Đề tài Chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng qua các học thuyết kinh tế và nhận thức vận dụng ở Việt Nam hiện nay

Quá trình điều hành chính sách tài chính tiền tệ thời gian qua đã chứng tỏ được vai trò hết sức quan trọng của nó đối với nền kinh tế Việt Nam. Các công cụ được sử dụng tương đối linh hoạt, bám sát các mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ, và vì vậy đã đạt được những thành công nhất định: - Có sự gia tăng đáng kể về quy mô thu và chi ngân sách trong giai đoạn này, bên cạch đó là sự đa dạng trong cơ cấu thu và chi phù hợp với định hướng phát triển của nền kinh tế. - Chính sách ngân sách, bước đầu hình thành những quan điểm tích cực trong xây dựng và điều hành ngân sách. Bắt đầu chuyển đổi từ một ngân sách thụ động, chủ yếu trông chờ ngoại viện, mang nặng tính bao biện, bao cấp, chi đủ, thu đủ sang một ngân sách mang tính tích cực hơn - Bắt đầu chuyển những nội dung chi tiêu không thuộc phạm vi chức năng của NSNN sang khu vực doanh nghiệp và dân cư (xã hội hoá); Trong điều hành vĩ mô, đã bắt đầu áp dụng các biện pháp kích cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Đã chủ động kiểm soát và điều tiết tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán, thực hiện mục tiêu kiềm chế đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ, làm giảm đáng kể khối lượng tiền mặt trong lưu thông;

doc109 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2187 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng qua các học thuyết kinh tế và nhận thức vận dụng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam. hoạt động của các ngân hàng từng bước đáp ứng tốt nhu cầu vốn của nền kinh tế. Ngân hàng đã duy trì được mức lãi suất dương và tiến dần đến mức lãi suất thị trường, từng bước đa dạng hoá các hoạt động tín dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Trong hệ thống ngân hàng thương mại thời kỳ này, hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần có sự phát triển mạnh về số lượng tuy nhiên các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn nắm giữ một tỷ trọng thị phần chi phối toàn hệ thống. Bảng 2.2 cho biết thị phần của các ngân hàng thương mại từ 1993 đến năm 1996. Bảng 3. Thị phần các ngân hàng thương mại Việt Nam thập kỷ 1993-1996 Đơn vị: % Năm/loại hình 1993 1994 1995 1996 A. Tổng thị phần tiền gửi 1. NHTM NN 91 88 80 76 2. NHTM CP 6 8 9 10 3. NH LD 1 2 3 3 4. CN NH nước ngoài 2 2 8 11 B. Tổng thị phần tín dụng 1. NHTM NN 89 85 75 74 2. NHTM CP 7 11 15 14 3. NH LD 1 2 3 5 4. CN NH nước ngoài 3 2 7 7 (Nguồn: Hideto Saito thời báo kinh tế Việt Nam số 69, 28/8/1999) Bảng 3 cho thấy dư nợ tín dụng trong nền kinh tế tăng dần theo các năm và nó chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ cho vay. Điều này cho thấy vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại đã đóng vai trò tích cực hơn trong việc tạo vốn cho nền kinh tế và thông qua đó đóng góp một phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thập niên 90 của thế kỷ 20. Bảng 4: Dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế 1991-1999 Đơn vị: tỷ đồng Chi tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 GDP 76.701 110.53 140.26 178.53 228.89 272.04 313.62 361.02 399.94 Cho vay nền kinh tế 9.905 13.88 22.467 32.28 43.670 54.393 67.013 83.31 98.89 % so với GDP 12.4% 12.5% 16.0% 18.1% 19.1% 20.0% 21.4% 23.1% 24.7% (Nguồn: Niên giám thống kê, Ngân hàng nhà nước, % so với GDP tác giả dự tính) Tuy các ngân hàng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, đa dạng hoá các loại hình cho vay và huy động vốn nhưng hoạt động chính của các ngân hàng vẫn dựa chủ yếu vào hoạt động cho vay chính điều này đẩy các ngân hàng thương mại phải gánh chịu nhiều rủi ro như không thu hồi được nợ hoặc khó thu hồi nợ và đây cũng là thời kỳ nợ xấu gia tăng mạnh tại tất cả các ngân hàng. Biểu đồ 1: Nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam thập kỷ 90 (%) (Nguồn: Thời báo kinh tế VN 2/1998, và thống kê của ngân hàng thế giới 2001) Những tồn tại trên của hệ thống ngân hàng thương mại trong giai đoạn này đó là hậu quả của cơ chế cũ để lại, hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế, nền kinh tế phát triển chưa ổn định, trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng còn nhiều bất cập. c/ Những hạn chế của tín dụng ngân hàng: Tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của ngân hàng thương mại hiện đại. Vốn điều lệ và vốn tự có thấp Trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường Máy móc, công nghệ ngân hàng còn nghèo nàn lạc hậu Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn yếu Về cơ chế và thể chế quản lý còn nhiều hạn chế Cơ cấu khách hàng không cân đối. Cấu trúc thị trường không bền vững. Tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng thương mại còn thấp. Nợ khê đọng của hệ thống ngân hàng thương mại. 3. Từ năm 2001 đến năm 2006. 3.1. Phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế năm 2001 – 2006 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 19 tháng 4 năm 2001 đến ngày 22 tháng 4 năm 2001 đã nâng tầm nhận thức lý luận và vận dụng học thuyết kinh tế Marx - Lenin lên một trình độ mới, và đã thảo luận và nhất trí thông qua các văn kiện quan trọng, trong đó có Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2001-2005 với mục tiêu tổng quát là: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu tổng quát nêu trên được cụ thể hoá thành định hướng phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn 5 năm trước và có bước chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo. - Phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo; củng cố kinh tế tập thể; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. - Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương. - Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính - tiền tệ, tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia, thực hành triệt để tiết kiệm; tăng tỷ lệ chi ngân sách dành cho đầu tư phát triển; duy trì ổn định các cân đối vĩ mô; phát triển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nối tiếp đại hội IX, đại hội X của Đảng (tháng 12/2006) tiếp tục khẳng định “ Để tiếp tục đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đại hội X đã bàn sâu về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để thực hiện được điều đó Đại hội X đã kế thừa các tư tưởng của Đại hội VIII, IX về quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng XHCN và chỉ rõ những nội dung cần đạt thực hiện: - Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho sự phát triển; đảm bảo tính bền vững và tích cực của kinh tế thị trường, thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống Pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động thị trường và doanh nghiệp. - Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. - Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh. 3.2. Điều hành chính sách tài chính, tiền tệ trong giai đoạn 2001 - 2006 3.2.1 Chính sách tài khóa a/ Thu ngân sách Trong nền kinh tế thị trường, tỷ lệ động viên thu NSNN có mối quan hệ mất thiết với thu nhập quốc dân. Vì vậy, nhà nước sử dụng tỷ lệ động viên để điều tiết tính chu kỳ của nền kinh tế thị trường, đảm bảo sự tăng trởng liên tục của nền kinh tế trong mọi giai đoạn. Khi nền tăng trưởng nóng, nhà nước có thể tăng tỷ lệ động viên, tăng thuế để điều tiết đầu tư, góp phận hạ nhiệt tốc độ tăng trưởng.Ngược lại, khi nền kinh tế giảm phát, nhà nước cần thiết phải giảm thuế để kích thích đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế cao hơn. Giai đoạn 2001 – 2005, quy mô thu ngân sách Nhà nước tăng nhanh với tốc độ tăng thu cao, song song với Thu NSNN, Chi Ngân sách cũng tăng nhanh, đáp ứng nhu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tê – xã hội. Cụ thể tổng thu NSNN giai đoạn 2001 - 2005 đạt 799.24 tỷ đồng, tăng 8.81 lần so với năm 2000, tốc độ tăng lần lượt qua các năm đạt 14.48%, 19.22%, 14.82%, 34.26%, 19.57%. Tốc độ tăng bình quân trong 5 năm đạt 20.46%, tăng cao nhất trong 15 năm qua. Bảng 5: Thu ngân sách giai đoạn 2001 -2005 Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2001 - 2005 Thu NSNN 103888 123860 142210 190929 228287 799241 Tỷ lệ tăng (%) 14.48% 19.22% 14.82% 34.26% 19.57% 20.46% (Nguồn: Tổng cục thống kê) Đạt được tốc độ tăng như vậy một phần do cơ cấu và chính sách thu Ngân sách Nhà nước chuyển dịch tích cực theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Thông qua việc miễn giảm thuế Thu nhập doanh nghiệp, tiền sử dụng đất, thuế sủ dụng đất với mức độ khác nhau, chính sách thuế đã khuyến khích các dự án đầu tư vào ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ... từ đó tăng tý trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội, đã góp phần tăng nhanh số thu NSNN, và làm thay đổi đáng kể cơ cấu thu NSNN. Mặt khác chính sách thu NSNN luôn đặt ra mục tiêu “Thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất; khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, công nghệ mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững”. Trong hoạt động thực tiễn, cơ cấu thu NSNN đã được chuyển dịch theo hướng tăng cơ cấu thu trong nước, giảm cơ cấu thu ngoài nước. Như vậy, sự dịch chuyển cơ cấu thu trong nước đã gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng mở cửa và giảm tỷ trọng các nguồn thu chịu tác động bởi những yếu tó bên ngoài, tăng thu nội địa. Tuy nhiên cơ cấu Thu NSNN chưa thực sự bền vững, và phản ánh sự bị động trong điều tiết nền kinh tế. Thể hiện ở điểm thứ nhất: Thu nội địa được coi là nguồn thu ổn định của NSNN, ít chịu sự biến động của các yếu tố bên ngoài, nhưng tỷ trọng thu nội địa còn khá thấp (khoảng 50 -52%/). Hai là: tuy có những chuyển biến tích cực trong một số năm gần đây, nhưng nhìn chung cơ cấu thu NSNN vẫn chậm được cải thiện, và vẫn phụ thuộc vào nhiều khoản thu thiếu tính ổn định là thu dầu thô và thu Xuất nhập khẩu ( chiếm gần 48 - 50% thu NSNN). do đó để đảm bảo tính ổn định của nguồn thu, cần có phương hướng, biện pháp tăng tỷ trọng thu nội địa trong tổng Thu NSNN. Điều đó đòi hỏi phải tăng tính hiệu quả hoạt động của các loại hình doanh nghiệp và các hoạt động kinh tế.. b/ Chi ngân sách Bên cạnh việc thu ngân sách, trong chính sách tài chính của một quốc gia việc chi ngân sách cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của một quốc gia đặc biệt là những khoản chi ngân sách dành cho đầu tư phát triển. Bảng 6: Tổng chi ngân sách giai đoạn 2001 -2005 ĐVT: Tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng chi ngân sách 128.019 148.743 224.391 273.375 353.618 418.310 (Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê) Quy mô chi NSNN, cả số tuyệt đối và và tỷ lệ so với GDP, đều tăng nhanh. Tổng chi ngân sách giai đoạn 2001 đến 2006 là 1.546.456 tỷ đồng, năm 2001 tổng chi ngân sách là 128.019 tỷ đồng thì đến năm 2006 tổng chi là 418.310 tăng gnầ 2,27 lần so với thời điểm 2001. Việc gia tăng tổng chi ngân sách góp phần gia tăng tổng cầu cho nền kinh tế đáp ứng được nhu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong từng thời kỳ. Đây cũng là một động lực quan trọng trong việc thúc đẩy việc tăng trưởng kinh tế. Bảng 7: So sánh tốc độ tăng chi đầu tư phát triển (ĐTPT) và chi thường xuyên giai đoạn 2001-2005. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2001 - 2005 Chi ĐTPT (tỷ đồng) 38.802 45.218 59.629 66.115 71.000 56.153 Tốc độ tăng (%) 31,0 16,5 31,9 10,9 7,4 19,5 Chi thường xuyên (tỷ VND) 73.408 78.039 95.608 107.979 124.698 95.946 Tốc độ tăng (%) 18,7 6,3 22,5 12,9 15,5 15,2 (Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục thống kê) Trong các năm 2001-2003, tuy tốc độ tăng ĐTPT giảm dần nhưng vẫn tăng nhanh hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, các năm 2004-2005, tốc độ tăng chi thường xuyên cao hơn chi ĐTPT chủ yếu có sự đóng góp của việc tăng chi cho cải cách tiền lương. Trong giai đoạn 2001-2005 tỷ trọng chi NSNN cho ĐTPT trong tổng chi NSNN có xu hướng tiếp tục tăng lên, bình quân thời kỳ 1996-2000 là 26,2%, năm 2001 đạt 30,2%, năm 2005 đạt 28,2%, tính bình quân thời kỳ 2001-2005 là 30,6%. So với GDP, tổng chi ĐTPT giai đoạn 1996-2000 chỉ chiếm 6,5% nhưng đã tăng khá mạnh trong giai đoạn 2001-2005, đạt 8,8%. Trong giai đoạn 2001-2005, với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 19,5%,cao hơn tốc độ tăng bình quân của tổng chi NSNN và của chi thường xuyên (đều là 15,2%), rõ ràng chi ĐTPT được ưu tiên hơn chi thường xuyên. Chính sách chi ĐTPT của Nhà nước thể hiện rõ chủ trương thúc đẩy kinh tế thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế đường sá, cầu cống, bến cảng, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ xúc tiến thương mại... Mặt khác, Nhà nước đã thắt chặt các hình thức trợ cấp tài chính cho các DNNN: giảm bao cấp, chấm dứt chi bù lỗ hàng cung cấp, bù chênh lệch ngoại thương, việc cấp vốn lưu động cho các DNNN chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định và áp dụng đối với các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hoặc mới đi vào sản xuất hoặc đối với những doanh nghiệp mang tính chất phúc lợi công cộng, các công trình kinh tế và các ngành nghề mũi nhọn trọng yếu có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất. 3.2.2 Chính sách tiền tệ, tín dụng. Đầu thời kỳ này (năm 2001) do bị ảnh hưởng xấu từ các yếu tố như giá dầu tăng, đồng Đôla mất giá, nên để vực dậy nền kinh tế Chính phủ chủ trương thực hiện chính sách nới lỏng tài chính công và chính sách tiền tệ để đóng góp vào việc phục hồi kinh tế và kích thích khu vực tư nhân đầu tư phát triển. NHNN đã liên tục cắt giảm lãi suất trong năm đầu của giai đoạn để kích thích tăng trưởng tín dụng. Những biện pháp trên quả thật có tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế, nhưng ngay sau đó, thị trường trong nước tăng trưởng mạnh hơn và bắt đầu có những dấu hiệu tăng lạm phát, đòi hỏi Chính phủ phải hết sức thận trọng trong điều hành chính sách tiền tệ để đạt cả hai mục tiêu là tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Lãi suất và tỷ giá được điều hành linh hoạt, phù hợp với thị trường, đã góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. NHNN quyết định tăng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM từ 2% lên 5% với tiền gửi nội tệ và từ 4% lên 8% đối với tiền gửi ngoại tệ cho các khoản tiền gửi ngắn hạn; tăng lãi suất, siết chặt tín dụng và duy trì mức tăng tín dụng năm 2004 là 25%; duy trì tương đối ổn định tỷ giá hối đoái. Các công cụ chính sách tiền tệ như thị trường mở, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ đã được điều hành kết hợp tương đối đồng bộ, linh hoạt để đảm bảo sự ổn định của thị trường tiền tệ. Cũng trong giai đoạn này để tăng thêm tính linh động, phong phú của thị trường tiền tệ Việt Nam và cung cấp thêm công cụ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm rủi ro, NHNN mạnh dạn cho phép một số NHTM thực hiện nghiệp vụ Option - một nghiệp vụ còn mới tại Việt Nam lúc bấy giờ và cũng đạt được một số hiệu quả đáng khích lệ. Nó không những làm sôi động thêm thị trường tài chính Việt Nam đang trong giai đoạn ảm đạm mà còn tạo tiền đề cho sự phát triển những giai đoạn sau này. 3.3. Thành tựu và hạn chế. 3.3.1. Thành tựu. Quá trình điều hành chính sách tài chính tiền tệ thời gian qua đã chứng tỏ được vai trò hết sức quan trọng của nó đối với nền kinh tế Việt Nam. Các công cụ được sử dụng tương đối linh hoạt, bám sát các mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ, và vì vậy đã đạt được những thành công nhất định: Có sự gia tăng đáng kể về quy mô thu và chi ngân sách trong giai đoạn này, bên cạch đó là sự đa dạng trong cơ cấu thu và chi phù hợp với định hướng phát triển của nền kinh tế. Chính sách ngân sách, bước đầu hình thành những quan điểm tích cực trong xây dựng và điều hành ngân sách. Bắt đầu chuyển đổi từ một ngân sách thụ động, chủ yếu trông chờ ngoại viện, mang nặng tính bao biện, bao cấp, chi đủ, thu đủ sang một ngân sách mang tính tích cực hơn Bắt đầu chuyển những nội dung chi tiêu không thuộc phạm vi chức năng của NSNN sang khu vực doanh nghiệp và dân cư (xã hội hoá); Trong điều hành vĩ mô, đã bắt đầu áp dụng các biện pháp kích cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đã chủ động kiểm soát và điều tiết tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán, thực hiện mục tiêu kiềm chế đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ, làm giảm đáng kể khối lượng tiền mặt trong lưu thông; Kiểm soát được gia tăng khối lượng tín dụng đối với nền kinh tế; Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán hàng năm nhìn chung giữ ổn định: Đã thực hiện tốt yêu cầu ổn định tỷ giá ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, góp phần ổn định giá cả nói chung. 3.3.2. Hạn chế. Bên cạnh những thành công đạt được, điều hành chính sách tài chính,tiền tệ ở VN vẫn còn một số bất cập: Kết cấu chi NSNN vẫn còn chứa đựng những nội dung bao cấp, bao biện, kế thừa từ thời kế hoạch hoá tập trung. Chi NSNN cho nhu cầu thường xuyên của bộ máy quản lý nhà nƣớc, nhất là chi lương, còn thiếu, không đảm bảo tái sản suất sức lao động, hạn chế năng suất, hiệu quả công tác. Việc tổ chức kết cấu chi và điều hành NSNN vẫn chưa dựa trên nền tảng lý luận về nhà nước và NSNN trong kinh tế thị trƣờng, tính hòa nhập quốc tế của các chỉ tiêu thu, chi NSNN còn khá thấp, điều hành chi ngân sách còn thiếu mục tiêu chiến lược rõ ràng, thiên về cấp phát-hiểu theo đúng nghĩa đen của nó- còn thiếu vắng các quan điểm đổi mới táo bạo, tích cực nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy nhanh quá trình thực hiện CNH, HĐH. Tạo nhiều rủi ro cho hệ thống NHTM trong thời gian qua, đặc biệt là rủi ro thanh khoản; suy giảm sự tương tác giữa các ngân hàng, nợ xấu có nguy cơ gia tăng; Sự bất nhất trong việc vận hành chính sách tiền tệ của NHNN; Việc thực thi chính sách tiền tệ còn bị động, phần lớn chạy theo sau khắc phục hậu quả đã xảy ra; Điều hành chính sách tỷ giá còn nhiều bất cập, nhiều khi gây căng thẳng trên thị trường ngoại hối. 4. Từ năm 2007 đến nay ( từ Đại hội Đảng lần XI đến nay). 4.1. Phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế năm 2007 đến nay. Nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thập kỷ gần đây. Điều đó đã được đánh giá và khẳng định trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và XI. Đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010,Đại hội XI - Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm.” 4.1.1. Về công cụ tài chính và chính sách tài khóa. Chúng ta đã xác lập rõ ràng mục tiêu chung của chính sách tài khoá hiện nay ở nước ta là: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vì vậy, chính sách tài khoá phải hướng tới việc thúc đẩy tiết kiệm và tăng đầu tư trong cả hai khu vực tư nhân và Nhà nước. Trong học thuyết Keynes, đầu tư (I) và tiết kiệm (S) là hai đại lượng kinh tế vĩ mô quan trọng và trong trạng thái cân bằng vĩ mô khi I = S. Vì vậy, theo Keynes, cần phải khuyến khích các dòng tiết kiệm đầu tư vào sản xuất kinh doanh để kích thích kinh tế. Đảm bảo việc làm trong xã hội và giảm thất nghiệp. Hiện nay sức ép về việc làm ngày càng gia tăng, vì vậy giải quyết việc làm là một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng của chính sách tài khoá. Ổn định giá cả và tiền tệ, chống nguy cơ lạm phát. Đây là mục tiêu Chính phủ luôn quan tâm và theo dõi sát sao trong suốt thời gian qua. Thực hiện công bằng xã hội, thông qua việc điều tiết thu nhập và đây là mục tiêu quan trọng nhằm hướng tới mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa. 4.1.2. Về sử dụng công cụ tiền tệ và chính sách tiền tệ của Chính phủ. Như chúng ta đều biết, sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường làm cho vai trò của hệ thống ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng, điều đó buộc các Chính phủ phải nắm lấy các công cụ tiền tệ, hệ thống ngân hàng thực thi chính sách tiền tệ nhằm tác động tới nền kinh tế.Các công cụ của chính sách tiền tệ mà ngân hàng Trung ương sử dụng là: Hoạt động của thị trường mở. Thị trường mở là thị trường tiền tệ của ngân hàng Trung ương, được sử dụng để mua hoặc bán trái phiếu Chính phủ - thông qua đó ngân hàng có thể điều tiết mức cung ứng tiền tệ, tác động tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Thông qua đó để đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng qua đó để điều tiết mức cung tiền tệ. Công cụ lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của ngân hàng Trung ương khi họ cho các ngân hàng thương mại vay tiền, qua đó để tác động tới mức cung ứng tiền tệ. Đối với nước ta hiện nay, chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết vĩ mô hết sức quan trọng, vai trò của nó ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là một công cụ quan trọng, là phương tiện để điều tiết mức cung, cầu về tiền tệ; thắt chặt hay nới lỏng lượng cung ứng tiền tệ và do đó kiềm chế lạm phát. Thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng nó sẽ có tác động trực tiếp đến nền kinh tế, mục tiêu của chính sách tiền tệ là: ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng. 4.2. Điều hành chính sách tài chính, tiền tệ trong giai đoạn 2001 – 2006. 4.2.1. Chính sách tài khóa. Năm 2007 đến nay đánh dấu hiệu quả kinh tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO.Hiện nay Việt Nam đang theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mô hình này cho phép tận dụng tất cả các thế mạnh bên ngoài để phát triển kinh tế quốc gia. Muốn vậy trong nước phải có nền tảng, sự chuẩn bị tốt về nhân lực và tài lực, trong đó quan trọng nhất là yếu tố con người để có thể tiếp nhận và phát huy các cơ hội bên ngoài mang lại. Và để thực hiện tốt điều này, trong chính sách tài khóa, việc chi ngân sách nhà nước cho giáo dục tăng mạnh từ năm 2007 so với năm 2005 thuộc giai đoạn trước đó. Đến năm 2011 chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đạt 120.339 tỉ đồng tăng 4.2 lần so với năm 2005 (Trong khi đó tổng chi ngân sách nhà nước năm 2011 chỉ tăng 3 lần so với năm 2005, cho thấy tốc độ tăng chi ngân sách cho giáo dục cao hơn so với tổng chi) Bảng 8: Tổng chi ngân sách nhà nước qua các năm ĐVT: Tỷ đồng Năm 2005 2007 2008 2009 2010 Sơ bộ 2011 TỔNG CHI 262697 399402 452766 561273 648833 803367 Trong đó: Chi đầu tư phát triển 79199 112160 119462 181363 183166 193845 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội 132327 211940 252375 303371 376620 494156 Trong đó: Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo 28611 53774 53560 69320 78206 120339 Chi sự nghiệp y tế 7608 16426 14385 19354 25130 44860 Chi sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường 2584 7604 3191 3811 4144 6483 Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình 2099 1410 2662 6080 8828 9089 Chi lương hưu, đảm bảo xã hội 17747 36597 37138 50266 64218 82660 Chi sự nghiệp kinh tế 11801 16145 21193 27208 37632 55212 Chi quản lý hành chính 18761 29214 38025 40557 56129 68202 Chi bổ sung quĩ dự trữ tài chính 69 185 159 247 275 100 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Một khía cạnh khác khi tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa theo chính sách của đảng và nước cũng quan trọng không kém đó là tạo môi trường thu hút đầu tư. Và một trong những yếu tố thu hút đầu tư quốc tế là nền kinh tế thị trường tự do hóa cạnh tranh, hạn chế sự can thiệp của nhà nước, tăng cường sở hữu tư nhân. Thế nhưng thực tế Việt Nam vẫn còn một sự bảo bọc rất lớn đối với những công ty tập đoàn nhà nước, làm mất đi tính cạnh tranh của thị trường, gây bất công bằng trong kinh doanh thương mại,chưa kể đến chất lượng hoạt động của những công ty, tập đoàn này gây ra. Ví dụ các tổng công ty trong các lĩnh vực được bảo hộ để thay thế nhập khẩu như Tổng công ty Hóa chất, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Giấy đã và đang được bảo hộ bằng hàng rào phi thuế và thuế quan và trợ cấp bằng ấn định giá đầu vào. Cho đến gần đây họ được độc quyền và được bảo hộ nên rất ít áp lực cạnh tranh. Các tổng công ty này đã đầu tư quá nhiều vào sản xuất với công nghệ lạc hậu, các loại sản phẩm cuối cùng không có chất lượng cao, trong khi lại rất ít sản xuất các sản phẩm đầu vào và các sản phẩm cuối cùng chất lượng tốt. Công nghệ lạc hậu khiến chi phí sản xuất cao, hao tổn nhiều tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Hay như tập đoàn Tàu thủy Việt Nam Vinasin dựa vào quy định của Chính phủ là các tập đoàn và tổng công ty chuyển đổi sang mô hình mẹ con thì nên đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, đã đầu tư tràn lan vào những lĩnh vực đầu cơ. Họ đang thu được lợi từ việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng họ lại không bị áp đặt nhiều kỷ luật hơn từ thị trường, Được nhà nước bảo lãnh để vay vốn nước ngoài đã dẫn đến những that thoát cho nhà nước, những món nợ nước ngoài cho cả đất nước. 4.2.2 Chính sách tiền tệ, tín dụng. Sau khi Việt Nam là thành viên của WTO, nền kinh tế đã đạt được những thành tựu bước đầu. Môi trường và thể chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam có những chuyển biến tích cực với những thành công đáng ghi nhận về khung điều tiết; quản trị nội bộ; tổ chức bộ máy, chất lượng nguồn nhân lực và sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại.Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 tác động rất tiêu cực đến kinh tế nước ta. Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế lạm phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2011, 2012. Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý phù hợp hơn để tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Song song với những định hướng rõ ràng cũng như thay đổi tích cực về hành lang pháp lý trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nêu trên cũng phải kể đến những mặt tiêu cực trong lĩnh vực tài chính tín dụng. Đó chính là những khoản tín dụng mà các ngân hàng như Ngân hàng Phát triển (VBD), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) và các ngân hàng thương mại nhà nước, Vietcombank, Vietinbank và BIDV cấp cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Những hình thức bắt buộc cho vay vượt ngoài mức an toàn tín dụng đã và đang diễn ra dưới các cách khác nhau cho các tập đoàn và tổng công ty khác. Ví dụ trong tháng 5/2007, ngay sau khi Tổng công ty Thép (VSC) được chuyển đổi sang mô hình mẹ con thì Vietcombank cũng bảo lãnh phát hành trái phiếu trong nước trị giá 400 tỷ đồng với cam kết sẽ mua một phần hoặc tất cả số trái phiếu và chuyển đủ tiền cho VSC đúng thời hạn, đây được xem là cách thức VSC vay thêm tiền của Vietcombank vượt quá định mức an toàn khi mà nó vẫn chưa có khả năng trả nợ hết số nợ 51,578 triệu USD (trong tổng nợ 119,58 triệu USD từ cả VBD và các nguồn khác) Tất cả những khoản tín dụng trên đều được các ngân hàng cấp theo chỉ định của chính phủ. Qua đó cho thấy việc nhà nước can thiệp vào quá sâu, dành nhiều ưu đãi cho các tổng công ty tập đoàn nhà nước đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính cạnh tranh trong thị trường tiền tệ, việc tiếp cận vốn của các công ty doanh nghiệp. Còn xét về hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng và hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung đó thì nổi cộm trong giai đoạn này chính là tình trạng nợ xấu và bất cập trong điều hành quản lý hoạt động ngân hàng. Việc quản lý tín dụng không chặt chẽ, không theo sát các khoản vay đã đẩy nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao, mất thanh khoản, hoạt động yếu kém, tất yếu dẫn đến khó lòng tiếp tục duy trì hoạt động buộc phải sáp nhập. Điều này đồng thời cũng tạo cơ hội cho hệ thống ngân hàng vững mạnh hơn khi tự đào thải những ngân hàng hoạt động yếu kém. Liên quan đến việc điều hành quản lý hoạt động ngân hàng có lẽ phải kể đến việc quản lý nhân viên cũng như kiểm tra việc thực hiện quy trình cho vay lỏng lẻo. Tình trạng các cá nhân lợi dụng danh nghĩa, chức vụ ngân hàng huy động tiền gửi và giả hồ sơ tín dụng làm thất thoát tiền ảnh hưởng lợi ích khách hàng đang gây ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin tín dụng cũng như hình ảnh ngân hàng không chỉ trong nước mà còn đối với quốc tế. Khi các nhà đầu tư đang lo ngại về tính an toàn khi gửi tiền cũng như giao dịch tại các ngân hàng Việt Nam. 4.3 Thành tựu và lưu ý khi vận dụng các học thuyết kinh tế trong giai đoạn hiện nay. 4.3.1 Thành tựu. Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước”([1]). Có thể khái quát các thành tựu mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đạt được như sau: Một là: Đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định. Hai là: Tạo dựng được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình thành và phát triển. Ba là: Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bốn là: Kinh tế đối ngoại được mở rộng và phát triển, khả năng hội nhập khu vực và thế giới được tăng cường. Năm là: Thành quả của xã hội về xoá đói giảm nghèo. Đặc biệt giai đoạn 2011-2020 được xem là giai đoạn mang tính bản lề, quyết định sự thành công trong thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp của Việt Nam, đây cũng là giai đoạn hội nhập nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu sắc với nền kinh tế- tài chính thế giới. Do vậy, mức độ ảnh hưởng của các biến động kinh tế tài chính thế giới đối với nền kinh tế Việt Nam theo dự báo sẽ nhanh hơn, mức độ sâu sắc hơn và đa chiều hơn. 4.3.2. Lưu ý khi vận dụng các học thuyết kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Có được kết quả đó nêu trên là nhờ chúng ta đã biết cách vận dụng một cách linh hoạt các học thuyết kinh tế cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Cụ thể như: a/ Vận dụng Chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương gồm một số những ý tưởng rời rạc, không có hình thái nhất định, nhưng lại quy định những thành tố của xã hội nên được tổ chức theo cơ cấu nào. Những nhà tư tưởng trọng thương không phải lúc nào cũng đồng ý với nhau, và thậm chí nhiều khi lại phê phán chính cái hệ thống của chủ nghĩa này. Tuy vậy, chúng ta có thể ghi nhận một vài điểm trọng tâm của chủ nghĩa trọng thương như: Những biện pháp bảo hộ mậu dịch nên được áp dụng để bảo vệ cho những nhà sản xuất nội địa; xuất cảng nên tăng và nhập cảng nên giảm; việc làm nên được tăng cường tại thị trường nội địa; và chính sách tiền tệ nên gia tăng trữ lượng tiền và kim loại quý đã được áp dụng triệt để trong giai đoạn này giúp cho dự trữ ngoại hối của nước ta không ngừng tăng mạnh trong những năm gần đây. Tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn đúng đối với thực tế nước ta bởi vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá, mở cửa và hội nhập với kinh tế thế giới, phải phát triến thương mại, đặc biệt là ngoại thương để tiêu thụ hàng hoá nhằm thực hiện giá trị và giá trị thặng dư trong hàng hóa để tích luỹ tiền tệ và để tranh thủ các nguồn lực từ nước ngoài nhất là vốn và công nghệ tiên tiến của các nước đi trước góp phần vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập. Đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập sâu rộng như hiện nay, hoạt động giao thương giữa các quốc gia càng được tăng cường mạnh mẽ. Đó là cơ hội để Việt Nam ta có thể mở rộng phát triển nền kinh tế hàng hóa, gia tăng dự trữ ngoại hối và nâng cao vị thế trên trường quốc tế. b/ Vận dụng các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển. Trường phái tư sản cổ điển mà đại diện là A. Smith và D. Ricardo đã có những quan điểm tiến bộ đúng đắn về lưu thông tiền tệ. Quan điểm cho rằng tổng lượng tiền trong lưu thông do giá cả của tổng sản phẩm hàng hoá và trữ lượng vàng quy định, một nền kinh tế muốn phát triển phải dựa trên cơ sở lưu thông tiền tệ vững chắc. Lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá phải gắn liền với nhau. Thông qua các nền kinh tế hiện nay, quan điểm lưu thông tiền tệ của trường phái tư sản cổ điển vẫn tiếp tục cho thấy sự đúng đắn. Nền kinh tế thị trường hoạt động dựa trên những quy luật tự nhiên vốn có của nó, trong đó có quy luật lưu thông tiền tệ, nội dung cơ bản của quy luật đó là sự vận động của tiền tệ lấy trao đổi hàng hoá làm cơ sở và nền tảng. Trong điều kiện hiện nay, quy luật lưu thông tiền tệ càng có vai trò to lớn đối với nền kinh tế thị trường nước ta, thể hiện cụ thể như sau: Lưu thông tiền tệ là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tái sản xuất xã hội được thuận lợi. Lưu thông tiền tệ là khâu quan trọng của việc thực hiện mục đích của nền sản xuất theo định hướng sản xuất hội chủ nghĩa. Lưu thông tiền tệ thông suốt với tốc độ nhanh có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Là khâu quan trọng để đẩy mạnh giao lưu kinh tế, kỹ thuật với bên ngoài. c/ Khi nghiên cứu, vận dụng học thuyết giá trị thăng dư vào sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phải quán triệt tư tưởng của Ăng nghen, đó là: phải đặt trong mối quan hệ giữa cái “bất biến” và cái “khả biến” trong việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư. Cái bất biến chính là tính khoa học bền vững của lý luận giá trị thặng dư, nhưng tính khoa học đó cần phải được vận dụng sáng tạo và phải đặt trong những điều kiện lịch sử nhất định của thực tiễn sinh động (tức là cái khả biến). Hay như Lênin đã căn dặn rằng: Chúng ta không hề coi lý luận của Marx như là cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phát triển hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Như vậy chính những người sáng lập và đặt nền móng cho sự tồn tại của chủ nghĩa Marx- Lênin cũng đã chỉ dẫn và nhắc nhở chúng ta cần phải nghiên cứu, xem xét, bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Marx nói chung, lý luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những điều kiện, những mối quan hệ hiện thực cụ thể, chứ không phải vận dụng nó một cách máy móc, khô cứng hay để phê phán, phủ nhận nó… Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng, phải khẳng định rằng, điều đó không có nghĩa là lý luận giá trị thặng dư không còn giá trị, mà sự thật đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận giá trị thặng dư nói riêng, chủ nghĩa Marx - Lênin nói chung vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta. Thật vậy, Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau (đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, ở nước ta còn tồn tại 3 hình thức sỏ hữu và 4 thành phần kinh tế). Mặt khác, kinh tế tư nhân được Đảng và Nhà nước ta khuyến khích phát triển: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế”3, “phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các nghành, các lĩnh vực… Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”4. Tuy nhiên cần khẳng định phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa thông qua luật pháp và hàng loạt công cụ, chính sách, nó không hoàn toàn là kinh tế tư nhân theo đúng nghĩa của nó nữa. Nhiều học giả cho rằng: Về mặt chính trị, đại diện cho kinh tế tư bản tư nhân là giai cấp tư sản. Kinh tế tư bản tư nhân và giai cấp tư sản là một thực thể gắn liền với chủ nghĩa tư bản và chỉ tồn tại trong điều kiện có sự tồn tại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta, sự xuất hiện và phát triển các loại hình doanh nghiệp của tư nhân không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của quan hệ sản xuất TBCN và giai cấp tư sản; Về kinh tế, các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo Luật Doanh nghiệp ở nước ta, kể cả doanh nghiệp quy mô lớn, là một bộ phận quan trọng của quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa, được hình thành và phát triển trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được Nhà nước khuyến khích và bảo vệ, không hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Do đó, ở Việt Nam hiện nay không có kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu và bóc lột giá trị thặng dư, do quy luật giá trị thặng dư chi phối Như vậy, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay không hề phủ nhận lý luận giá trị thặng dư, mà ngược lai, lý luận giá trị thặng dư của Marx vẫn giữ nguyên giá trị. Đồng thời, nghiên cứu vận dụng Học thuyết giá trị thặng dư vào phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần chú ý một số vấn đề sau đây: Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Bởi lẽ trong thời kỳ quá độ quan hệ sản xuất cũ chưa bị thủ tiêu hoàn toàn và quan hệ sản xuất mới chưa thể chiến thắng toàn diện. Do vậy, càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó Hai là, phải biết khai thác những di sản lý luận của học thuyết giá trị thặng dư để đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Học thuyết giá trị thặng dư của Marx được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch sử nền sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao dưới chủ nghĩa tư bản. Cho nên chính C. Marx chứ không phải ai khác, là một trong những nhà nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Mặc dù nền kinh tế hàng hóa ở nước ta có tính đặc thù của nó (sản xuất nhỏ, đang từng bước vươn lên sản xuất lớn…), song đã là kinh tế hàng hóa thì ở đâu cũng đều có tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Cho nên việc nghiên cứu những công cụ, chính sách làm tăng gía trị và giá trị thặng dư cho xã hội tư bản có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn to lớn đối với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt là nghiên cứu 2 phương pháp bóc lột giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản mà C. Marx đã chỉ ra để từng bước áp dụng, đổi mới khoa học công nghệ, đào tạo và đào tạo lại tay nghệ người lao động.. .từng bước nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, để hàng hóa nước ta đủ sức cạnh tranh trên thị trường cả trong và ngoài nước vươn lên phát triển nền kinh tế hàng hóa lớn. Ba là, trong đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay, để thực hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta cần khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, theo phương châm: ai làm giàu hợp pháp thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh, ai làm giàu bất hợp pháp thì bị xử phạt thông qua các công cụ, chế tài và pháp luật của Nhà nước. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt chống thất thu thuế, mặt khác bảo đảm sự “công bằng” thông qua điều tiết thu nhập xã hội thông qua các "kênh" phân phối lại , nhất là sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các quỹ phúc lợi xã hội của cả chính phủ và các tổ chức, các nhân phi chính phủ trong và ngoài nước. Bốn là, khai thác giá trị lý luận của C. Marx nói về quá trình tổ chức sản xuất và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với quá trình xã hội hóa ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng gái trị thặng dư ngày càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên, đặc biệt là về mặt tổ chức- kinh tế, vận dụng vào phát triển nền kinh tế nước ta thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất theo hướng sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. d/ Vận dụng học thuyết Keynes. Trước hết, cần khẳng định quan điểm về mô hình phát triển kinh tế ở nước ta đã được xác định qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước ta là hết sức quan trọng, qua đó để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường và để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở vận dụng học thuyết Keynes và những lý luận kinh tế mới nhất về kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nhà nước cần thiết phải tích cực và chủ động tác động vào nền kinh tế, qua đó để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới đang tác động tiêu cực tới nước ta thì vai trò đó càng trở nên cấp thiết. Việc tác động vào nền kinh tế của Nhà nước cần được thực hiện một cách đồng bộ trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, riêng về việc sử dụng các công cụ tài chính – tiền tệ, chúng ta cũng đã có những nhận thức và vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. e/ Vận dụng học thuyết chủ nghĩa tự do mới (Tân tự do). Trước những cổ súy cho toàn cầu hóa và những luận điểm “nguy hiểm” của chủ nghĩa tự do mớinhằm đề cao vai trò và quyền lợi của các tập đoàn tư bản tài phiệt, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những đối sách phù hợp và sự vận dụng hết sức linh hoạt: Chúng ta đã xác định phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi”. Là nước đi sau do những hoàn cảnh lịch sử, chúng ta rất xem trọng học tập và tiếp thu những thành tựu của các quốc gia đi trước một cách có chọn lọc và vận dụng thích hợp với tình hình thực tế của nước ta. Vì vậy, trước những luận thuyết kinh tế mới chúng ta phải thận trọng cân nhắc, biết chọn lọc cái đúng, gạt bỏ cái sai, không phủ định hết cũng không học tập một cách giáo điều. Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa, Nhà nước Việt Nam chủ trương sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các doanh nghiệp tư bản nước ngoài nên cần giảm mạnh những doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ và tập trung hơn vào các ngành và lĩnh vực then chốt. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục giữ vai trò nồng cốt trong toàn bộ nền kinh tế đất nước, đáp ứng cơ bản những yêu cầu về quốc phòng và an ninh, về những dịch vụ công ích hướng về người nghèo. Nhà nước giữ cổ phần chi phối trong những doanh nghiệp quan trọng với quốc kế dân sinh. Chúng ta cổ phần hóa chứ không tư hữu hóa, kiên quyết chống lại những khuynh hướng lệch lạc nhằm biến cổ phần hóa thành tư hữu hóa. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, chứ không dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Khi chủ nghĩa tự do mới ráo riết đòi “người sử dụng phải trả tiền” hoặc chính sách “thu hồi chi phí”, Nhà nước Việt Nam đã có chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và rất xem trọng chính sách đối với người nghèo. Hàng loạt các chương trình đã ra đời và đi vào cuộc sống như xây dựng nhà tình thương cho người nghèo không đủ tiền để xây nhà; xây dựng nhà tình nghĩa cho người thân của các liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc; khám chữa bệnh miễn phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi; giảm 50% học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật; miễn 100% học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật thuộc diện hộ nghèo; học sinh dân tộc thiểu số thuộc diện nghèo; học sinh mồ côi cha mẹ, mồ côi cha hoặc mẹ mà người còn lại không đủ khả năng nuôi dưỡng; học sinh bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng. Đó là những cố gắng hỗ trợ thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho những học sinh nghèo trong hoàn cảnh một nước nghèo như Việt Nam mà chuẩn nghèo mới đối với khu vực thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng (trước đây là 150.000 đồng/người/tháng); đối với khu vực nông thôn là dưới 200.000 đồng/người/tháng (trước đây là 80.000 – 100.000 đồng/người/tháng). Khi chủ nghĩa tự do mới muốn lôi cuốn Việt Nam vào nền kinh tế thị trường không hạn chế, tất cả để cho “bàn tay vô hình của thị trường” xếp đặt, Nhà nước ta chủ trương một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Khi chủ nghĩa tự do mới lấy cạnh tranh làm động lực duy nhất, Nhà nước ta chủ trương nâng cao sức cạnh tranh đi đôi với đoàn kết và thi đua xã hội chủ nghĩa, không phải là cạnh tranh bóp chết đối thủ để tìm kiếm siêu lợi nhuận. Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa dịch vụ xã hội, Nhà nước ta khuyến khích tăng cường các dịch vụ cho người nghèo thông qua đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa trong hai lĩnh vực y tế và giáo dục đào tạo. Khi chủ nghĩa tự do mới đòi hỏi “lao động linh hoạt” buộc công nhân làm thêm 400 – 500 giờ một năm, Nhà nước ta nhận thấy làm thêm cũng là cần thiết trong sản xuất thời vụ hoặc khi đến thời điểm giao hàng… nhưng khống chế trong phạm vi 200 giờ một năm đi kèm trả công làm thêm và các chế độ khác. Người lao động trong các doanh nghiệp bị phá sản mà có đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo mức lương cũ và được điều chỉnh tăng thêm 10%. Khi chủ nghĩa tự do mới yêu cầu tự do hóa lĩnh vực tài chính – ngân hàng, Nhà nước ta rất thận trọng bởi đây là vấn đề sinh tử của quốc gia. Những hoạt động mua bán cổ phần của các Ngân hàng, tập đoàn tài chính nước ngoài đối với các ngân hàng Việt Nam đều phải thông qua sự giám sát và chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Chẳng hạn như những trường hợp bán cổ phần của Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) trong những năm qua đã được nghiên cứu rất kỹ trước khi có quyết định. KẾT LUẬN CHUNG Trong hành trình phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội, không chỉ riêng vấn đề tài chính, tiền tệ, tín dụng, ngân hàng mà còn nhiều vấn đề khác trong lĩnh vực kinh tế xã hội đã gặp phải rất nhiều khó khăn và thử thách. Tuy nhiên dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta đã dẫn dắt cả nước đi đến được những thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Theo định hướng của Đảng và Chính phủ, kinh tế nước cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lấy lý thuyết về quản lý kinh tế tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng của chủ nghĩa Marx làm cơ sở cho mọi hành động để phát triển kinh tế thị trường. Bởi nội dung trong học thuyết của Marx là sự đúc kết những ưu điểm, và khai triển đến mức hoàn thiện để vận dụng tốt vào trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đương thời. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành vào trong thực tiễn nước nhà, Nhà nước cũng đôi lúc vấp phải những sai lầm trong việc nhìn nhận được bản chất vấn đề tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam nên thời kỳ trước đổi mới, tài chính tiền tệ vẫn chưa ổn định, chưa theo sự biến đổi của thị trường và các lực lượng tham gia kinh tế nên cơ bản kinh tế còn trì truệ. Hơn nữa, lúc bấy giờ vai trò của Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng vẫn còn chưa được coi trọng. Nhưng có sai lầm có sữa đổi, vận dụng tốt các học thuyết kinh tế, trả lại sự tự do cho nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết, kiểm soát và can thiệp khi cần thiết vào kinh tế quốc gia, tình hình tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng dần dần đi vào ổn định và phát triển. Với mục tiêu ban đầu của bài nghiên cứu, bài viết đã thống kê được những lý thuyết chủ yếu trong các học thuyết kinh tế từ xưa đến nay đề cập đến vấn đề tài chính, tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, từ đó phân tích thực trạng của Việt Nam từ giải phóng đến nay đã đạt được và chưa đạt được gì. Bài viết cũng đã đưa ra được cái nhìn tổng quan về phương pháp vận dụng và những điểm cần sửa đổi, tránh những sai lầm trong việc đưa ra những chính sách kinh tế trong những năm tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Tiến Dũng, Vũ Văn Nghinh, 2010, “Lịch sử học thuyết kinh tế”, NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh. PGS.TS Nguyễn Viết Thông (chủ biên), 2012, “Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia. TS. Lê Minh Nghĩa, TS. Phạm Văn Sinh, 2010, “Hỏi và đáp môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, NXB. Chính trị quốc gia. TS. Nguyễn Viết Thông (Tổng chủ biên), 2009, “Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Marx – Lênin”, NXB. Chính trị quốc gia Nguyễn Quang Hạn, 2008, “Kinh tế chính trị Marx-Lênin”, Ebook (Website: Hà Thủy Nguyên, 2013, “Những ngộ nhận về học thuyết Marx”, Book hunter Club (Website: Các trang web khác…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchi_nh_sa_ch_ta_i_chi_nh_tie_n_te_ti_n_du_ng_ngan_ha_ng_qua_ca_c_ho_c_thuye_t_kinh_te__2811.doc
Luận văn liên quan