Đề tài Công tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, đầu tư luôn là một vấn đề quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng không năm ngoài xu thế này. Hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam đang từng bước phát huy những hiệu quả to lớn: tạo đà tăng trưởng, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống dân cư, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Với những dự án đầu tư phát triển có giá trị thực hiện lớn, đòi hỏi kỹ thuật cao, yêu cầu về an toàn lao động được đặt lên hàng đầu thì nhất thiết phải tiến hành đấu thầu để giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng và tạo ra hiệu quả đầu tư. Cho đến nay, đấu thầu đã khẳng định được những ưu điểm và trở thành một hoạt động phổ biến mang tính chuyên nghiệp cao ở hầu hết các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế nước ta, ngành than đóng vai trò là ngành kinh tế trọng điểm, cung cấp nhiên liệu cho hoạt động của các ngành công nghiệp khác như: ngành điện, giấy, xi măng Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam là một tập đoàn của Nhà nước, có quyết định thành lập ngày 28/12/2005 trên cơ sở Tập đoàn Than Việt Nam và Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam . Các dự án TKV thực hiện đều là các dự án có vốn đầu tư lớn, có vai trò quan trọng trong sự phát triển của quốc gia. Do vậy tiến hành đấu thầu là nhu cầu tất yếu để đảm bảo chất lượng công trình cũng như thời gian hoàn thành dự án, đồng thời góp phần tiết kiệm cho NSNN. Đề đảm bảo mục tiêu là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì hoạt động đấu thầu cần tuân thủ các nguyên tắc công bằng, cạnh tranh, minh bạch và công khai. Với mục đích tìm ra những giải pháp nhằm phát huy những kết quả đạt được và hạn chế những tồn tại của công tác tổ chức đấu thầu tại TKV, tôi lựa chọn đề tài: “Công tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam . Thực trạng và giải pháp.” Trong khuôn khổ đề tài, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về Đấu thầu, cùng việc nghiên cứu công tác tổ chức đấu thầu tại TKV, tôi muốn đưa ra những nhận định, đánh giá mang tính chủ quan về thực trạng tổ chức đấu thầu tại TKV, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài được trình bày trong hai chương: Chương I: Thực trạng công tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam . Chương II: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam . Mặc dù đã được tham khảo nhiều tài liệu cũng như sự hướng dẫn nhưng cũng không tránh được những sai sót trong các vấn đề đưa ra. Em rất mong có sự đóng góp của thầy cô để đề tài nghiên cứu được chính xác và có tính khoa học cao hơn.

doc76 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2447 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đấu thầu do đó Tổ chuyên gia đấu thầu được thành lập với thành phần là các chuyên gia ngoài sự am hiểu về pháp luật liên quan đến đấu thầu còn phải có sự am hiểu về kĩ thuật – công nghệ, tài chính, thương mại. Ngoài những gói thầu được tổ chức trong nước, TKV còn tiến hành đấu thầu quốc tế. Đây là cơ hội tiếp xúc với các nhà thầu của các quốc gia có trình độ phát triển cao giúp cán bộ đấu thầu của TKV được học tập, tích lũy kinh nghiệm để nâng cao khả năng. Năng lực cán bộ phụ trách đấu thầu ngày càng được nâng cao phục vụ mục đích đầu tư có hiệu quả chính là tiền đề cho sự phát triển của Tập đoàn. Sở dĩ như vậy nên hiện nay TKV còn tiến hành đưa cán bộ quản lý đi tu nghiệp ở nước ngoài. Đây là biện pháp tích cực cần được phát huy. 1.3.1.3                         Quy trình tổ chức đấu thầu được thực hiện nghiêm túc Quy trình đấu thầu được thực hiện nghiêm túc thể hiện ở việc tuân thủ pháp luật về Đấu thầu, các quy định về thời gian đấu thầu, các quy định về thông tin đấu thầu đều được đảm bảo. Các văn bản liên quan như kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời tuyển, danh sách nhà thầu trúng sơ tuyển, HSMT và tiểu chuẩn đánh giá HSDT, kết quả đấu thầu.. được soạn thảo theo mẫu ban hành của Bộ Kế hoạch Đầu tư và được tổ chức có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt phù hợp với quy định của Luật Đấu thầu cũng như quy định của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của TKV cùng Quyết định phân công nhiệm vụ các thành viên Ban lãnh đạo điều hành Tập đoàn TKV. Quá trình chấm thầu cũng được thực hiện nghiêm túc, HSDT được từng cá nhân tổ chuyên gia đánh giá độc lập sau đó mới được tổng hợp thành kết quả đấu thầu. Phương pháp tiến hành như trên đảm bảo sự khách quan của công tác chấm thầu. Đặc biệt quá trình tổ chức đấu thầu được thực hiện thông qua nhiều cấp từ các đơn vị thành viên, các công ty con đến các ban kiểm chức năng của Tập đoàn rồi mới được sự phê duyệt của Tổng giám đốc hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị của Tập đoàn. Quy trình tổ chức như trên đã đảm bảo cho công tác đấu thầu được rà soát kĩ lưỡng, đảm bảo thực hiện nghiêm túc. Tuy nhiên một hạn chế nảy sinh đó là thủ tục thẩm định, phê duyệt rườm rà có thể phát sinh những chậm trễ trong thông tin, và cả chậm trễ trong quá trình đầu tư.  1.3.1.4         Tạo được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu, nâng cao uy tín của Tập đoàn Bản thân hoạt động đấu thầu được thực hiện để tạo môi trường cạnh tranh nhằm đem lại hiệu quả cho hoạt động đầu tư. Tuy nhiên nếu chỉ sự dụng các hình thức như chỉ định thầu, tự thực hiện thì vai trò của hoạt động đấu thầu không thể được phát huy. Trong Luật Đấu thầu quy định “các gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp có giá gói thầu dưới một tỷ đồng thuộc dự án đầu tư phát triển; gói thầu mua sắm hàng hóa có giá gói thầu dưới một trăm triệu đồng thuộc dự án hoặc dự toán mua sắm thường xuyên” sẽ tiến hành chỉ định thầu, do vậy đã xảy ra hiện tượng các chủ đầu tư tiến hành chia nhỏ các gói thầu để tiến hành chỉ định thầu. Hiện tượng này đang từng bước được loại bỏ tại TKV, tỷ lệ các gói thầu sử dụng hình thức đấu thầu tự thực hiện và chỉ định thầu giảm dần qua các năm 2006, 2007, 2008 tương ứng 39,5%; 37,8% và 30,4% tổng số gói thầu TKV tổ chức đấu thầu góp phần đảm bảo sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Bảng 1.14: Số lượng gói thầu TKV tổ chức đấu thầu 2006-2008 Đơn vị: Gói thầu Năm Hình thức lựa chọn nhà thầu 2006 2007 2008 1. Rộng rãi 188 208 101 2. Hạn chế 12 8 47 3. Chỉ định thầu, Tự thực hiện 275 492 288 4. Chào hàng cạnh tranh 162 512 193 5. Mua sắm trực tiếp 53 80 120 Tổng số gói thầu 690 1300 749 (Nguồn: TKV) Môi trường cạnh tranh trong đấu thầu ở TKV còn được thể hiện ở công tác soạn thảo HSMT. Với mục đích tổ chức đấu thầu để chọn ra nhà thầu có đủ năng lực và đáp ứng tốt nhất yêu cầu của gói thầu, TKV luôn mong muốn có sự tham gia của nhiều nhà thầu. Tổ chuyên gia tiến hành soạn thảo HSMT trên cơ sở tạo điều kiện tối đa để các nhà thầu có đủ năng lực được tham gia dự thầu. Hình thức chào hàng cạnh tranh hoặc đấu thầu rộng rãi trong nội bộ TKV chỉ được áp dụng với trường hợp “Các công trình sửa chữa phục hồi, nâng cấp thiết bị chuyên ngành, nếu không đủ năng lực thì phải tổ chức đấu thầu rộng rãi theo quy định của Luật đấu thầu”. Từ đó, môi trường cạnh tranh được đảm bảo, công tác tổ chức đấu thầu của TKV đã phát huy hiệu quả cao. Trên cơ sở đó, các nhà thầu tham gia đấu thầu luôn được cạnh tranh bình đẳng để giành quyền thực hiện gói thầu với chất lượng cao nhất. Hoạt động đầu tư phát triển với chất lượng đầu tư cao đã ngày càng đem lại. 1.3.2       Những tồn tại và nguyên nhân Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thông qua tổ chức đấu thầu thì hiện nay tại TKV vẫn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục để phát huy hiệu quả tối đa của quá trình tổ chức đấu thầu. 1.3.2.1            Những tồn tại và nguyên nhân mang tính chủ quan ·                    Thủ tục rườm rà Như đã trình bày ở trên, quy trình thủ tục tổ chức đấu thầu tại TKV hoàn toàn tuân thủ quy định của Luật Đấu thầu và các văn bản pháp luật có liên quan. Tuy nhiên các thủ tục trình thẩm định, phê duyệt nhìn chung khá rườm rà, phải qua nhiều cấp. Điều này ảnh hưởng khá nhiều đến sự chủ động của các đơn vị, nếu  trong quá trình thẩm định phê duyệt các văn bản chưa đạt yêu cầu lại phải chuyển xuống các đơn vị thành viên hoặc các công ty con để sửa đổi. Trong quá trình tổ chức đấu thầu có rất nhiều văn bản, đặc biệt với các gói thầu có giá gói thầu lớn, kĩ thuật phức tạp thì vấn đề thủ tục rườm rà sẽ là một trở ngại lớn, làm giảm hiệu quả của công tác đấu thầu, làm gia tăng thời gian, nhân lực và chi phí. Tuy nhiên hạn chế này có thể được khắc phục nếu có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban. ·                     Năng lực cán bộ quản lý và trực tiếp thực hiện công tác tổ chức đấu thầu chưa đồng đều TKV tiền thân là Tổng công ty Than Việt Nam thành lập năm 1994, là một tổng công ty của nhà nước, với điều lệ hoạt độn và cơ cấu nhân sự đặc trưng của doanh nghiệp nhà nước đó là chế độ biên chế (một cá nhân khi đã vào biên chế sẽ không bị sa thải). Cơ chế này nhìn chung khá bất cập bởi nó làm giảm tính cạnh tranh trong công việc từ đó hạn chế hiệu quả làm việc của các cá nhân. Hơn nữa từ khi bắt đầu tiến hành tổ chức đấu thầu, một số cán bộ của TKV được cử đi học các khóa huấn luyện, đào tạo về đấu thầu. Cho đến này các cán bộ này đã lớn tuổi song lại chưa đến tuổi về hưu, và vẫn tham gia các hoạt động đấu thầu của Tập đoàn, điều này tác động đáng kể đến hiệu quả của công tác tổ chức đấu thầu. Mặt khác TKV là một trong những Tập đoàn kinh tế lớn nhất của Việt Nam hiện nay, lĩnh vực đầu tư rất rộng (kể cả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài). Hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên trải dài suốt từ Bắc vào Nam, do đó việc phổ biến, tuân thủ các quy định về đấu thầu gặp không ít khó khăn. Trình độ của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu chưa đồng đều, đặc biệt tại những khu vực không thuận lợi về cơ sở hạ tầng. Nhìn chung là năng lực của cán bộ phụ trách đấu thầu có được nâng cao trong thời gian qua song vẫn tồn tại những hạn chế bởi công tác đào tạo còn nhiều bất cập. Các khóa huấn luyện, đào tạo về đấu thầu được TKV ký hợp đồng với các cơ sở đào tạo. Các cơ sở đào tạo này nhìn chung thường không chú trọng đến việc trang bị kĩ năng nghiệp vụ cho người học cũng như công tác quản lý các học viên. Chất lượng các khóa học chủ yếu thường phụ thuộc vào ý thức của từng học viên. Cá biệt có một số học viên không có thời gian tham gia các lớp học xong đến cuối khóa học vẫn được cấp chứng chỉ. Đồng thời giảng viên cùng chương trình giảng dạy của các cơ sở này không có cơ quan nào quản lý do vậy có những giảng viên hợp đồng chưa đảm bảo chất lượng làm giảm hiệu quả của khóa học. Các khóa học chỉ thường dừng lại ở mức độ giảng viên trình bày các điều trong Luật đấu thầu và nghị định hướng dẫn, thường không mở rộng việc giải thích về bản chất cũng như giải đáp các thắc mắc của học viên. ·                    Chất lượng của một số công việc chuẩn bị cho đấu thầu tại cấp đơn vị còn thấp Các công việc chuẩn bị cho đấu thầu thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của các đơn vị thành viên, các công ty con. Chất lượng yếu kém trong công tác chuẩn bị có ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ quá trình tổ chức đấu thầu của cả Tập đoàn. -        Công tác lập kế hoạch đấu thầu Tổ chức soạn thảo kế hoạch đấu thầu ở một số đơn vị còn chưa thực hiện đúng quy trình, căn cứ lập kế hoạch chưa đầy đủ, việc tính toán các chi phí chưa đầy đủ khiến giá gói thầu không đảm bảo tính chính xác. Cá biệt có trường hợp phải tiến hành đấu thầu lại do không có nhà thầu nào trúng thầu và đến lần đấu thầu thứ hai đã phải tiến hành điều chỉnh tổng dự toán, gây ra tổn thất về thời gian. -        Công tác soạn thảo HSMT Lập HSMT là một bước quan trọng trong việc quyết định lựa chọn nhà thầu. Hiện nay, đội ngũ cán bộ đấu thầu ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng song một số trường hợp HSMT vẫn gặp phải những sai sót, hạn chế sau: Ø     Các tiêu chuẩn kĩ thuật của HSMT còn chung chung, thiếu chi tiết, thiếu các thông tin về tiêu chuẩn kĩ thuật và giá cả. Ø     Tiên lượng mời thầu chưa chính xác, hoặc được tính toán trên thiết kế kĩ thuật trong điều kiện công tác khảo sát, thiết kế chưa kĩ càng. Ø     Các tài liệu khảo sát, thiết kế kĩ thuật phục vụ cho công tác đấu thầu chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kĩ thuật mà nhà nước quy định. Dẫn đến trong quá trình thi công, khối lượng thi công phát sinh lớn phải thay đổi tổng dự toán và tổng mức đầu tư. Ø     Việc quy định quá nhiều điều kiện tiên quyết để loại bỏ HSDT hoặc đưa ra yêu cầu quá cao gây khó khăn cho việc lựa chọn nhà thầu thậm chí dẫn đến việc không thể lựa chọn được nhà thầu trúng thầu theo yêu cầu. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu thống nhất giữa tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu nêu trong HSMT gây khó khăn cho việc đánh giá HSDT, không đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong đấu thầu vẫn tồn tại ở một số trường hợp. ·                    Công tác chấm thầu của các đơn vị còn chưa chính xác Tuy được tiến hành một cách khách quan song do năng lực còn hạn chế của tổ chuyên gia, việc đánh giá HSDT trong một số trường hợp chưa bám sát các yêu cầu cũng như tiêu chuẩn đánh giá nêu trong HSMT từ đó đưa ra các kết luận thiếu căn cứ xác đáng. Kiến nghị của tổ chuyên gia, tổ chức thẩm định nhằm xử lý các tình huống trong đấu thầu ở một số trường hợp chưa phù hợp với Luật Đấu thầu. Hạn chế của công tác chấm thầu còn xuất phát từ những hạn chế của HSMT đã trình bày ở trên, sự không thống nhất giữa tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu nêu trong HSMT đã gây ra khó khăn, cản trở mức độ chính xác của công tác chấm thầu. Điều này có thể khắc phục thông qua việc nâng cao năng lực cán bộ đấu thầu tại Tập đoàn từ đó nâng cao chất lượng công tác soạn thảo HSMT và tiêu chuẩn đánh giá HSDT cũng như chất lượng công tác chấm thầu. 1.3.2.2            Những tồn tại và nguyên nhân mang tính khách quan ·      Quy định của Luật Đấu thầu và các nghị định hướng dẫn còn nhiều vướng mắc. Các quy định về đấu thầu về cơ bản đã được thống nhất, tạo thuận lợi trong triển khai thực hiện. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện cho thấy vẫn còn một số hạn chế gây khó khăn trong thực hiện pháp luật về đấu thầu làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, cũng như cản trở hoạt động của doanh nghiệp. Nội dung HSMT phụ thuộc rất nhiều vào hình thức giao thầu và đặc điểm của gói thầu. Hiện nay trong Luật Đấu thầu chủ yếu mới chú trọng, quy định mẫu HSMT cho loại hình thi công xây dựng mà chưa quy định chi tiết cho các loại hình khác đang được áp dụng từng bước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như Tổng thầu thiết kế xây dựng mua sắm thiết bị xây dựng (EPC), Tổng thầu chìa khóa trao tay, Hợp đồng BTO, BOT… Đối với chỉ dẫn yêu cầu kĩ thuật trong HSMT trong đó quy định: “không được đưa ra các yêu cầu về thương hiệu hoặc nguồn gốc cụ thể của hàng hóa” song tiếp đó lại quy định “Trong trường hợp đặc biệt phải nêu nhãn hiệu, catalog của một nhà sản xuất nào đó để tham khảo, minh họa cho yêu cầu về mặt kĩ thuật”. Việc áp dụng quy định này trong thực tế gặp khá nhiều khó khăn do việc quy định chung chung cho “trường hợp đặc biệt”. Một hạn chế khác đang gây trở ngại cho công tác chấm thầu đồng thời làm giảm hiệu quả của hoạt động đấu thầu. Đó là hiện nay áp dụng phương pháp đánh giá HSDT dựa trên nguyên tắc: sau khi vượt qua điểm tối thiểu về đề xuất kĩ thuật thì nhà thầu trúng thầu là nhà thầu có giá dự thầu thấp nhất nhưng không vượt qua giá gói thầu được phê duyệt trong kế hoạch đấu thầu. Do đó các nhà thầu mong muốn nhận được hợp đồng làm việc đã bỏ thầu với giá thầu thấp hơn giá trị thực tế từ đó dẫn tới thiệt hại không chỉ về tài chính cho nhà thầu, mà còn thiệt hại cả về chất lượng công trình. ·      Quản lý nhà nước về đấu thầu còn thiếu chặt chẽ     Trong các lĩnh vực của hoạt động đầu tư nói chung và đấu thầu nói riêng, các cơ quan nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản lý, thanh tra, kiểm tra nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia và của cả nhà nước nói chung. Quản lý nhà nước thiếu chặt chẽ sẽ tạo cơ hội phát sinh các hành vi gian lận, làm giảm hiệu quả đầu tư, gây mất công bằng giữa các đối tượng dẫn tới những tranh chấp về lợi ích. Sở dĩ quản lý nhà nước về đấu thầu hiện nay còn thiếu chặt chẽ trước hết bởi các quy định của nhà nước tại Luật Đấu thầu và các nghị định hướng dẫn còn nhiều hạn chế gây khó khăn cho cả các đối tượng thực hiện cũng như các cán bộ nhà nước trong thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm; tiếp đó phải kể đến năng lực, trình độ, tư chất cá nhân của các cán bộ quản lý hiện nay. Để khắc phục hạn chế này, nhà nước cần có chính sách, biện pháp nhằm hoàn thiện hệ thống luật pháp đồng thời cải thiện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. ·      Năng lực trình độ của các nhà thầu chưa cao Đây là một trong những nguyên nhân là giảm hiệu quả của hoạt động đấu thầu. Theo quy định của Luật Đấu thầu và nghị định 58/2008/NĐ-CP thì nhà thầu phải vượt qua vòng đánh giá năng lực và kinh nghiệm trước thì HSDT mới được đánh giá khía cạnh kĩ thuật và khía cạnh tài chính thương mại. Có những trường hợp có rất nhiều nhà thầu nộp HSDT, song chỉ một hai nhà thầu lọt qua vòng đánh giá năng lực kinh nghiệm khiến cho việc đánh giá HSDT ở các vòng sau không còn đảm bảo tính cạnh tranh và hiệu quả. Bởi không phải nhà thầu nào đáp ứng đủ điều kiện tối thiểu về năng lực và kinh nghiệm cũng có phương án kĩ thuật và tài chính tốt nhất cho tất cả các gói thầu. Như đã trình bày ở trên thì năng lực của các cán bộ phụ trách đấu thầu không chỉ của TKV nói riêng mà của cả nước nói chung hiện này còn hạn chế về cả số lượng và chất lượng.  Điều này cản trở rất nhiều trong quá trình lập HSDT và cũng làm giảm khả năng trúng thầu của các nhà thầu do mức độ am hiểu về Luật Đấu thầu còn chế. Sự hạn chế trong năng lực của các nhà thầu còn biểu hiện ở khía cạnh tài chính. Năng lực tài chính của nhà thầu khi tham dự thầu là khả năng đảm bảo về vốn và các điều kiện tài chính của nhà thầu để có thể thực hiện phần công việc được giao. Cùng với giá bỏ thầu, đây là một trong những tiêu chí quan trọng giúp các chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực hoàn thành các phần việc đã đề ra trong HSMT. Một số nhà thầu tham gia dự thầu và trúng thầu song do năng lực tài chính của doanh nghiệp còn yếu kém đã dẫn tới việc tại thời điểm trúng thầu, năng lực của họ đảm bảo. Nhưng sau khi trúng thầu, năng lực tài chính họ không đủ, nợ nần chồng chất. Tiền đưa về được bao nhiêu thì các đơn vị thi công bị ngân hàng thu nợ. Mặt khác do những quy định của Luật Đâu thầu và nghị định hướng dẫn còn hạn chế, chúng ta thường áp dụng một số chỉ tiêu: doanh thu trung bình trong 3 – 5 gần kề (bằng 2 –3 lần giá trị gói thầu); lợi nhuận trong 3 –5 gần kề (không nhỏ hơn 0); độc lập về tài chính... Phương pháp đánh giá này còn đơn giản, mới chỉ đưa ra một vài chỉ tiêu về kết quả kinh doanh mà không xác định được khả năng huy động đủ vốn thực tế của nhà thầu để đảm bảo thi công công trình đúng chất lượng và tiến độ. Ngoài nguyên nhân phương pháp đánh giá chưa chính xác và toàn diện, sự thiếu trung thực của các số liệu tài chính trong hồ sơ kinh nghiệm nhà thầu cũng khiến các chủ đầu tư nhầm lẫn. Lẽ dĩ nhiên là nếu số liệu không chính xác thì chủ đầu tư có thể kết luận một nhà thầu yếu kém thành nhà thầu năng lực tốt hoặc ngược lại. Tính chính xác của số liệu hoàn toàn phụ thuộc vào độ trung thực của nhà thầu - một yếu tố rất khó để kiểm chứng. Thiết nghĩ, cần phải quy định các số liệu về giá trị còn lại chưa thực hiện của các hợp đồng, dự án (cả với nhà thầu chính và thầu phụ) mà nhà thầu đang và sẽ phải thi công trong khoảng thời gian dự án thi công của gói thầu dự thầu, phải được kê khai đầy đủ, trung thực và phải được các chủ đầu tư xác nhận đồng thời đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể để xét năng lực về máy móc, thiết bị của nhà thầu. Tránh tình trạng gói thầu nào nhà thầu cũng kê khai các thiết bị bất kể nó đang được bố trí thi công tại các dự án khác. Vẫn còn tồn tại hiện tượng các nhà thầu bỏ giá thầu thấp dưới giá thầu thực tế nhằm giành được hợp đồng. Sở dĩ có hiện tượng trên là do ở nước ta hiện nay đa số áp dụng phương pháp đánh giá HSDT dựa trên nguyên tắc: sau khi vượt qua điểm tối thiểu về đề xuất kĩ thuật thì nhà thầu trúng thầu là nhà thầu có giá dự thầu thấp nhất nhưng không vượt qua giá gói thầu được phê duyệt trong kế hoạch đấu thầu. Cá biệt với gói thầu tư vấn, lấy giá bình quân bỏ thầu của các nhà thầu đủ tiêu chuẩn đánh giá tài chính thương mại làm căn cứ xét thầu. Việc quy định phương pháp chấm thầu như trên đã dẫn tới nhiều nhà thầu thiếu việc làm, đã bỏ giá dự thầu thấp dưới mức giá thực tế. Tuy nhiên khi bắt tay vào thực hiện dự án mới thấy lỗ nặng, nhà thầu bèn tìm mọi cách kéo dài thời gian thực hiện (để giảm áp lực vốn đầu tư, giảm lãi vay ngân hàng...) rồi bớt xén vật tư các loại, thậm chí xin điều chỉnh phương án, giảm bớt hoặc thay đổi hạng mục công trình... Hiện tượng này gây ảnh hưởng  không chỉ về tài chính với nhà thầu mà còn ảnh hưởng tới chất lượng thực hiện gói thầu. Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam. 2.1             Mục tiêu, chiến lược phát triển của TKV 2.1.1       Quan điểm phát triển -    Phát triển trên cơ sở khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn tài nguyên than trong nước; đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và đáp ứng tối đa nhu cầu than phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. -    Phát huy cao độ nội lực kết hợp mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ tiến bộ trong thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng than; đầu tư cho công tác bảo vệ  môi trường, an toàn lao động, quản trị tài nguyên, quản trị rủi ro trong khai thác than. -    Đẩy mạnh các hoạt động điều tra, thăm dò, đánh giá trữ lượng than nhằm, kết hợp đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác. -    Phát triển ngành than gắn liền với bảo vệ, cải thiện môi trường, cảnh quan vùng than; đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng trên địa bàn,  đảm bảo an toàn trong sản xuất. 2.1.2       Mục tiêu phát triển -       Về thăm dò than: Đẩy mạnh công tác thăm dò gia tăng trữ lượng than xác minh và nâng cấp trữ lượng hiện có để bảo đảm đủ trữ lượng than tin cậy huy động vào khai thác trong giai đoạn 2008 – 2025. -       Về khai thác than: bể than Đông Bắc và các mỏ than khác (ngoài bể than đồng bằng sông Hồng) phấn đấu đạt sản lượng than sạch khoảng 48 – 50 triệu tấn vào năm 2010; 60 – 65 triệu tấn vào năm 2015; 70 – 75 triệu tấn vào năm 2020 và trên 80 triệu tấn vào năm 2025. -       Về sàng tuyển và chế biến than: phấn đấu đến năm 2015 phát triển chế biến than theo hướng đa dạng hóa sản phẩm (nhiên liệu đốt trực tiếp, than dùng cho luyện kim, khí hóa than, nhiên liệu lỏng từ than, nguyên liệu cho công nghiệp hóa chất v.v…). -       Về bảo vệ môi trường: phấn đấu đến năm 2010 cơ bản ngăn chặn được việc gây ô nhiễm môi trường và ô nhiễm các nguồn nước; đến năm 2015 cải thiện cơ bản các chỉ tiêu chính về môi trường tại các khu vực nhạy cảm (đô thị, khu dân cư, điểm du lịch v.v…), các mỏ phải đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường; đến năm 2020 đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn môi trường trên toàn địa bàn vùng mỏ. 2.1.3       Định hướng phát triển a. Về công tác thăm dò, khai thác than ở trong nước: Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong công tác thăm dò, khai thác với phương châm tập trung, đồng bộ. Đẩy mạnh công tác thăm dò gia tăng trữ lượng than xác minh, nâng cấp trữ lượng than hiện có, đánh giá sơ bộ tiềm năng than và lập kế hoạch cho các bước tiếp theo. b. Về công tác thăm dò, khai thác than ở nước ngoài Tăng cường đầu tư cho công tác thăm dò, khai thác than ở nước ngoài; lựa chọn các khu vực có tiềm năng trữ lượng và điều kiện khai thác thuận lợi ở các nước bạn Lào, Campuchia, châu Phi v.v… c. Về công nghệ khai thác than: -            Quy hoạch, thiết kế xây dựng mới, cải tạo mở rộng các mỏ hiện có theo hướng tập trung, công suất lớn với dây chuyền công nghệ đồng bộ và hiện đại. -            Sử dụng loại vật liệu mới để chống giữ và bảo vệ các đường lò trong điều kiện địa chất mỏ cho phép. -            Đổi mới đồng bộ và hiện đại hóa thiết bị dây chuyền khai thác theo hướng đưa vào sử dụng các thiết bị cơ động có công suất lớn, phù hợp với điều kiện và quy mô của từng mỏ. d. Về sàng tuyển và chế biến than Đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả các nhà máy tuyển hiện có; xây dựng thêm các nhà máy tuyển mới với công nghệ hiện đại. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chế biến than, bao gồm: chế biến than dùng cho luyện kim, khí hóa than, than hóa dầu v.v… nhằm đa dạng hóa sản phẩm từ than. e. Về công tác an toàn và bảo vệ môi trường: -       Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến kiến thức về an toàn lao động và bảo vệ môi trường đến mọi cán bộ, công nhân viên. -       Xây dựng kế hoạch và lộ trình dài hạn với các giải pháp đồng bộ nhằm giải quyết tốt các vấn đề về môi trường trong hoạt động khai thác than, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam , khu vực và thế giới. -       Kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn và môi trường, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, trình duyệt theo quy định hiện hành. -       Chú trọng đầu tư trang thiết bị công nghệ hiện đại, mức độ tự động hóa cao nhằm đề phòng và loại trừ các sự cố mỏ. 2.1.4       Định hướng công tác tổ chức đấu thầu -       Thực hiện nghiêm chỉnh quy định về các mốc thời gian trong đấu thầu từ khâu cung cấp thông tin, đánh giá, trình, thẩm định và phê duyệt các nội dung trong đấu thầu. -       Tăng cường vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư theo hướng tạo sự chủ động, linh hoạt trong việc tổ chức thực hiện đấu thầu. -       Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu. -       Đảm bảo thực hiện nghiêm túc yêu cầu về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định. -       Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát chặt chẽ hoạt động đấu thầu để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm pháp luật về đấu thầu. 2.2             Giải pháp về phía TKV 2.2.1       Quán triệt quy định của pháp luật về đấu thầu Như đã biết, TKV là một tập đoàn kinh tế nhà nước với số lượng đơn vị thành viên và công ty con khá lớn. Hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên trải dài suốt từ Bắc vào Nam, do đó việc phổ biến, tuân thủ các quy định về đấu thầu gặp không ít khó khăn. Trình độ của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu chưa đồng đều, đặc biệt tại những khu vực không thuận lợi về cơ sở hạ tầng. Do vậy trước hết, TKV cần tăng cường tổ chức nghiên cứu, quán triệt thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu, Nghị định số 58/2008/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn về đấu thầu. Việc quán triệt các quy định của pháp luật về đấu thầu là một việc làm cần thiết, là điều kiện tiên quyết cho hiệu quả của công tác tổ chức đấu thầu do vậy đây không chỉ là trách nhiệm của các lãnh đạo Tập đoàn mà mỗi đơn vị, mỗi cá nhân đều có nhiệm vụ phải nâng cao hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật về đấu thầu nói riêng. Mỗi đơn vị nên tiến hành các buổi nghiên cứu, trao đổi hướng dẫn thực hiện mỗi khi có nghị định hướng dẫn mới được ban hành, hoặc mỗi khi có chỉ thị của cấp lãnh đạo Tập đoàn, có như vậy thì những văn bản trên mới được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả.  Đồng thời có văn bản hướng dẫn các đơn vị thực hiện nghiêm chỉnh quy định về các mốc thời gian trong đấu thầu từ khâu cung cấp thông tin, đánh giá, trình, thẩm định và phê duyệt các nội dung trong đấu thầu nhằm đẩy nhanh tiến độ của dự án, bảo đảm chất lượng của dịch vụ, hàng hóa và công trình theo yêu cầu. Bên cạnh đó, Cán bộ TKV cần thực hiện nghiêm túc việc phân cấp trách nhiệm trong đấu thầu theo quy định. Tăng cường vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư theo hướng tạo sự chủ động, linh hoạt trong việc tố chức thực hiện đấu thầu.  Đồng thời mỗi cá nhân cần có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc quán triệt quy định của Luật Đấu thầu và nghị định liên quan của các thành viên khác trong đơn vị, thực hiện nguyên tắc “cùng làm, cùng bàn, cùng kiểm tra”. 2.2.2       Bồi dưỡng chất lượng cán bộ phụ trách đấu thầu Để cải thiện được thực trạng đấu thầu hiện nay vốn còn nhiều bất cập mà vấn đề cốt lõi nằm ở sự hạn chế về năng lực của nhân sự phụ trách đấu thầu. Do vậy trong thời gian tới, vấn đề chất lượng đào tạo phải được coi là nhiệm vụ quan trọng. Để làm tốt công việc này không có cách nào khác là phải nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên về đấu thầu đủ năng lực (giỏi về chuyên môn, có bề dày kinh nghiệm, có kiến thức thực tiễn và có khả năng truyền thụ); chương trình giảng dạy phải đổi mới, mang tính ứng dụng cao chứ không chỉ dừng lại ở mức trình bày lại Luật Đấu thầu và các nghị định hướng dẫn, đồng thời phải có những ví dụ minh họa, các tình huống và các xử lý tình huống để các học viên có thể nắm vững và áp dụng đúng các điều luật… Thiết nghĩ, nhà nước cần có những văn bản luật quy định về yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo, với  giảng viên, với chương trình học cũng như thời gian của khóa học để đảm bảo chất lượng truyền tải nghiệp vụ. Đồng thời phải tăng cường sự quản lý của các cơ quan nhà nước các cơ sở đào tạo này. Ở cấp Tập đoàn, lãnh đạo nên tổ chức định kì các cuộc kiểm tra năng lực với nhân sự trong đấu thầu. Đây sẽ là áp lực khiến mỗi cá nhân phải thường xuyên trau dồi kiến thức, không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm đồng thời nghiên cứu, xem xét những hạn chế của bản thân để tìm ra biện pháp tự nâng cao năng lực. Đặc biệt cần đổi mới cơ cấu tổ chức hoạt động của Tập đoàn từng bước theo hướng “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, xóa bỏ hình thức biên chế để thúc đẩy cạnh tranh trong môi trường làm việc, nâng cao năng lực cá nhân đem lại hiệu quả chung cho tất cả Tập đoàn, kiên quyết loại bỏ những cá nhân có biểu hiện suy đồi về đạo đức, những cá nhân có năng lực giảm sút cần có quyết định cho đi tham dự tập huấn hoặc chuyển công tác để đảm bảo hiệu quả cho công tác tổ chức đấu thầu. 2.2.3       Hoàn thiện từng khâu trong tổ chức đấu thầu tại cấp đơn vị •         Hoàn thiện việc soạn thảo kế hoạch đấu thầu Kế hoạch đấu thầu có vai trò vô cùng quan trọng với cả chủ đầu tư cũng như nhà thầu tham dự. Chủ đầu tư lập kế hoạch đấu thầu phân chia dự án thành các gói thầu để có định hướng nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng, chi phí và tiến độ thực hiện dự án. Với các nhà thầu, thông tin trong kế hoạch đấu thầu giúp họ có định hướng về các gói thầu mà mình có đủ năng lực tham gia từ đó có sự chuẩn bị cho quá trình dự thầu nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Quá trình tổ chức đấu thầu như một “dây chuyền”, từng khâu, từng bộ phận của dây chuyền có hoạt động tốt thì mới đảm bảo cả dây chuyền hoạt động tốt. Kế hoạch đấu thầu được nâng cao chất lượng soạn thảo sẽ là tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả của cả quá trình thực hiện đấu thầu.  Tại TKV việc soạn thảo kế hoạch do các đơn vị thành viên tiến hành do vậy để nâng cao chất lượng kế hoạch đấu thầu, TKV nhất thiết phải quán triệt biện pháp nâng cao chất lượng nhân sự đấu thầu tại các đơn vị thành viên như đã trình bày ở trên. Nhân sự có năng lực, kinh nghiệm soạn thảo kế hoạch đấu thầu hợp lý sẽ phát huy hiệu quả cao. Đồng thời kế hoạch đấu thầu được soạn thảo có chất lượng cũng góp phần làm giảm thời gian, nhân sự cho quá trình thẩm định và điều chỉnh. Do vậy lãnh đạo tập đoàn cần có chỉ thị chấn chỉnh việc lập, thẩm định và phê duyệt kế hoạch đấu thầu, lựa chọn hình thức hợp đồng không phù hợp với gói thầu dẫn đến phải điều chỉnh gây chậm trễ tiến độ, lãng phí tiền của Nhà nước; tránh phê duyệt kế hoạch đấu thầu cho từng gói thầu khi có đủ điều kiện để phê duyệt kế hoạch đấu thầu cho toàn bộ dự án. Để nâng cao chất lượng kế hoạch đấu thầu thì các công việc được tiến hành trước đó như  khảo sát, lập thiết kế kĩ thuật, tổng dự toán và dự toán cần được thực hiện kĩ càng thì việc phân chia các gói thầu, việc xác định giá gói thầu, hình thức hợp đồng và thời gian thực hiện mới đảm bảo tính chính xác. Ngoài ra để đảm bảo tính cạnh tranh trong đấu thầu, TKV cần từng bước giảm tối đa việc sử dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu mang tính hạn chế như chỉ định thầu và tự thực hiện. Đặc biệt cần quán triệt chỉ thị của chính phủ là không chia nhỏ các gói thầu để tiến hành chỉ định thầu. •         Nâng cao chất lượng HSMT Chất lượng HSMT đang từng bước được nâng cao, tuy nhiên như đã nêu trên trong phần hạn chế trong tổ chức đấu thầu tại TKV, cán bộ lãnh đạo Tập đoàn cần có phương hướng giải quyết để phát huy vai trò quan trọng của HSMT trong việc đưa ra những thông tin cơ bản cần phải đáp ứng của gói thầu để cung cấp cho bên dự thầu và cũng để tuyển chọn nhà thầu có đủ năng lực đảm nhận thi công gói thầu.  Trước hết vẫn là giải pháp về vấn đề nhân lực bởi nhân lực có vai trò quyết định chất lượng của các văn bản soạn thảo. Với các gói thầu đòi hỏi kĩ thuật cao, cần phải phân công cho các tổ chuyên gia có nhiều kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực của gói thầu từ đó đưa ra những tiêu chuẩn kĩ thuật cụ thể, chi tiết để định hướng cho các nhà thầu đồng thời cũng thống nhất và đem lại hiệu quả cho công tác chấm thầu. Trước khi soạn thảo HSMT cần tiến hành khảo sát, thiết kế kĩ càng tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kĩ thuật mà nhà nước quy định để tránh hiện tượng tiên lượng mời thầu không chính xác, sự phát sinh khối lượng thi công dẫn tới phải thay đổi tổng dự toán. Mặt khác, các cán bộ phụ trách soạn thảo HSMT cần tránh việc dựa dẫm quá nhiều vào mẫu HSMT mà Bộ Kế hoạch Đầu tư ban hành, tránh tư tưởng chỉ cần đảm bảo các nội dung trong mẫu ban hành là đảm bảo quy định của pháp luật. Những tiêu chuẩn đánh giá chung chung  không loại bỏ được HSDT ngay từ những vòng đánh giá sơ bộ và đánh giá năng lực kinh nghiệm gây ra những lãng phí trong nhân lực, thời gian cho cả nhà thầu tham gia cũng như tổ chuyên gia chấm thầu và chủ đầu tư. HSMT càng được chuẩn bị kĩ lưỡng thì các công việc lựa chọn và đánh giá HSDT càng được thực hiện nhanh chóng. Tuy nhiên cũng không nên quy định quá chi tiết khiến các nhà thầu có tâm lý không muốn tham gia dự thầu vì quá nhiều điều khoản, tiêu chuẩn. •        Chuẩn hóa hợp đồng Trong mọi hoạt động kinh tế thì hợp đồng chính là bản cam kết giữa các bên tham gia, trong hợp đồng nêu ra các quyền hạn và trách nhiệm của các bên nhằm thực hiện hoạt động kinh tế có hiệu quả đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Do vậy với riêng hoạt động đấu thầu thì hợp đồng giúp cho chủ đầu tư quản lý việc thực hiện gói thầu của nhà thầu, hợp đồng được chuẩn hóa là cơ sở giúp cho nhà thầu thực hiện nghiêm túc, không bỏ bê công việc, thực hiện gói thầu với chất lượng tiêu chuẩn, thời gian đã cam kết; nếu có vi phạm xảy ra đây là cơ sở để xử phạt cho cả hai bên. •        Nâng cao hiệu quả công tác chấm thầu Vai trò của tổ chuyên gia trong chấm thầu được xem như vai trò của “ban giám khảo” trong “cuộc thi”, “ban giám khảo” có sự am hiểu về lĩnh vực của “cuộc thi”, có kinh nghiệm, và đặc biệt phải có sự nghiêm túc, khách quan thì kết quả của “cuộc thi” mới thật sự chính xác, mới tìm ra được “thí sinh” ưu tú nhất. Việc lựa chọn các thành viên trong tổ chuyên gia cần được thực hiện nghiêm túc đảm bảo các yêu cầu tối thiểu quy định về nhân sự trong đấu thầu. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra hoạt động của tổ chuyên gia để kịp thời phát hiện những sai sót và khắc phục. Về cá nhân mỗi chuyên gia cần phải thực hiện nghiêm túc công tác xét thầu, phải bám sát các tiêu chuẩn đánh giá HSDT đã đề ra trong HSMT, tuân thủ các quy định của pháp luật. Các cá nhân của tổ chuyên gia nên chủ động thực hiện xét thầu trong thời gian nhanh để tránh những biến động xấu như giá cả tăng vọt, điều kiện của nhà thầu, quy định của luật pháp..tuy nhiên vẫn phải đảm bảo độ chính xác cao và tính khách quan. Ở một số cơ quan hiện nay đã tiến hành ứng dụng phần mềm xét thầu. Với phần mềm này, tổ xét thầu có thể hoàn tất việc xét hơn 100 gói thầu trong vòng 2 – 3 ngày, giảm chi phí trong xét thầu, tăng tính minh bạch, trong khi nếu xét thủ công phải mất 45 – 60 ngày và phải có sự tham gia của rất nhiều thành viên trong hội đồng xét thầu, đồng thời giảm được tình trạng phải chi hoa hồng. Từ đó kiến nghị TKV nghiên cứu đề xuất này từ đó xây dựng phần mềm xét thầu phù hợp với tình hình Tập đoàn, đặc biệt với các gói thầu có giá trị không lớn, kĩ thuật đơn giản. Mặt khác kế hoạch đấu thầu, HSMT, kết quả đấu thầu trước khi được trình thẩm định với cấp có thẩm quyền đã được lãnh đạo cấp đơn vị phê duyệt, từ đó kiến nghị các cấp đơn vị cần kiểm duyệt kĩ càng để giảm bớt gánh nặng cho ban Đầu tư Tập đoàn trong công tác thẩm định đồng thời nâng cao chất lượng từng khâu trong quá trình tổ chức đấu thầu. 2.2.4       Tăng cường sự phối hợp giữa các phòng ban TKV- một Tập đoàn kinh tế nhà nước với công ty mẹ gồm 19 đơn vị trực thuộc, 60 công ty con bao gồm: 23 công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty nhà nước do Tập đoàn sở hữu 100% vốn điều lệ; 22 công ty cổ phần do Tập đoàn sở hữu trên 50% vốn điều lệ và 5 đơn vị sự nghiệp. Việc phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban là việc làm hoàn toàn cần thiết để đảm bảo sự phát triển của cả Tập đoàn. Các phòng ban có phối hợp nhịp nhàng thì những vấn đề nảy sinh mới được giải quyết nhanh, triệt để đồng thời khắc phục những hạn chế về thủ tục rườm rà. Tuy nhiên để thực hiện được điều này không hề đơn giản, trước hết lãnh đạo Tập đoàn cần thương xuyên ban hành các quyết định hướng dẫn về định hướng, mục tiêu hoạt động của Tập đoàn cho từng giai đoạn, từng năm để các đơn vị có cái nhìn khách quan tổng thể. Sau đó ban hành các chỉ thị hướng dẫn chi tiết việc thực hiện từng mục tiêu và nhiệm vụ của từng đơn vị; phân công nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng phòng ban để không bị chồng chéo trong khâu quản lý, kiểm tra giám sát cũng như thực hiện. Các phòng ban cần có trách nhiệm hoạt động theo phương châm tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ đắc lực cho nhau vì sự nghiệp phát triển chung. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban sẽ giúp giảm tối đa thời gian, nhân lực và chi phí cho mội công việc. Ví dụ như trong công tác thẩm định các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức đấu thầu, các tổ chức thẩm định cần tạo điều kiện và chỉ dẫn cho các đơn vị thành viên khi các văn bản trên chưa hợp lệ để tránh hiện tượng phải điều chỉnh đi điều chỉnh lại, gây lãng phí thời gian và nhân lực. Mặt khác lãnh đạo Tập đoàn thường xuyên phải theo dõi hoạt động của các đơn vị, đưa đoàn các bộ đi thực tế để xem xét những vướng mắc ở mỗi phòng ban, đơn vị từ đó kịp thời đưa ra các giải pháp để cải thiện tình hình, tăng cường sự phối hợp giữa các phòng ban. Đồng thời tích cực khuyến khích tính tự chủ của các cá nhân trong việc thông báo về những vướng mắc, đề xuất những giải pháp hoàn thiện bộ máy tổ chức của Tập đoàn, hoàn thiện cơ chế làm việc nhằm giảm tối đa sự lãng phí về thời gian. 2.3             Kiến nghị về phía nhà nước và các cơ quan có liên quan 2.3.1       Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về đấu thầu Hệ thống pháp luật về Đấu thầu hiện nay ở nước ta cụ thể chính là Luật Đấu thầu và nghị định hướng dẫn đi kèm đang ngày càng được hoàn thiện thể hiện ở việc nghị định 58/2008/NĐ-CP đã được ban hành để bổ sung cho nghị định 111/2006/NĐ-CP về Hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng. Tuy nhiên trong nghị định vẫn còn nhiều hạn chế như đã nêu trên, làm giảm hiệu quả của công tác đấu thầu. Các cán bộ quản lý Nhà nước về Đấu thầu cần có những biện pháp để hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về Đấu thầu nhằm phát huy hiệu quả của một hoạt động chuyên nghiệp như hoạt động đấu thầu. Bộ Kế hoạch Đầu tư cần xem xét nghiên cứu có những quy định đơn giản hơn để giảm bớt thủ tục, đẩy nhanh quá trình đầu tư dự án. Như đối với gói thầu tư vấn có giá trị dưới 500 triệu đồng được áp dụng hình thức chỉ định thầu. Mà theo quy định hiện hành việc chỉ định thầu phải tuân thủ đầy đủ các bước từ: phát hành Hồ sơ yêu cầu, chuẩn bị Hồ sơ đề xuất, đánh giá Hồ sơ đề xuất, trình duyệt thẩm định và phê duyệt kết quả chỉ định thầu. Như vậy rất mất thời gian, đặc biệt với những gói thầu giá trị rất nhỏ, ít nhà thầu quan tâm cũng phải thực hiện đầy đủ quy trình trên làm chậm tiến độ đầu tư dự án. Theo điều 11 Luật Đấu thầu, đối với các gói thầu tư vấn thuộc ngành khai thác mỏ, việc tổ chức đấu thầu gặp không ít khó khăn vì chỉ có rất ít nhà thầu trong nước đủ năng lực tham gia, nhất là khi thời điểm xoá bỏ việc khép kín trong đấu thầu đã đến gần. Đề nghị Chính phủ ban hành quy định cho phép nhà thầu tư vấn lập Báo cáo nghiên cứu khả thi được tiếp tục tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập thiết kế kỹ thuật và thiết kế bản vẽ thi công. Việc hướng dẫn những vướng mắc phát sinh liên tục trong thực tiễn từ phía các cơ quan có thẩm quyền nhiều khi chung chung, không rõ ràng làm chủ đầu tư lúng túng. Đề nghị Bộ Kế hoạch Đầu tư xây dựng sớm ngân hàng dữ liệu xử lý những tình huống trong đấu thầu để các tổ chức, cá nhân có thể tra cứu liên tục để giảm bớt thời gian chờ hướng dẫn. Hiện nay, đối với các dự án không sử dụng nguồn vốn nhà nước, chủ đầu tư chỉ đưa ra thiết kế kỹ thuật, nhà thầu dựa trên cơ sở đó để tính toán và đưa ra giá bỏ thầu. Còn với các dự án sử dụng vốn nhà nước, dự toán và thẩm định dự toán vẫn được xây dựng. Con số dự toán đáng lẽ được giữ bí mật, nhưng thực tế là rất khó. Vì thế, đã xảy ra tình trạng nhà thầu không nghiên cứu cặn kẽ hồ sơ dự án, mà chỉ đưa ra giá bỏ thầu xung quanh mức dự toán. Điều này có thể làm nảy sinh nhiều tiêu cực trong đấu thầu các dự án đầu tư không xây dựng công trình. Chính vì vậy đề xuất về việc bỏ khâu xây dựng dự toán và thẩm định dự toán trong các bước chuẩn bị thực hiện dự án kiểu này. Mặt khác cần đơn giản hóa thủ tục hành chính có liên quan nhằm tạo môi trường thuận lợi cho công tác đầu thầu. Các Bộ, ngành và địa phương khẩn trương rà soát để sửa đổi, bãi bỏ các văn bản hướng dẫn thực hiện đấu thầu không phù hợp, trái với quy định của Luật Đấu thầu, Nghị định số 58/2008/NĐ-CP hoặc ban hành văn bản hướng dẫn mới phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu nếu thấy cần thiết. Các văn bản hướng dẫn về đấu thầu của Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp sau khi ban hành phải được gửi đến cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu để theo dõi quản lý. Đẩy mạnh công tác đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm túc yêu cầu về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định tại Luật Đấu thầu và Nghị định số 58/2008/NĐ-CP. Đồng thời Chính phủ và các Bộ ngành liên quan cần thường xuyên có các buổi thảo luận, các diễn đàn công khai để thu thập ý kiến đóng góp của các cá nhân, tập thể về các dự thảo luật của nhà nước nói chung và các bộ luật liên quan đến Đấu thầu nói riêng. Những ý kiến đóng góp như trên góp phần làm cho việc ban hành pháp luật được đi sát với thực tế, luật và nghị định sau khi ban hành sẽ có tính thực tiễn cao. 2.3.2       Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý đấu thầu của Nhà nước Cán bộ quản lý Nhà nước về đấu thầu không chỉ có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện đấu thầu mà còn có trách nhiệm đề xuất các giải pháp về quy định, chính sách với Nhà nước để môi trường pháp luật đấu thầu thêm thông thoáng, phát huy hiệu quả của hoạt động mang tính chuyên nghiệp này.  Để chất lượng công tác đấu thầu được nâng cao thì việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu rất cần thiết. Tuy nhiên với giải pháp “Tích cực thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm” trong đấu thầu đã nêu trên, một thực tế đặt ra là nếu cán bộ thanh tra không có nhận thức đúng đắn, kinh nghiệm, trình độ đồng thời không có đạo đức nghề nghiệp sẽ lại là trở ngại lớn, “nhũng nhiễu” gây cản trở hoạt động đấu thầu. Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước về đấu thầu trong một số dự án ở nhiều nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, ở các dự án nhỏ, ban quản lý dự án làm việc kiêm nhiệm, nên không có cán bộ chuyên môn cần thiết, khó hoàn thành nhiệm vụ được giao. Giải pháp đặt ra ở đây là Nhà nước trước hết cần lựa chọn những cán bộ có năng lực, có kĩ năng quản lý, có kiến thức bài bản về lĩnh vực mình quản lý, để tham gia vào bộ máy quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước về Đấu thầu nói riêng. Định kỳ phải có lớp, khóa học nhằm bồi dưỡng nghiệp vụ cũng như tư cách để không ngừng nâng cao chất lượng. Đồng thời phải không ngừng thanh lọc, kiểm tra và loại bỏ những cán bộ có sự suy giảm về năng lực, kiến thức và đạo đức. Mặt khác nên tranh thủ sự giúp đỡ, tài trợ của các tổ chức quốc tế và trong nước để xây dựng các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp ngành và chọn cử cán bộ, nhân viên, học sinh đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài để học tập nâng cao kĩ năng cũng như tiếp thu kinh nghiêm quản lý. Đặc biệt cần tuyên dương, khen thưởng các cán bộ có thành tích phát hiện các sai phạm trong tổ chức đấu thầu cũng như trong và sau quá trình thực hiện gói thầu từ đó khuyến khích các cá nhân tự kiểm tra công tác quản lý của ngay chính trong nội bộ cơ quan mình. 2.3.3       Minh bạch, công khai hóa thông tin đấu thầu Công tác đấu thầu luôn tiềm ẩn những tiêu cực, trong đó sự thiếu minh bạch là một nguyên nhân chính làm giảm tính cạnh tranh tranh trong đấu thầu, dẫn đến thất thoát trong đầu tư mua sắm ảnh hưởng đến nguồn lực của Nhà nước. Dưới sức ép của tiến trình hội nhập với những đòi hỏi sự minh bạch hóa, khắc phục những tồn tại tiêu cực, kéo dài thời gian, khép kín trong hoạt động đấu thầu, một trong các biện pháp hữu hiệu là cơ chế đấu thầu qua mạng Đấu thầu qua mạng đang được nhiều quốc gia xem như là một công cụ thúc đẩy sự minh bạch trong quá trình mua sắm từ nguồn tài chính công. Thông qua hệ thống thông tin đấu thầu qua mạng, các nhà thầu tiềm năng đều có quyền và cơ hội ngang nhau trong việc truy cập, tiếp cận mọi thông tin về đấu thầu để tham gia cạnh tranh một cách bình đẳng. Đến nay, đấu thầu qua mạng mới đang đạt ở mức có một trang thông tin điện tử về đấu thầu ở địa chỉ với các nội dung như kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu, tổ chức và cá nhân vi phạm bị xử lý... tuy nhiên phần lớn các thông tin được cập nhật chỉ dừng lại ở thông báo mời thầu, thông báo mời sơ tuyển (do quy định bắt buộc). Thực trạng này chỉ là bước đầu giúp tăng cường tính công khai minh bạch trong quá trình đấu thầu và bán cổ phần tại Việt Nam . Trong khi đó, đã từ khoảng hơn 10 năm trước việc đấu thầu trên mạng đã phát triển mạnh mẽ tại các nước Mỹ, Nhật Bản... và được xem là hình thức tìm nguồn hàng một cách nhanh nhất, rẻ nhất và ít tốn kém nhất. Ngày nay càng nhiều doanh nghiệp trong nước đã chọn mạng internet làm phương tiện giao dịch trong kinh doanh và mạng đã giúp không ít doanh nghiệp có được những hợp đồng quốc tế trị giá cả triệu USD mà không phải mất phí đi lại. Việc doanh nghiệp giành được hợp đồng triệu USD dưới hình thức đấu thầu qua mạng cho thấy, chất của chủ doanh nghiệp đã thay đổi và đủ điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng bởi đấu thầu qua mạng khác xa so với đấu thầu trực tiếp. Đấu thầu qua mạng đòi hỏi sự "cân não" của chủ doanh nghiệp. Thời gian thực hiện hợp đồng kéo dài 5-6 tháng nhưng cuộc đấu thầu tiến hành trên mạng internet chỉ diễn ra trong thời gian khoảng 30 phút. Trong 30 phút này, các bên tham gia đấu thầu không biết thông tin của nhau. Chỉ có chủ dự án biết thông tin về các đối tác tham gia đấu thầu. Để trúng thầu, điều cơ bản nhất là đưa ra mức giá hợp lý. Ngoài mức giá, còn phải hiểu biết về nguyên vật liệu, thiết kế sản phẩm và những thông số khác. Thực tế, việc tham gia đấu thầu quốc tế qua mạng internet của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dệt may đã được tiến hành từ nhiều năm qua và ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia bởi những lợi ích của nó đem lại như thuận tiện, nhanh chóng và ít tốn kém chi phí, thời gian. Đấu thầu quốc tế qua mạng không đơn giản chỉ là chuyện giá cả, doanh nghiệp muốn thắng thầu phải có nền tảng về uy tín, năng lực sản xuất và phải được khách hàng biết đến lai lịch từ trước. Điều đó cũng có nghĩa doanh nghiệp phải thực hiện tốt các yêu cầu về trách nhiệm xã hội đối với người lao động như thu nhập, môi trường và điều kiện làm việc của người lao động được đảm bảo, minh bạch về tài chính... Khi có đủ các yếu tố trên, các doanh nghiệp mới được chấp thuận tham dự đấu thầu và được đơn vị đặt hàng gửi đến những thông tin về mẫu hàng, mức giá thầu ban đầu và về ngày giờ, quy định của cuộc đấu thầu. Từ đó cho thấy đấu thầu qua mạng không chỉ góp phần năng cao tính minh bạch, công khai trong đấu thầu mà còn nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp. Trên đây là một số giải pháp kiến nghị với Tập đoàn và cả Nhà nước và các cơ quan có liên quan nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức đấu thầu tại TKV. Tuy nhiên không dừng lại ở đó, để quá trình cải thiện đem lại kết quả tốt nhất thì các giải pháp phải được thực hiện nghiêm túc, đồng bộ và đồng thời. Mọi cá nhân và đơn vị trong Tập đoàn cùng phải nỗ lực thì mới xây dựng được sự phát triển bền vững. 2.3.4       Tích cực thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm Với vai trò của mình là nâng cao hiệu quả của hoạt đồng đầu tư phát triển, hoạt động đấu thầu cần được thực hiện nghiêm túc, tuân thủ quy định của pháp luật. Năm 2008, Chính phủ đã có chỉ thị 27/2008/CT-TTg Về chấn chỉnh công tác đấu thầu sử dụng vốn nhà nước để khắc phục những tồn tại hạn chế, nhằm tăng cường hiệu quả của công tác đấu thầu, hiệu lực quản lý nhà nước. Trong đó thanh tra, kiểm tra là một chức năng quan trọng trong công tác quản lý nhà nước, nhằm đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đồng thời qua đó cũng phát hiện những điều bất hợp lý để kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn; và nhất thiết phải được chú trọng đúng mức. Các cơ quan nhà nước, các bộ ngành có liên quan cần tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch; tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất về quá trình thực hiện đấu thầu tại các cơ quan đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước hoặc những dự án trọng điểm; các cơ quan, đơn vị theo chức năng nhiệm vụ phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện của đơn vị mình, sớm phát hiện những sai sót để kịp thời chấn chỉnh và xử lý các trường hợp vi phạm. Đồng thời cần xây dựng thể chế và nghiên cứu khoa học; xây dựng lực lượng; đổi mới phương pháp chỉ đạo điều hành; tránh hiện tượng chồng chéo trong thanh kiểm tra… Tuy nhiên phải quán triệt thanh tra là để ngăn ngừa, ngăn chặn vi phạm, thúc đẩy quá trình giải ngân, tiến độ dự án và đảm bảo an toàn trong thi công chứ không phải thanh tra làm phiền hà, nhũng nhiễu, cản trở quá trình thi công của các đơn vị. Tăng cường công tác quản lý đấu thầu, kịp thời kiểm điểm, xử lý nghiêm cá nhân, tổ chức không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của pháp luật. Đặc biệt có biện pháp xử lý mạnh không cho tham dự gói thầu khác đối với các nhà thầu bị phát hiện thông đồng trong đầu thầu hoặc chuyển nhượng cho nhà thầu khác thực hiện hợp đồng sau khi trúng thầu. Trong trường hợp này chủ đầu tư kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp xử lý hành vi vi phạm. Trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, kiện toàn bộ máy từ Thanh tra Bộ đến Thanh tra các Cục để ổn định mô hình và hoạt động hiệu quả hơn. Đồng thời với đó, lực lượng thanh tra phải nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh tra các cấp. KẾT LUẬN Tầm quan trọng của đầu tư phát triển ngày càng được nâng cao ở mỗi quốc gia, đóng vai trò cốt lõi cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước đã kéo theo yêu cầu cấp thiết về việc đầu tư có hiệu quả. Việc tăng thêm lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra hoặc giảm chi phí để tạo ra cùng một đơn vị lợi ích đều là đầu tư có hiệu quả. Trong đó hoạt động đấu thầu là một trong những hoạt động thông qua sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu từ đó chọn ra phương án tối ưu nhằm giảm bớt sự lãng phí về vốn cho chủ đầu tư. Thực trạng hoạt động đấu thầu của TKV cho thấy lợi ích mà hoạt động này đem lại là không hề nhỏ và đang không ngừng được phát huy. Tuy nhiên cũng như hoạt động đấu thầu nói chung hiện nay của cả nước, hoạt động đấu thầu tại TKV cũng còn nhiều hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới nhằm phát huy tối đa hiệu quả của hoạt động đấu thầu, để đấu thầu trở thành hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao. Qua tìm hiểu về đấu thầu và hoạt động tổ chức đấu thầu tại TKV, từ những kết quả đã đạt được cùng những hạn chế còn tồn tại, tôi đưa ra những nhận định mang tính chủ quan đồng thời đề xuất những giải pháp với TKV nói riêng và các cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu nói chung đề khắc phục. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một đề tài nghiên cứu, đồng thời với hiểu biết và kinh nghiệm có han của bản thân, tôi rất mong sự đóng góp của thầy cô và các bạn đề đề tài được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam Thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan