Đề tài Chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Một hướng phát triển mới đối với các ngân hàng và các tổ chức cho vay là xây dựng các gói dịch vụ tín dụng dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; nếu doanh nghiệp có nhu cầu và đáp ứng được các yêu cầu của gói dịch vụ, khi có yêu cầu các tổ chức tín dụng sẽ thay doanh nghiệp hoàn thiện các quy trình và thủ tục. Chẳng hạn, hiện nay tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) có bốn gói dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là SMEDF, SMEFP, SMESC, SMEHG cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với lãi suất ưu đãi. Với việc xây dựng các dịch vụ trọn gói như vậy, các doanh nghiệp và cả các tổ chức cho vay sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí và dễ dàng gặp nhau hơn.

pdf88 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2815 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iếm hơn 8%, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 1 tỷ đồng chiếm hơn 41%. Năng lực tài chính yếu cùng với việc các hệ số tài chính không đảm bảo đã khiến cho các tổ chức tín dụng rất ngại khi quyết định cấp vốn cho đối tượng này. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất kém trong việc minh bạch hóa tài chính trong khi đây là yếu tố tối quan trọng để có thể huy động được các nguồn vốn từ bên ngoài. Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ không có đầy đủ các tài liệu báo cáo về sản xuất kinh doanh như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính,…Tuy nhiên, sổ sách và các tài liệu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường không quá đơn giản, không cập nhập và thiếu chính xác gây rất nhiều khó khăn cho các tổ chức tín dụng thẩm định doanh nghiệp. Một thực tế khác tại Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xây dựng các báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với các cơ quan quản lý nên thường không chính xác và cao hơn thực tế. Phần lớn các doanh nghiệp không có hệ thống kế toán tiêu chuẩn, đôi khi không tách bạch được giữa tài sản cá nhân và tài sản của các công ty, các báo cáo tài chính không được kiểm toán hàng năm nên ngân hàng và các tổ chức cho vay gặp rất nhiều khó khăn trong việc phân tích và thẩm định năng lực của các doanh nghiệp này. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến năng lực tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là trình độ quản lý tài chính của các doanh nghiệp này rất yếu kém, khiến cho hiệu quả của các quyết định tài chính không cao. Các doanh nghiệp đều không có chiến lược quản lý tài chính lâu dài, không 57 có khả năng lập dự toán chi phí trước, thường để đến tình trạng thiếu vốn mới nghĩ đến việc đi vay. Với năng lực tài chính yếu kém, không minh bạch về tài chính nên khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng chính thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn chế, từ đó khiến cho chính sách đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp này không thể phát huy được hiệu quả. c. Tâm lý e ngại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp xúc với các tổ chức tín dụng và cho vay, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Theo điều tra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có tâm lý e ngại khi tiếp xúc với các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Họ không biết chắc chắn liệu mình có thể được cấp vốn hay không, hoặc đơn giản là vì muốn vay vốn ở các ngân hàng thì phải minh bạch hóa tài chính và có các dự án khả thi mà các doanh nghiệp này lại không muốn tiết lộ thông tin về sản xuất kinh doanh của mình. Trong quan hệ với các tổ chức tín dụng và cho vay, vị thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường yếu hơn, lại không nắm rõ các chính sách, chương trình hỗ trợ của Nhà nước, nên các doanh nghiệp thường không cảm thấy tự tin khi tiến hành các giao dịch, nhân viên của doanh nghiệp thiếu kỹ năng đàm phán và thuyết trình. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp này cũng không chủ động tìm kiếm những nguồn tài trợ chính thức khác. Ví dụ như phương thức tài trợ bằng thuê tài chính rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn đầu tư vào tài sản cố định hoặc đổi mới máy móc thiết bị. Nhưng các doanh nghiệp chỉ xem đây như là phương thức cuối cùng trong việc lựa chọn nguồn tài trợ kinh doanh. Thay vào đó, doanh nghiệp thường có khuynh hướng tìm nguồn tài tợ từ thị trường không chính thức như vay tiền của người thân, người cho vay nóng với cơ chế cho vay linh hoạt, không cần tài sản đảm bảo, chi phí giao dịch thấp. Tuy nhiên, lãi suất cho vay cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn. 58 Việc e ngại tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức đã khiến cho doanh nghiệp không chủ động được sản xuất, kinh doanh, không chủ động được nguồn tài chính từ đó làm giảm hiệu quả của doanh nghiệp. 2.3.2. Nguyên nhân khách quan Đây là những nguyên nhân xuất phát từ chính các tổ chức tín dụng cho vay, các cơ quan quản lý Nhà nước và từ chính bản thân nền kinh tế nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng và sử dụng có hiệu quả chính sách đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. a. Cơ chế và chính sách cho vay của các ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay đang cản trở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tiếp cận và sử dụng các nguồn vốn tín dụng chính thức Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đã coi các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những khách hàng tiềm năng của mình, thể hiện ở dư nợ tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng tăng, tỷ lệ cho vay đối với đối tượng khách hàng này trong các ngân hàng thương mại cũng tăng lên đáng kể. Ví dụ như tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV, dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thời điểm 31/12/2007 đã tăng 20 lần so với năm 2001, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 100% 16. Tuy nhiên, tỷ lệ cho vay đối với đối tượng này vẫn còn thấp so với các đối tượng khách hàng khác. Các ngân hàng thương mại vẫn dành nhiều ưu tiên cho các doanh nghiệp lớn vì chi phí bỏ ra khi cho các doanh nghiệp lớn vay thấp hơn và rủi ro lại không cao như đối với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vây, có thể nói, cửa tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã hẹp nay lại càng hẹp hơn. Nếu quyết định cho vay thì các ngân hàng thương mại cũng có những quy định rất chặt chẽ về yêu cầu tài sản thế chấp, phương án kinh doanh khả thi, minh bạch tài chính, thủ tục cho vay, hoặc xem xét dự án có nằm trong danh mục mặt hàng được ngân hàng ưu tiên cho vay hay không,…Với những yêu cầu như vậy, không phải doanh nghiệp vừa và nhỏ nào cũng có thể đáp 59 ứng được. Nếu đáp ứng được và có thể hoàn thiện các thủ tục thì cũng mất rất nhiều thời gian và công sức, lúc đó cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp cũng đã trôi qua. Hiện nay, các ngân hàng thương mại thường cấp một hạn mức tín dụng cho các doanh nghiệp và trong năm sẽ cho vay theo hạn mức tín dụng đó. Tuy nhiên, việc phân loại và đánh giá cũng như thẩm định của các ngân hàng thương mại chưa sát với thực tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các hạn mức tín dụng đưa ra không hợp lý. Doanh nghiệp không thể vay vượt quá hạn mức tín dụng, trong khi đó muốn tăng hạn mức tín dụng cũng rất khó vì thủ tục và quy trình rất mất thời gian. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay cũng tìm mọi cách để tăng chi phí vay thực tế lên. Trong năm 2008, khi ngân hàng Nhà nước quy định về lãi suất trần đối với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại không thể tăng lãi suất cho vay lên thì họ lại tìm mọi cách để thu thêm phụ phí, khiến cho chi phí vay của các doanh nghiệp bị đội lên rất nhiều. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp. Tương tự, trong thị trường cho thuê tài chính, mặc dù được xây dựng là nhằm mục đích cấp tín dụng cho các doanh nghiệp không đáp ứng được tiêu chuẩn và điều kiện về tài sản thế chấp. Nhưng trong quy định của các công ty tài chính và trên thực tế thực hiện, các công ty này chỉ đáp ứng nhu cầu thuê tài chính đối với những doanh nghiệp có dự án khả thi, tình hình tài chính lành mạnh và có đủ khả năng tài chính để tham gia dự án đó. Những quy định như thế này cũng không khác gì mấy so với các ngân hàng thương mại, và không phải tất cả doanh nghiệp vừa và nhỏ đều đáp ứng được. 60 b. Thị trường tài chính Việt Nam chưa hoàn thiện đã ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Như đã phân tích ở chương 1, thị trường tài chính đóng một vai trò quan trọng tới hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp. Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam vẫn bộc lộ những điểm chưa hoàn thiện, gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng trong việc huy động các nguồn vốn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó giảm hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp này. Thứ nhất, các chính sách cũng như quy định của pháp luật chưa chặt chẽ, thống nhất nên chưa tạo được một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng cho các doanh nghiệp khi tham gia thị trường tài chính. Ví dụ, trong năm 2008, các quy định về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã khiến cho lãi suất trên thị trường biến động mạnh và ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của tất cả các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, thị trường tài chính tại của Việt Nam vẫn còn thiếu tính minh bạch, không tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có cảm giác các chính sách của Nhà nước đang ưu tiên cho các tập đoàn kinh tế lớn hoặc thuộc thành phần kinh tế Nhà nước. Điều đó có thể được giải thích là do thị trường tài chính Việt Nam hiện nay đang thiếu các định chế tài chính trung gian chuyên nghiệp như các công ty định mức tín nhiệm, đánh giá tài sản, quỹ đầu tư, công ty tài chính... Đó là những nhân tố không thể thiếu đối với một thị trường tài chính phát triển. Một điểm chưa hoàn thiện nữa là Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, hàng năm tạo ra từ 30 - 40% GDP của cả nước. Do đó, việc xây dựng một thị trường chứng khoán 61 cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ huy động các nguồn vốn trong xã hội. Như đã biết, thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp với hàng hóa là các chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, và chứng chỉ quỹ. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là những doanh nghiệp có ý định đầu tư vào tài sản cố định hoặc đổi mới máy móc công nghệ, việc tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ giúp các doanh nghiệp huy động được các nguồn vốn trung và dài hạn với chi phí thấp hơn rất nhiều so với việc huy động từ ngân hàng hoặc các tổ chức cho vay khác. Tuy nhiên, theo quy định hiện nay của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các doanh nghiệp muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung phải đáp ứng các điều kiện về số vốn, tình hình hoạt động các năm, minh bạch tài chính và sổ sách…Với những yếu cầu đó, có thể nói không doanh nghiệp vừa và nhỏ nào có thể đáp ứng được. Do đó, một thị trường chứng khoán tự do được hình thành để trao đổi, mua bán các chứng khoán của các doanh nghiệp này. Điều đó đã đáp ứng được các nhu cầu về mua bán và chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, về lâu dài, việc tồn tại một thị trường chứng khoán tự do sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển thị trường tài chính, các cơ quan quản lý sẽ không quản lý được các hiện tượng như giả mạo, lừa đảo…. Vì lý do thị trường tài chính chưa hoàn thiện nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã bị giảm mất đi các cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn và hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính cũng giảm theo. Chương hai đã trình bày cho chúng ta thấy thực trạng của việc sử dụng đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp, đi vào phân tích những điểm mạnh và những hạn chế cũng như nguyên nhân của các hạn chế đó. Để từ đó làm tiền đề đưa ra các giải pháp trong chương sau. 62 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM 3.1. Định hƣớng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới 3.1.1. Biến động của thị trường thế giới và thị trường trong nước thời gian qua Năm 2008 chứng kiến nhiều biến động của nền kinh tế thế giới và những cụm từ như khủng hoảng tài chính, nợ duới chuẩn, khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản là được nhắc đến như những chủ đề trọng tâm của năm. Bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng các khoản vay dưới chuẩn trong lĩnh vực bất động sản (subprime-mortgage), cuộc khủng hoảng tài chính đã nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. Theo ước tính, vào cuối quý III/2008, hơn một nửa giá thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Tỷ lệ đầu tư vào tài sản tài chính với đòn bẩy tài chính quá lớn dẫn đến tình trạng các tổ chức tài chính đứng trước khả năng mất thanh khoản khi tài sản chuyển thành nợ xấu. Hàng loạt các tổ chức tài chính lớn của Mỹ đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh khoản tạo nên một phản ứng dây chuyền nhanh chóng lan sang các nước thuộc liên minh Châu Âu và cả thế giới. Một loạt ngân hàng của Mỹ bị phá sản như Lehman Brothers, Bear Stears, Wachovia, Freddie Mac, Fannie Mae,…Nhiều tổ chức tài chính tên tuổi điêu đứng, phải chấp nhận bị thôn tính hoặc bị quản lý bởi Chính phủ như Merill Lynch, AIG, Morgan Stanley….Thậm chí, “cơn bão tài chính” còn đặt một số quốc gia như Iceland, Hungary và Ukraine trước bờ vực phá sản. Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán thế giới chao đảo, các chỉ số quan 63 trọng như Dow Jones, S&P500, NASDAQ (Mỹ), Nikkei (Nhât)…, đều giảm mạnh. Tính đến cuối năm 2008, các chỉ số tại các thị trường quan trọng đã sụt giảm từ 30 - 40% so với thời điểm năm 2007. Khủng hoảng tài chính cũng có những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế thế giới. Theo nhận định của Quỹ tiền tệ thế giới IMF, kinh tế thế giới sẽ giảm xuống chỉ còn 2,2% trong năm 2009. Việt Nam cũng sẽ nằm trong xu hướng đó. Trong nước cũng có nhiều biến động. Những tháng đầu năm 2008, giá cả một số mặt hàng tăng cao như gạo, thực phẩm, sắt thép, xăng dầu. Điều đó khiến cho chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2008 luôn ở mức cao. Lạm phát trong năm lên đến 19,89%. Bên cạnh đó, do chính sách thắt chặt tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại đã tạo ra một cuộc chạy đua lãi suất nhằm huy động các nguồn vốn để đảm bảo các yêu cầu về tính thanh khoản. Do đó, lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng luôn ở mức cao trên 20%/năm gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán cũng có nhiều biến động. Chỉ số VnIndex có xu hướng giảm và chạm đáy 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008 5. Tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp đã khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng gặp không ít khó khăn. Thứ nhất, Việt Nam là một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Trong khi đó, Mỹ lại là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Do đó, khi nền kinh tế Mỹ bị “ốm”, điều tất yếu là Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đầu tiên là chúng ta sẽ mất đi một thị trường quan trọng, đặc biệt là đối với một số ngành như da giày, thủy sản, dệt may,… Đồng thời, nếu tính cả đầu tư qua nước thứ 3 thì Mỹ là nhà đầu tư số 1 vào Việt Nam trong nhiều năm qua. Việc nền kinh tế Mỹ gặp khủng hoảng sẽ khiến cho lượng đầu tư từ Mỹ giảm xuống. 64 Thêm vào đó, do xuất khẩu và đầu tư nước ngoài giảm nên tiêu dùng trong nước cũng sẽ giảm. Sức mua của thị trường giảm xuống và tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên sẽ là một bài toán khó cho các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất thị trường cả trong và ngoài nước. Một khó khăn khác là làm thế nào để các doanh nghiệp có vốn để duy trì sản xuất. Mặc dù đã phải chịu mức lãi suất rất cao, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể vay được, đặc biệt là nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Thiếu vốn là nguyên nhân khiến cho 20% số doanh nghiệp vừa nhỏ tại Việt Nam bị phá sản trong năm 2008. Nhiều nhà kinh tế dự báo rằng con số doanh nghiệp gặp khó khăn và phá sản sẽ vẫn tiếp tục tăng lên nêu như lãi suất vẫn cao và các doanh nghiệp không tìm được nguồn vốn để vay. 3.1.2. Xu hướng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới Trước những khó khăn trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã tìm cách để vượt qua. Một trong những cụm từ được nhắc đến nhiều nhất chính là “tổ chức lại” doanh nghiệp. Đây là hướng phát triển tất yếu để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế có nhiều bất lợi và nâng cao năng lực của chính doanh nghiệp sau khi tổ chức lại. Tổ chức lại doanh nghiệp được hiểu là việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức công ty, các nguồn lực, cơ chế điều hành quản lý, …để đưa công ty tới một tình trạng tốt hơn, Việc tổ chức lại doanh nghiệp có thể diễn ra trong toàn bộ doanh nghiệp hoặc chỉ một bộ phận trong doanh nghiệp. Mua lại và sáp nhập (M&A: Merge and Acquisition) được xem như là một giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn của nên kinh tế. Thực chất của hoạt động M&A là việc một doanh nghiệp giành quyền kiểm soát một doanh nghiệp khác thông qua việc sở hữu toàn bộ hay một phần doanh nghiệp, hoặc một hay nhiều doanh nghiệp sáp nhập lại với nhau 65 nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Tại Việt Nam, hoạt động M&A vừa mới xuất hiện trong mấy năm gần đây nhưng đã có sự phát triển nhanh chóng về số lượng cũng như giá trị các thương vụ. Theo báo cáo của hãng kiểm toán Pricewaterhouse Coopers (PwC), trong năm 2005 chỉ có 18 vụ M&A với tổng giá trị là 61 triệu USD, năm 2006 có 32 vụ với tổng giá trị là 245 triệu USD và năm 2007 số vụ M&A đã tăng mạnh cả về số lượng và giá trị, tổng số vụ M&A là 113 vụ, đạt tổng giá trị là 1,75 tỷ USD (gấp 7 lần so với năm 2006 và gấp 28 lần so với năm 2005). Trong nửa đầu 2008, hoạt động M&A có giảm do sự sụt giảm của nền kinh tế, tổng giá trị trong hoạt động M&A là 347 triệu USD với 48 thương vụ. Về nguyên tắc, khi sáp nhập hoặc hợp nhất, giá trị của doanh nghiệp mới bao giờ cũng lớn hơn giá trị của các doanh nghiệp cũ. Với ưu thế như trên, M&A sẽ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tồn tại trong thị trường do quy mô công ty lớn hơn, doanh nghiệp có khả năng mở rộng ngành nghề kinh doanh, tăng vốn đầu tư, tiết kiệm các chi phí do sắp xếp, bố trí hợp lý các nguồn nhân lực… Năm 2008, lạm phát tăng cao, nhập siêu đạt con số kỷ lục buộc Chính phủ phải thực hiện các chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này khiến cho doanh nghiệp trở nên khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng hoặc tiếp cận với một chi phí rất lớn. Và M&A chính là một hình thức huy động vốn đáp hiệu quả đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, khi tiến hành sáp nhập hoặc hợp nhất, các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với những vấn đề như phức tạp như độc quyền, thuế, kế toán, chuyển đổi tài sản, phân chia lợi nhuận, trách nhiệm đối với các khoản nợ….Những vấn đề trên là rào cản đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiến hành mua lại và sáp nhập, do các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông tin, hiểu biết về các điều kiện thủ tục mua lại và sáp nhập doanh nghiệp, 66 khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này cũng chưa hoàn thiện, rõ ràng, vai trò kiểm toán chưa đầy đủ…. Do vậy, để tiến hành mua lại và sáp nhập được hiệu quả, các doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ về đối tác, về thị trường, khuôn khổ pháp lý và đặc biệt là phải nâng cao giá trị của bản thân doanh nghiệp trước khi tiến hành sáp nhập hoặc hợp nhất. Một vấn đề nữa cần lưu ý đối với doanh nghiệp là việc tiến hành sáp nhập hay hợp nhất với một doanh nghiệp khác không có nghĩa là giành quyền kiểm soát hay bị kiểm soát mà đó chính là việc tìm kiếm một đối tác để hợp tác cùng phát triển và cùng có lợi. Đối với những doanh nghiệp không muốn bị kiểm soát hoặc lệ thuộc vào các doanh nghiệp lớn hơn, không muốn tiến hành hoạt động mua lại và sáp nhập, các doanh nghiệp này có thể tiến hành tái cấu trúc lại doanh nghiệp theo hướng đơn giản và hiệu quả. Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp khủng hoảng, thị trường và sức mua sụt giảm, chi phí sản xuất tăng do lạm phát và lãi suất đi vay đều ở mức cao, các doanh nghệp vừa và nhỏ phải tìm các để tái cơ cấu lại các nguồn lực hiệu quả hơn. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đều bắt đầu việc tổ chức lại doanh nghiệp từ bộ phận nhân lực, sau đó mới đến các bộ phận khác. Xét ở khía cạnh tích cực, việc thay đổi và tổ chức lại nguồn nhân lực trong doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những nhân viên giỏi hơn, khả năng làm việc hiệu quả hơn, từ đó có thể giúp doanh nghiệp hoạt động tốt hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều coi việc tổ chức lại nguồn nhân lực chính là sa thải bớt nhân viên trong điều kiện “thắt lưng buộc bụng”. Đây là một quan điểm hết sức sai lầm bởi sa thải nhân viên có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm được một ít chi phí trong lúc khó khăn nhưng lúc cần, doanh nghiệp lại phải bỏ qua nhiều hơn số tiết kiệm được để tuyển dụng được những người cũ. 67 Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không nên chỉ tính tới việc tái cơ cấu nguồn nhân lực mà phải tìm cách để thay đổi được các nguyên tắc quản lý, cơ cấu lại các nguồn lực và xây dựng được chiến lược phát triển cho mình. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại; vì nếu làm được như thế, doanh nghiệp sẽ năng động hơn, khai thác được những mặt mạnh và lấp những khuyết điểm của mình. Như vậy, xu hướng của các doanh nghiệp là tổ chức lại, tái thiết lại doanh nghiệp để đối phó, tồn tại và phát triển trong cơn bão suy thoái tài chính. Theo nhận định của nhiều chuyên gia thì đây là một xu hướng tất yếu và hợp lý trong điều kiện hiện nay. 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Như đã nhận xét trong phần thực trạng ở trên, chính sách đòn bẩy tài chính mặc dù đã có những tác dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng mức độ hiệu quả vẫn chưa cao và chưa đúng với vai trò của nó trong doanh nghiệp. Do vây, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao mức độ hiệu quả của đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Nâng cao hiệu quả của đòn bẩy hoạt động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Như trong phần lý thuyết đã trình bày, giữa đòn bẩy tài chính và đòn bẩy hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu đòn bẩy hoạt động hoạt động tốt thì sẽ tạo điều kiện cho đòn bẩy tài chính phát huy tác dụng và ngược lại. Nguyên tắc của đòn bẩy hoạt động là khuyếch đại thu nhập trước thuế và lãi vay nhờ vào điểm tựa là chi phí cố định. Khi đòn bẩy hoạt động hiệu quả nghĩa là thu nhập trước thuế và lãi vay tăng lên, nó lại tạo nên một lực bẩy cho lớn hơn cho đòn bẩy tài chính. Sự kết hợp của hai loại đòn bẩy này trong 68 doanh nghiệp tạo nên đòn bẩy tổng hợp. Muốn đòn bẩy hoạt động hiệu quả, có hai đối tượng cần tác động vào là doanh thu và chi phí cố định. Muốn tăng doanh thu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải gia tăng hiệu quả kinh doanh sản xuất. Trước hết là tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Có như vây, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới có chổ dứng trên thị trường trong điều kiện kinh tế khó khăn và lạm phát tăng cao như hiện nay. Để tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ thì cách mà doanh nghiêp hay làm nhất là đổi mới thiết bị, máy móc, công nghệ để tạo ra những sản phẩm tốt hơn, đa dạng hơn về mẫu mã, chủng loại. Tuy nhiên, do đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vốn sản xuất rất hạn chế nên khả năng tăng đầu tư cho công nghệ cũng rất hạn chế. Do vậy, để tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm bằng các dịch vụ hậu mãi. Như thế, sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sẽ có sức thu hút hơn đối với khách hàng. Để giảm chi phí, doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tổ chức lại các khâu, giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết. Các doanh nghiệp cũng có thể tăng số lượng sản phẩm dịch vụ để giảm chi phí cố định trung bình trên sản phẩm. Như vậy, với một đơn vị sản phẩm tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, điểm tựa cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam khi sử dụng đòn bẩy hoạt động là khá nhỏ vì chi phí cố định của các doanh nghiệp này thấp (các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ - cần ít chi phí cố định bỏ ra ban đầu). Do vậy, khả năng sử dụng đòn bẩy hoạt động sẽ bị hạn chế. Để khắc phục điều này, các doanh nghiệp nên tăng chi phí cố định bằng cách đầu tư vào đổi mới và cải tiến máy móc công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng hơn. 69 - Giải pháp tăng hiệu quả sử dụng nợ Có thể nói, hiện nay hầu như tất cả doanh nghiệp đều phải sử dụng đến nguồn vốn đi vay từ bên ngoài hay còn gọi là vay nợ. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ thế nào cho hợp lý và hiệu quả thì không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Đối với mọi doanh nghiệp, nợ được chia làm hai loại chính là nợ ngắn hạn và nợ trung - dài hạn. Tuy nhiên, hiện nay nhiều doanh nghiệp không xác định được mình có nhu cầu vay nợ hay không, mình vay nợ để làm gì hay nên vay ngắn hạn hay vay dài hạn. Hay nói cách khác là các doanh nghiệp này không có kế hoạch và phương án sử dụng nợ như thế nào cho hiệu quả. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp vì nợ là một nghĩa vụ mà doanh nghiệp bắt buộc phải hoàn trả trong tương lai. Như vậy, để việc sử dụng nợ có hiệu quả, doanh nghiệp phải lên kế hoạch cụ thể việc vay vốn và sử dụng nguồn vốn đi vay đó. Trong phương án sử dụng vốn vay đó, doanh nghiêp phải xác định được mục đích của việc vay vốn, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, thời gian vay là bao lâu, khi nào thì vay và vay bao nhiêu là đủ. Việc lên kế hoạch cho việc vay nợ như thế sẽ giúp doanh nghiệp chủ động trong việc tìm kiếm và đàm phán những khoản vay với lãi suất thấp hơn và điều kiện hấp dẫn hơn. Sau khi vay được nợ, doanh nghiệp phải có phương án sử dụng khoản nợ đó thật hợp lý, vừa tiết kiệm vừa hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam, do cơ chế cho vay của các tổ chức tín dụng thoáng, việc vay nợ dễ dàng nên họ sử dụng các khoản nợ không đúng mục đích, gây lãng phí. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp vay quá nhiều nợ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán và bị phá sản. Do vậy, sau khi nhận được khoản nợ này, doanh nghiệp phải lên kế hoạch về các dòng tiền ra vào từ khoản nợ đó, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay để đảm bảo doanh nghiệp có khả năng chi trả lãi vay và hoàn trả gốc khi đến hạn. 70 3.2.2. Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ Một trong những nguyên nhân khiến cho việc sử dụng đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đạt hiệu quả như mong muốn chính là việc các doanh nghiệp này không thể vay được vốn khi cần thiết. Hạn chế này một phần cũng xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp nên các doanh nghiệp phải có những biện pháp để tháo gỡ khó khăn này. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần chủ động tiếp cận với các kênh huy động vốn khác bên cạnh các kênh truyền thống Các doanh nghiệp đều muốn tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng vì đây là nguồn tín dụng chính thức, lãi suất khá hợp lý và rất lớn so với các nguồn vốn khác. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận với nguồn vốn này là ít, nếu có vay được thì chi phí bỏ ra cũng rất lớn, không thấp hơn các nguồn tín dụng khác là bao nhiêu. Trong khi đó, trên thị trường hiện nay còn có rất nhiều kênh cấp vốn khác với thủ tục đơn giản hơn và chi phí thấp hơn như các công ty cho thuê tài chính hoặc các quỹ tín dụng, quỹ đầu tư, hay thị trường chứng khoán. Lợi ích của các kênh huy động này không phải là nhỏ: ví dụ như các công ty cho thuê tài chính không yêu cầu về tài sản đảm bảo, chỉ cần doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi hay như các quỹ tín dụng có thể bảo lãnh cho các doanh nghiệp này vay vốn ngân hàng nếu như doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo. Nhưng trên thực tế, không nhiều doanh nghiệp mặn mà lắm với các kênh huy động này vì nó đang rất mới trên thị trường, thậm chí có doanh nghiệp không biết đến sự tồn tại của các tổ chức cho vay này. Do vậy, để việc huy động các nguồn vốn tài trợ sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải chủ động trong việc tìm các nguồn tài trợ mới chứ không thể chỉ trông chờ vào nguồn tín dụng ngân hàng. 71 Để làm được điều này, các doanh nghiệp phải tự mình nâng cao hiểu biết về thị trường tài chính, và từ đó mạnh dạn tham gia các kênh huy động vốn mới. Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay chưa có thị trường chứng khoán tập trung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng các doanh nghiệp cũng phải xây dựng các kế hoạch và phương án để sẵn sàng tham gia khi Nhà nước xây dựng xong thị trường chứng khoán cho loại đối tượng doanh nghiệp này. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tự nâng cao năng lực tài chính cho mình Hiện nay, trong bảng xếp hạng đánh giá tín nhiệm tài chính của các ngân hàng và tổ chức cho vay, vị trí của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp. Nên khi xét duyệt các hồ sơ xin vay vốn của các doanh nghiệp này, các tổ chức nói trên đều cảm thấy lưỡng lự và không muốn cho vay. Do vậy, để dễ dàng hơn trong việc vay vốn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tự mình nâng cao năng lực tài chính cho doanh nghiệp. Trước hết, khi muốn vay vốn, doanh nghiệp phải có dự án sản xuất kinh doanh. Như vậy, để tăng khả năng được xét cấp vốn, doanh nghiệp phải chú ý đến việc lập các dự án kinh doanh để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả - các yếu tố quyết định đến việc các tổ chức cho vay có đồng ý cấp vốn hay không. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải có sự minh bạch hóa tài chính bằng việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán và có các báo cáo tài chính đáng tin cậy. Nếu doanh nghiệp đảm bảo hai yếu tố trên, việc vay vốn sẽ trở nên dễ dàng hơn. Về lâu dài, doanh nghiệp cần phải cải thiện năng lực tài chính của mình. Thứ nhất là tăng vốn điều lệ, đó là tín hiệu cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả và có khả năng phát triển trong tương lai. Thứ hai, doanh nghiệp phải giữ uy tín trong các quan hệ tín dụng, đặc biệt là với các ngân hàng thương mại, không để diễn ra tình trạng nợ xấu quá lâu. 72 - Nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thị trường Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng chính thức trên thị trường một phần vì năng lực tài chính yếu kém, mặt khác cũng do các doanh nghiệp này chưa có tên tuổi, chưa tạo dựng được uy tín trên thị trường nên các tổ chức cho vay thường cảm thấy không chắc chắn về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên ngần ngại trong việc cấp vốn. Do vậy, để tạo dựng được lòng tin nơi các tổ chức cho vay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ cần nâng cao năng lực tài chính mà bản thân doanh nghiệp phải tạo dựng được uy tín cho mình hay nói cách khác là nâng cao năng lược cạnh tranh của mình trên thị trường. Để làm được điều này, trước hết doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng của sản phẩm và dịch vụ bằng cách đổi mới, cải tiến khoa học công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ tốt hơn hoặc tăng các giá trị gia tăng cho sản phẩm. Từ đó, doanh nghiệp sẽ xây dựng được chổ đứng cho sản phẩm trong lòng khách hàng, và tạo dựng được thương hiệu riêng cho mình. Thứ hai, để có thể hiện diện nhiều hơn, sâu hơn trong tâm trí khách hàng, doanh nghiệp cần tăng cường việc marketing và quảng bá hình ảnh của công ty. Doanh nghiệp có thể quảng cáo, giới thiệu trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt, theo các nhà quản lý thì “marketing online” là một giải pháp hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh nền kinh tế như hiện nay. Marketing trực tuyến sẽ giúp các doanh nghiệp sẽ tiếp cận được với nhiều khách hàng, đối tác hơn với chi phí thấp hơn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể tham gia vào các sự kiện hoặc chương trình để mọi người biết đến doanh nghiệp cũng như khả năng và uy tín của doanh nghiệp. Làm được như thế, các doanh nghiệp sẽ tạo dưng được mối quan hệ tốt với khách hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào các hiệp hội, tổ chức …của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy, doanh nghiệp vừa bảo vệ 73 được quyền lợi của mình, vừa tận dụng được cơ hội và sự hỗ trợ từ các tổ chức hiệp hội đó. Thêm vào đó, việc là thành viên của các tổ chức hay hiệp hội có uy tín trong và ngoài nước sẽ giúp doanh nghiệp có chổ đứng tốt hơn trên thị trường, tạo dựng được lòng tin và hình ảnh tốt cho mình. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xây dựng cho mình một chiến lược phát triển hợp lý và đúng đắn Theo số liệu thống kê, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng nhanh qua các năm. Tuy nhiên, chất lượng của các doanh nghiệp là một điều đáng bàn. Rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ được lập ra theo phong trào, chủ doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi không biết đầu tư vào đâu; trong khi đó thủ tục thành lập doanh nghiệp lại đơn giản nên những doanh nghiệp này ra đời mà không có chiến lược phát triển hợp lý. Một vài doanh nghiệp phát triển rầm rộ trong một vài năm, sau đó lại suy yếu nhanh chóng và tan rã. Điều đó bắt nguồn từ việc các doanh nghiệp thiếu chiến lược phát triển bền vững, doanh nghiệp không biết sản xuất cái gì, kinh doanh như thế nào cho hiệu quả. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển được và có chổ đứng trên thị trường thì các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển hợp lý và đứng đắn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xây dựng cho mình chiến lược phát triển ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, doanh nghiệp phải giải quyết được vấn đề sản xuất cái gì để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu được lợi nhuận, sản xuất như thế nào, bằng công nghệ gì, và huy động nguồn vốn nào để sản xuất hiệu quả mà tiết kiệm được chi phí. Còn trong dài hạn, doanh nghiệp phải xác định được hướng phát triển của doanh nghiệp: mở rộng theo chiều sâu hay chiều rộng, xây dựng được các giá trị cho doanh nghiệp: uy tín, danh tiếng, năng lực cạnh tranh… Muốn làm được điều đó, doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược, dự báo được xu hướng phát triển của nền kinh tế để đón đầu, xây dựng được các 74 kịch bản kinh tế để chuẩn bị các phương án khác nhau cho các tình huống khác nhau, không để tình trạng phát triển theo “trào lưu”, đến đâu hay đến đó. 3.2.3. Giải pháp về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của của các doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi xét cho cùng con người chính là nhân tố tạo ra mọi sự thay đổi trong doanh nghiệp từ chất lượng sản phẩm, đến công nghệ hay cách thức quản lý doanh nghiệp. Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tất yếu và yêu cầu khách quan nếu doanh nghiệp muốn phát triển lâu dài và bền vững. Thứ nhất, phải nâng cao và tăng cường năng lực quản lý của các giám đốc và các cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà quản lý tài chính. Năng lực quản lý là một trong hai yếu tố tạo nên năng lực tổng hợp của một nhà quản lý. Tuy nhiên, các nhà quản trị tại Việt Nam rất thiếu yếu tố này. Trình độ học vấn thấp là một nguyên nhân khiến cho năng lực quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp bị hạn chế. Do vậy, để việc quản trị doanh nghiệp nói chung và quản lý tài chính nói riêng được hiệu quả, các nhà quản lý cần chủ động nâng cao những kỹ năng cần thiết cũng như cập nhật các kiến thức để theo kịp với các bước tiến của xã hội. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nên có chiến lược để đào tạo các cán bộ nguồn cho doanh nghiệp, để sau đó, các nhà quản lý này có thể truyền lại những kiến thức hiểu biết của mình cho người khác. Thứ hai là về trình độ của người lao động. Theo thống kê, lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo nên khả năng tiếp thu không cao khiến cho hiệu quả và năng suất lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế. Để không bị tụt hậu trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp cần phải xây dựng các chính sách để nâng cao trình độ cũng như tay nghề của người lao động. Các doanh nghiệp có thể mở các lớp đào tạo ngay trong nội bộ công ty, cũng 75 có thể cử nhân viên đi học nếu như doanh nghiệp có đủ tài chính cho hoạt động này. Tuy nhiên, quan trọng hơn, doanh nghiệp phải có chính sách và các chế độ đãi ngộ để thu hút và giữ chân người tài. Các doanh nghiệp có thể làm được điều này bằng cách xây dựng một chế độ lương thưởng hợp lý, đồng thời có các lợi ích khác dành cho những nhân viên giỏi, xuất sắc. Nếu doanh nghiệp làm được điều đó, chắc chắn người lao động sẽ gắn bó và cống hiến nhiều hơn cho doanh nghiệp. 3.3. Một số kiến nghị với các tổ chức cho vay và các cơ quan quản lý Nhà nƣớc Việc sử dụng chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hiệu quả hay không không chỉ dựa vào bản thân các doanh nghiệp mà còn dựa vào môi trường kinh tế vĩ mô và các chính sách của Nhà nước, của các ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay. Do vây, trong phần này, tôi xin mạnh dạn trình bày một số kiến nghị với các cơ quan quản lý và các tổ chức tín dụng để giúp doanh nghiệp có thể sử dụng và sử dụng hiệu quả đòn bẩy tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 3.3.1. Kiến nghị với các ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay Có thể nói ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay đóng vay trò rất quan trọng và quyết định tới hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi chính ngân hàng và các tổ chức cho vay là người cung cấp các nguồn vốn để các doanh nghiệp có thể sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, như đã nói trong phần thực trạng, con đường doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức khá chông gai, số doanh nghiệp cảm thấy hài lòng khi vay vốn từ các tổ chức này còn rất hạn chế. Đó cũng là một nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp tìm đến các nguồn tín dụng “đen” mặc dù lãi suất “cắt cổ” và lượng vốn không nhiều. Để giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng mức độ tiếp cận với nguồn vốn này, ngân hàng và các tổ chức cho vay cần phải có chính sách thông thoáng 76 hơn cho đối tượng doanh nghiệp này. Hiện nay, các tổ chức cho vay đặc biệt là các ngân hàng thương mại vẫn dành nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp lớn hoặc các tập đoàn, còn chính sách cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế. Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Quang A - Viện trưởng viện nghiên cứu phát triển, “các ngân hàng nếu biết khéo léo nhìn xa trông rộng thì vẫn phải tìm đến các loại khách hàng này, nhất là các ngân hàng bán lẻ, phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi khi cho một doanh nghiệp nhỏ vay, ngân hàng sẽ chia nhỏ vốn thành những khoản tín dụng nhỏ, tất nhiên chi phí sẽ cao nhưng sẽ an toàn hơn, rủi ro giảm đi. Bên cạnh đó, nếu đi kèm là một khung chính sách khéo léo, linh hoạt để các doanh nghiệp thực sự muốn làm ăn và làm ăn hiệu quả (chứ không phải là các doanh nghiệp đánh quả, kinh doanh chứng khoán) tiếp cận tín dụng, thì bản thân ngân hàng cũng có lợi” 18. - Các tổ chức cho vay cần đơn giản hóa thủ tục và thiết lập cơ chế phù hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện nay, rào cản lớn nhất làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức chính là điều kiện về tài sản thế chấp. Do đó, cơ chế thế chấp, tín chấp cần có sự đổi mới, đăng ký giao dịch đảm bảo cần có sự sửa đối. Các tổ chức cho vay có thể áp dụng hình thức đảm bảo bằng các khoản phải thu của doanh nghiệp chỉ cần doanh nghiệp cam kết thu tiền hàng qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản công ty mở tại ngân hàng cho vay. Ngân hàng có thể thu nợ bằng cách trích từ tài khoản này của doanh nghiệp. Các tổ chức cho vay cần tiến hành điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tăng tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động ở các lĩnh vực, ngành nghề và các sản phẩm được đánh giá là có lợi thế so sánh và sức mạnh cạnh tranh cao, đặc biệt là tăng mức tín dụng cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu và các doanh nghiệp trong khu vực nông nghiệp - nông thôn. 77 Lập dự án là khâu thủ tục mà người đi vay ngại nhất vì mất nhiều thời gian, công sức mà vẫn chưa đúng với yêu cầu của ngân hàng và các tổ chức cho vay. Do đó, để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, ngân hàng và các tổ chức cho vay nên tham gia cùng doanh nghiệp từ khâu lập dự án, đến giám sát thực hiện và hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp. Việc thẩm định các tài sản thế chấp cũng là một rào cản đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đi vay hoặc muốn tăng hạn mức tín dụng. Các tổ chức tín dụng nên xem xét cách xác định giá trị doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện của từng ngành, từng lĩnh vực và từng doanh nghiệp. Nếu làm được như vậy, các tổ chức cho vay sẽ xây dựng được cho mình một mạng lưới khách hàng gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực và mong muốn làm ăn thực sự. - Các tổ chức cho vay cần nâng cao chất lượng tín dụng dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Các ngân hàng và tổ chức cho vay cần xây dựng cho mình hệ thống quản lý rủi ro và xếp hạng tín nhiệm hiện đại, hiệu quả để đánh giá chính xác rủi ro tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm căn cứ đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả nhất đối với mỗi khách hàng. Bên cạnh đó, phải tiến hành khảo sát, đánh giá quy trình thủ tục để đảm bảo tính cạnh tranh, giảm các thủ tục xét duyệt, thẩm định, giải ngân, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ đảm bảo kịp thời cung ứng vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các tổ chức tín dụng cũng nên đầu tư vào việc giải quyết vấn đề bất cân xứng thông tin giữa người cho vay và người đi vay bằng cách giới thiệu, quảng bá sản phẩm của mình tới các doanh nghiệp, tăng cường công tác tuyên truyền, tiếp thị để các doanh nghiệp biết được các điều kiện, thủ tục vay vốn để doanh nghiệp có đủ thông tin trong việc lựa chọn tổ chức cho vay phù hợp với mình. 78 Bên cạnh đó, các tổ chức cho vay có thể tăng cường các hoạt động hỗ trợ phi tài chính đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như tư vấn về cách quản lý, sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đạt giá trị kinh doanh cao để tăng khả năng trả lãi và gốc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một hướng phát triển mới đối với các ngân hàng và các tổ chức cho vay là xây dựng các gói dịch vụ tín dụng dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; nếu doanh nghiệp có nhu cầu và đáp ứng được các yêu cầu của gói dịch vụ, khi có yêu cầu các tổ chức tín dụng sẽ thay doanh nghiệp hoàn thiện các quy trình và thủ tục. Chẳng hạn, hiện nay tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) có bốn gói dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là SMEDF, SMEFP, SMESC, SMEHG cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với lãi suất ưu đãi. Với việc xây dựng các dịch vụ trọn gói như vậy, các doanh nghiệp và cả các tổ chức cho vay sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí và dễ dàng gặp nhau hơn. 3.3.2. Những kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. - Hoàn thiện thị trường tài chính Việc hoàn thiện thị trường tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao khả năng tiếp cận với các nguồn vốn chính thức cũng như hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải có các biện pháp phát triển thi trường tài chính để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng thị trường chứng khoán tập trung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo kết quả thăm dò của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, hơn 58,93% doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn huy động vốn qua thị trường chứng khoán, đây là một tiền đề quan trọng để hình thành nên thị trường chứng khoán doanh riêng cho đối tượng doanh nghiệp này. Tuy nhiên, với quy định hiện nay, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tham gia. Do vậy, trước tiên, Nhà nước nên nới lỏng điều kiện tham gia thị 79 trường đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ví dụ như mức vốn điều lệ có thể giảm xuống để làm tiền đề cho việc hình thành thị trường chứng khoán tập trung trong tương lai. Thứ hai, Nhà nước nên có giải pháp để phát triển thị trường cho thuê tài chính hay thị trường tín dụng qua các quỹ tín dụng để giúp doanh nghiệp có thêm các kênh huy đông vốn khác bên cạnh kênh huy động vốn truyền thống là các ngân hàng thương mại. Thứ ba, cần phải minh bạch hóa thị trường tài chính bằng các quy định chặt chẽ và thống nhất để tạo tâm lý yên tâm cho doanh nghiệp khi tiếp cận. Với việc hoàn thiện thị trường tài chính, Nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp có thêm cơ hội tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài cũng như cơ hội sử dụng hiệu quả chính sách đòn bẩy tài chính. - Phát triển thị trường, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ nhất, phát triển thị trường hàng hóa, lao động và cả thị trường vốn có tính cạnh tranh cao và giảm chi phí xuống mức thấp nhất có thể cho các doanh nghiệp. Thứ hai, cải thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế, cắt giảm các thủ tục hành chính, đơn giản hóa các quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thành lập và hoạt động. Thứ ba, có các chính sách hỗ trợ và ưu đãi để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện kinh tế khó khăn, tránh tình trạng các doanh nghiệp bị phá sản hàng loạt. Ví dụ như các chính sách về thuế, về hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ thông tin về thị trường…. Trên đây là những giải pháp giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp cần dựa vào đặc điểm và điều kiện của mình để lựa chọn những giải pháp hợp lý nhất để có thể đứng vững và phát triển trong điều kiện kinh tế thế giới và Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. 80 KẾT LUẬN Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc gia nhập vào các tổ chức kinh tế như tổ chức thương mại thế giới WTO đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự mình nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng kinh doanh của mình để tồn tại và các DNVVN cũng không nằm ngoài xu thế đó. Sau khi Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 được ban hành, số lượng doanh nghiệp thành lập mới ở nước ta ngày càng gia tăng, đặc biệt là số doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, với đặc điểm quy mô vốn nhỏ, nguồn vốn hạn chế, các doanh nghiệp này đã gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất và kinh doanh; do đó, phải có những giải pháp thật hữu hiệu để huy động thêm được các nguồn vốn từ bên ngoài và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đó. Bên cạnh đó, các chính sách khuyến khích hỗ trợ của Nhà nước cũng như những ưu đãi từ phía các tổ chức cho vay đóng một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp này phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, khi kinh tế thế giới và trong nước đang gặp khó khăn, cùng với các giải pháp về tài chính thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tự mình chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường để có thể tồn tại và phát triển bền vững cũng như đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Đăng Đờn (2005), “Tín dụng ngân hàng”, NXB Thống kê. 2. Nguyễn Minh Kiều (2008), “Tài chính doanh nghiệp - Lý thuyết, bài tập, lời giải”, NXB Tài chính. 3. Nguyễn Hải Sản (2006), “Giáo trình tài chính doanh nghiệp”, NXB Tài chính. 4. Lê Văn Tư, Thân Thị Thu Thủy (2006), “Thị trường chứng khoán”, NXB Tài chính. 5. Tổng cục thống kê (2008), “Niên giám thống kê 2007”, Hà Nội. 6. Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (tháng 10 năm 2008), Hội thảo “Doanh nghiệp - ngân hàng - chứng khoán cùng tháo gỡ khó khăn trong thời kỳ lạm phát”. 7. Hội nghị tiểu nhóm công tác siêu nhỏ MESG, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương APEC Việt Nam (9/2006), Đề cương “Nâng cao năng lực hội nhập thị trường cho các doanh nghiệp siêu nhỏ”. 8. Nhóm công tác các doanh nghiệp vừa và nhỏ SMEWG, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (9/2006), Đề cương “Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại và đầu tư”. 9. Viện nghiên cứu châu Âu (tháng 6 năm 2007), Tọa đàm "Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO: cơ hội thách thức đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của liên minh châu Âu EU". 10. Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngày 23/11/2001. 11. Nghị định 14/2007/ NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, ngày 19/01/2007. 12. Huy Tú (2007), “Xu hướng phát triển trong thời ký hội nhập”, Bản tin Doanh nghiệp và thi trường, Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ thành phố Hà Nội. 13. Trần Thanh Tú (2006), Dễ và khó trong phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thời báo Kinh tế Việt Nam, tháng 3/2006. 14. Phước Hà (2008), “Ứng cứu vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ”, 15. Thúy Hải (2008), “Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Lớn nhưng chưa mạnh!”, 16. Đoàn Hạnh (2007), “Tìm vốn qua cho thuê tài chính”, &file=article&sid=10632. 17. Linh Lan (2007), “Giải pháp tài chính linh hoạt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, 18. Bảo Minh (2007), “Cần cơ chế đặc thù phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ”, 19. Thủy Triều (2009), “Rào cản khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng”, 20. Đặng Vỹ (2006), “DN nhỏ vẫn có thể huy động được vốn từ nhiều nguồn”, 21. Hàm Yên (2007), “Tiếp cận nguồn vốn tín dụng: Doanh nghiệp nhỏ vẫn gặp khó”, 22. Các tạp chí: - Tạp chí đầu tư chứng khoán - Tạp chí kế toán - Tạp chí phát triển kinh tế - Thời báo Kinh tế Sài Gòn - Một số tạp chí khác. 23. Các website: - - - - - - - - Và một số trang web khác. Tài liệu tiếng Anh: 24. Stewart C. Myers, Richard A. Brealey (2003), “Princples of Corporate Finance”, Mc Graw - Hill.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4389_2666.pdf