Đề tài Chính sách động viên thuyết phục của phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trong lĩnh vực giáo dục đại học

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU1 CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN2 1.1.Các khái niệm . 2 1.1.1.Khái niệm lãnh đạo:. 2 1.1.2.Khái niệm động viên:. 2 1.1.3.Khái niệm thuyết phục:. 2 1.2.Vai trò của động viên - thuyết phục. 2 1.3.Các yếu tố ảnh hưởng. 3 1.3.1.Thuyết “hai nhân tố” của Herzberg. 3 1.3.2.Các hình thức động viên thuyết phục theo thuyết “hai nhân tố”. 3 CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ CÁC CHÍNH SÁCH ĐỘNG VIÊN-THUYẾT PHỤC TRONG BẬC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 5 2.1.Thực trạng bậc giáo dục đại học trong bức tranh tổng thể nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010. 5 2.1.1.Cái nhìn tổng quan về nền giáo dục Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010. 5 2.1.2.Sơ lược quá trình công tác trong lĩnh vực giáo dục của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân7 2.2.Phân tích thực trạng về các chính sách động viên – thuyết phục:. 9 2.2.1.Chính sách tăng lương cho Giáo viên. 9 2.2.2.Thực hiên đề án học phí mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. 11 2.2.3.Nâng cao năng lực quản lý và phát triển chất lượng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục14 2.3.Đánh giá tổng hợp về vấn đề động viên – thuyết phục qua phần phân tích về các chính sách động viện thuyết phục của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trong nhiệm kỳ 2006-201017 2.3.1.Ưu điểm . 17 2.3.2.Nhược điểm . 18 CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIÊN CÁC CƠ CHẾ ĐỘNG VIÊN-THUYẾT PHỤC TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC BẬC ĐẠI HỌC19 3.1.Mục tiêu giải pháp. 19 3.2.Một số giải pháp phát huy ưu và khắc phục nhược đối với chính sách động viên thuyết phục của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân. 19 3.2.1.Giải pháp phát huy ưu điểm . 19 3.2.2.Giải pháp khắc phục nhược điểm . 20 KẾT LUẬN23 LỜI MỞ ĐẦU Từ xưa Mạnh Tử đã cho rằng:” Nhân chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viễn", còn Tuân Tử lại cho rằng “Nhân chi sơ tính bổn ác, lý tính hậu lai tập đắc”. Mạnh Tử và Tuân Tử đều là bậc thầy của Nho giáo thời Chiến quốc, dù có những đánh giá khác nhau về tính con người nhưng đều thống nhất rằng môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi. Nghĩa là giáo dục đóng vai trò quan trong trong việc hình thành tính cách của con người trong tương lai. Hơn thế, giáo dục còn đem lại nguồn kiến thức vô tận giúp con người từng bước một chinh phục thế giới và đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn. Rõ ràng việc rèn luyện đạo đức, tu tâm dưỡng tính và học hỏi nâng cao kiến thức luôn là nhu cầu thiết yếu trong mỗi con người. Bắt nguồn từ thực tế khách quan đó mà giáo dục đã được hình thành. Giáo dục hiện diện trong những lời răn dạy của Phật, trong đạo đức Nho giáo, trong những lời dạy dỗ của bề trên và đặc biệt được chú trọng trong các trường học. Trải qua mấy ngàn năm phát triển, nền giáo dục của Việt Nam hiện nay đã và đang được nâng cao để bắt kịp với xu thế thời đại. Con người Việt Nam và đặc biệt là giới trẻ - những người chủ tương lai của đất nước phải được trang bị đầy đủ hơn nữa cả tâm lực và trí lực để vững chãi sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới. Để được như thế, việc nâng cao chất lượng giáo dục phải là vấn đề tiên quyết được chính phủ đặt lên hàng đầu. Từ việc phổ cập tiểu học cho đến trung học cơ sở rồi trung học phổ thông, ngày nay, việc nâng cao chất lượng giáo dục bậc đại học đang là vấn đề thiết thực đặt ra cho nhà nước Việt Nam như là quy luật phát triển tất yếu của xã hội khi nhu cầu học đại học của người dân ngày một tăng cao. Tuy nhiên, theo như đánh giá thực tế khách quan hiện tại thì nhiều người cho rằng: chất lượng đào tạo giáo dục bậc đại học ở Việt Nam còn thấp, chưa tạo được sự đồng bộ giữa người học, người dạy, nhà đầu tư cho giáo dục và người sử dụng lao động. Quản lý nhà nước về giáo dục đại học còn nhiều trì trệ là nguyên nhân cơ bản của việc chất lượng giáo dục đại học Việt Nam ngày càng tụt hậu trước đòi hỏi của phát triển đất nước. Vậy lối đi nào cho việc nâng cao chất lượng giáo dục bậc đại học ở Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi đó, Thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã đề ra nhiều chính sách dựa trên nền tảng nhu cầu thực tế xã hội để cải thiện vấn đề này, đặc biệt là trong khoảng thời gian 2006-2010.Nguyễn Thiện Nhân (sinh năm 1953) là một giáo sư, tiến sĩ, và chính trị gia Việt Nam. Hiện ông là Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, kiêm Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước. Ông được biết đến như một chính trị gia hàng đầu có khả năng diễn thuyết trước đám đông tốt, nói tiếng Anh giỏi và nhất là người khởi động cho công cuộc "cải cách giáo dục Việt Nam" nhằm mang đến "nền giáo dục Việt Nam khác". Những chính sách của ông đã và đang tác động rất lớn đến nền giáo dục nói chung và giáo dục bậc đại học nói riêng trong suốt 4 năm ông nắm vai trò nhạc trưởng ngành giáo dục(2006-2010). Chúng tôi, những sinh viên đương thời hơn ai hết chính là người chịu tác động trực tiếp từ những chính sách trên. Vì vậy, thiết nghĩ đề tài thuyết trình về “Những chính sách động viên, thuyết phục của phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trong việc nâng cao chất lượng giáo dục bậc đại học giai đoạn 2006-2010” của nhóm chúng tôi là vô cùng thiết thực và gần gũi. Nguyễn Thiện Nhân và các chính sách của ông được nêu ra phân tích là ưu hay nhược, đã thành công hay còn tồn tại đều dựa trên ý kiến chủ quan của nhóm dưới sự suy xét từ nhiều nguồn tham khảo và soi vào thực trạng xã hội. Trong quá trình phân tích nếu có điều gì sai sót, chúng tôi mong được bỏ qua.

doc27 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3153 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách động viên thuyết phục của phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trong lĩnh vực giáo dục đại học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người có tài. Vì vậy, là nhà quản trị giỏi thì phải nắm bắt được nhu cầu của nhân viên để thiết lập một hệ thống động viên khuyến khích phù hợp: động viên vật chất với nhân viên có nhu cầu về vật chất, và động viên về tinh thần với nhân viên đang có nhu cầu về tinh thần, có như vậy mới tăng cường, đáp ứng được mục tiêu tổ chức, phát huy tính tích cực và sáng tạo của mỗi nhân viên. Các yếu tố ảnh hưởng Thuyết “hai nhân tố” của Herzberg Thuyết 2 nhân tố được xây dựng bởi nhà tâm lý học người Mỹ Frederick Herzberg vào năm 1959. Học thuyết này hiện đã và đang được sử dụng rộng rãi. Theo ông có 2 nhóm nhân tố tác động đến nhu cầu của con người. Nhóm các yếu tố duy trì: Bao gồm các vấn đề như tiền lương, cuộc sống riêng tư, chính sách và cách quản trị công ty, công tác giám sát, các điều kiện làm việc, an toàn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.Theo ông những yếu tố này chỉ là những “động lực bất bình” chứ chưa phải là động lực thúc đẩy. Các yếu tố này nếu được giải quyết tốt thì sẽ không có sự bất mãn chứ chưa phải thỏa mãn, do đó nó chưa được xem là động lực thúc đẩy. Tuy nhiên nếu thiếu sự tồn tại của chúng hoặc không được giải quyết tốt thì sẽ tạo ra sự bất bình, bất mãn. Nhóm các yếu tố thúc đẩy: Nhóm này bao gồm những yếu tố về thành tích, địa vị, sự công nhận, sự tiến bộ và sự thử thách, sự trưởng thành trong công việc...Đáp ứng tốt những yếu tố này sẽ tạo ra sự thỏa mãn, có tác dụng thúc đẩy nhân viên tự nguyện làm việc tích cực và hiệu quả hơn. Nhưng nếu không được đáp ứng tốt thì sẽ tạo ra sự không thỏa mãn chứ chưa phải là bất mãn. Lý thuyết 2 nhân tố của Herzberg cho thấy nhà quản trị cần phải chú trọng nhiều hơn nữa đến những yếu tố tạo ra sự thỏa mãn. Vì sự thỏa mãn mang đến động lực rất lớn trong việc hoàn thành công việc hiệu quả. Các hình thức động viên - thuyết phục theo thuyết “hai nhân tố” Nhân tố duy trì Tiền lương : Tiền lương nói riêng và tiền nói chung là một động lực thúc đẩy đặc biệt vì những chức năng của nó. Hai chức năng dễ thấy nhất là khả năng thanh toán và cất giữ giá trị của nó. Là phương tiện cần thiết để đạt được được mức sống tối thiểu hằng ngày đối với người lao động. Nó phản ánh kết quả hoàn thành công việc và mức độ đóng góp công việc của từng cá nhân.Nếu nhà quản trị đảm bảo được một mức lương hợp lý đối với nhân viên của mình thì sẽ duy trì được tổ chức, làm cho nhân viên tập trung hoàn hành tốt công việc được giao, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng công việc. Điều kiện làm việc : Một môi trường làm việc tốt sẽ đảm bảo khả năng phát huy hết khả năng làm việc của mọi người,tạo sự thuận lợi cho sự hoàn thành công việc hiệu quả nhất, đảm bảo an toàn cho nhân viên. Nhà quản trị cần thiết phải tạo ra một môi trường làm việc thuận lợi, thân thiện, an toàn để đảm bảo nhân viên làm việc trong điều kiện tốt nhất. Mối quan hệ giữa các cá nhân : Mọi người thường tìm thấy niềm vui trong những mối quan hệ tốt. Sự chấp nhận, ủng hộ và giúp đỡ của mọi người là động lực để họ xây dựng nhiều mối quan hệ tốt cho mình. Chính sách và cách quản trị của công ty: Đối với một công ty có một chính sách và cách quản trị công ty tốt sẽ đảm bảo duy trì tổ chức hoạt động hiệu quả hơn, tạo sự hứng khởi trong công việc. Điều này thể hiện qua nội quy công ty, chế độ lương, thưởng, chính sách về nhân sự và khuyến khích sự sáng tạo, đóng góp của nhân viên, đảm bảo sự công khai, minh bạch... Nhân tố thúc đẩy Địa vị: Con người luôn mong muốn đạt được sự tiến bộ và được mọi người tôn trọng. Việc đạt được địa vị cao hơn là để chứng tỏ sự tiến bộ, uy tín, quyền lực của họ với tập thể, bạn bè, gia đình. Điều đó có nghĩa là họ sẽ được xã hội coi trọng hơn. Nó còn là động lực thúc đẩy để đạt được vị trí và sự thăng tiến ở mức cao hơn. Sự thử thách trong công việc: Một người trước khi có một vị trí chính thức thường phải trải qua thời kỳ thử thách. Người trong giai đoạn thử thách thường có động lực thúc đẩy rất mạnh, luôn cố gắng làm tốt hơn công việc được giao để chứng tỏ với mọi người họ hoàn toàn xứng đáng nhận được vị trí chính thức. Đó cũng là cách để họ khẳng định năng lực của mình đối với mọi người. Sự thừa nhận: Cũng có nghĩa là sự tham gia, nó đưa đến yêu cầu về sự liên kết, sự công nhận và sự hoàn thành công việc. Cần chú việc tham gia nhóm công việc trong các tổ chức chính thức và phi chính thức để khai thác khả năng đóng góp cho tập thể của người lao động. Các nhà lãnh đạo nên khuyến khích sự tham gia của cấp dưới vào những công việc chung của tổ chức trong phạm vi cho phép, theo dõi cẩn thận hoạt động của họ và hướng dẫn họ hoàn thành nhiệm vụ. Khi những mục tiêu đạt được có sự đóng góp của họ và sự đóng góp đó được mọi người công nhận sẽ là nguồn động lực rất lớn đối với họ trong công việc. Thành tích: Công nhận, và khen thưởng đối với những công việc được hoàn thành tốt sẽ tạo ra một động lực lớn đối với mọi người. Đó là sự thừa nhận và đánh giá cao đối với những đóng góp xuất sắc, đồng thời nhận được sự tin tưởng và ủng hộ của mọi người. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ CÁC CHÍNH SÁCH ĐỘNG VIÊN-THUYẾT PHỤC TRONG BẬC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 Thực trạng bậc giáo dục đại học trong bức tranh tổng thể nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010 Cái nhìn tổng quan về nền giáo dục Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 Trong những năm qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, toàn xã hội và sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có nhiều tiến bộ: trật tự kỷ cương trong nhà trường được thiết lập, cơ sở vật chất được tăng cường, quy mô giáo dục được mở rộng, năng lực quản lý được nâng cao. Đặc biệt, bước đầu triển khai thực hiện nghị quyết của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Việt Nam giai đoạn 2006-2010 chất lượng đã có những chuyển biến, đội ngũ nhân lực được đào tạo đã có những đóng góp quan trọng… Trước tình hình tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục gây bức xúc trong xã hội, ngăn cản việc nâng cao chất lượng giáo dục và làm triệt tiêu động lực đổi mới và sáng tạo trong ngành, Bộ GD-ĐT đã chủ động tham mưu với Chính phủ ban hành Chỉ thị về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và bắt đầu từ năm học 2006-2007, toàn ngành đã tích cực triển khai thực hiện thông qua cuộc vận động “Hai không” (Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục) của ngành. Cuộc vận động “Hai không” là khâu đột phá để đổi mới giáo dục phổ thông và mầm non giai đoạn 2006-2010. Qua 4 năm triển khai, trật tự kỷ cương trong thi cử đã tiến bộ rõ rệt, đặc biệt là thi tốt nghiệp THPT: Số thí sinh bị đình chỉ thi năm 2007 là 2.612, thì năm 2008 chỉ còn 833, năm 2009 là 299 và năm 2010 chỉ còn 90, giảm gần 97% so với năm 2007; Số giám thị bị đình chỉ công tác coi thi do vi phạm năm 2007 là 32, năm 2008 là 15, năm 2009 là 3 và năm 2010 là 1, giảm gần 97% so với năm 2007 (trong hơn 120.000 cán bộ coi thi chỉ có 1 người bị đình chỉ); tỷ lệ tốt nghiệp THPT tăng trong bối cảnh các cuộc thi được triển khai ngày càng nghiêm túc hơn. Sau một năm triển khai cuộc vận động “Hai không”, nhằm khẳng định trách nhiệm và vị trí của người thầy trong giáo dục nước nhà ở giai đoạn hiện nay, Bộ GD - ĐT và Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã triển khai cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Các vụ việc vi phạm đạo đức nhà giáo đã giảm rõ rệt: năm 2007 có 200 vụ, năm  2008 còn 122 vụ, năm 2009 còn 24 vụ, chỉ bằng 12% của năm 2007; Các vụ xâm phạm thân thể học sinh cũng giảm: năm 2008 có 28 vụ, năm 2009 còn 8 vụ, bằng 29% năm trước. Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” có sức lan toả mạnh mẽ, đã tạo nên những chuyển biến rõ nét về cảnh quang trường lớp, về môi trường giáo dục nhân văn, về chất lượng dạy và học, về giáo dục kỹ năng sống, về gìn giữ và phát huy truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc ; chỉ trong vòng 2 năm học đã có hơn 8.000 nhà vệ sinh được xây mới ở các trường học cũ, số trường có công trình vệ sinh đã tăng thêm 20% so với trước, nâng tổng số trường có công trình vệ sinh là 38.893 trường đạt 96,7% trên tổng số trường trong cả nước, trong đó có 83,9% công trình vệ sinh đạt chuẩn. Cơ sở vật chất được nâng cấp với tốc độ cao nhất từ trước đến nay: năm 2006 tỷ lệ phòng học được kiên cố chiếm 52%; năm 2010 số phòng học đã hoàn thành đưa vào sử dụng là 41.695/57.563 phòng (đạt 72,4% kế hoạch); số phòng học đang xây dựng là 14.088 phòng (đạt 24,5% kế hoạch). Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, chương trình và giáo trình ở dạy nghề và đại học đang được tích cực thực hiện, phương pháp dạy học dần từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giáo dục. Năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo các trường phổ thông được nâng lên đáng kể, trong 2 năm học 2008-2009 và 2009-2010 đã có 25.000 hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường phổ thông (chiếm tỷ lệ 89%) được bồi dưỡng theo chương trình mới, hiện đại (hợp tác với Bộ Giáo dục Singapore). Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình và phương thức giáo dục. Quy mô giáo dục tăng nhanh, nhất là ở bậc đại học và đào tạo nghề.Công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt là tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội; giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc tiếp tục phát triển. Các loại hình nhà trường ngày càng được đa dạng hóa, thu hút được nhiều người học; các trường công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong phổ cập giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, quy mô giáo dục ngoài công lập phát triển. Trong bậc đào tạo Đại học: Từ cuối năm 2007, Bộ GD-ĐT đã quyết định triển khai chủ trương “Đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Đến nay, Bộ đã tổ chức 17 hội nghị quốc gia đào tạo theo nhu cầu xã hội cho các ngành kinh tế xã hội trọng điểm, qua đó hơn 600 thoả thuận, hợp đồng đào tạo giữa các trường đại học, cao đẳng và doanh nghiệp, bệnh viện và ngân hàng đã được ký kết với số người được đào tạo là trên 10.000 người. Tăng cường đào tạo theo chương trình của các đại học có uy tín ở nước ngoài, bằng tiếng nước ngoài: năm 2006 có 10 chương trình, năm 2010 có 27 chương trình. Xây dựng thư viện giáo trình điện tử dùng chung với hơn 1.100 giáo trình và đã có hơn 15 triệu lượt người truy cập. Triển khai và hướng dẫn các cơ sở giáo dục xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp cả nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của đất nước giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém. Giáo dục và đào tạo chưa thật sự là quốc sách hàng đầu. Mặc dù được tăng đầu tư tài chính nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao; công tác tổ chức, cán bộ, chế độ, chính sách chậm đổi mới. Chất lượng giáo dục còn thấp so với nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập, không đồng đều giữa các vùng, miền; quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng. Việc thẩm định cho phép thành lập mới các trường cao đẳng, đại học chưa thật chặt chẽ, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, nhất là ở các trường ngoài công lập và các trường của địa phương. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên thông giữa các cấp học, ngành học và trình độ đào tạo; mất cân đối về cơ cấu đào tạo theo vùng, miền, cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo. Việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên chưa đáp ứng mong muốn của các gia đình và đòi hỏi của sự phát triển đất nước. Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chưa chú trọng phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên; áp lực thi cử còn nặng. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém, cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới của đất nước. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ ngành khác đã làm cho công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục còn chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Những hạn chế nêu trên là do thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của các cấp quản lý, chậm cụ thể hóa những quan điểm của Ðảng thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu những quyết sách đồng bộ, hợp lý ở tầm vĩ mô. Tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và những khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc học và thi cử. Chậm đổi mới cơ chế, chính sách tài chính giáo dục để động viên hợp lý các nguồn lực xã hội phát triển giáo dục và sử dụng các nguồn lực cho giáo dục hiệu quả cao. Một số ý kiến cho rằng nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm này được chỉ ra trước hết là do tư duy giáo dục chậm đổi mới, phương thức quản lý giáo dục chưa theo kịp thực tiễn phát triển; việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa được quan tâm đầy đủ; công tác xã hội hoá giáo dục triển khai còn chậm và thiếu các giải pháp đồng bộ. Chúng ta đang đứng trước những thách thức to lớn là vừa phải phát triển quy mô, vừa phải nâng cao chất lượng trong điều kiện nguồn lực còn rất hạn hẹp. Sơ lược quá trình công tác trong lĩnh vực giáo dục của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân: Nguyễn Thiện Nhân hiện nay là Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩaViệt Nam, kiêm Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước . Ông được biết đến là người khởi động cho công cuộc "cải cách giáo dục Việt Nam" nhằm mang đến "nền giáo dục Việt Nam khác" trong tương lai. Nguyễn Thiện Nhân sinh ra trong một gia đình có nền móng học tập và chính trị. Cha ông, Nguyễn Thiện Thành là một Giáo sư, Tiến sĩ và Bác sĩ. Ông đã học hỏi được rất nhiều từ cha mình và có thêm nhiều năm nghiên cứu và học tập tại nước ngoài. Từ đó, Nguyễn Thiện Nhân đã bắt đầu hoạt động trong nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, chính trị, giáo dục. Ông đã đưa ra nhiều quan điểm và các lý luận về lĩnh vực giáo dục trong công cuộc đổi mới và hòa nhập cùng thế giới từ khi ông được quốc hội và chính phủ đề bạc lên chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo từ ngày 28 tháng 6 năm 2006. Ở cương vị này, Ông đã có những hoạt động nổi bật như: Trước tình hình tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục gây bức xúc trong xã hội, ngăn cản việc nâng cao chất lượng giáo dục và làm triệt tiêu động lực đổi mới và sáng tạo trong ngành, Bộ GD - ĐT đã chủ động tham mưu với Chính phủ ban hành Chỉ thị về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và bắt đầu từ năm học 2006-2007, toàn ngành đã tích cực triển khai thực hiện thông qua cuộc vận động “Hai không” (Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục) của ngành. Nhằm phát triển hệ thống các trường THPT chuyên, năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị tổng kết và định hướng phát triển các trường THPT chuyên cả nước (đây là lần tổ chức đầu tiên sau hơn 45 năm). Ông đưa ra khẩu hiệu cho năm học 2007 - 2008 là "năm không" gồm: "nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích, nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc "ngồi nhầm lớp" (cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp) và (dành cho các bậc đào tạo sau trung học) đào tạo không theo nhu cầu xã hội"; đẩy mạnh công cuộc "xã hội hóa giáo dục" nhằm "Huy động tổng thể sức mạnh của toàn xã hội phát triển giáo dục và đào tạo". Từ cuối năm 2007, Bộ GD - ĐT đã quyết định triển khai chủ trương “Đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Đến nay, Bộ đã tổ chức 17 hội nghị quốc gia đào tạo theo nhu cầu xã hội cho các ngành kinh tế xã hội trọng điểm, qua đó hơn 600 thoả thuận, hợp đồng đào tạo giữa các trường đại học, cao đẳng và doanh nghiệp, bệnh viện và ngân hàng đã được ký kết với số người được đào tạo là trên 10.000 người. Đầu năm 2008, ông đệ trình chính phủ về việc tăng học phí cho giáo dục bậc đại học, tăng trách nhiệm tự chủ tài chính cho các trường đại học. Ngoài ra, ông còn nhắc lại một lần nữa về công tác nâng cao chất lượng giáo dục đại học, điều mà ông đã đề cập khi mới nhận chức Nhằm khắc phục sự yếu kém kéo dài về chất lượng và quản lý trong giáo dục đại học, năm 2009, Bộ đã chọn khâu đột phá là đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, trong đó giải pháp đầu tiên là thực hiện 3 công khai tại mỗi cơ sở giáo dục: Công khai cam kết chất lượng đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo; công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo; công khai tài chính tại 100% các trường đại học, cao đẳng (có thể truy cập qua trang web của trường). Năm 2009, Bộ sáp nhập Trung tâm Công nghệ giáo dục và Trung tâm Nghiên cứu giáo dục dân tộc vào Viện Khoa học giáo dục Việt Nam để hoàn thiện các tổ chức nghiên cứu của ngành và thành lập Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực nhằm hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, các địa phương, các ngành, là đầu mối tiếp nhận nhu cầu và hỗ trợ triển khai đào tạo theo đặt hàng các doanh nghiệp. Đồng thời, thành lập Báo Giáo dục Thời đại điện tử, sau 1 năm đạt mức truy cập 110.000 lượt một ngày. Từ ngày 09/3/2010, Báo Giáo dục và Thời đại đã tổ chức Diễn đàn: “Vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo, làm gì để nâng cao chất lượng đào tạo”. Sau hơn 2 tháng tổ chức diễn đàn, đã liên tiếp đăng 34 bài viết trên ấn phẩm in và 45 bài viết báo điện tử. Phân tích thực trạng về các chính sách động viên – thuyết phục: Trước hết phải nói rằng hiện trạng nền giáo dục nước ta là hệ lụy của cả một quá trình mà tất cả các đời Bộ trưởng trước đều phải có phần trách nhiệm. Trong 4 năm lãnh đạo cho đến nay, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân là người đầu tiên có tư tưởng và hành động cụ thể đối với công cuộc đổi mới ngành giáo dục đào nói chung và hệ thống giáo dục Đại học nói riêng. Các chính sách ra đời đáp ứng đúng nhu cầu bức thiết của dư luận là cần có một cuộc cách mạng thực sự trong bậc giáo dục đại học vốn từ lâu đã chìm sâu trong “bức tranh tối màu” , trong đó phải kể đến các chính sách nổi bật như : tăng lương cho giảng viên, nâng cao chất lượng đào tạo đồng thời tăng học phí… Nhưng bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện cũng gây ra những vấn đề trục trặc, kết quả chưa đi tới cùng, hay những quan điểm trái chiều là điều dễ hiểu. Chính sách tăng lương cho Giáo viên Vào cuối năm 2006, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (lúc đó ông đang kiêm giữ chức vu Bộ trưởng Bộ GD-ĐT) đã nói bộ sẽ trình Chính phủ đề án cải cách tiền lương nhà giáo để đến năm 2010, nhà giáo có thể sống được bằng đồng lương của mình. Phát biểu trên vào thời điểm bấy giờ đã làm nức lòng công chúng nói chung và người làm nghề giáo nói riêng. Vì bởi lẽ ai cũng nhìn thấy được tầm quan trọng của việc chăm lo cho đời sống những người làm nghề dạy học, để họ thực sự sống được bằng nghề, chuyên tâm và dành trọn vẹn thời gian và công sức cho nghề. Đó mới gọi là nâng cao chất lượng giáo dục. Thực trạng về vấn đề lương Giáo viên “Bao giờ giáo viên sống được bằng đồng lương của mình?” Câu hỏi này đã được đặt ra từ lâu nhưng chưa bao giờ có được câu trả lời. Mấy năm gần đây giá cả leo thang và sự thu nhập trong xã hội ngày càng phân hoá, chênh lệch nhau tới hàng mấy chục lần thì câu hỏi trên lại trở nên thời sự và bức xúc. Lương của giáo viên so với mặt bằng khá thấp. Trong khi đó, ngoài lương cơ bản họ hầu như không còn nguồn thu nào khác. Một số giáo viên có mức thu nhập từ dạy thêm nhưng thực tế số này rất ít, và cũng chỉ có ở thành phố. Lương chưa đủ sống, nhiều giáo viên phải làm việc khác để đảm bảo cuộc sống thường nhật cho bản thân và gia đình như giáo viên đại học phải chạy "show" như ca sĩ, có người ghi danh hợp đồng tới 5 trường đại học, cao đẳng thì còn hơi sức đâu mà họ nghiên cứu bài giảng, tiếp xúc với sinh viên, nghiên cứu khoa học... “Tuy nhiên, với nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, mức lương này vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi tăng thu nhập thực tế cho giáo viên, nhất là khi đã có con nhỏ, đời sống của một bộ phận nhà giáo còn không ít khó khăn” (Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân). Lương giảng viên là một trong những vấn đề cần phải đề cập dài trong thời gian tới, nó cũng là trong lý do mà các vụ việc bê bối trong giáo dục đang diễn ra, một vấn đề cần được khắc phục. Theo Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân: “Theo đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục, thu nhập của đội ngũ nhà giáo sẽ tăng trong thời gian tới”. Ta thấy, so với năm 2006, đến nay 2010, lương giáo viên đã tăng gấp 2.1 lần, vào khoảng 2.5 – 4 triệu đồng/tháng , cao hơn so với các ngành khác. Ở đây cần thấy rõ tăng hệ số lương mới thực sự là tăng lương cho ngành giáo dục, khác với lộ trình tăng chung cho cả nước (tăng lương cơ bản). Phân tích chính sách động viên – thuyết phục qua vấn đề lương bổng Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân trả lời bằng văn bản: “Ngay từ năm 2006, Bộ GD& ĐT đã xác định cần xây dựng đề án tăng thu nhập cho giáo viên. Bộ đề xuất phương án tăng hệ số ưu đãi trong tương quan với hệ số ưu đãi của lực lượng vũ trang (bộ đội, công an là 1,8), là trong những chính sách cấp bách lúc này, khi mà tình trạng chạy điểm và tiêu cực trong giáo dục đang ở mức báo động. Thực tế, ở khu vực ĐH, thu nhập giảng viên có đỡ hơn so với các cấp khác. Theo cách tính lương hiện hành, lương giảng viên Đại học căn cứ vào 3 khoản sau: Khoản 1, lương cơ bản (được tính theo thang lương của Nhà nước), bao gồm lương, phụ cấp ngạch, bậc. Khoản 2, lương giảng dạy được tính đúng, tính đủ căn cứ theo phẩm chất (chất lượng của bài giảng và học hàm), thời lượng (số tiết dạy) và khả năng tài chính của cơ quan quản lý lao động (thoả thuận giữa hai bên). Khoản 3, lương nghiên cứu khoa học. Vẫn chưa đủ để giải quyết nhu cầu cơ bản đời sống giảng viên. VD: Theo Trường ĐH Nông lâm TP.HCM, hiện nay, cán bộ, giảng viên nói chung nhận được 2 khoản: lương ngân sách (theo hệ số, ngạch, bậc... ) và lương trường (từ nguồn tự có của trường) với mỗi khoản xấp xỉ nhau: 1,8 triệu đồng/tháng/người. Vì thế nên giảng viên cũng “chạy sô” dạy thêm các trường khác nhau bởi nhu cầu về việc này rất lớn (rất nhiều trường ĐH hiện nay không đủ giáo viên cơ hữu để đảm nhiệm hết) để bảo đảm thêm cuộc sống của mình. Với các giảng viên có thâm niên hoặc có sức khỏe, việc kiếm được trên 10tr/ tháng không phải là chuyện khó, thâm chí có thể cao hơn rất nhiều. Nhưng cái khó là họ phải bán sức khoẻ kiếm thu nhập,hầu như việc nghiên cứu khoa học chỉ còn là xa xỉ. Gây chảy máu chất xám nghiêm trọng. Do đó,thực tế giảng viên các trường với mức thu nhập khá cao so với mặt bằng chung nhưng đồng thời cũng phải đánh đổi. TP HCM là địa bàn đầu tiên trên cả nước đưa giảng viên ĐH vào danh sách những đối tượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Dư luận xã hội và ý kiến đánh giá chủ quan của nhóm Về vấn đề lương bổng của đội ngũ nhà giáo, trong xã hội đã có nhiều ý kiến khác nhau như: “Bao giờ giáo viên sống bằng đồng lương của mình? Nếu câu hỏi này chưa trả lời được thì mọi hô hào nâng cao chất lượng đội ngũ chỉ là "suông" và mọi giải pháp khác nâng cao chất lượng giáo dục chỉ là hình thức.” Một số nhà giáo cho rằng: “Lương của chúng tôi chính là cái cần câu để nuôi sống cả gia đình. Nếu Chính phủ không có chế độ ưu đãi đặc biệt hoặc là không tăng lương thì thử hỏi chúng tôi có thể có điều kiện để cống hiến cho xã hội hay không?...” Rồi cũng có người lại cho rằng: “Thực tế Nhà nước mình đã có những cơ chế mới rất tích cực và thiết thực đối với đội ngũ giảng dạy của ngành giáo dục. So với thời trước, bây giờ chúng tôi đã được coi trọng và đãi ngộ hơn nhiều”. Thiết nghĩ, dù cho đánh giá hay nhìn nhận ở góc độ nào thì trước hết chúng ta cũng phải ghi nhận những đóng góp mà “đội ngũ trồng người” đã làm cho xã hội mình. Những chính sách mà Chính phủ đã dành cho họ thì cũng phù hợp và cũng rất đáng được ghi nhận. Một xã hội công bằng dó là xã hội mà ở đó “người đi cho và người khuyến khích” đối xử với nhau công bằng. Thực hiên đề án học phí mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Thực trạng về vấn đề học phí trong bậc Đại học Đại học ngoài công lập: Học phí đại học lại điệp khúc "tăng!" Với lý do chi phí đầu vào tăng, bù trượt giá, tăng mua sắm trang thiết bị… nhiều trường đại học ngoài công lập (ĐHNCL) công bố sẽ tăng học phí trong năm 2010. Nhưng liệu đây có phải là mức phí “cuối cùng” hay các trường vẫn tiếp tục bắt người học phải gánh thêm những khoản phụ thu khác? Đại học công lập: Đối với các trường ĐH công lập, trên cơ sở nguyên tắc “chia sẻ kinh phí đào tạo giữa Nhà nước và người dân”, Bộ GD-ĐT đề xuất khung học phí theo bảy nhóm ngành. Khung học phí cụ thể từ năm học 2010 -2011 đến năm học 2014 - 2015 như sau: Nhóm ngành đào tạo và khung học phí tính theo đơn vị đồng/tháng: 1. Khoa học xã hội, kinh tế, luật: Từ 290.000 đến 550.000 2. Kỹ thuật, Công nghệ: Từ 310.000 đến 650.000 3. Khoa học tự nhiên: Từ 310.000 đến 650.000 4. Nông - lâm - thủy sản: Từ 290.000 đến 550.000 5. Y dược: Từ 340.000 đến 800.000 6. Thể dục thể thao, nghệ thuật: Từ 310.000 đến 650.000 7. Sư phạm: Từ 280.000 đến 500.000 Phân tích chính sách động viên – thuyết phục qua việc xây dựng đề án học phí mới Về vật chất: Đối với cán bộ, giảng viên, công nhân viên chức: tăng học phí dẫn đến việc tăng lương, tăng thửong cho cán bộ công nhân viên. Đối với cơ sở hạ tầng, thiết bị: tăng học phí tạo điều kiện cho việc trang bị thiết bị học tập hiện đại, cơ sở mới khang trang đầy đủ hơn. Đối với ngân sách nhà nước: giảm bớt một khoản lớn cho ngân sách nhà nứơc. è Động viên đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên chức chú tâm vào giảng dạy. Về tinh thần: Tăng học phí làm tăng những phúc lợi cho đội ngũ nhân viên, tạo những phần thửơng lớn, những chuyến nghỉ dữơng, tạo sự thoải mái về tinh thần. Tăng học phí làm tạo cảm giác kiến thức là những thứ quý giá, cần phải tích cực học tập và tiếp thu. Cơ chế trên không chỉ cho phép giảm sự lệ thuộc của đại học vào nguồn ngân sách của Nhà nước mà còn cho phép nâng cao thu nhập một cách chính đáng cho giảng viên.Cơ chế học phí nói trên cũng sẽ có tác động tích cực về mặt đào tạo” Dư luận xã hội và ý kiến đánh giá chủ quan của nhóm Hằng ngày nếu chúng ta xem phim,đọc báo…chúng ta sẽ không ít lần nghe đến những cum từ như: học phí đại học tăng cao, tăng kỷ lục, ngất ngưởng, cao ngất trời… Nhưng khi đánh gía về một vấn đề chúng ta phải nhìn từ nhiều mặt.Chúng tôi xin trích một đoạn nhận định của TS Ngô Tự Lập (Khoa Quốc tế – Đại học Quốc gia Hà Nội). “Việc bàn cãi về mức học phí 6% thu nhập bình quân, và cả mức học phí mới, theo tôi, phản ánh tính chất quan liêu trong cách thức tiếp cận vấn đề. Trước hết, chúng ta hiện nay không thể xác định được mức thu nhập thật sự của người dân, nhất là tầng lớp giàu có. Bởi lẽ, chúng ta đang sống trong một nền kinh tế tiền mặt với rất nhiều mảng không chính thức. Nếu căn cứ vào mức thu nhập được khai báo để nộp thuế, hoặc căn cứ vào con số GDP tính theo đầu người được công bố chính thức, chúng ta sẽ không hiểu vì sao hàng vạn người sở hữu xe hơi sang trọng, căn hộ hay biệt thự đắt tiền. Nhiều người trong số đó sở hữu không chỉ một mà nhiều biệt thự. Nhiều người cho con đi học nước ngoài từ bậc phổ thông với chi phí hàng tỷ đồng mỗi năm. Nhưng hãy cứ giả sử là chúng ta có thể xác định được chính xác thu nhập thật của người dân, việc xác định mức thu học phí ở mức 5 hay 6% thu nhập cũng rất đáng lo ngại. Bởi lẽ, con số này vừa quá cao, vừa quá thấp. Quá cao là đối với người nghèo. Chưa cần phải tăng học phí, ngay với mức 180 ngàn đồng/tháng trước khi thay đổi, học phí đại học đã là quá cao đối với nhiều gia đình nông dân. Với mức phí được coi là đã quá lạc hậu này, trên thực tế nhiều gia đình ở nông thôn đã không có khả năng chi trả để nuôi con ăn học. Trong khi đó, học phí dù có tăng đến mức cao nhất theo đề nghị của Bộ GD-ĐT (800 ngàn đồng/tháng đối với ngành y-dược) cũng vẫn là rất thấp và không hề ảnh hưởng đến những gia đình khá giả. Nhưng vấn đề không chỉ ở chỗ đó. Vấn đề là ở chỗ cho dù mức thu cao nhất ấy được chấp nhận thì nó vẫn rất thấp so với mục tiêu của Bộ GD-ĐT, đó là tăng đáng kể nguồn thu, nhằm cải thiện cơ sở vật chất, đào tạo và nâng cao đời sống giảng viên – những điều kiện quan trọng để cải thiện chất lượng. Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã rất có lý khi nói rằng khung học phí của chúng ta đã quá lỗi thời. Trong khi GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 4,7 lần, lương tối thiểu tăng 1,86 lần, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng gấp 2 lần trong vòng 10 năm qua (1999-2008), thì khung học phí vẫn không hề thay đổi. Theo ông Nhân, học phí đại học 180.000 đồng/tháng ở năm 2008 chỉ có giá trị tương đương với 90.000 đồng/tháng vào năm 1998 là năm khung học phí cũ được ban hành. Học phí thấp và cào bằng còn có một hệ quả gián tiếp khác rất đáng quan tâm: nó khiến cho việc lấy tấm bằng đại học trở thành một việc đầu tư rẻ tiền… Muốn vậy, chúng ta phải tăng đáng kể mức học phí. Mức học phí phổ biến ở các đại học dân lập hiện này là từ 3,5 đến 10 triệu/năm. Học phí các chương trình liên kết với nước ngoài từ 20 đến 50 triệu/năm. Học phí tại các trương phổ thông dân lập hiện cũng vào khoảng 5 đến 10 triệu/năm, cá biệt có trường thu tới vài triệu đồng/tháng. Đó là chưa kể các chương trình được gọi là “quốc tế” có mức học phí cao hoan nhiều lần. Trong mối tương quan như vậy, tôi cho rằng học phí đại học nên ở mức tối thiểu là 20 triệu/năm học (tức khoảng 2 triệu/tháng)...” Tuy nhiên thực tế thì vấn đề tăng học phí nhưng có tăng chất lượng hay chưa vẫn còn là một câu hỏi chưa có kết quả rõ ràng mà chúng ta đều hy vọng sẽ được nhìn thấy trong các nỗ lực cải cách của Bộ hiện nay và trong tương lai. Nâng cao năng lực quản lý và phát triển chất lượng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục “Khi người ta mua một cái tivi, nếu dùng một thời gian thấy nó không tốt thì người ta có thể bỏ đi và mua cái khác nhưng không ai học một trường ĐH sau 5 năm chỉ để biết nó tốt hay không tốt.” ( Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân) Thực trạng về vấn đề chất lượng trong lĩnh vực giáo dục Đại học Nhìn chung cả nước, thì chất lượng trong lĩnh vực giáo dục Đại học còn rất yếu kém, về cơ sở vật chất thì quá kém và số lượng trường đạt tiêu chuẩn không nhiều, đội ngũ giáo viên còn thiếu và trình độ thạc sĩ và tiến sĩ không nhiều. Mức lương của đội ngũ giảng viên thấp không đủ chi trả đời sống hằng ngày. Qua đó các chương trình đào tạo giáo dục chưa hiệu quả, không áp dụng kiến thức vào thực tế . Hiện nay, đã có nhiều chuyển biến tích cực, về lương của giảng viên đã được nâng cao hơn trước nhiều, trình độ người dân được nâng cao hơn trước, đặc biệt là đội ngũ giảng viên ngày càng được cải thiện . Cụ thể là: Năm học 2009-2010 được xác định là “Năm học đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. Các cơ sở giáo dục trong cả nước đều bày tỏ sự đồng thuận cao, vì chủ đề này phản ánh bản chất cốt lõi của giáo dục là chất lượng và cũng vì vấn đề chất lượng đang là thách thức đối với các nhà quản lý giáo dục. Thực trạng tác động hiện nay : Tình trạng thả nổi quản lý chất lượng các trường ngoài công lập : Tình trạng nhiều trường mới được thành lập nhưng đã tuyển sinh với quy mô lớn vượt xa năng lực đào tạo (đội ngũ GV, cơ sở vật chất, phòng học, trang thiết bị thực hành, thư viện...), ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đào tạo, đã gây bức xúc trong dư luận. Bộ GD-ĐT không tổ chức hậu kiểm đối với các cơ sở GDĐH mới được thành lập. Quyết định chính thức thành lập trường đồng thời được hiểu là quyết định cho phép hoạt động giáo dục. Do đó, nhiều cơ sở GDĐH vừa mới thành lập,chưa có đất đai, địa điểm, chưa xây dựng cơ sở vật chất và tuyển GV nhưng đã vội vã tuyển sinh và tổ chức đào tạo mà Bộ GD&ĐT không nắm được. Chất lượng đầu vào đang bị buông lỏng. Dẫn đến tình trạng chất lượng đầu vào của một bộ phận lớn sinh viên và học viên sau đại học rất yếu, không phù hợp với yêu cầu đào tạo nhân lực có chất lượng. Nói cho vui là “phổ cập đại học” “Đội ngũ giảng viên thiếu về số lượng và yếu về chất lượng” được Bộ GD-ĐT coi là “hạn chế lớn nhất” Số giảng viên có trình độ tiến sĩ trong các trường ĐH, CĐ hiện chiếm 13,86%, giảm so với tỉ lệ 14,33% của năm học 2007-2008. Hiện cả nước chỉ có 6.217 giảng viên ĐH, CĐ có trình độ tiến sĩ. Cả nước có 376 trường ĐH, CĐ nhưng số giảng viên có chức danh giáo sư trong cả nước là... 320 người Từng bước đưa ra những chính sách từ vĩ mô đến vi mô cho quá trình đổi mới chất lượng quản lý quyết tâm làm nên đột phá trong cải cách: Phân tích chính sách động viên – thuyết phục qua đề án nâng cao chất lượng giảng dạy Đã có nhiều chính sách về cải tiến về nhiều lĩnh vực và đạt được nhiều kết quả cao của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, như trong ngành giáo dục ta đã có những thay đổi tích cực thông qua chính sách và đề án cải cách đưa nền giáo dục ta thay đổi khá lớn như lương bổng, trình độ học vấn của giảng viên lên thạc sĩ và tiến sĩ, các yêu cầu mới về phương pháp giảng dạy tích cực hơn: Nâng cao năng lực quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục: Năm học 2008 – 2009 triển khai tổng thể Đề án đào tạo đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng từ nay đến 2020. Tháng 12/2008 hoàn thành việc xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng toàn quốc. Từng trường cần tiến hành đánh giá năng lực đội ngũ giảng viên, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực giảng viên, có lộ trình tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ từ nay đến năm 2015 và 2020 để sớm đạt các tỷ lệ 30% và 50% giảng viên có trình độ tiến sĩ. Xây dựng tài liệu hướng dẫn đổi mới phương pháp giảng dạy cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng. Tổ chức hội thảo về đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường từ tháng 11/2008 đến tháng 01/2009. Tháng 03/2009 tổ chức. Hội thảo quốc gia về đổi mới phương pháp giảng dạy đại học . Tổ chức Hội nghị toàn quốc các trường sư phạm lần thứ II vào tháng 12/2008 và sơ kết 3 năm triển khai thực hiện Quyết định số 09/2005/ QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của thủ tướng chính phủ về “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức về khoa học quản lý, quản trị trường đại học cho 200 Hiệu trưởng, cán bộ trong diện quy hoạch lãnh đạo trường đại học, cao đẳng khóa 2 vào Quý IV/2008 . (Trích :56/2008/CT-BGDĐT) Các chính sách này đã giúp đỡ cho việc cải thiện đội ngũ giảng viên có trình độ cao trong các trường đại học và cao đẳng, giảm việc thuê mướn giảng viên trong các trường hiện nay . Hiện nay, các giảng viên trong các trường đại học đã được nâng cao hơn , số lượng thạc sĩ và tiến sĩ sau khi học xong về các trường học giảng dạy tăng hơn trước, phương pháp giảng dạy tích cực hơn và các kiến thức áp dụng thực thực tế được nâng cao. Dư luận xã hội và ý kiến đánh giá chủ quan của nhóm Đã có rất nhiều ý kiến về vấn đề nâng cao năng lực quản lý và phát triển chất lượng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, ta có thể xem trên báo, đài truyền hình và các trang web xã hội, phần lớn phản ánh về chất lượng giảng viên về lương bổng và trình độ giảng dạy sau khi ra trường áp dụng vào cuộc sống thực tế và ở nhà trường không cao phần lớn họ ra trường là đi làm không đóng góp cho giáo dục Việc Nam. Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP – Hà Nội xuất bản tháng 9-2007 cho biết: Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học, sau đại học -  mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình; (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung yếu và lạc hậu; khả năng nghiên cứu thấp; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp… ( Trích nguồn Tiền Phong Online ) Các tiêu chí do bộ đề ra đều thực hiện tốt cả xong cái hiệu quả của nó cần được xem xét lại . Như nâng cao lương bổng cho giáo viên thì có thực hiện nhưng không đáp ứng được nhu cầu sống thực tế , trình độ giảng viên thì có trình độ thạc sĩ cao và nhiều nhưng chất lượng chưa được kiểm định . Ông Nhân dẫn chứng, vừa qua chúng ta đã làm những việc như nâng cao trình độ giảng viên, nhưng tại sao 23 năm tỉ lệ giảng viên là tiến sĩ vẫn là 11% không tiến bộ chút nào; Yêu cầu phải có đủ giáo trình dạy nhưng vừa qua tình trạng thiếu giáo trình vẫn xảy ra ở các trường; yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới công nghệ thông tin, nhiều trường làm rất tốt nhưng nhiều trường thiếu công nghệ thông tin, phân cấp quản lý chưa hợp lý... nhưng các trường không làm sao, vẫn hoạt động bình thường. (Trích nguồn Tiền Phong Online ) Các chính sách và quy định trên vừa mới ra đời và đang được thực thi một cách nghiêm túc. Qua đó, chúng ta mong mỏi được được nhìn thấy hiệu quả thật sự chứ đừng “ hô hào khẩu hiệu” như trước đây Đánh giá tổng hợp về vấn đề động viên - thuyết phục qua phần phân tích về các chính sách động viện - thuyết phục của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trong nhiệm kỳ 2006-2010 Ưu điểm Trước hết phải nói đến đó là việc Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân là vị bộ trưởng giáo dục đào tạo đầu tiên có tư tưởng và hành động cụ thể nhằm đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo và giải quyết các vấn đề bất cập còn tồn đọng trong thời gian dài liên quan đến hệ thống và chất lượng giáo dục. Các chính sách ra đời đáp ứng đúng nhu cầu bức thiết của dư luận là cần có một cuộc cách mạng thực sự trong giáo dục nói chung và bậc đại học nói riêng vốn từ lâu đã chìm sâu trong “bức tranh tối màu” , trong đó phải kể đến các chính sách nổi bật như : tăng lương cho giảng viên, nâng cao chất lượng đào tạo đồng thời tăng học phí, đề án 3 công khai… Với các chính sách và đề án thiết thực như “Tăng lương giáo viên” , “Tăng học phí để cải tiến chất lượng đào tạo”, “Nâng cao năng lực quản lý và phát triển chất lượng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục”, thể hiện Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã nhìn ra được bản chất vấn đề còn tồn đọng liên quan đến việc nhà nước và bộ ít quan tâm đến nhu cầu vật chất của giáo viên nói chung, phát triển cơ sở vật chất để phục vụ công tác dạy vào học. Sau đó còn có các chính sách động viên thiết thức dựa vào việc tạo ra một môi trường làm việc hiệu quả, chú trọng đến việc giáo dục nâng cao ý thức của học sinh- sinh viên. Công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện, quy mô giáo dục được tăng nhanh nhất là bậc đại học và bậc trung cấp dạy nghề. Ngoài ra đã có những bước tiến quan trọng trong việc xoá bệnh thành tích trong giáo dục – gian lận trong thi cử, tạo ra một môi trường học tập trung thực, tạo ra được kỉ cương thi cử. Nhược điểm Trong các yếu kém giáo dục nói chung, chúng tôi chỉ nói về các điểm yếu trong giáo dục liên quan tới vấn đề năng lực quản lý cũng như cách quản lý dẫn đến sự yếu kém trong giai đoạn Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đảm nhiệm. Trong đó thiết nghĩ yếu tố quan trọng nhất đó là tư duy giáo dục chậm đổi mới, phương thức quản lý giáo dục chưa theo kịp thực tiễn phát triển; việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa được quan tâm đầy đủ; công tác xã hội hoá giáo dục triển khai còn chậm và thiếu các giải pháp đồng bộ. Việc đưa ra các chính sách là hợp lý nhưng việc triển khai và kiểm tra việc thực hiện tại các địa phương lại còn nhiều yếu kém. Mỗi địa phương và mỗi khu vực lại có những vấn đề riêng, việc thiếu sự nắm bắt đồng bộ dẫn tới việc thiếu sót, cũng như gặp nhiều bất cập chưa thể giải quyết được. Các chính sách động viên thuyết phục mà Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đưa ra mặc dù đã nhìn ra được bản chất vấn đề còn hạn chế của nền giáo dục nước nhà nhưng vẫn chỉ mới dừng lại việc đáp ứng nhu cầu về vật chất cho giáo viên - học sinh/sinh viên mà thiếu đi những giải pháp thoả mãn nhu cầu về tinh thần cho giáo viên - học sinh/ sinh viên dẫn tới kết quả nhận được trong thời gian dài áp dụng những biện pháp mới vẫn chỉ thu về các thành tích chưa đáp ứng được sự bức xúc của xã hội. Vẫn chưa xây dựng được một môi trường giáo dục lành mạnh và kích thích sự học tập và sáng tạo trong việc dạy và học. Mới chỉ dừng lại ở các phong trào nhỏ lẻ và còn mang nặng tính hình thức. Chất lượng giáo dục và đào tạo ở các cấp bậc tuy có nhiều sự cải tiến nhưng cần chú trọng hơn nữa vào giáo dục nhận thức và tư tưởng cho học sinh và sinh viên. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIÊN CÁC CƠ CHẾ ĐỘNG VIÊN-THUYẾT PHỤC TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC BẬC ĐẠI HỌC Mục tiêu giải pháp Nâng cao mức sống cho tất cả cán bộ giảng viên đang làm việc và giảng dạy ở các trường nhất là ở vùng sâu và vùng xa thích hợp hơn so với thực trạng hiện nay. Nâng cao về chất lượng cũng như số lượng các công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên ở tất cả các bậc đào tạo. Góp phần đưa giáo dục đại học Việt Nam gần với thực tế hơn. Nâng cao chất lượng của giảng viên về trình độ chuyên môn cũng như khả năng và phương pháp truyền đạt. Đặc biệt là những kiến thức thực tế phụ trợ cho đào tạo. Hạn chế tình trạng thụ động của sinh viên Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy và quản lý. Tạo sự hợp lý hơn giữa học phí và cơ sở vật chất. Bên cạnh đó, hướng đến sự thỏa mãn và đồng tình của sinh viên đối với mức học phí. Tạo cho sinh viên cảm giác tin tưởng vào số tiền mình bỏ ra. Hoàn thiện chất lượng quá trình đào tạo sinh viên tại các trường. Giảm tình trạng chạy theo chỉ tiêu, thành tích và lợi nhuận. Cải thiện chất lượng chuẩn đầu ra của sinh viên, nhất là khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tế khi sinh viên làm việc tại các doanh nghiệp. Tiếp cận sự nhìn nhận và đồng tình của xã hội, nhất là các doanh nghiệp tuyển dụng đối với hình ảnh và uy tín của ngành giáo dục của Việt Nam nói chung và bậc đào tạo đại học nói riêng. Một số giải pháp phát huy ưu và khắc phục nhược đối với chính sách động viên - thuyết phục của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân Giải pháp phát huy ưu điểm Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân là vị bộ trưởng giáo dục đào tạo đầu tiên có tư tưởng và hành động cụ thể nhằm đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo và giải quyết các vấn đề bất cập còn tồn đọng trong thời gian dài liên quan đến hệ thống và chất lượng giáo dục. Đó chính là một tín hiệu đáng mừng đối với Nhà nước ta. Vì vậy, chúng ta cần phải đề bạt và lắng nghe ý kiến từ những vị lãnh đạo có kiến thức và khả năng phân tích thực tiễn từ đó đề ra chính sách giải quyết các bức xúc hiện tại của toàn thể nhân dân một cách nhanh chóng và có khoa học. Các chính sách trên đã tạo ra cuộc cách mạng thực sự làm sáng lên “bức tranh tối màu” của giáo dục Việt Nam từ trước đến giờ. Phó Thủ tưởng Nguyễn Thiện Nhân đã áp dụng cơ sở lý luận để nhìn ra được vấn đề đó hai thang bậc duy trì đời sống cho cán bộ giảng viên hiện vẫn chưa được thỏa mãn. Hay nói cách khác, việc áp dụng những cơ sở lý thuyết vững chắc vào việc đề ra chính sách là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta phải hạn chế việc đề ra chính sách dựa vào đánh giá chủ quan của hơn vài chục con người và phát huy việc học tập sau đó áp dụng cơ sở lý luận vào thực tế. Một môi trường làm việc hiệu quả bao gồm cơ sở vật chất hiện đại đầy đủ, tinh thần học tập của sinh viên tích cực, tinh thần giảng dạy và truyền đạt kiến thức của giảng viên sáng tạo khoa học. Tất cả làm nên chất lượng của một nền giáo dục. Những yếu tố phát huy đã đang và nên sẽ được vận dụng vào các chính sách để xem như nhữnh yêu tố quan trọng ngoài vật chất để thúc đẩy sự phát triển vững mạnh của một quốc gia trong tương lai. Giáo dục không chỉ riêng là trách nhiệm của nhà trường của ngân sách chính phủ mà còn là trách nhiệm của xã hội. Tăng học phí để tận dụng nguồn lực rộng lớn của nhân dân là hoàn toàn đúng đắn nhưng nếu sử dụng sai mục đích thì đó là con dao hai lưỡi. Vì vậy, những nhà hoạch định chính sách bên cạnh việc đề ra những chính sách thích hợp còn phải đề ra những chính sách kiểm tra giám sát và xử phạt những sai phạm hay lạm dụng một cách mạnh mẽ hơn để giữ vững mục đích cao đẹp và nhận được sự đồng tình của toàn thể nhân dân. Giải pháp khắc phục nhược điểm Từ năm 2006 đến tháng 5/2010, thu nhập của giáo viên đã tăng gấp 2,08 lần. Lạm phát từ sau năm 2006 đến năm 2009 là 44,6%. Như vậy, thu nhập thực tế của giáo viên đã tăng 1,44 lần. Mức tăng như vậy so với kế hoạch là 1.6 đến 1.7 lần mà các nhà lãnh đạo cho là “vượt kế hoạch”. Hơn nữa với mức tăng như vậy liệu có đủ cho đời sống “cơm áo gạo tiền” của cán bộ giảng viên. Điềi đó cho thấy sự yếu kém trong năng lực quản lý và hoạch định. Chúng ta cần hơn nữa những “cái đầu” kinh tế trong việc hoạch định những chính sách. Tránh việc sử dụng số học thuần túy để tính thành tích. Mục đích cuối cùng của nền giáo dục đại học chính là nâng cao chất lượng giảng dạy và sinh viên ra trường. Nhưng từ việc lương không đủ sống dẫn đến các giảng viên phải “chạy show” và hậu quả là không còn thời gian để nghiên cứu bài giảng, nghiên cứu khoa học,… Thiết nghĩ chúng ta nên cần một ràng buộc về số trường mà giảng viên có thể tham gia giảng dạy. Hạn chế “chạy show” để giảng viên có thể dành nhiều thời gian hơn vào chuyên môn của mình. Bên cạnh về lương cơ bản, bộ và các trường nên quan tâm hơn về giảng viên của mình vào những dịp đặc biệt như Tết và các ngày lễ. Tạo nơi giảng viên một cảm giác được quan tâm và đồng cảm chứ không phải chỉ là bán kiến thức lấy tiền. Nâng cao sự kính trọng giảng viên như một cách đánh vào thang bậc phát huy hay tự khẳng định bản thân. Khơi dậy sự cao đẹp về vai trò của người giáo, đặc biệt hơn là những người đào tạo nên tương lai của đất nước. Tăng học phí là một điều tất nhiên nếu muốn tăng chất lượng đào tạo. Nhưng việc sử dụng những khoảng tăng thêm đó như thế nào là một dấu hỏi rất lớn!!! Sinh viên sẵn sàng đóng học phí nhiều hơn nếu thấy được sự thay đổi rõ ràng chung quanh mình. Các trường cần phải công khai minh bạch những khoản chi và thông báo đến toàn thể sinh viên. Đó là điều kiên quyết để tăng sự tin tưởng từ những “khách hàng” của mình. Công khai minh bạch là rất tốt. Nhưng làm sao để kiểm chứng những công khai minh bạch đó? Các nhà lãnh đạo giáo dục dường như đã quên mất chức năng kiểm tra giám sát của mình. Các trường đại học cao đẳng mọc lên như nấm trong khi bộ phận chịu trách nhiệm quản lý chất lượng thì lại yếu kém. Thể hiện tư duy giáo dục chậm đổi mới. Vì vậy, tăng cường công tác kiểm tra giám sát cả về số lượng lẫn chất lượng. Thắt chặt đầu vào tuyển sinh để đảm bảo chất lượng đầu ra. Ban hành luật quy định việc chấp hành quy chế điểm sàn. Thanh tra cơ sở vật chất và mạnh tay dẹp bỏ những trường không đủ chất lượng. Quan trọng hơn cả trong toàn hệ thống chính là bản thân giảng viên. Phải không ngừng đào tạo nâng cao và chuyên sâu cho những cử nhân xuất sắc, thạc sỹ và tiến sỹ. Đưa những giảng viên ưu tú đi tu nghiệp ở nước ngoài nhưng kèm theo đó là những ràng buộc nhất định về chất lượng về công tác sau khi đi tu nghiệp. Tự bản thân các trường đánh giá định kỳ khả năng giảng dạy và công khai kết quả đến sinh viên. Bên cạnh đó, tự bản thân các giảng viên cũng phải ngày càng đổi mới mình thông qua cập nhật các kiến thức thực tế, thay đổi phương pháp giảng dạy truyền thống, áp dụng khoa học công nghệ. Tổ chức những cuộc thi đua cạnh tranh trong toàn ngành giáo dục về chất lượng giảng dạy, chất lượng cơ sở vật chất. Trao giải cho những trường xuất sắc. Từ đó gây dựng nên thương hiệu của trường. Tạo động lực để các trường khác phát triển. Tiến hành tham quan dự giờ chéo giữa các trường để đánh giá lẫn nhau. Thanh tra đột xuất và kiểm tra kiến thức học viên. Mạnh tay xử phạt hay có thể đóng cửa các trường vị phạm nghiêm trọng. Thay đổi chương trình và các môn học do Bộ đề ra theo hướng sát với thực tế và sinh viên hơn. Thực hiện quy chế học theo tin chỉ và hoàn toàn do sinh viên tự chọn. Tăng cường số lượng các môn học tự chọn để sinh viên có thể học những gì mình yêu thích chứ không phải những gì mình bị bắt buộc. Thẳng tay loại bỏ những môn học mà “theo dòng lịch sử” có quá ít sinh viên đăng ký. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng giảng dạy, quản lý, cơ sở vật chất, đầu ra sinh viên. Áp dụng cho tất cả các trường trong cả nước và bắt buộc phải thực hiện. Tăng cường hơn nữa Ủy bản kiểm định chất lượng giáo dục. Đề ra các bộ Luật cho phép xử phạt các trường không đủ tiêu chuẩn. Có làm thì phải có thưởng. Thường xuyên tuyên dương các giảng viên giảng dạy tốt có sáng kiến hay và những trường có chất lượng giảng dạy cao. Thưởng phải xứng đáng. Với mức chi 20% ngân sách Nhà nước thì việc tạo động lực cho toàn thể ngành giáo dục là hoàn toàn có thể thực hiện. Siết chặt quy chế cho vay hay miễn giảm học phí và lấy ngân sách đó để thưởng trực tiếp cho các giảng viên, các trường xuất sắc. Hơn nữa, thưởng phải có kiểm tra giám sát chặt chẽ. Tránh những tiêu cực có thể xảy ra. KẾT LUẬN Không chỉ trong lĩnh vực Giáo dục, mà trong bất ký một tổ chức nào, vai trò của vấn đề áp dụng các biện pháp động viên – thuyết phục của người lãnh đạo là rất quan trọng. Sử dụng chúng như thế nào, với ai, vào thời điểm nào...để mang lại hiệu quả cao nhất, đó cũng chính là một nghệ thuật và người làm lãnh đạo như một nghệ sĩ không ngừng học tập rèn luyện với mơ ước chinh phục đỉnh cao của “khu vườn nghệ thuật” đầy bí ẩn đó. Thực hiện đề tài nghiên cứu và phân tích, đánh giá các chính sách mà Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đưa ra dưới lăng kính tập trung vào khía cạnh động viên – thuyết phục, chúng tôi nhân thấy ông đã có những cố gắng và thành công nhất định trong việc tạo một môi trường học tập, làm việc ngày một tốt hơn, hoàn thiện hơn cho cả 2 đối tượng sinh viên và giảng viên. Dù trong đó vẫn còn tồn tại không ít điều bất cập, nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận một điều: nền Giáo dục Việt Nam nói chung, và lĩnh vực Giáo dục Đại học nói riêng, đã thay đổi với khá nhiều những tín hiệu khả quan từ sự lãnh đạo cùng tư duy đổi mới tích cực của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO: TS Huỳnh Thanh Tú (2010), Đề cương bài giảng Tâm lý nghệ thuật lãnh đạo TS Phạm Thế Tri (2008),Quản trị học, NXB ĐHQG TPHCM. Tiền Phong Online Tuổi trẻ Online R. J.House (2004), Culture, Leadership, and Organizations: The GLOBE Study of 62 Societies Tin247.com Vneconomy.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChính sách động viên thuyết phục của phó thủ tướng nguyễn thiện nhân trong lĩnh vực giáo dục đại học.doc
Luận văn liên quan