú Thọ tăng 5,3%; Vĩnh Phúc tăng 5%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 3,1%. Công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và dịch vụ phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đối với nông nghiệp, công nghiệp vừa tạo ra thị trường, vừa tạo ra những điều kiện cần thiết cho nông nghiệp phát triển bằng việc cung ứng máy móc thiết bị, phân bón thuốc trừ sâu…. Đặc biệt công nghiệp chế biến làm tăng giá trị và nâng cao sức cạnh tranh của các loại nông sản trên thị trường trong và ngoài nước. Nhờ sự thúc đẩy cơ giới hóa, điện khí hóa trong nông nghiệp bằng các sản phẩm công nghiệp đã làm cho nông nghiệp chuyển mình, năng suất lao động trong nông nghiệp được nâng cao, chất lượng nông sản được đảm bảo. Phát triển công nghiệp góp phần giải quyết việc làm cho 1 bộ phận lao động trong nông nghiệp. Vì vậy, công nghiệp có vai trò to lớn để thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn Đối với dịch vụ: công nghiệp tác động đến các ngành như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, đầu tư tài chính…Công nghiệp tạo điều kiện, động lực cho các ngành dịch vụ phát triển. Khi công nghiệp phát triển các ngành dịch vụ cũng phải phát triển theo để đáp ứng nhu cầu phát triển của công nghiệp. Từ nền tảng những thành tựu, sản phẩm trong công nghiệp mà ngành dịch vụ mới có điều kiện để phát triển. Công nghiệp là tác nhân quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế - xã hội. Công nghiệp góp phần đắc lực vào việc thay đổi phương pháp tổ chức, phương pháp quản lý sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội Trong quá trình phát triển của mình công nghiệp đã tác động mạnh mẽ vào việc đổi mới tối ưu hóa phương pháp tổ chức sản xuất. Theo chiều dọc: tạo dựng các mối liên hệ từ nơi khai thác hoặc nơi sản xuất nguyên liệu đến nơi chế biến và phân phối sản phẩm. Và cả theo chiều ngang: tạo mối liên hệ trong 1 xí nghiệp chuyên môn hóa mở mang sang nhiều xí nghiệp có liên hệ về sản phẩm và thị trường, mở rộng không gian sản xuất và dịch vụ. Phương pháp sản xuất dây chuyền và sản xuất hàng loạt được đẩy mạnh phát triển đã nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản xuất. Công nghiệp cũng làm thay đổi người lao động. Rèn luyện cho họ tác phong công nghiệp từ nề nếp sản xuất đến lề lối làm việc, từ cách suy nghĩ đến tác phong lao động. Thực sự ông nghiệp góp phần cải tạo xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Công nghiệp tạo điều kiện khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên, làm thay đổi sự phân công lao động, làm giảm mức độ chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng Công nghiệp phát triển góp phần khai thác triệt để các tài nguyên: dưới lòng đất, trên mặt đất và dưới đại dương. Từ đó giúp chúng ta sử dụng hiệu quả và tận dụng các nguồn tài nguyên vào quá trình phát triển kinh tế. Khai thác những nguồn tài nguyên mới làm phong phú các yếu tố nhập lượng cho nền kinh tế, góp phần phát triển các lĩnh vực mới. Công nghiệp làm cho không gian kinh tế biến đổi sâu sắc. Các nguồn lợi từ biển trở lên đa dạng phong phú. Chúng ta không chỉ biết đến nguồn lợi thủy hải sản hay dầu khí từ biển mà còn nhìn thấy các điều kiện thuận lợi mà biển đem lại để phát triển đóng tàu, vận tải, …Khai thác các nguồn lợi từ biển trở thành một trọng tâm để thúc đẩy kinh tế nước ta phát triển. Công nghiệp tạo dựng các trung tâm kinh tế mới, chuyển hóa chức năng của nhiều đô thị. Công nghiệp góp phần quan trọng vào quá trình đô thị hóa ở nước ta. Nó đã làm thay đổi đô thị về cả lượng và chất. Những đô thị lớn ngày càng được mở rộng bên cạnh những đô thị mới được thành lập đang chuyển mình nhanh chóng chứng tỏ sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ của đất nước trong thời kì đổi mới. Góp phần giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn, thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Sự phát triển của công nghiệp tại các vùng nông thôn đã làm nơi đây thay da đổi thịt. Đời sống người dân được cải thiện, trình độ dân trí được nâng cao. Công nghiệp đã mang “ngọn đèn điện” – ánh sáng của văn minh đến cho nông thôn Việt Nam. Công nghiệp có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm mới mà không ngành sản xuất vật chất nào sánh được, góp phần vào việc mở rộng sản xuất, thị trường lao động và giải quyết việc làm Sự phát triển không ngừng của ngành công nghiệp làm cho sản phẩm sản xuất ra ngày càng phong phú về số lượng, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng sản phẩm được nâng cao. Đi đôi với việc phát triển công nghiệp là quá trình xây dựng và phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao … được thực hiện đã góp phần giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, tạo môi trường lành mạnh để nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo và tự tạo việc làm. Qua đó, hằng năm đã giải quyết việc làm cho từ 1,1- 1,2 triệu lao động, tận dụng tối đa nguồn nhân lực cho phát triển đất nước, từng bước nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân. Công nghiệp đóng góp vào tích lũy của nền kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân Trong quá trình phát triển, công nghiệp đã tích lũy cho nền kinh tế bao gồm nguồn tài chính, nhân lực và trình độ khoa học công nghệ. Nguồn tài chính tăng biểu hiện là tăng nguồn ngân sách cho nhà nước, tăng tích lũy cho các doanh nghiệp để tái đầu tư phát triển sản xuất và thu nhập của người dân tăng lên đã nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Nguồn nhân lực được phát triển, lao động có tay nghề, lao động qua đào tạo, trình độ lao động tăng rõ rệt. Với nhu cầu phát triển của mình, công nghiệp đã thúc đẩy khoa học công nghệ cũng như quá trình chuyển giao khoa học kĩ thuật diễn ra mạnh mẽ tạo sự phát triển vững chắc cho nền kinh tế. Sự phát triển công nghiệp là thước đo trình độ phát triển, biểu thị sự vững mạnh của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp là điều kiện quyết định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khái niệm chiến lược phát triển công nghiệp. Chiến lược công nghiệp là một kế hoạch tổng thể dài hạn nhằm đạt được mục tiêu phát triển công nghiệp có khả năng cạnh tranh trên qui mô toàn cầu, là định hướng và cách thức phát triển công nghiệp mang tính toàn cục; làm cơ sở cho những hoạch định chính sách, định hướng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn về kinh tế - xã hội của quốc gia. Chiến lược phát triển công nghiệp giữ vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vì công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế. Nó xác định tầm nhìn của một quá trình phát triển dài hạn với sự nhất quán về con đường và các giải pháp cơ bản để thực hiện. Xác định cơ cấu công nghiệp theo lãnh thổ và lựa chọn địa điểm phân bố sản xuất là một nhiệm vụ chiến lược có tác động trực tiếp lâu dài đến sự phát triển công nghiệp của mỗi vùng và mỗi doanh nghiệp. Với định hướng phát triển vùng kinh tế khác nhau thì định hướng phát triển công nghiệp của mỗi vùng lãnh thổ cũng khác nhau. Một chiến lược phát triển công nghiệp có hiệu quả phải đạt được sự duy trì và phát triển vị thế cạnh tranh của ngành công nghiệp. Áp lực toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế dần xóa bỏ những bảo hộ và các hàng rào trở ngại về thương mại và đầu tư, buộc các ngành công nghiệp phải lựa chọn con đường duy nhất để tồn tại và phát triển bền vững là tạo nên vị thế cạnh tranh. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển công nghiệp: Xác định các căn cứ hoạch định chiến lược và dự báo phát triển, xu hướng phát triển của kinh tế quốc tế và quốc gia. Đánh giá thực trạng và những khó khăn, thách thức của ngành công nghiệp. Các quan điểm của chiến lược phát triển công nghiệp gắn liền với hệ quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các quan điểm này là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các nội dung của chiến lược, được thể hiện trong quá trình xây dựng chiến lược. Mục tiêu chiến lược phát triển bao gồm chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, tốc độ tăng trưởng, mối quan hệ giữa các ngành công nghiệp trong cơ cấu công nghiệp. Định hướng và giải pháp về cơ cấu các ngành công nghiệp, phân công và bố trí vùng lãnh thổ công nghiệp, giải pháp về cơ chế hoạt động của ngành công nghiệp Các chính sách phát triển công nghiệp. Các định chế tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá chiến lược công nghiệp. Trong thực tế, mục tiêu chung của nền kinh tế là đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp. Do đó tốc độ phát triển công nghiệp phải đạt cao trên 13% trong nhiều năm và năm 2020 công nghiệp phải chiểm 45% GDP. Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam. Quan điểm. *) Quan điểm phát triển toàn ngành công nghiệp Phát triển công nghiệp trên cơ sở phát huy tổng hợp nguồn lực của mọi khu vực kinh tế, trong đó khu vực công nghiệp nhà nước giữ vai trò định hướng. Phát triển công nghiệp theo hướng hình thành cân đối động, đảm bảo sự ưu tiên phát triển các ngành, vùng phù hợp với nguồn lực và lợi thế trong từng thời kỳ và phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển công nghiệp phải bảo đảm tham gia một cách chủ động và hiệu quả vào liên kết công nghiệp và hiệp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành và với các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Phát triển công nghiệp gắn chặt với phát triển dịch vụ; phát triển công nghiệp nông thôn, tạo động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá. Phát triển công nghiệp gắn kết với các yêu cầu của phát triển bền vững, tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển công nghiệp kết hợp với yêu cầu củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia. *) Quan điểm phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ Phát huy lợi thế của từng vùng để phát triển theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu, phát triển nhanh theo hướng chuyển dần sang các ngành công nghiệp có công nghệ và kỹ thuật cao, có giá trị gia tăng cao, thúc đẩy phát triển các vùng khác. Gắn các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản với các vùng nguyên liệu và vùng nông thôn, miền núi. Định hướng phát triển công nghiệp. *) Định hướng phát triển công nghiệp đến năm 2010 Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như: thuỷ điện, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, điện tử - tin học, một số sản phẩm cơ khí, dược phẩm và tiêu dùng... Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng... với bước đi hợp lý, phù hợp điều kiện vốn, công nghệ, thị trường, phát huy được hiệu quả. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hoá. Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất phần mềm tin học. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao và khu kinh tế mở. Khuyến khích phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn để tạo điều kiện phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp với ngành, nghề đa dạng, thu hút nhiều lao động góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. *) Tầm nhìn công nghiệp Việt Nam đến 2020 Phấn đấu đến năm 2020, GDP công nghiệp và xây dựng có thể tăng tối thiểu gấp 5 lần so với năm 2000. Tỷ trọng GDP công nghiệp và xây dựng trong tổng GDP của cả nước đạt trên 45% vào năm 2020. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế biến, đạt 87 - 88% vào năm 2020. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60%. Tỷ lệ hàng chế tạo trong xuất khẩu đạt 70 - 75%. Tỷ lệ nhóm ngành sử dụng công nghệ cao đạt khoảng 40 - 50%. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp đạt 85 - 90% giá trị xuất khẩu của cả nước. Mục tiêu. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt mức tăng trưởng bình quân 15 - 16%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Tỷ trọng của công nghiệp và xây dựng trong GDP đạt 43 - 44% (riêng công nghiệp 37 - 38%) năm 2010. Duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp ở mức trên 10,2 %/năm giai đoạn 2006 - 2010 và trên 10,3%/năm giai đoạn sau 2010. Tốc độ đổi mới công nghệ ngành công nghiệp đạt trung bình 12 - 15%/năm. Xây dựng đội ngũ lao động khoa học công nghệ trong ngành công nghiệp đảm bảo về số lượng, trình độ để nghiên cứu ứng dụng, tiếp nhận, vận hành, khai thác có hiệu quả các công nghệ, trang thiết bị của ngành. Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng trung bình 16 - 18%/năm. Định hướng và mục tiêu phát triển công nghiệp theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010 . Có sáu vùng công nghiệp được quy hoạch từ nay đến năm 2020. Vùng 1: gồm 14 tỉnh tỉnh trung du, miền núi phía bắc (Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái): tập trung phát triển thủy điện, chế biến nông, lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, hóa chất, phân bón, luyện kim, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Vùng 2: gồm 15 tỉnh đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ(Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tây, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc): được định hướng tập trung phát triển ngành cơ khí, nhiệt điện, phát triển ngành điện tử và công nghệ thông tin, hóa chất, luyện kim, khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, tiếp tục phát triển nhanh công nghiệp dệt may, da giầy phục vụ xuất khẩu, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Vùng 3: gồm 10 tỉnh ven biển Trung bộ (Bình Định, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế): tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, lọc và hóa dầu, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu xây dựng và dệt may, da giầy, ngành điện tử và công nghệ thông tin. Vùng 4: gồm 4 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum): tập trung phát triển thủy điện, công nghiệp chế biến nông, lâm sản và khai thác, chế biến khoáng sản. Vùng 5: gồm 8 tỉnh Đông Nam bộ (Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh): tập trung phát triển công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, điện, chế biến nông, lâm, hải sản và đặc biệt là công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm, hóa chất, hóa dược, phát triển công nghiệp dệt may, da giầy chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, phát triển công nghiệp trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, phát triển các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. Vùng 6: gồm 13 tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long (An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long): tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản hướng vào xuất khẩu, các ngành công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên, ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sau thu hoạch và bảo quản, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, cơ khí đóng tàu. Những Vùng Công nghiệp tại Việt Nam. Định hướng phát triển các khu, cụm công nghiệp. Tăng cường thu hút các nhà đầu tư để lấp đầy các KCN hiện có. Xem xét, cân nhắc kỹ việc xây dựng thêm các KCN mới theo các tuyến hành lang thuận lợi về giao thông. Xây dựng các KCN phải tính đến việc xây dựng các khu đô thị để đảm bảo nhà ở và sinh hoạt văn hóa, xã hội cho người lao động. Xây dựng các khu, cụm công nghiệp phải gắn liền với xây dựng hệ thống xử lý chất thải để bảo vệ môi trường, môi sinh. Phát triển các cụm, điểm công nghiệp để thúc đẩy phát triển tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn. Định hướng phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên và công nghiệp mũi nhọn. Đối với các ngành công nghiệp mũi nhọn sẽ chú trọng vào 3 nhóm: nhóm ngành có lợi thế cạnh tranh để thúc đẩy XK như dệt may, da giày, thực phẩm chế biến (thị trường Nhật rất tiềm năng). Tập trung phát triển nhóm ngành công nghiệp nền tảng cho nền kinh tế như năng lượng, máy móc và công nghiệp luyện kim. Ngoài ra cũng sẽ đẩy mạnh phát triển nhóm ngành công nghiệp mới, trong đó có công nghiệp phần mềm, công nghiệp vật liệu mới… Nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh như chế biến nông - lâm - thuỷ hải sản và thực phẩm, công nghiệp tiêu dùng như may mặc, giày dép, đồ gỗ, công nghiệp nặng như cơ khí đóng tàu, máy động lực và máy nông nghiệp, chế tạo thiết bị, lắp ráp cơ điện tử, xe máy, ngành tiểu thủ công nghiệp...; Nhóm ngành công nghiệp nền tảng (hay còn gọi là trọng yếu) bao gồm các ngành công nghiệp cơ bản sản xuất tư liệu sản xuất như các ngành hạ tầng và năng lượng; một số ngành cơ khí, hoá chất cơ bản; hoá dầu, hoá dược, phân bón...để đảm bảo đáp ứng nhu cầu an ninh, an sinh, bảo đảm tự chủ trong điều kiện có biến động lớn trên thị trường thế giới và đồng thời làm nền tảng cho các ngành công nghiệp khác phát triển; Nhóm ngành công nghiệp có tiềm năng bao gồm các ngành công nghiệp sử dụng hàm lượng tri thức và công nghệ cao như điện tử - viễn thông - tin học, cơ khí chế tạo, hoá chất... là nhóm các ngành công nghiệp tuy hiện nay giá trị sản xuất còn khiêm tốn nhưng có lợi thế cạnh tranh so sánh động mà ngành công nghiệp cần phải thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ trong thời gian tới. DANH MỤC CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP ƯU TIÊN, CÔNG NGHIỆP MŨI NHỌN GIAI ĐOẠN 2007 - 2010, TẦM NHÌNĐẾN NĂM 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số:55/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 4 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ) TT Tên ngành 2007 - 2010 2011 - 2015 2016 - 2020 CN ưu tiên CN mũi nhọn CN ưu tiên CN mũi nhọn CN ưu tiên CN mũi nhọn 1 Dệt may (sợi, vải, lụa, quần áo xuất khẩu, nguyên phụ liệu) x x x 2 Da giầy (giầy dép xuất khẩu, nguyên phụ liệu) x x x 3 Nhựa (nhựa gia dụng, bao bì, chai lọ, ống...; nhựa kỹ thuật) x 4 Chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản x x x 5 Thép (phôi thép, thép đặc chủng) x x 6 Khai thác, chế biến bauxít nhôm x x 7 Hoá chất (hoá chất cơ bản, phân bón, hoá dầu, hoá dược, hoá mỹ phẩm) x x x 8 Cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tầu, thiết bị toàn bộ, máy nông nghiệp, cơ điện tử) x x x 9 Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin x x x 10 Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp phần mềm, nội dung số) x x x Mỗi nhóm ngành cần có các cơ chế chính sách khác nhau của Chính phủ cũng như các doanh nghiệp để đảm bảo sự phát triển hài hoà, có chọn lọc và hiệu quả chung của nền kinh tế. phát triển kinh tế công nghiệp nhà nước là nền tảng, lấy kinh tế công nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài làm động lực phát triển toàn ngành. Coi đầu tư nước ngoài là chìa khóa để công nghiệp Việt Nam cất cánh và hội nhập thế giới. Ngành công nghiệp mũi nhọn là ngành có khả năng cạnh tranh, chiếm thị trường đáng kể tại thị trường trong nước và quốc tế, có khả năng tạo hiệu ứng lan tỏa, dẫn dắt và kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, của các ngành công nghiệp phụ trợ. Chiến lược cần tính toán lộ trình xây dựng, nuôi dưỡng và phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn một cách tối ưu trên cơ sở nền kinh tế hội nhập và khả năng huy động nguồn lực cho phát triển, vai trò và vị trí của các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, cần gắn việc sản xuất với xuất khẩu công nghiệp vào một chuỗi sản xuất và lưu thông quốc tế, đặc biệt là mạng lưới các công ty đa quốc gia thông qua việc gia nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp và xuất khẩu trong quá trình công nghiệp hóa. Các ngành công nghiệp hỗ trợ. Theo đánh giá chung, ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam trong thời gian qua phát triển ở mức độ rất thấp. Hầu hết các ngành công nghiệp lớn ở Việt Nam đều phải nhập khẩu nguyên liệu, phụ kiện ở nước ngoài để sản xuất. Ví dụ ngành dệt may hàng năm xuất khẩu mang về cho đất nước hàng tỷ đô la Mỹ, nhưng phần lớn số ngoại tệ đó lại được sử dụng để nhập khẩu nguyên liệu, phụ kiện phục vụ cho sản xuất. Đây chỉ là một trong số nhiều ngành của nước ta điển hình trong việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu và linh kiện từ bên ngoài tâm then chốt. Do đó: Phát triển công nghiệp hỗ trợ là khâu đột phá để phát triển nhanh và bền vững các ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020 đồng thời phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phân công hợp tác quốc tế và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta hiện nay. Trên cơ sở chọn lọc, dựa trên tiềm năng, lợi thế so sánh của Việt Nammà ta phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn với công nghệ tiên tiến có tính cạnh tranh quốc tế cao, gắn liền với mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng trong nước đối với sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, và phấn đấu trở thành một bộ phận trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Để phát triển công nghiệp hỗ trợ, ta phải phát huy tối đa năng lực đầu tư của các thành phần kinh tế, đặc biệt là các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia. Đưa công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung theo từng nhóm ngành công nghiệp để phát huy tối đa hiệu quả cạnh tranh. *) Đối với ngành Dệt - May Phát triển các trung tâm, cơ sở thiết kế thời trang. Tập trung sản xuất các loại vải cho may xuất khẩu, một số loại hoá chất, chất trợ nhuộm, các chất làm mềm; các loại chất giặt, tẩy; các loại hồ dệt có nguồn gốc tinh bột; hồ hoàn tất tổng hợp; các loại phụ liệu may khác. Xây dựng 3 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ở Hưng Yên, Long An và Bình Dương, Đà Nẵng. *) Đối với ngành Da – Giày Phối hợp với ngành dệt - may đẩy nhanh khả năng cung ứng các loại vải dệt để sản xuất giầy dép, đặc biệt là giầy dép vải xuất khẩu. Nhanh chóng sắp xếp và phát triển lĩnh vực thiết kế mẫu mã, sản xuất nguyên vật liệu da và giả da cung cấp cho sản xuất giầy dép xuất khẩu. Giảm dần mức nhập khẩu da sơ chế từ nay đến năm 2010, nâng công suất thuộc da đến năm 2010 tăng thêm 40 triệu sqft. Sau năm 2015 tự chủ được khuôn mẫu và phụ tùng thay thế thông thường. *) Đối với ngành Điện tử - Tin học Xây dựng ngành CNHT cho công nghiệp điện tử theo xu hướng tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng linh phụ kiện của thế giới và khu vực. Công nghiệp hỗ trợ trước mắt đáp ứng nhu cầu về linh kiện lắp ráp đơn giản, các chi tiết nhựa, khuôn mẫu, mạch in… *) Đối với ngành Sản xuất và Lắp ráp ô tô Khuyến khích hợp tác sản xuất và chuyển giao công nghệ với các tập đoàn đa quốc gia vào sản xuất linh phụ kiện ôtô. Các công nghệ mới cần được lựa chọn để đảm bảo không lạc hậu tối thiểu sau 15 năm. Đến năm 2010, hoàn thiện các mẫu xe tải, xe khách với tỷ lệ sử dụng linh phụ kiện sản xuất trong nước là 65%, xe con là 15%; đến năm 2020 cho xe khách là 75%, xe tải là 85% và xe con là 30%. Từng bước tham gia xuất khẩu một số linh kiện, phụ tùng. Hoàn thiện cơ bản các tiêu chuẩn linh phụ kiện cho ô tô sản xuất tại Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn chung của khu vực và ASEAN vào năm 2015. *) Đối với ngành Cơ khí Chế tạo Đến năm 2010 đáp ứng 50% nhu cầu nội địa về phôi đúc, rèn và chi tiết quy chuẩn và đến 2020 đạt khoảng 75%, với chất lượng đạt tương đương khu vực. Những giải pháp và chính sách thực hiện. Các giải pháp cơ bản (gồm 4 giải pháp): Đổi mới công tác quản lý nhà nước về công nghiệp: Quản lý nhà nước ngành công nghiệp chuyển mạnh sang chức năng thúc đẩy, phục vụ phát triển là chính, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần các đầu mối quản lý ngành. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới tư duy, phương pháp luận trong việc xây dựng, quản lý quy hoạch phù hợp với cơ chế nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa để nâng cao chất lượng quy hoạch, đưa quy hoạch thực sự trở thành một trong những công cụ quản lý ngành công nghiệp. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng các đề án phát triển các ngành công nghiệp, như nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp; phát triển công nghiệp chế biến; phát triển công nghiệp phụ trợ... triển khai có hiệu quả các đề án phát triển ngành phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; đẩy mạnh các hoạt động khuyến công... Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, giải quyết nhanh chóng các kiến nghị của doanh nghiệp. Những giải pháp liên quan đến cơ chế sản xuất, kinh doanh: Tạo dựng môi trường sản xuất, kinh doanh minh bạch, thống nhất, cạnh tranh bình đẳng không phân biệt thành phần kinh tế. Xây dựng cơ chế phân phối thu nhập theo kết quả, hiệu quả công việc nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước: thay đổi từ cơ cấu cho tới phương thức hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để phù hợp với nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập của nước ta hiện nay. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và phát triển công nghiệp ở nước ta. Vì vậy đổi mới doanh nghiệp nhà nước là việc cần thiết để thúc đẩy các loại hình kinh tế khác phát triển góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Phát triển một số Tổng công ty quan trọng mà nhà nước cần nắm giữ thành những tập đoàn kinh tế mạnh, đủ sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp: Xây dựng các giải pháp nhằm giảm chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí trung gian. Nâng cao năng lực công nghệ sản xuất, tạo sản phẩm có chất lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường nội địa, khu vực và thế giới. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp đồng bộ, tạo cơ sở cho phát triển nhanh thương mại điện tử. Các chính sách chủ yếu được đề cập với 4 loại chính như sau: *) Chính sách huy động vốn đầu tư Vốn đầu tư được huy động từ nhiều nguồn, đặc biệt từ nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, vốn đầu tư nước ngoài và vốn tự thu xếp của doanh nghiệp. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, chú trọng hình thức huy động vốn quốc tế. *) Chính sách đào tạo nguồn nhân lực Có chính sách bồi dưỡng nhân tài thông qua công tác đào tạo, chính sách đãi ngộ, tiền lương cũng như trong quản lý, sử dụng cán bộ để từng bước hình thành đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đầu ngành phát triển công nghiệp. Đa dạng hóa hình thức đào tạo. Gắn liền đào tạo với thực tế sản xuất. Để khuyến khích đào tạo nguồn nhân lực, các doanh nghiệp được tính chi phí đào tạo vào giá thành sản phẩm. *) Chính sách khoa học, công nghệ và môi trường Ưu tiên bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách cho nghiên cứu khoa học - công nghệ ngành công nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt khu vực ngoài quốc doanh đầu tư cho khoa học và công nghệ. Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát minh, sáng chế để tạo động lực cho đầu tư nghiên cứu khoa học. Thiết lập trung tâm cung cấp thông tin, tư vấn và chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các doanh nghiệp. Xây dựng và phát triển thị trường khoa - học công nghệ. Có chế độ ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút các trí thức, chuyên gia giỏi, thợ lành nghề đến làm việc tại vùng khó khăn về kinh tế - xã hội. Khuyến khích kiều bào Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển giao và phát triển công nghệ. Ban hành các quy định cụ thể về quản lý ô nhiễm môi trường trong sản xuất công nghiệp. Một vấn đề quan trọng hiện nay được nhiều người dân quan tâm sau sự cố của VEDAN. Thực hiện triệt để và nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp vi phạm Luật môi trường. *) Chính sách về tài chính, thuế Về tài chính: tạo mọi điều kiện cho các nhà đầu tư huy động vốn từ mọi nguồn. Mở rộng và phát triển các tổ chức tài chính phục vụ phát triển công nghiệp. Về thuế: bổ sung một số chính sách thuế nhằm thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển công nghiệp. Nguồn huy động vốn bằng ODA của Việt Nam sẽ bị thu hẹp, trong khi nguồn vốn nội lực trong nền kinh tế chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Ngày 23.12.2009, World Bank xác nhận Việt Nam đã bước vào khối các quốc gia có thu nhập trung bình, tăng trưởng mà Việt Nam có được trong hơn 15 năm qua phần lớn là do tác động của tự do hóa đúng thời điểm và sự gia tăng sức mua từ các nước khác đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong khi nguồn nội lực vẫn chưa được phát huy theo đúng nghĩa của thuật ngữ “phát triển”. Khi Việt Nam trên đà tiến lên thành nước có mức thu nhập trung bình, một nguy cơ mới xuất hiện đó là bẫy thu nhập trung bình. Việt Nam có thể sẽ mất ưu đãi nguồn vốn ODA sau năm 2010. Chúng ta không thể cạnh tranh với các nền kinh tế có mức nhân công rẻ trong việc sản xuất hàng xuất khẩu. Và họ cũng không thể cạnh tranh với các nền kinh tế phát triển trong các hoạt động đòi hỏi kỹ năng và sáng tạo cao. Nếu không có chiến lược rõ rệt, Việt nam có nguy cơ bị giậm chân tại chỗ, thậm chí tụt hậu. Sử dụng vốn đầu tư phát triển kém hiệu quả. Sự đầu tư dàn trải của nhà nước cùng với nó là sự không hiệu quả và thiếu vốn đầu tư nhất là hệ thống các cảng biển và các khu công nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam chỉ cần một tuyến đường sắt với độ rộng tiêu chuẩn và tốc độ bình thường. Chi phí xây dựng một tuyến đường sắt như vậy vào khoảng vài triệu đô-la/km. Khi hoàn thành, tuyến đường sắt này sẽ nối liền các tỉnh nghèo ở miền Trung với nền kinh tế thế giới thông qua cảng biển quốc tế ở miền Đông Nam Bộ. Phương án này chắc chắn hiệu quả hơn rất nhiều so với việc xây dựng một loạt cảng nước sâu dọc bờ biển miền Trung. Quá trình quản lý sử dụng nguồn vốn còn thiếu minh bạch gây ra nhiều tiêu cực làm thất thoát nguồn vốn. Nạn tham nhũng vẫn còn hoành hành khiến quá trình phát triển gặp trở ngại lớn. Khoa học công nghệ lạc hậu. Xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam phải nỗ lực thật nhiều để cải tiến máy móc kĩ thuật nâng cao năng suất lao động. Chúng ta đã đầu tư không biết bao nhiêu tiền của vào nghiên cứu phát triển nền khoa học trong nước cũng như nhập khẩu máy móc linh kiện nước ngoài để đáp ứng nhu cầu đổi mới hiện đại của các ngành công nghiệp. Nhưng nhìn lại khoa học công nghệ của chúng ta còn có khoảng cách qua xa đối với thế giới. Các công trình nghiên cứu, các phát minh sáng chế không được sử dụng đến mà chỉ nằm trên giấy gây lãng phí nghiêm trọng đồng thời cũng kìm hãm đội ngũ các nhà khoa học say mê tìm tòi nghiên cứu. Máy móc nước ngoài nhập về thì toàn là những may móc sử dụng công nghệ của chục năm về trước, họ bán thanh lý để đổi sang công nghệ mới. Chưa thật sự có những định hướng những hoạch định những hỗ trợ cụ thể thúc đẩy khoa học công nghệ trong nước phát triển. Sự yếu kém của khoa học công nghệ. Chính sự yếu kém này trở thành một trở ngại cho mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta - Chất lượng đại học tồi. Sinh viên được đào tạo không đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường. Nguồn nhân lực chất lượng cao đang thiếu và yếu. Dân số Việt Nam với tỉ lệ dân số lao động cao. Nhưng trình độ tay nghề yếu kém hay chưa qua đào tạo chủ yếu là chuyển dịch từ lĩnh vực nông nghiệp sang, chỉ có thể lao động trong những nghành thâm dụng lao động với mức lương thấp. Lực lượng lao động có trình độ và tay nghề không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường trong thời điểm Việt Nam đang tiếp nhận môt lượng vốn và công nghệ ồ ạt từ dòng vốn FDI thiếu lao động có kỹ năng và nhà quản lý trung - cao cấp. Ngoài ra công nhân Việt Nam còn ý thức kém trong tác phong ,ý thức công việc, hay nhảy sang những nơi lương cao,và biểu tình tự phát cũng là những nguyên nhân gây nản lòng các nhà đầu tư. Phát triển công nghiệp không chú trọng tới bảo vệ môi trường. Khi Việt Nam tiếp nhận vốn FDI đầu tư công nghệ máy móc thì một lượng lớn cộng nghệ máy móc lỗi thời gây ô nhiễm môi trường được đưa vào nước sẽ biến nước ta thành một bãi rác của các nước phát triển. Trong việc xây dựng và thẩm định các dự án, đội ngũ cán bộ cũng như các nhà khoa học của chúng ta chưa đánh giá hết được tác động về môi trường. Ngoài ra, việc phát hiện, xử lý các nhà máy gây ô nhiễm môi trường còn gặp nhiều vướng mắc. Quốc hội đã ban hành Luật môi trường nhưng thực sự việc hiểu và sử dụng luật này ở các cấp địa phương còn chưa tốt. Tiêu biểu như vụ việc Vedan Việt Nam gây bức xúc trong dư luận. Vedan Việt Nam xả ra sông Thị Vải trung bình hơn 100.000m3 nước thải/tháng. Nước của Vedan Việt Nam có lượng oxy hoà tan trong nước thấp, nồng độ PH cao, các chỉ số ô nhiễm vượt mức cho phép hàng trăm đến hàng ngàn lần. Bán kính vùng ô nhiễm từ Vedan Việt Nam kéo dài khoảng 10km. Viện Tài nguyên Môi trường cùng cơ quan chức năng cũng xác định, có khoảng 2.000ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản của 3 tỉnh thành là Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh bị thiệt hại nặng (chưa kể diện tích ảnh hưởng nhẹ). Sau đó hàng loạt các vụ việc gây ô nhiễm môi trường của nhiều nhà máy nữa cũng bị phanh phui. Dẫn đến một thực trạng là công nghiệp phát triển đã tác động tiêu cực như thế nào đến môi trường. Cái giá phải trả cho sự phát triển có quá đắt không. Chưa có một cơ quan nào nghiên cứu và đánh giá đầy đủ vấn đề này. Công nghiệp tăng trưởng chủ yếu từ các sản phẩm thô chứa ít hàm lượng tri thức. Thu nhập của VN hiện nay dựa vào tới hơn 70% từ tài nguyên, gồm có: Dầu thô, than đá, các khoáng sản, gỗ, gạo, thuỷ sản, cao su, cà phê. Nguồn tài nguyên khoáng sản đang dần cạn kiệt. Và chúng ta đang khai thác một cách vô tội vạ. Bán với giá rẻ mạt bởi vì chúng ta chỉ xuất ở sản phẩm thô. Vấn đề sử dụng tài nguyên đất cũng là một vấn đề nhức nhôi cho sự phát triên công nghiệp ở Việt Nam. Sự không minh bạch ở các dự án quy hoạch và đầu cơ bất động sản làm cho giá đất ở Việt Nam thậm chí đẳt hơn ở Nhật, làm cho những chi phí ban đầu rất cao, gây trở ngai trong việc giải phóng mặt bằng xây dựng nhà máy xí nghiệp cơ sở hạ tầng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm và lạc hậu. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung ở một số ngành và sản phẩm truyền thống, có công nghệ không cao như dệt may, thủy sản, nông sản chưa qua chế biến... Trong những năm gần đây, tuy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn những năm 90, nhưng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến trong GDP còn thấp. Công nghiệp khai thác vẫn chiếm một tỷ trọng khá ổn định trong GDP. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp chậm là một yếu điểm của Việt Nam so với một số nước trong khu vực, nhất là so với Trung Quốc - nước có xuất phát điểm và thời gian bắt đầu mở cửa tương đối gần với Việt Nam. Nếu nước ta tiếp tục mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào những lợi thế so sánh tĩnh (nguồn tài nguyên thô, lao động rẻ chưa có kỹ năng) như hiện nay, thì khó có thể duy trì được tăng trưởng cao trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước hoạt động chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu là đầu tàu để đưa công nghiệp Việt Nam phát triển. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng bị thống trị bởi các tập đoàn kinh tế nhà nước. Những tập đoàn này lại cố gắng tạo ra những công ti độc quyền trong nước để ngăn cản cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. nhiều công ty dân doanh và cổ phần hóa ít chú tâm tới việc trở nên cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thay vào đó, những công ty này đang đua nhau tìm kiếm lợi nhuận tức thời trong khu vực bất động sản và tài chính. Chính sách công nghiệp của Việt Nam ưu ái khu vực - mà theo tất cả những phân tích khách quan nhất - kém cạnh tranh nhất, tạo ít công ăn việc làm mới nhất, và có tốc độ tăng trưởng chậm nhất. Sự đầu tư dàn trải của nhà nước cùng với nó là sự không hiệu quả và thiếu vốn đầu tư nhất là hệ thống các cảng biển và các khu công nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam chỉ cần một tuyến đường sắt với độ rộng tiêu chuẩn và tốc độ bình thường. Chi phí xây dựng một tuyến đường sắt như vậy vào khoảng vài triệu đô-la/km. Khi hoàn thành, tuyến đường sắt này sẽ nối liền các tỉnh nghèo ở miền Trung với nền kinh tế thế giới thông qua cảng biển quốc tế ở miền Đông Nam Bộ. Phương án này chắc chắn hiệu quả hơn rất nhiều so với việc xây dựng một loạt cảng nước sâu dọc bờ biển miền Trung. Sự phát triển công nghiệp không đều giữa các địa phương. Cơ cấu giá trị gia tăng công nghiệp theo các tỉnh, thành phố 7 tháng đầu năm 2009 Với tỷ trọng trong giá trị gia tăng lên tới 67%, vùng Đông Nam bộ là nơi tập trung hoạt động sản xuất công nghiệp lớn nhất cả nước. Nếu không tính Bà Rịa – Vũng Tàu nơi có tỷ trọng cao là do đóng góp của ngành khai thác dầu thô, thì ba địa phương TP.HCM, Đồng Nai và Bình Dương cũng chiếm tới 29% giá trị gia tăng công nghiệp của cả nước. Trong khi đó, tỷ trọng công nghiệp của đồng bằng sông Hồng chỉ có 18%. Tỷ trọng công nghiệp của Hà Nội (kể cả Hà Tây) cũng chỉ xấp xỉ bằng Bình Dương. Đối với ba địa phương có hoạt động sản xuất công nghiệp lớn nhất miền Trung là Thanh Hóa, Đà Nẵng và Khánh Hòa thì tỷ trọng của mỗi nơi mới chỉ trên dưới 1%. Cả đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm 5% giá trị gia tăng công nghiệp toàn quốc với Long An và Cần Thơ là hai địa phương có tỷ trọng lớn nhất trong vùng. Cho ta thấy sự phân bố phát triển không đều của công nghiệp tại các vùng các địa phương. Có những địa phương như Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ là những đô thị lớn có hệ thống cơ sở hạ tầng và vị trí phát triển công nghiệp rất thuận lợi nhưng lại không đóng góp nhiều vào tổng giá trị gia tăng của công nghiệp Việt Nam. Tại sao lại xảy ra hiện tượng này, hướng giải quyết như thế nào. Trong chiến lược phát triển công nghiệp không thấy đả động tới để giải quyết. Đánh giá chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam. Chiến lược phát triển công nghiệp là yếu tố then chốt đóng vai trò rất quan trọng để công nghiệp phát triển. Vì vậy xây dựng một chiến lược yếu, một chiến lược thiếu tầm nhìn sẽ cản trở công nghiệp phát triển. Nhìn lại các nội dung trình bày, nhóm thuyết trình thấy một số vấn đề về chiến lược phát triển công nghiệp ở Việt Nam. Trước tiên, sự chỉ đạo cơ bản của chiến lược phát triển công nghiệp tổng thể vẫn chưa rõ ràng. Mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 thật sự rất mơ hồ. Nước công nghiệp là gì, những tiêu chuẩn như thế nào để trở thành một nước công nghiệp, không có các chỉ tiêu tạm thời cũng như lộ trình cụ thể để đạt được mục tiêu. Các muc tiêu cụ thể cho công nghiệp chỉ có trong khoảng 5 năm hoặc mười năm mà không có những mục tiêu tạm thời của từng năm cũng như mục tiêu dài hạn hơn. Các mục tiêu này cũng cần phải so sánh với các nước trong khu vực cũng như Trung Quốc. Do đó không đánh giá và can thiệp kịp thời thúc đẩy quá trình phát triển của công nghiệp. Hai là, chiến lược xây dựng các ngành công nghiệp ưu tiên mũi nhọn động lực đầu tàu để phát triển công nghiệp còn chưa được hoàn thiện: mục tiêu cụ thể từng ngành, từng năm, từng giai đoạn chưa được xác định cụ thể cũng như chưa có sự đánh giá tác động phát triển kết hợp giữa các ngành. Như ta biết sản phẩm của ngành này có thể là yếu tố đầu vào của một ngành khác do đó để đẩy nhanh phát triển cũng như hạn chế phụ thuộc vào biến động giá cả nhập lượng trên thị trường quốc tế đối với những ngành công nghiệp then chốt chiến lược chúng ta phait có chiến lược phát triển đồng bộ hợp lý cho các ngành. Ba là, chưa có sự phối hợp giữa các bộ ngành, giữa trung ương và địa phương trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp. Đơn cử như Bộ Kế hoạch – đầu tư và Bộ Công thương phải phối hợp để đánh giá khả năng huy động vốn cho phát triển công nghiệp trên cơ sở cân đối với các lĩnh vực khác. Hay như Bộ tài nguyên môi trường và Bộ Công thương phải phối hợp để xem xây dựng các khu công nghiệp bố trí các ngành công nghiệp như thế đã sử dụng hiệu quả tối đa các nguồn tài nguyên. Bô Công thương kế hợp với Bộ giáo dục và đào tạo để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng phù hợp đáp ứng kịp thời cho quá trình phát triển công nghiệp, tránh việc đào tạo lại gây lãng phí mà không đáp ứng được nhu cầu. Từ chỉ một số vấn đề đó ta thấy quy hoạch phát triển công nghiệp thiếu đồng bộ hoàn thiện dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc gặp phải khi bắt tay vào thực hiện mà chính ra chúng ta đã phải lường trước trong quá trình phát triển. Tài liệu tham khảo - Quyết Định 73/2006/QĐ-TTg - Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. - Quyết Định 55/2007/QĐ-TTg - Phê duyệt Danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007 – 2010, tầm nhìn đến năm 2020 và một số chính sách khuyến khích phát triển. - Quyết định 34 /2007/QĐ-BCN - Phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. - Bài viết “Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” – Lê Thế Giới. - Trang web của Tổng cục thống kê - www.gso.gov.vn - Trang web của Chính phu Việt Nam - www.chinhphu.vn - Trang web tìm kiếm Google – www.google.com.vn - Trang web lưu trữ văn bản, tư liệu – www.tailieu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChiến lược phát triển công nghiệp việt nam.doc
Luận văn liên quan