Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty TNHH sản xuất – Xuất nhập khẩu Thiên Hoàng

Ngoài các giải pháp nêu trên, để thúc đẩy xuất khẩu chè công ty cần có những đổi mới cải cách toàn diện như sau: - Cải cách bộ máy hoạt động của công ty với các phòng chuyên trách, có sự phân công rõ rệt trách nhiệm cho từng người. - Đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có đủ khả năng đảm đương trọng trách. Có thể cử người ra nước ngoài để học tập, mời chuyên gia nước ngoài về hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cũng như trồng trọt. - Đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà xuởng kho bãi, phương tiện vận chuyển đảm bảo giảm tới mức tối thiểu chè thất thoát trong quá trình bảo quản, vận chuyển. - Nâng cấp hệ thống thông tin, nâng cấp hệ thống máy tính, điện thoại liên lạc để đảm bảo thông tin thông suốt, nhanh chóng, kịp thời. - Chú trọng đến đời sống của cán bộ công nhân viên công ty, có chế độ khen thưởng phúc lợi đầy đủ, gắn quyền lợi với trách nhiệm

doc79 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2947 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty TNHH sản xuất – Xuất nhập khẩu Thiên Hoàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
700 1.059.100 (Nguồn: phòng kinh doanh) Năm 2009 thị trường chè xanh vẫn xuất khẩu được với số lượng lớn giá cao, đặc biệt là chè xanh Mộc Châu và chè xanh Thái Nguyên, các khách hàng cũ vẫn thường xuyên liên lạc và đặt hàng với số lượng lớn. Năm 2009 công ty đã có 1 nhà máy sản xuất chè xanh với sản lượng 300 tấn/năm được đặt tại vùng nguyên liệu tiềm năng của tỉnh Sơn La, và một nhà máy chuyên sản xuất chè đen với sản lượng 500 tấn/ năm tại tỉnh Yên Bái. Để nâng cao giá trị xuất khẩu công ty tập trung vào mặt hàng chè xanh có giá trị xuất khẩu cao là một hướng đi đúng đắn. Tuy nhiên mặt hàng chè xanh xuất khẩu vẫn chưa ổn định, chè đen vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty Bảng 07: Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu qua các năm Đơn vị: USD Mặt hàng 2007 2008 2009 Chè xanh Mộc Châu 216.000 272.000 276.800 Chè xanh Thái Nguyên 170.000 209.160 272.000 Chè đen 341.600 392.000 464.800 Chè CTC 27.300 31.200 45.500 (Nguồn: phòng kinh doanh) Năm 2009 có sự đột biến trong xuất khẩu chè đen là do khách hàng đã tin tưởng vào chất lượng chè đen của công ty, nhu cầu về chè đen cũng tăng cao trong năm 2009 và công ty mở rộng được thị trường sang Nga với số lượng đặt hàng 100 tấn vào tháng 9/2009. Lượng chè xanh Thái Nguyên xuất khẩu giảm mạnh do nguồn hàng loại chè này không được ổn định và thị trường xuất khẩu loại chè này của công ty còn hạn chế. 2.2.4. Thực trạng thị trường xuất khẩu chè của công ty Khách hàng chủ yếu của công ty là các công ty tư nhân, doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc các khu vực Nga và Đông Âu như: Nga, Apganistan, Pakistan, Ấn Độ. Một số thị trường khác cũng đang được công ty tiếp cận như Nhật Bản, Đài Loan, Ả Rập. Bảng 08: Lượng chè XK đến một số thị trường chủ yếu Đơn vị: tấn Quốc gia 2005 2006 2007 2008 2009 Nga - - 68 82 110 Ấn Độ - - 29 54.8 81 Pakistan 104 180 240 280 330 Apghanistan - 110 250 220 280 (Nguồn: phòng kinh doanh) Thị trường truyền thống của công ty là các nước Đông Âu như Pakistan, Apghanistan, đây là những thị trường tiêu thụ chè lớn của thế giới, tương đối dễ tính và khá ưa chuộng chè của Việt Nam. Tính khắt khe của khách hàng về chất lượng sản phẩm tại thị trường này chưa cao lắm do mức sống người dân còn thấp. Do đó công ty có thể cạnh tranh tại thị trường này bằng các chiến lược và chính sách về giá hiệu quả. Cùng với uy tín và mối quan hệ với các bạn hàng lâu năm của công ty như: WADAN Trading Co.Ltd, NEW IRSHAD TAHIR Co.Ltd, REHMAN INTERNATIONAL…hứa hẹn sẽ vẫn là thị trường chính của công ty trong thời gian tới. Các thị trường khác của công ty là Nga và Ấn Độ, trong 2 năm gần đây công ty hoạt động khá hiệu quả tại các thị trường này chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu chè của công ty. Tại các thị trường này công ty gặp một số thuận lợi khó khăn sau: Thuận lợi Đây là thị trường lớn, rất ưa thích mặt hàng chè đen của Việt Nam mà đây lại là mặt hàng xuất khẩu chính trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Thiên Hoàng. Chính phủ đang có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có Nga và Ấn Độ. Khó khăn: Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng tại các thị trường này khá cao, yêu cầu về chất lượng cao, kiểm duyệt khắt khe. Sản phẩm của công ty cũng như toàn ngành xuất sang các thị trường này kém cạnh tranh hơn sản phẩm của các nước khác như Trung Quốc, Đài Loan về chất lượng, tính độc đáo cũng như thương hiệu. Gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các hãng chè bản địa cũng như các hãng lớn của thế giới như Lipton. Hàng năm doanh số từ việc xuất khẩu chè chiếm hơn 90% tổng doanh thu của công ty, vì vậy việc giữ vững thị trường truyền thống và tìm kiếm khai thác thị trường mới mang ý nghĩa sống còn với công ty. Nhận thức được điều đó công ty cũng chú trọng vào việc tìm kiếm các thị trường tiềm năng như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…Đây là những thị trường tiêu thụ chè lớn trên thế giới, yêu thích hương vị chè Việt Nam. Tuy nhiên tại các thị trường này mức độ cạnh tranh cũng rất gay gắt, đối với một công ty nhỏ mới thành lập như Thiên Hoàng đó là một thách thức không nhỏ. Phòng kinh doanh của công ty có trách nhiệm thực hiện công tác nghiên cứu thị trường sau đó tham mưu cho Giám đốc. Từ các nguồn tư liệu, thông tin trên báo, tạp chí mạng internet như: Số liệu về giá, phân tích kinh tế xã hội, dự báo của FAO Thông tin xuất nhập khẩu của bộ Thương Mại Tạp chí của Hội Chè Việt Nam Các trang web cập nhật giá chè thế giới: … Các nhân viên của phòng kinh doanh công ty đã tiến hành phân tích , đưa ra các dự báo về nhu cầu chè thế giới, biến động giá cả chè, nguồn cung chè trong nước…Từ đó tham mưu cho Giám đốc để lập ra các kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Ngoài ra công ty còn lựa chọn cán bộ cử đi thực tế, ra nước ngoài để nghiên cứu thị trường, thông qua chính các đối tác, các bạn hàng để nắm bắt thị trường nước ngoài. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức thương mại về chè của thế giới, các tham tán thương mại của Việt Nam ở các nước, các chương trình hỗ trợ của chính phủ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nghiên cứu nắm bắt thị trường. Hiện tại đối với những thị trường truyền thống như Pakistan, Apghanistan công ty sử dụng chính sách phát triển thị trường, tiếp tục khai thác lợi thế của mặt hàng chè xanh, chè đen. Đối với các thị trường như Nga, Ấn Độ công ty sử dụng việc phát triển sản phẩm là vũ khí cạnh tranh, với việc xuất khẩu các loại chè mới độc đáo, có chất lượng cao như chè Tuyết, chè Shan. 2.2.5. Chất lượng và giá cả chè xuất khẩu Chất lượng chè xuất khẩu Chất lượng búp chè tươi được quyết định bởi các yếu tố: Giống chè Quy trình thâm canh Thu hái Vận chuyển Mặt hàng chè đen xuất khẩu của công ty như OP, PF1, CTC… được thu mua chủ yếu tại Yên Bái, nơi công ty có nhà máy sản xuất tại xã Hán Đà, huyện Yên Bình. Vùng trè nơi đây có độ cao dưới 500m, giống trung du và PH1, sản phẩm có vị chát hơi đắng, hương thơm chưa được đặc trưng. Khuyết tật lớn là tỷ lệ cẫng vẫn còn cao và nhẹ cánh. Mặt hàng chè xanh của công ty được thu mua từ Thái Nguyên và Mộc Châu, nơi có độ cao trên 500m và khí hậu thuận lợi, giống chủ yếu là giống chè San nên chất lượng cao. Tuy nhiên sản phẩm vẫn có những khuyết tật như nhiều cẫng, cánh nhẹ chưa cạnh tranh được với chè của các nước khác. b) Giá cả chè xuất khẩu Chất lượng chè xuất khẩu còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới giá xuất khẩu của chè. Giá xuất khẩu chè của Việt Nam thường thấp hơn giá thế giới từ 30% đến 40%. Những năm gần đây với sự cố gắng của các bên từ người dân trồng chè, các doanh nghiệp xuất khẩu chè và Nhà nước nên giá chè xuất khẩu của Việt Nam đã nhích lại gần giá chè thế giới. Bảng 09: Giá chè xuất khẩu của công ty Thiên Hoàng Đơn vị: nghìn USD/tấn Năm Giá chè của công ty Giá chè Việt Nam Giá chè thế giới 2005 1,4 1,47 2,05 2006 1,43 1,5 2,1 2007 1,51 1,59 2,23 2008 1,5 1,53 2,14 2009 1,54 1,62 2,28 (Nguồn: phòng kinh doanh) Nhìn vào bảng trên ta thấy giá chè xuất khẩu của công ty tăng đều qua các năm, năm 2007 tăng mạnh nhất do năm này nhu cầu chè thế giới tăng cao đẩy giá chè tăng tới 2,23 nghìn USD/tấn trên thị trường thế giới. Năm 2008 giá chè xuất khẩu của công ty có giảm sút do thị trường thế giới có nhiều biến động, đồng thời phải chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc suy thoái, giá chè thế giới giảm 19% so với năm 2007. Biều đồ 05: So sánh giá chè của thế giới với Việt Nam và công ty Đơn vị: nghìn USD/tấn (Nguồn: phòng kinh doanh) Giá chè của công ty vẫn thấp hơn chút ít so với các đơn vị cùng ngành và thấp hơn khá nhiều so với mặt bằng chung của thế giới. Để nâng cao được giá chè xuất khẩu công ty cần phải tập trung nhiều hơn nữa vào công tác tạo nguồn để có được chè với chất lượng tốt nhất, đồng thời cần chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường, marketing xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình. 2.3. Đánh giá, nhận xét chung về tình hình xuất khẩu chè của công ty 2.3.1. Những kết quả đạt được a) Kim ngạch xuất khẩu chè Biểu đồ 06: Kim ngạch xuất khẩu các loại chè qua 3 năm gần nhất Đơn vị: USD (Nguồn: phòng kinh doanh) Chè xanh là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, giá xuất khẩu của chè xanh thường cao hơn chè đen từ 20 - 30%. Kim ngạch xuất khẩu chè xanh của công ty cũng tăng đều qua các năm do công ty đã chủ động mạnh dạn tìm kiếm thị trường đầu ra cho chè xanh. Mặt hàng chè đen vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty với kim ngạch cao qua các năm, năm 2008 kim ngạch chè đen có xuống thấp là do đây là năm chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhu cầu về chè đen giảm mạnh. Tuy nhiên năm 2008 kim ngạch xuất khẩu chè xanh lại đạt khá cao nên tổng kim ngạch xuất khẩu chè năm 2008 vẫn đạt được mức độ tăng trưởng cao. Năm 2009 kim ngạch xuất khẩu chè đen đã được hồi phục, tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 2009 cũng tăng trưởng tốt cho thấy doanh nghiệp đã có hướng đi đúng đắn trước tình hình khó khăn chung. b) Doanh thu Công ty TNHH Thiên Hoàng tuy mới chỉ được thành lập chưa đầy 5 năm, nhưng cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Doanh thu của công ty liên tục tăng trong 5 năm: Biểu đồ 07: Doanh thu của công ty qua các năm Đơn vị: triệu đồng (Nguồn: Phòng kinh doanh) Mức tăng doanh thu trung bình từng năm là khá cao, đạt khoảng gần 200%: năm 2006 tăng 217% so với năm 2005, năm 2007 tăng 191% so với năm 2006, năm 2008 tăng 139% so với năm 2007. Nếu doanh thu của năm 2004 - chỉ là 3.765 triệu đồng thì đến năm 2009 đã là 22.237 triệu đồng, tăng gần gấp 6 lần. Mức tăng trưởng doanh thu năm 2009 có phần chững lại, chỉ tăng 102% so với năm 2008 (gần như là không tăng), điều này là do ảnh hưởng lớn từ các yếu tố của môi trường bên ngoài và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như: Ảnh hưởng của cuộc suy thoái toàn cầu Chính sách tiền tệ của Nhà Nước Những yếu tố đó đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của công ty. Bảng 10: Báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm gần nhất Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1. Doanh thu thuần 15.683.721.500 21.799.112.424 22.237.089.690 2. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 1.112.315.970 1.151.482.996 1.174.645.723 3. Lợi nhuận khác - - - 4. Lợi nhuận trước thuế 1.112.315.970 1.151.482.996 1.174.645.723 5. Lợi nhuận sau thuế 800.867.498 829.067.757 845.744.921 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Bảng 11: So sánh hoạt động kinh doanh của 2 năm gần nhất Chỉ tiêu Chênh lệch 2009/2008 Giá trị (VNĐ) % 1. Doanh thu thuần 437.977.270 2,1 2. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 23.162.727 2 3. Lợi nhuận trước thuế 23.162.727 2 4. Lợi nhuận sau thuế 16.677.164 1,97 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rõ hơn sự chững lại trong tăng trưởng của năm 2009. Tất cả các chỉ số doanh thu thuần và lợi nhuận năm 2009 chỉ tăng 2% so với năm 2008 và giá trị tuyệt đối cũng tăng rất ít: doanh thu thuần chỉ tăng 437.977.270 VNĐ còn lợi nhuận sau thuế chỉ là 16.677.164 VNĐ Bảng 12: Hiệu quả hoạt động kinh doanh 2009 Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu Giá trị Lợi nhuận sau thuế 845.744.921 2. Tỷ suất Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần 3,8% 3. Vốn chủ sở hữu 4.308.004.498 4. ROE 19,63% 5. Tổng tài sản 7.370.611.942 6. ROA 11,47% (Nguồn: Phòng kinh doanh) c) Chi phí kinh doanh Bảng 13: Cơ cấu các khoản mục chi phí Đơn vị: VNĐ STT Yếu tố chi phí Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1 Giá vốn hàng bán 6.685.603.452 13.506.075.000 18.639.877.413 18.656.258.484 2 Chi phí bán hàng 541.186.140 650.760.150 1.426.299.311 1.698.450.905 3 Chi phí QLDN 200.199.884 250.760.380 365.742.559 458.024.098 Tổng chi phí 7.426.989.476 14.407.595.540 20.431.919.283 20.812.733.487 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Cũng như chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu chi phí cũng tăng đều qua các năm theo sự phát triển của hoạt động kinh doanh của công ty. Do đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu nên giá vốn hàng bán luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của công ty, tỷ lệ giá vốn hàng bán ở công ty khá ổn định luôn dao động ở mức 90%. Nguyên nhân là do công ty có được nguồn hàng ổn định và làm tốt công tác tạo nguồn. Giá cả mặt hàng chè trong nước và thế giới biến đổi rất thất thường, có những năm tăng cao như 2006 nhưng công ty vẫn giữ ổn định được tỷ lệ giá vốn hàng bán trong tổng chi phí. Biểu đồ 08: Tỷ trọng từng loại chi phí qua các năm (Nguồn: Phòng kinh doanh) Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp thường chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng chi phí. Chi phí quản lý doanh nghiệp khá ổn định và có xu hướng giảm cho thấy hiệu quả trong quản lý kinh doanh của công ty ngày càng tăng. d) Lương nhân viên công ty Công ty TNHH Thiên hoàng luôn chú trọng chăm lo đến đời sống của cán bộ công nhân viên, tạo niềm tin nơi cán bộ công nhân viên để họ có thể yên tâm công tác. Thu nhập trung bình của cán bộ công nhân viên công ty liên tục tăng qua các năm, quỹ lương, quỹ khen thưởng của công ty năm sau luôn cao hơn năm trước. Biểu đồ 09: Thu nhập trung bình của 1 người lao động Đơn vị: triệu VNĐ (Nguồn: phòng tổ chức hành chính) 2.3.2. Những mặt tích cực Là một công ty nhỏ mới thành lập, mới gia nhập ngành chưa lâu chịu muôn vàn khó khăn thách thức nhưng công ty TNHH Thiên Hoàng đã từng bước khẳng định được mình đạt được những thành tích đáng kể. Về kim ngạch xuất khẩu: Những năm gần đây lượng chè xuất khẩu của công ty liên tục tăng, nếu năm 2005 lượng xuất khẩu của công ty là 104 tấn thu về 145.600 USD, thì đến năm 2009 lượng chè xuất khẩu đã đạt 790 nghìn tấn thu về hơn 1,2 triệu USD. Về thị trường: Thị trường xuất khẩu của công ty liên tục được mở rộng. Năm 2005 thị trường xuất khẩu của công ty chỉ là một số nước Trung Đông như Pakistan, Apghanistan, đến năm 2007 công ty đã mở rộng sang các thị trường như Nga, Ấn Độ. Công ty cũng đã xác định rõ mục tiêu của từng loại thị trường và có những phương án kinh doanh cụ thể trên từng thị trường. Uy tín của công ty trên các thị trường cũng không ngừng được nâng cao, công ty đã tạo được mối quan hệ lâu dài bền vững với các bạn hàng, có nhiều khách hàng vẫn có mối quan hệ làm ăn với công ty từ năm 2004 đến giờ. Về chủng loại chè xuất khẩu: Năm 2004 công ty chỉ xuất khẩu được chè đen OP, P và chè xanh. Những năm sau chủng loại chè công ty đã đa dạng hơn, cụ thể công ty đã xuất khẩu thêm những giống chè: CTC, FBOP, PS, BPS, PF. Công ty cũng đang nghiên cứu xuất khẩu các loại chè đặc biệt có giá trị kinh tế lớn của Việt Nam như: chè tuyết, chè Shan sang các thị trường tiềm năng Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan. Về chất lượng: Chất lượng chè xuất khẩu được coi là yếu tố sống còn, là vũ khí cạnh tranh mạnh mẽ trên các thị trường Mỹ, Nga, Nhật Bản, Đài Loan. Nhận thức được vấn đề đó công ty luôn quan tâm chú trọng đến công tác đảm bảo chất lượng của chè từ lúc thu mua ở địa phương cho đến khi hàng hóa được vận chuyển lên tàu. Vấn đề kiểm tra kiểm dịch được làm rất cẩn thận kỹ lưỡng vì vậy mà từ khi kinh doanh đến giờ chưa có một lô hàng nào của công ty bị trả về, bị cho là vi phạm tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của Việt Nam cũng như thế giới. Về công tác tạo nguồn: Ông Hoàng Trọng Huy, giám đốc công ty, là một người con của quê hương Yên Bái, ông luôn trăn trở một nỗi niềm mong muốn xây dựng quê hương đất nước, phát triển cây chè của quê hương. Ông luôn quan tâm đến đời sống của bà con nông dân trồng chè, của người công nhân trong nhà máy sản xuất chế biến chè. Chính nhờ những tình cảm đó mà công ty luôn có được nguồn cung chè ổn định từ những tỉnh Yên Bái, Lạng Sơn. Cho dù có những năm chè mất mùa, sản lượng chung toàn ngành kém nhưng công ty vẫn đáp ứng kịp thời và đầy đủ các đơn hàng của khách hàng. 2.3.3. Những tồn tại và nguyên nhân a) Những hạn chế còn tồn tại Trong khâu thu mua: Công ty không có nhà máy sản xuất chè tại địa phương nên chất lượng chè phụ thuộc nhiều vào đơn vị chế biến. Chất lượng chè còn chưa được tốt, lượng chè nhặt ra của mỗi lô hàng là khá nhiều, điều này đã làm tăng chi phí kinh doanh của công ty. Nguồn cung chè của công ty chủ yếu ở các tỉnh Yên Bái, Sơn La, Tuyên Quang mà chưa mở rộng vào khu vực Tây Nguyên hay Khu bốn cũ. Phương thức thu mua truyền thống, đơn lẻ, chưa gắn chặt với sản xuất. Về sản phẩm: Mặc dù đã cố gắng nhiều trong việc đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu nhưng sản phẩm của công ty chỉ dừng lại ở những mặt hàng phổ biến, truyền thống như: chè đen OP, PS, P, chè xanh OPA. Với những mặt hàng này công ty khó có thể cạnh tranh được trên các thị trường lớn và khó tính như Mỹ, Nhật Bản. Hơn nữa những loại chè xuất khẩu của công ty chỉ có số ít là dùng ngay còn chủ yếu như loại chè đen dùng để làm nguyên liệu cho các hãng chè nổi tiếng. Sản phẩm còn đơn điệu về mẫu mã bao bì, ta chủ yếu xuất khẩu chè có kiểu dáng và kích thước tự nhiên. Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Thị trường: Thị trường của công ty còn nhỏ, mặt hàng của công ty mới chỉ xuất hiên ở 4 nước trên thế giới. Công ty còn quá phụ thuộc vào thị trường truyền thống trong khi đó lại không khai thác hết khả năng của thị trường truyền thống. Kinh doanh gần 6 năm tại thị trường nhưng công ty không có thêm bạn hàng mới nào ngoài những bạn hàng quen thuộc từ trước. Công tác nghiên cứu thị trường còn chưa được đầu tư đúng mức, nhân viên của công ty thiếu kinh nghiệm, khả năng và nghiên cứu tìm kiếm thị trường. Các nghiệp vụ Marketing, nghiệp vụ hỗ trợ xuất khẩu còn kém và hầu như không có. b) Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan: Do mới thành lập nên khả năng về nhân lực, vật lực còn hạn chế. Số lượng nhân viên trong công ty còn ít, có người phải cáng đáng nhiều công việc cùng lúc. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường còn yếu do khó khăn trong việc tiếp cân các nguồn thông tin Cán bộ công nhân viên của công ty tuổi đời còn khá trẻ, thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh trên thị trường quốc tế, cả công ty chỉ có 4 người có trình độ đại học. Công ty rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay từ ngân hàng nên thường phải tìm ở các nguồn vốn khác với lãi suất cao hơn, Chất lượng chè phụ thuộc vào các đơn vị sản xuất bên ngoài, nhưng bộ phận chế biến sơ chế của công ty cũng còn yếu, thiếu máy móc kỹ thuật dẫn đến chất lượng chè xuất khẩu chưa cao. Nguyên nhân khách quan: Hoạt động kinh doanh sản xuất chè nói riêng, các mặt hàng nông sản nói chung ở nước ta chịu tác động của rất nhiều yếu tố khách quan từ phía Nhà nước và môi trường kinh doanh. Khó khăn trong việc sản xuất chè: Cây chè nước ta chủ yếu được trồng ở khu vực miền núi và trung du, nơi có điều kiện cơ sở vật chất hạn chế yếu kém. Các công ty xuất khẩu phải chịu thêm nhiều chi phí về thu mua, vận chuyển làm giá thành bị đẩy lên cao. Người nông dân trồng chè ngoài thuế sử dụng đất nông nghiệp còn phải chịu các khoản phí quản lý, khấu hao vườn chè… có thể chiếm tới hơn 30% tổng sản lượng khoán, mức đóng góp này là quá nặng. Mặt khác do không tiếp cận được với thông tin cũng như kỹ thuật trồng trọt mà tình trạng người dân sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép dẫn đến nguy cơ mặt hàng chè xuất khẩu bị trả lại do không vượt qua được khâu kiểm dịch, kiểm nghiệm. Chính phủ cũng chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ cụ thể cho nông dân trồng chè, đầu tư cho chè chỉ chiếm 2,6% trong tổng đầu tư của Nhà nước cho ba loại cây công nghiệp: chè, cà phê, cao su. Khó khăn trong việc xuất khẩu chè: Sự hỗ trợ của các bộ ban ngành, các tham tán, đại diện thương mại của nước ta ở nước ngoài cho các doanh nghiệp xuất khẩu là không đáng kể. Các doanh nghiệp vẫn phải tự mò mẫm tìm kiếm thông tin thị trường. Dịch vụ giám định còn chưa đủ uy tín để các khách hàng nước ngoài công nhận, các doanh nghiệp vẫn phải thuê các tổ chức kiểm định nước ngoài. Công tác hải quan vẫn còn nhiều bất cập tồn tại, thủ tục hải quan tuy đã được đơn giản hóa nhưng vẫn còn rườm rà phức tạp. Thái độ của các nhân viên hải quan không tốt, thiếu hợp tác với doanh nghiệp, vẫn còn tình trạng quan liêu nhũng nhiễu. Các chính sách, định hướng của Nhà nước chưa rõ ràng và tính ổn định không cao, khiến cho các doanh nghiệp khó khăn trong việc dự báo và định hướng xây dựng chiến lược kinh doanh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng, phải huy động vốn từ những nguồn khác với lãi suất cao hơn nhiều lần. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ CỦA CÔNG TY TNHH THIÊN HOÀNG 3.1. Phương hướng phát triển của ngành chè và của công ty TNHH Thiên Hoàng 3.1.1. Phương hướng phát triển của ngành chè Tình hình thị trường trong nước Chè hiện đang đứng thứ 7 về kim ngạch xuất khẩu trong các mặt hàng nông sản, sau gạo, cao su, cà phê, hạt điều, rau quả và hạt tiêu tính đến hết tháng 12/2009. Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam đạt 146 triệu đô la Mỹ, chiếm khoảng 2% tổng giá trị nông sản xuất khẩu. Trong năm 2009 vừa qua, tổng lượng chè xuất khẩu của Việt Nam đạt 110 nghìn tấn, tương đương với 147 triệu USD, tăng 7,5% về lượng và 12,8% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam có thể được kể tới là Đài Loan, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Irắc, Đức, Hà Lan, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh. Tuy nhiên, hiện nay chè của Việt Nam vẫn chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, khâu chế biến lại thiếu tiêu chuẩn, nên giá trị xuất khẩu còn chưa cao. Ngay cả trên những thị trường truyền thống như Trung Quốc, Đài Loan, Nga, chè Việt Nam vẫn ít được người tiêu dùng biết đến do chủ yếu được nhập khẩu dưới dạng nguyên liệu thô. Thương hiệu chè “Vinatea” của Tổng Công ty chè Việt Nam vẫn chưa thực sự khẳng định được uy tín cho chè đen xuất khẩu. Tại thị trường Trung Quốc, chè của Việt Nam chưa có được thị phần và thương hiệu, chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu thô nên giá trị xuất khẩu thấp. Về chất lượng thì mặt hàng chè của Việt Nam rất có uy tín, tuy nhiên do mới chỉ xuất khẩu nguyên liệu nên chưa được người tiêu dùng Trung Quốc biết đến nhiều. Các doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu nguyên liệu về chế biến và bán với giá cao hơn nhiều. Hơn nữa, theo nhận định của Hiệp hội Chè Việt Nam, hiện nay có quá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu chè sang cùng một thị trường. Đây là một trong những lý do làm giá chè của ta luôn thấp hơn so với các nước khác và chất lượng chè không được ổn định. Hiện bắt đầu có sự mất cân đối về khả năng cung cấp nguyên liệu chè và sự bùng nổ của các nhà máy chế biến chè. Tổng công suất chế biến của tất cả các cơ sở sản xuất đạt gấp hai lần tổng sản lượng nguyên liệu, thậm chí có địa phương nguyên liệu chỉ đáp ứng 30% năng lực chế biến, dẫn đến tình trạng tranh mua nguyên liệu gay gắt. Xét về cơ cấu sản phẩm, chè xanh hiện chiếm khoảng 20%, chè đen 79% và 1% là chè các loại khác. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu chè lại tăng chưa tương ứng, một mặt do giá chè chung trên thị trường thế giới giảm, mặt khác do phẩm cấp chè Việt Nam chưa cao, chủ yếu dùng để làm nguyên liệu chế biến chè các loại. Hơn nữa, thị trường chè xuất khẩu của Việt Nam chưa thật sự ổn định. Nguyên nhân hiện nay là sản phẩm chè cấp thấp chiếm tỷ trọng lớn, chất lượng chè không cao, chè được bán dưới dạng nguyên liệu là chính. Tuy nhiên, xét về mặt giá xuất khẩu, hiện giá chè của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới. Đơn giá xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 45-55% so với giá của nhiều nước tuỳ theo mặt hàng chè. Phương hướng phát triển của ngành chè Việt Nam đến năm 2015 Ngành chè đặt ra mục tiêu phát triển chung trong giai đoạn 2010-2015 sẽ trồng mới và thay thế diện tích chè cũ đạt mức độ ổn định khoảng 150.000ha, năng suất bình quân đạt 8-9 tấn búp/ha, giá trị thu nhập bình quân đạt 35-40 triệu đồng/ha và kim ngạch xuất khẩu đạt 300 triệu USD, giải quyết việc làm cho khoảng 1,5 triệu lao động trên cả nước. Về thị trường sẽ phấn đấu xuất khẩu khoảng 70% tổng sản lượng chè, tiêu thụ nội địa 30%. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu gồm 50% chè đen, 20% sản phẩm chè mới có giá trị cao và 30% chè xanh chất lượng cao. Bảng 14: Các chỉ tiêu phát triển ngành chè Việt Nam Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 Năm 2015 Tổng diện tích chè cả nước ha 104000 150000 Năng suất bình quân Tấn/ha 6,36 8-9 Sản lượng chè búp tươi Tấn 665000 1200000 Sản lượng chè xuất khẩu Tấn 110000 250000 Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 200 300 (Nguồn: Định hướng phát triển ngành chè đến năm 2015) Ngành chè định hướng quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung tại 8 tỉnh phía Bắc: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cải tiến chất lượng chè xuất khẩu. Cải tạo đất bằng phân bón hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại đất. Đầu tư cải tạo các cơ sở chế biến công nghiệp, xây dựng thêm các nhà máy chế biến công suất 14 tấn/ngày, đẩu tư xây dựng nhà máy cơ khí chè để tạo phụ tùng thiết bị phục vụ cho sửa chữa và nâng cấp nhà máy cũ. Về xuất khẩu, tiếp tục giữ vững thị trường hiện có, mở ra các thị trường mới bằng việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Với các thị trường quen thuộc như Nga, các nước thuộc SNG và Đông Âu, cùng với việc phấn đấu đưa lượng chè xuất khẩu lên cao hơn nữa còn phải cải tiến về bao bì nhãn mác đặc biệt là chất lượng chè phải được chú trọng. Thị trường Trung Cận Đông chiếm một tỷ lệ tương đối lớn và nhiều tiềm năng do vậy cần đẩy mạnh hơn nữa khâu quảng cáo tiếp thị, giới thiệu sản phẩm. Thị trường Châu Á như Đài Loan, Nhật, đây là thị trường đòi hỏi chè có chất lượng cao cũng như nhãn mác bao bì. Ngoài ra các thị trường khác như Tây Âu, Bắc Mỹ cũng đã sử dụng chè Việt Nam nên tăng cường tiếp thị mở rộng các thị trường này. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngành chè đã tiến hành cổ phần hóa các cơ sở chế biến chè. Người nông dân trở thành cổ đông thông qua việc đóng góp cổ phần bằng đất đai và cây chè và sẽ được chia cổ tức theo kết quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, lợi ích của người sản xuất không chỉ dừng ở nghĩa vụ thực hiện hợp đồng mua đứt bán đoạn trên cơ sở giá ấn định từ đầu vụ mà sẽ gắn với lợi ích mang lại từ quá trình chế biến và kinh doanh chè khô. 3.1.2. Định hướng xuất khẩu chè của công ty TNHH Thiên Hoàng Thông qua các dự báo, nghiên cứu thị trường cùng với việc quán triệt mục tiêu chung của ngành, công ty đã xây dựng mục tiêu xuất khẩu chè cụ thể cho các năm tới như sau: Bảng 15: Mục tiêu sản lượng xuất khẩu chè của công ty Đơn vị: nghìn tấn Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Tổng sản lượng chè xuất khẩu 1150 1500 Chè đen 520 750 Chè xanh 390 450 Các loại chè khác 240 300 (Nguồn: phòng kinh doanh) Bảng 16: Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu chè của công ty Đơn vị: USD Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Tổng kim ngạch xuất khẩu chè 1.817.000 2.430.000 Chè đen 780.000 1.185.000 Chè xanh 631.800 747.000 Các loại chè khác 405.200 498.000 (Nguồn: phòng kinh doanh) Trong thời gian tới việc xuất khẩu chè của công ty gặp những thời cơ như: đất nước đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới tạo điều kiện cho công ty mở rộng thị trường, công ty đã tạo dựng được thị trường riêng có được một lượng khách hàng nhất định, quy mô công ty ngày càng được mở rộng…Đồng thời công ty cũng gặp phải những thách thức khi gặp phải sự cạnh tranh lớn từ các công ty trong và ngoài nước, chất lượng hàng chè xuất khẩu của công ty còn hạn chế, đối đầu với thiên tai hạn hán khiến chè bị mất giá… Trước những thời cơ và thách thức đó công ty đã đề ra phương hướng cho xuất khẩu chè trong những năm tới. Trong những năm qua công ty xuất khẩu những loại chè đen, chè xanh…nay cần phải bổ xung thu mua những loại chè có chất lượng cao hơn thế nữa. Bên cạnh việc thu mua chè chất lượng cao thì mẫu mã bao bì cần phải đa dạng để chè xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Công tác thị trường, tìm kiếm thêm thị trường xuất khẩu chè là một trong những chiến lược của công ty. Với những thị trường quen thuộc như Pakistan, Apghanistan, Nga công ty phấn đấu nâng cao lượng chè xuất khẩu, chú trọng hơn đến bao bì mẫu mã. Với thị trường mới xâm nhập hiện tại như Ấn Độ, Anh… công ty cần đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị quảng cáo. Đi đôi với mở rộng thị trường là đa dạng hóa chè xuất khẩu tạo ra nhiều loại thích hợp với thị hiếu của khách hàng, đồng thời áp dụng các hình thức bán linh hoạt như: buôn bán đối lưu, ký hợp đồng gửi bán… Ngoài ra công ty còn đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng thị trường và từng thời gian cụ thể như tháng, quý, năm. Công ty đề ra biện pháp để thực hiện những mục tiêu đã đề ra, thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh hợp lý. 3.2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè 3.2.1. Hoàn thiện công tác tạo nguồn và mua hàng Giống như những mặt hàng nông nghiệp nói chung, với mặt hàng chè việc thu mua thường diễn ra trên phạm vi rộng, công tác thu mua chè diễn ra trong thời gian ngắn với khối lượng lớn, vì vậy đòi hỏi công ty phải có mạng lưới thu mua rộng. Mặc dù hiện nay nguồn cung cấp chè cho xuất khẩu tương đối dồi dào, nhưng để tránh những biến động do hạn hán, thiên tai, có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu chè… và đồng thời tạo được chân hàng ổn định công ty cần kết hợp chặt chẽ với nhà sản xuất. Công ty cần gắn hơn nữa lợi ích của người sản xuất nông nghiệp với lợi ích của sản xuất công nghiệp và xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng phải kéo theo năng lực sản xuất của các đơn vị tăng và đời sống của người dân trồng chè được cải thiện. Bên cạnh đó từng bước thống nhất lợi ích với các đơn vị khác trên cùng một địa bàn nhằm loại bỏ những yếu tố cạnh tranh không lành mạnh, gây phương hại tới lợi ích chung. Muốn vậy công ty cần thực hiện những nhiệm vụ sau: Gắn bó chặt chẽ hơn nữa với người trồng chè, người sản xuất từ khâu chọn giống đến chăm bón, thu hoạch để có được mặt hàng đạt chất lượng tiêu chuẩn. Mở rộng nguồn hàng, cử cán bộ đi khảo sát những nguồn hàng mới như: Lâm Đồng, Tuyên Quang, Hà Giang. Trong khâu thu mua công ty phải thực hiện giám định nghiêm chỉnh, tiến hành đầy đủ các bước giám sát kiểm tra chất lượng. Giảm lượng chè hao hụt trong quá trình thu mua và bảo quản, chú trọng khâu bảo quản với hệ thống kho bãi đúng tiêu chuẩn thuận tiện cho việc vận chuyển, xếp dỡ. Gắn sản xuất với thị trường, hỗ trợ người trồng chè về giống, phân bón, kỹ thuật để tạo nên sự phối hợp thống nhất từ khâu sản xuất nông nghiệp đến tận khâu lưu thông để làm sản phẩm luôn đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. 3.2.2. Đa dạng hóa các mặt hàng chè xuất khẩu Các mặt hàng chè xuất khẩu chủ yêu của công ty vẫn là chè đen chiếm hơn 50% và chè xanh chiếm 35% , còn các mặt hàng chè khác chỉ chiếm 10% trong cơ cấu xuất khẩu của công ty. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu của mặt hàng chè đen lại tương đối thấp hơn so với các loại chè khác, bình quân 1 tấn chè đen xuất bán thu về lợi nhuận thấp hơn từ 200 đến 800 USD so với các loại chè khác. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu của công ty. Các loại chè có chất lượng cao và giá trị xuất khẩu lớn như chè Vàng, chè Shan, chè tuyết, việc tiếp cận nguồn hàng này cũng rất khó khăn do các loại chè này chỉ được trồng trên những vùng núi cao hơn 1000m và diện tích trồng rất ít. Tuy vậy công ty cần có chiến lược cụ thể để tranh thủ được nguồn hàng này như: đặt hàng, bao tiêu sản phẩm từ đầu vụ, tìm kiếm các nguồn hàng mới… Bên cạnh việc tìm kiếm các mặt hàng chè mới, công ty cũng có thể đa dạng hóa mặt hàng chè xuất khẩu từ các nguồn hàng hiện tại. Do đặc điểm của chè xuất khẩu là khi đấu các loại chè khác nhau theo tỷ lệ khác nhau sẽ cho ra một loại chè mới, do đó công ty cần tập trung nguồn lực khai thác nguồn nguyên liệu và thị trường vốn có. Đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh không những giúp công ty giảm rủi ro trong kinh doanh mà còn tăng cao lợi nhuận, kinh doanh có lãi. Do vậy công ty cần tìm tòi mở rộng nguồn hàng, tìm kiếm các loại chè mới phù hợp với nhu cầu khách hàng, tích cực xây dựng mở rộng thị trường xuất khẩu chè. 3.2.3. Đẩy mạnh ứng dụng Mar – Mix vào hoạt động xuất khẩu Trong những năm gần đây thị trường chè thế giới có sự cạnh tranh gay gắt, luôn có tình trạng cung lớn hơn cầu. Tuy nhiên theo các chuyên gia nhận định và thực tế cho thấy mặt hàng chè của Việt Nam và của công ty vẫn có lượng cầu lớn hơn nhiều lượng cung trên thị trường. Cơ hội thị trường chè vẫn còn nhiều, điều quan trọng để giữ được khách hàng và mở rộng thị trường đó là ta cần phải làm tốt công tác thị trường. Để làm tốt công tác này, công ty Thiên Hoàng nói riêng cũng như các công ty trong ngành chè Việt Nam nói chung cần tuần theo quan điểm marketing hiện đại, đặt nghiên cứu nhu cầu của khách hàng lên hàng đầu. Cần phải xóa bỏ tư tưởng cũ mang nặng tính bao cấp là bán những gì mình có mà phải bán những gì thị trường cần. Trong thời gian tới công ty cần chú trọng xây dựng và thực hiện các chiến lược marketing hiệu quả gồm: Về sản phẩm: 80% lượng chè tiêu thụ trên thế giới là chè đóng gói, thị hiếu tiêu dùng chè trên các thị trường cũng rất đa dạng, người Mỹ đang ưa dùng các loại chè ướp lạnh, ở Indonexia là chè đóng chai còn ở Nhật chè đóng lon cũng được tiêu thụ một cách đáng kể…Coi trọng sức khỏe người tiêu dùng và bảo vệ môi trường là xu hướng tiêu dùng hiện nay, gắn tiêu dùng với bảo vệ sức khỏe. Vì vậy chiến lược phổ biến trong kinh doanh hiện nay là đa dạng hóa sản phẩm chè và chú trọng tới công dụng chữa bệnh. Ngày càng xuất hiện các loại chè thuốc như: chè thanh nhiệt, chè sâm, chè giảm cafein, chè dược thảo… Trước xu hướng đó công ty cần chọn cho mình một cách đi phù hợp trên cơ sở cân đối giữa nguồn lực bên trong và điều kiện bên ngoài. Việc sáng tạo ra sản phẩm mới thường tốn công sức, thời gian và tiền bạc nhưng cũng chính là cách đem lại kết quả khả quan và lâu bền nhất. Về bao gói: đây là yếu tố quan trọng cấu thành lên sản phẩm mà công ty cần phải chú ý. Ngoài tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm thì mẫu mã nhãn mác cũng là yếu tố quan trọng khi đi vào các thị trường khó tính. Về tính cân đối lượng chè đóng gới cần tính toán phù hợp với thói quen tiêu dùng như chỉ vừa đủ 1 ấm hoặc chỉ đủ dùng trong thời gian ngắn tránh việc chè để lâu bị mốc, bốc mùi. Về tính tiện dụng cũng cần được quan tâm. Về phân phối: chính sách phân phối phảm đảm bảo yêu cầu đưa hàng đến với người tiêu dùng đúng mặt hàng đúng nơi đúng lúc với chi phí thấp. Nếu được công ty nên đặt các đại lý của mình ở các thị trường truyền thống cũng như thị trường mới để tiện cho việc giao dịch cũng như nghiên cứu nắm bắt thị trường. Người sản xuất Khách hàng Công ty Thiên Hoàng Nhà trung gian Sơ đồ 03: Sơ đồ phân phối sản phẩm của công ty (Nguồn: phòng kinh doanh) Về chiến lược xúc tiến và yểm trợ: công ty nên sử dụng chiến lược kéo và chiến lược đẩy. Để kéo khách hàng về phía minh cần tăng cường tuyên truyền quảng cáo, mặc dù nguồn tài chính dành cho quảng cáo còn eo hẹp nhưng công ty có thể tận dụng sách báo, webside…Một quảng cáo hay ấn tượng có thể gây chú ý đến khách hàng và công ty có thể bán được hàng. Cần lưu ý nêu bật lên những tác dụng tốt cho sức khỏe, gắn hình ảnh chè của ta với hình ảnh thảo dược phương đông vốn nổi tiếng lành tính và hiệu quả. Về giá cả: do nước ta là nước nhỏ lượng hàng xuất khẩu chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ so với thế giới, chè là hàng nông sản nên độ co giãn của cầu theo giá là không cao vì vậy nước ta là nước chấp nhận giá và phải theo giá của các nước xuất khẩu lớn khác. Năng lực sản xuất của nước ta còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao, không cho phép hạ giá để cạnh tranh. Bởi vậy chính sách giá trước mắt chỉ nhằm định ra một mức giá hợp lý, thống nhất, kèm theo phương thức thanh toán thuận lợi hấp dẫn… 3.2.4. Quản lý và nâng cao chất lượng chè xuất khẩu Chất lượng chè xuất khẩu là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Công tác quản lý và nâng cao chất lượng chè xuất khẩu luôn được công ty chú trọng đẩu tư các nguồn lực. Để làm tốt công tác này công ty cần áp dụng đồng bộ các biện pháp sau: Kiểm tra, giám sát sát sao, hướng dẫn chỉ đạo đúng quy trình sản xuất tại nguồn hàng của công ty Yêu cầu, khuyến khích người dân trồng trọt, chế biến theo đúng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho chè xuất khẩu Kiên quyết không thu mua, loại bỏ những loại chè kém chất lượng Thực hiện quy trình bao gói cẩn thận, đảm bảo an toàn cho hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Về lâu dài, để chủ động về nguồn hàng cũng như chất lượng chè xuất khẩu, công ty cẩn thực hiện những công việc sau: Xây dựng nhà máy chế biến chè xuất khẩu với chất luợng ISO 9001 Hiện công ty đang đầu tư xây dựng nhà máy tách cọng ở Phủ Lỗ, Sóc Sơn gần kho của công ty. Đây sẽ là một nhà máy hiện đại với dây chuyền công nghệ chuyển giao trực tiếp từ Trung Quốc. Với việc xây dựng nhà máy này, trong tương lai các mặt hàng chè xuất khẩu của công ty sẽ được tách cọng trước khi mang đi xuất khẩu, đảm bảo chè ít cọng mịn hơn đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Công ty cần phối hợp thống nhất giữa cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, người dân trồng chè để cho những sản phẩm có chất lượng mà thị trường mong muốn. Luôn coi lợi ích của các hộ nông dân như chính lợi ích của công ty. 3.2.5. Các giải pháp khác Ngoài các giải pháp nêu trên, để thúc đẩy xuất khẩu chè công ty cần có những đổi mới cải cách toàn diện như sau: Cải cách bộ máy hoạt động của công ty với các phòng chuyên trách, có sự phân công rõ rệt trách nhiệm cho từng người. Đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có đủ khả năng đảm đương trọng trách. Có thể cử người ra nước ngoài để học tập, mời chuyên gia nước ngoài về hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cũng như trồng trọt. Đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà xuởng kho bãi, phương tiện vận chuyển đảm bảo giảm tới mức tối thiểu chè thất thoát trong quá trình bảo quản, vận chuyển. Nâng cấp hệ thống thông tin, nâng cấp hệ thống máy tính, điện thoại liên lạc để đảm bảo thông tin thông suốt, nhanh chóng, kịp thời. Chú trọng đến đời sống của cán bộ công nhân viên công ty, có chế độ khen thưởng phúc lợi đầy đủ, gắn quyền lợi với trách nhiệm. 3.3. Một số kiến nghị với nhà nước, hiệp hội chè và tổng công ty chè Việt Nam nhằm góp phần thực hiện những giải pháp trên 3.3.1. Về phía nhà nước Về thuế Mặt hàng chè xuất khẩu cũng như các mặt hàng nông sản khác, trong quá trình sản xuất đến xuất khẩu phải trải qua các doanh nghiệp: doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp chế biến công nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu thực hiện đánh thuế doanh thu và thuế lợi tức thì sẽ bị đánh thuế trùng. Các doanh nghiệp xuất khẩu chè của chúng ta hiện nay thực sự vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường, chưa có đủ khả năng cạnh tranh với chè xuất khẩu của các nước khác, vì vậy nhà nước cần có chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp này như: Ưu tiên miễn thuế sử dụng đất cho các vườn chè mới trồng và đang cải tạo, những nơi đồi trọc có độ dốc cao Miễn 100% thuế nhập khẩu đối với những thiết bị máy móc chế biến chè xuất khẩu, phụ tùng đặc chủng của những loại máy móc này để tạo điều kiện hiện đại hóa ngành chè Hỗ trợ ưu tiên những sản phẩm mới trong vòng 3 năm kể từ khi đăng ký nhãn hiệu thương mại. Chính sách cho vay vốn Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, vốn lưu động chiếm tỷ lệ lớn trong nguồn vốn của doanh nghiệp. Hầu hết lượng vốn lưu động của các doanh nghiệp đều được đi vay từ ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp rất khó hoặc không thể tiếp cận được với nguồn vốn này. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cũng như lãi suất cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn vay dễ dàng hơn. Khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để thu mua và xuất khẩu chè. Trong trường hợp giá chè bấp bênh, giá chè thu mua xuất khẩu tăng lên thì nhà nước nên xem xét bằng quỹ bình ổn giá cả để giảm bớt khó khăn cho công ty xuất khẩu chè. Hiện nay người nông dân trồng chè ở các vùng dùng sổ giao quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nhưng nhiều nơi chưa cấp sổ làm cho nông dân rất khó vay được vốn. Nên thay hình thức vay vốn sổ giao quyền sử dụng đất bằng giấy bảo lãnh của doanh nghiệp để vay vốn. Mức vay theo hai loại: vay để thâm canh chè từ 2 – 2,5 triệu VNĐ cho 1ha trồng chè mới từ 7 – 10 triệu/ha. Cho vay theo từng bước và có kiểm tra kết quả thực hiện trước khi cho vay bước tiếp theo. Lãi suất cho vay đối với các vùng sâu, vùng xa, khó khăn, vùng dân tộc nên thấp hơn mức lãi suất hiện hành. Điều chỉnh giá chè và quan hệ cung cầu trong nước Giá chè trong nước được quyết định bởi quy luật cung cầu và giá cả thị trường, Nhà nước cũng cần có chính sách hợp lý để cân bằng giá chè trong nước, không để giá chè xuống thấp quá. Cần có chính sách hợp lý để trợ giá khi cần thiết để ổn định mức giá, điều chỉnh quan hệ cung cầu tránh gây thiệt hại cho người sản xuất. Nhà nước cần quan tâm cân đối lợi ích của người trồng chè, doanh nghiệp kinh doanh sản xuất chè và người tiêu dùng để sử dụng nhiều biện pháp điều hành tránh những hoạt động vội vã. Nhà nước sử dụng ngân sách thu mua chè (khi lượng cung vượt quá lượng cầu) để tạo ra cầu hoặc giảm bớt cung tùy theo tình hình cụ thể trong trường hợp gặp khó khăn về thị trường nước ngoài, giá chè trong nước giảm xuống. Nhà nước cần tổ chức thu mua bù lỗ cho các nhà sản xuất, xuất khẩu chè. Như vậy các nhà xuất khẩu vẫn có thể tổ chức thu mua chè xuất khẩu tại thị trường nội địa, tạo thêm nhu cầu, nhằm tạo ra sự ổn định ở thị trường chè nói riêng và thị trường nông sản nói chung. Nhà nước cần có những biện pháp về đầu ra và đầu vào cho ngành chè Việt Nam Ngành chè tuy có mặt lâu đời ở Việt Nam nhưng trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ vẫn lạc hậu, trình độ quản lý còn yếu kém do vậy chất lượng chè của Việt Nam vẫn còn thấp so với thế giới. Đối với người trồng chè Nhà nước nên có chính sách cho vay vốn với mức lãi hợp lý, tạo điều kiện cho các hộ nông dân trồng chè có thể yên tâm với công việc của họ. Khi đến mùa hái chè nhà nước cần có những chính sách hợp lý ưu tiên cho các hộ nông dân, tạo điều kiện cho ngành chè thu mua nhanh gọn. Nhà nước cũng cần cho ngành chè vay vốn với lãi suất ưu đãi để ngành đổi mới công nghệ từ đó đi lên sản xuất những loại mặt hàng chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Với đầu ra cho ngành chè chính phủ cũng cần có những chính sách khuyến khích bởi đầu ra có ý nghĩa to lớn quyết định đến sự sống của ngành chè. Đầu ra cho ngành chè Việt Nam vẫn còn yếu kém do đó chính phủ cần có những chính sách ưu tiên hợp lý như: đánh thuế cao mặt hàng chè nhập khẩu, miễn thuế chè xuất khẩu, hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chè…Tạo điều kiện cho ngành chè Việt Nam chiếm lĩnh thị trường nội địa từ đó làm bệ phóng sang thị trường nước ngoài. Cải thiện chính sách tỷ giá và hệ thống thông tin liên lạc Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu một tỷ giá cao đồng nghĩa với lợi nhuận thu về cao hơn nhưng đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thì lại là điều ngược lại. Nhà nước cần điều hành tỷ giá theo tín hiệu của thị trường, giữ ổn định ở mức hợp lý, phù hợp với cung cầu ngoại tệ nhằm khuyến khích mở rộng hoạt động xuất khẩu cải thiện cán cân thanh toán. Tỷ giá cũng cần phải dự đoán được giúp cho các doanh nghiệp thuận tiện trong thanh toán. Phát triển hệ thống thông tin liên lạc đáp ứng được nhu cầu trong điều kiện mới. Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam rất khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về thị trường nước ngoài từ giá cả đến tình hình cung cầu, do đó bị chậm trễ lỡ mất cơ hội kinh doanh. Các cơ quan nhà nước cần đi đầu trong việc xây dựng các cổng thông tin điện tử giúp các doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng dễ dàng với thông tin từ thị trường thế giới. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng ngoại thương như hệ thống giao thông, phương tiện vận chuyển…để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu nói chung và xuất khẩu chè nói riêng. Cải cách thủ tục hành chính Trên thực tế bộ máy hành chính nước ta vẫn còn khá cồng kềnh, các thủ tục rườm rà mang nặng tính quan liêu bao cấp. Các cán bộ nhà nước một số vẫn có tình trạng hạch sách, “hành là chính” các doanh nghiệp. Do vậy để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, nhà nước cần phải tinh giảm bộ máy chính, đơn giản hóa hơn nữa thủ tục hành chính như: Đơn giản hóa thủ tục hải quan như cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu kê khai hải quan qua mạng… Quy định rõ quyền hạn và phạm vi của cán bộ hải quan Đơn giản hóa thủ tục cấp C/O, mặc dù hiện nay đã miễn phí cho thủ tục làm C/O nhưng thủ tục vẫn rườm rà, doanh nghiệp làm rất mất thời gian. Nghiêm khắc xử lý những cán bộ biến chất, gây khó khăn cho doanh nghiệp. 3.3.2. Với hiệp hội chè Việt Nam (Vitas) Hiệp hội chè Việt Nam là một trong những hiệp hội đầu tiên ở Việt Nam, được thành lập vào ngày 19/7/1988. Trải qua các giai đoạn phát triển của ngành chè, hiệp hội luôn là cơ quan đầu não đối mặt với thực trạng kinh tế, đại diện cho lợi ích và quyền lợi những người làm chè. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò và chức năng của VITAS được chia thành 5 nhóm sau: Các hoạt động dịch vụ: bao gồm các dịch vụ về giống, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, xúc tiến thương mại, thị trường, đấu giá, đào tạo. Các hoạt động tư vấn: tư vấn cho Chính phủ về chế độ, chính sách phát triển chè, tư vấn cho địa phương về quy hoạch, kế hoạch phát triển chè trên địa bàn, tư vấn doanh nghiệp. Các hoạt động về văn hoá chè: quảng bá văn hoá chè Việt Nam, tổ chức các lễ hội, hội chợ triển lãm chè, các hoạt động văn hoá thúc đẩy kinh doanh. Các hoạt động xây dựng và triển khai các mô hình mẫu: xây dựng, triển khai các mô hình phát triển bền vững, các vườn ươm giống quốc gia Các hoạt động thông tin: thiết lập mạng thông tin toàn ngành và quốc tế, báo chí, truyền bá tri thức khoa học, công nghệ, quản lý văn hoá. Trong thời gian tới hiệp hội chè cần phát huy hơn nữa chức năng của mình bằng việc hỗ trợ người dân trồng chè về giống, kỹ thuật công nghệ, hiệp hội cần mở các lớp đào tạo miễn phí cho người trồng chè về các kỹ thuật thâm canh, trồng chè mới. Hiệp hội cần nắm lập bản đồ vùng chè cả nước, nắm bắt chính xác diện tích trồng, năng suất, sản lượng chè cả nước từ đó lập kế hoạch tư vấn cho chính phủ kế hoạch phát triển chè trên địa bàn cả nước. Nhiệm vụ cần thiết trước mắt là hiệp hội cần kết hợp với chính phủ mở sàn giao dịch chè tại Việt Nam nhằm xây dựng các tiêu chuẩn cho nền công nghiệp, thương mại chè. Đồng thời, nơi đây cũng là chỗ để quảng bá cho các sản phẩm và doanh nghiệp chè trong nước trên thị trường thế giới; loại bỏ được các loại chè kém chất lượng có xuất xứ Việt Nam, gây tác động tiêu cực đến uy tín của ngành chè, đồng thời nâng cao tính cạnh tranh của chè Việt Nam. 3.3.3. Với tổng công ty chè Việt Nam (vinatea) Là công ty đầu tàu trong xuất khẩu chè của Việt Nam, tổng công ty cần đi đầu, đóng vai trò quan trọng để thực hiện mục tiêu của ngành chè và giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu khác. Tổng công ty cần thực hiện quy hoạch tổng thể các vùng chè, trong đó có những vùng chè sản xuất, xuất khẩu có chất lượng cao như chè Thái Nguyên, chè Nghĩa Lộ, chè Hà Giang. Quy hoạch vùng chè xuất khẩu nhất thiết phải gắn liền nhu cầu nước ngoài cả về số lượng và chất lượng, chủng loại để thực hiện sản xuất chè mà thị trường cần chứ không phải sản xuất chè ta có. Trong quy hoạch sản xuất cần ưu tiên bố trí trồng chè xuất khẩu ở những vùng đất có thuận lợi nhất cả về trồng, chế biến và vận chuyển. Trên cơ sở quy hoạch đã được nhà nước duyệt, các ngành chức năng cần thực hiện giải pháp hỗ trợ cụ thể thông qua công tác kế hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Những giải pháp này phải tính đến tính khả thi và cụ thể, trong đó phải quan tâm đến vốn đầu tư của ngân sách nhà nước và của doanh nghiệp để cải tạo và trồng mới các vườn chè, hiện đại hóa các nhà máy chế biến. Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, hướng tới ISO 9000. Hệ thống không chỉ giúp tổng công ty có được chè chất lượng cao mà còn giúp cho việc quản lý chất lượng dễ dàng, hiệu quả hơn. Hệ thống này có thể do nhiều cấp quản lý nhưng phải thống nhất về phương thức kiểm tra, giám sát về tiêu chuẩn chất lượng và phải đạt trình độ nhất định. Như chúng ta đã biết hiện nay tổng công ty chè Việt Nam đã có quan hệ với nhiều nước trên thế giới và kim ngạch xuất khẩu chè chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch toàn ngành. Theo tôi tổng công ty cần phải tiếp tục thực hiện chính sách phát triển thị trường như hiện nay, với việc mở rộng hơn nữa thị trường từ đó tiến tới xuất khẩu có chọn lọc về hình thức chất lượng chè. Bên cạnh đó tạo tiền đề giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu chè khác tiếp cận các thị trường mới. KẾT LUẬN Chè đã và đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, là sản phẩm quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù cây chè trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nhưng nó vẫn luôn là cây công nghiệp mũi nhọn, gắn liền với cuộc sống của hàng vạn người dân trong đó có không ít là đồng bào dân tộc ít người. Việc đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu chè vẫn luôn là mối quan tâm, là mục tiêu lâu dài của đất nước ta. Công ty TNHH Thiên Hoàng tuy mới chỉ thành lập được 6 năm, còn gặp nhiều khó khăn nhưng công ty đã có những bước phát triển vững mạnh, đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngành chè nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Công ty vẫn đang nỗ lực không ngừng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu chè, nâng cao vị thế của chè Việt Nam trên trường quốc tế. Qua chuyên đề này chúng ta có thể thấy được phần nào tình hình xuất khẩu của công ty trong thời gian qua, một số giải pháp thiết thực giải quyết những tồn đọng, thúc đẩy xuất khẩu chè của công ty cả về số lượng và chất lượng. Đứng trước xu hướng hội nhập khu vực và thế giới, rất nhiều chông gai thử thách đang đặt ra với công ty TNHH Thiên Hoàng. Nhưng tôi tin với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên công ty và những mục tiêu, giải pháp mà công ty đang thực hiện công ty sẽ vượt qua khó khăn, tiếp tục đạt những thành tích xuất sắc trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu chè. MỤC LỤC NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN THỰC TẬP

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng.doc
Luận văn liên quan