Đề tài Giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả chuẩn bị thực hiện thi công dự án nhà ở

MỤCLỤC CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ THI CÔNG XÂY DỰNG DỰ ÁN NHÀ Ở 1 1.1 . DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ Ở 1 1.1.1 Khái niệm 1 1.1.2. Đặc điểm dự án đầu tư xây dựng nhà ở 2 1.1.3. Phân loại dự án đầu tư xây dựng công trình 3 1.2. VỊ TRÍ VÀ NỘI DUNG CỦA GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ THI CÔNG DỰ ÁN TRONG CHU KỲ DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ Ở 5 1.2.1. Vai trò của giai đoạn chuẩn bị thực hiện thi công dự án trong chu kỳ dự án đầu tư 5 1.2.2. Quy trình giai đoạn thực hiện dự án : 6 1.3. NỘI DUNG CỦA GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ THI CÔNG THỰC HIỆN DỰ ÁN : 8 1.3.1. Đăng ký đầu tư, thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư 8 1.3.2. Thuê, giao nhận đất, chuẩn bị mặt bằng xây dựng 9 1.3.3. Khảo sát xây dựng 10 1.3.4. Thiết kế trong xây dựng 12 1.3.5. Báo cáo Đánh giá tác động môi trường (Báo cáo ĐTM) 15 1.3.6. Thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư 15 1.3.7. Đấu thầu 18 1.3.8. Cấp giấy phép xây dựng công trình 24 1.3.9. Hợp đồng tư vấn, mua sắm vật tư thiết bị và xây lắp 25 1.4. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ THI CÔNG THỰC HIỆN DỰ ÁN 26 1.4.1 Nhân tố khách quan 26 1.4.2. Nhân tố chủ quan 28 CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ THI CÔNG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ Ở TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN NHÀ VÀ ĐÔ THỊ VINACONEX 31 2.1. GIỚI THIỆU 31 2.1.1. Giới thiệu chung về công ty 31 2.1.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty 3 năm gần đây ( 2004 – 2006 ) 35 2.1.3. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở của Công ty trong những năm qua 39 2.2. GIỚI THIỆU VỀ DỰ ÁN N05 – CỤM NHÀ Ở HỖ TRỢ CHUNG CƯ KẾT HỢP VĂN PHÒNG DỊCH VỤ TẠI KHU ĐÔ THI ĐÔNG NAM TRẦN DUY HƯNG 41 2.2.1. Sự cần thiết phải xây dựng Khu đô thị mới Đông Nam Trần Duy Hưng 42 2.2.2. Giới thiệu về dự án N05 44 2.2.3. Quy mô của dự án 45 2.3. Thực trạng công tác chuẩn bị thi công công trình của dự án N05 của VINAHUD 48 2.3.1. Nội dung các công việc phải thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị thi công 48 2.3.2. Tiến độ thực hiện dự án N05 56 2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG 57 2.4.1. Các kết quả đã đạt được 57 2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân 59 CHƯƠNG III – MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHUẨN BỊ THỰC HIỆN THI CÔNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ Ở 69 3.1. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VINAHUD – VINACONEX 69 3.1.1. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 69 3.1.2. Giải pháp về quản lý tiến độ thực hiện dự án 71 3.2. GIẢI PHÁP CHUNG 71 3.2.1. Hoàn thiện nâng cao công tác tư vấn 71 3.2.2. Hoàn thiện công tác thẩm định xây dựng dự án 72 3.2.3. Giải pháp về đấu thầu 75 3.2.4. Giải pháp về vốn 80 3.3. KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC 81 3.3.1. Giải pháp cho vấn đề Giải phóng mặt bằng (GPMB) 81 3.3.2. Giải pháp cho vấn đề cấp phép xây dựng (CPXD) 82 3.3.3. Đối với lãnh đạo Thành phố và lãnh đạo các Sở, Ban, ngành hữu quan: 85 3.3.4. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở 85 3.3.5. Xây dưng một mô hình quản lý đầu tư xây dựng các dự án xây dựng theo hướng tích cực, năng động hơn 87 3.3.6. Tổ chức cán bộ 88 3.3.7. Quy định rõ năng lực, quyền hạn, trách nhiệm về : 89

docx93 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2541 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả chuẩn bị thực hiện thi công dự án nhà ở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành, trong giai đoạn này, Công ty đã thực hiện các công việc sau : Xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư, Giấy phép thi công công trình; Liên hệ với Sở Tài chính để xác định giá thu tiền sử dụng đất; Liên hệ với Cục Thuế Hà Nội đề nộp bổ sung tiền sử dụng đất, nộp ngay khoản tiền 180 tỷ đồng vào Ngân sách Nhà nước khi có thông báo, tạo nguồn vốn xây dựng tuyến đường Láng-Hòa Lạc; Liên hệ với Công an Thành phố Hà Nội để được thỏa thuận về phòng cháy chữa cháy; Liên hệ với UBND quận Cầu Giấy để được xác nhận cam kết. Sau khi thực hiện xong các khoản trên thì liên hệ với Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội để làm thủ tục nhận bàn giao mốc giới khu đất trên thực địa, lập trích lục bản đồ và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Liên hệ với Sở Xây dựng để được hướng dẫn thủ tục cấp Giấy chứng nhận xây dựng công trình theo quy định. Liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền về thỏa thuận cấp điện, thoát nước, tĩnh không Làm việc với các công ty tư vấn, thiết kế lập phương án thiết kế kiến trúc, lập nhiệm vụ khoan khảo sát Thực hiện đấu thầu thành công. Tồn tại và nguyên nhân Ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư này, 10 – 12 % vốn đầu tư được chia ra nằm khê đọng trong suốt những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Đến lượt mình, thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý quá trình thực hiện đầu tư, quản lý việc thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong hoạt động chuẩn bị thực hiện dự án, tại Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Nhà và Đô thị VINACONEX vẫn còn những tồn tại và khó khăn chưa thể khắc phục được. Trong quá trình thực hiện các công việc chuẩn bị đầu tư của dự án N05, có thể nêu ra một số đầu mục công việc gây chậm tiến độ trong biểu sau : Biểu số :Công việc thực hiện chậm tiến độ tại Dự án N05 và những nguyên nhân Số thứ tự Tên công việc Thời gian thực hiện Nguyên nhân Dự kiến Thực hiện Công văn số 2036/CV-BQL gửi Viện Quy hoạch cung cấp số liệu hạ tầng kỹ thuật 16/07/2007 Chưa thực hiện được Giám đốc Công ty đã ký hợp đồng nhưng hủy do Viện Quy hoạch quá chậm Xin thỏa thuận tĩnh không 21/08/2007 21/09/2007 Công ty gửi Bộ Tổng Tham mưu – Bộ Quốc Phòng giấy tờ liên quan, nhưng Bộ Tổng Tham mưu có công văn đề nghị bổ sung, sửa đổi nhiều lần, gây rất mất thời gian. Việc xin giao đất chính thức Lập Hồ sơ xin giao đất trực tiếp từ 11/01/2006 Đến ngày 07/12/2007 mới được giao đất Đối với khoản tiền 180 tỷ đồng, Tổng Công ty đã nộp ngay khi có thông báo vào Ngân sách Thành phố nhưng hàng tháng phải chịu một khoản lãi vay một ngày gần 60 triệu đồng. Trên thực tế, việc giao đất gặp rất nhiều khó khăn, triển khai dự án không theo kịp tiến độ. Việc triển khai Đánh giá tác động môi trường Từ 27/07/2007 đến thời gian dự kiến là 05/08/2008 Chưa hoàn thành Công ty đã gửi Công ty Cổ phần tư vấn kiến trúc đô thị Hà Nội về việc xin văn bản chấp thuận cam kết vệ sinh môi trường do Sở Tài nguyên Môi trường & Nhà đất cấp. Công ty đã nhiều lần liên hệ lại nhưng vẫn chưa được phúc đáp như yêu cầu. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại gây ra tình trạng chậm tiến độ, bao gồm : Nguyên nhân chủ quan Năng lực của cơ quan của chủ đầu tư còn bị hạn chế bởi các quy định, quy chế vận hành hệ thống. Việc thay đổi cơ chế vận hành cho phù hợp với Luật xây dựng và những quy định kèm theo khá chậm. Việc cập nhật các văn bản mới nhất thường chậm, gây nên tại một số công việc, cơ quan chuyên trách phải gửi văn bản yêu cầu bổ sung hồ sơ. Cán bộ phụ trách các công việc còn thiếu cũng là một trong những nguyên nhân gây chậm tiến độ thực hiện dự án. Mặc dù Công ty đã bổ sung thêm người nhưng việc đào tạo năng lực cán bộ để chuyên nghiệp hơn trong công việc cũng cần phải chú trọng hơn nữa. Nguyên nhân khách quan Văn bản pháp quy còn chồng chéo, chậm, gây mâu thuẫn, gây tốn nhiều thời gian, tiền của của Chủ đầu tư. Các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư xây dựng và pháp luật có liên quan như phòng cháy, chữa cháy, môi trường … còn có những quy định không rõ ràng, chồng chéo, mâu thuẫn nhau khiến phát sinh nhiều thủ tục không đáng có đây phiền hà cho nhà đầu tư. Các chủ đầu tư dường như bị “đánh đố” khi Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định căn cứ để giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải có dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Nhưng trên thực tế, chủ đầu tư phải được giao đất thì mới có thể khảo sát, nghiên cứu để lập dự án đầu tư xây dựng. Bên cạnh đó, tại các quy định khác của Nghị định này là phải có Giấy cam kết của Chủ đầu tư về việc hoàn thành nghĩa vụ tài chính. Để hoàn thành Giấy cam kết này, Chủ đầu tư buộc phải có chứng nhận của cơ quan cấp thẩm quyền ở tất cả các nơi có công trình của mình. Một Tổng Công ty lớn có rất nhiều dự án trên toàn quốc như VINACONEX, mỗi công trình đều buộc có rất nhiều nghĩa vụ như tiền thuê đất, thuế… Một trục trặc nhỏ hoặc chậm trễ tại một dự án nào, không cần biết do chậm trễ chủ quan từ địa phương hay không cũng ảnh hưởng tới tiến độ của dự án này, gây kéo dài thời gian chuẩn bị đầu tư một cách không cần thiết. Ngoài ra, để cấp Giấy chứng nhận đầu tư, các Chủ đầu tư phải có Thiết kế quy hoạch Tổng mặt bằng 1/500 cùng với các báo cáo sơ bộ. Thực tế, điều đó gây rất bất lợi cho Chủ đầu tư, sẽ mất kinh phí để thực hiện thêm một khâu thuê tư vấn hoặc tự lập Quy hoạch chi tiết 1/500 trong khi chưa biết dự án có được chấp nhận đầu tư hay không? Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 80/2006/NĐ-CP quy định quá nhiều loại dự án, chủ đầu tư phải làm các thủ tục báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường…Nhiều dự án quy mô nhỏ, ít ảnh hưởng xấu tới môi trường nhưng chủ đầu tư vẫn phải làm thủ tục về môi trường, mất rất nhiều thời gian. Luật Phòng cháy và chữa cháy cũng như Nghị định 235/2003/NĐ-CP thì lại không quy định rõ cơ quan Công an tham gia thẩm duyệt về phòng cháy và chữa cháy ở giai đoạn nào. Chính vì vậy, chủ đầu tư đã phải xin ý kiến của cơ quan Công an phòng cháy, chữa cháy ở rất nhiều khâu, từ khâu dự án đến khâu thiết kế kỹ thuật, thi công và cả nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng…tạo ra nhiều thủ tục không cần thiết. Chính sách, chế độ của nhà nước về xây dựng cơ bản ban hành chậm, thiếu, không đồng bộ làm hạn chế việc thực hiện ở cấp các ngành ...Luật xây dựng ban hành từ năm 2003, Nghị định thực hiện (Nghị định 16/NĐ-CP) ban hành năm 2005 rồi lại sửa đổi mới đây (Nghị định 112/NĐ-CP). Có những nội dung sửa đổi cũng không làm rõ bằng văn bản trước đấy (ví dụ tại Nghị định 16/NĐ-CP quy định rõ thời gian Thẩm định dự án gồm cả thời gian Thẩm định TKCS đồng thời cũng nêu rõ thời gian yêu cầu cho cơ quan chức năng Thẩm định TKCS, tại Nghị định 112/NĐ-CP sửa đổi giảm thời gian dành cho Thẩm định TKCS nhưng lại không nhắc tới thời gian cho Thẩm định dự án...). Một điểm rất quan trọng mà Nghị định 112/NĐ-CP thay đổi là những trường hợp được phép điều chỉnh dự án đã không còn yếu tố nhà nước thay đổi chính sách, đơn giá tiền lương... nhưng lại không hướng dẫn cách tính toán khoản dự trù trượt giá. Điều này sẽ rất khó khăn cho việc trình và phê duyệt Tổng mức đầu tư của dự án. Những bất cập giữa Luật xây dựng, Luật đấu thầu, Luật doanh nghiệp... cũng là những cản trở đến việc Xây dựng và Vận hành hệ thống quản lý đầu tư của Bộ. Cán bộ các cơ quan nhà nước chưa làm đúng trách nhiệm, chồng chéo, hiệu quả quản lý không cao Cán bộ tiếp nhận hồ sơ khác cán bộ thụ lý hồ sơ, cán bộ tiếp nhận chỉ nhận hồ sơ rồi mất nhiều ngày cán bộ thụ lý mới bắt đầu thẩm định, nếu thấy thiếu hồ sơ thì tiếp tục gọi Chủ đầu tư đến rồi làm lại một loạt công việc, gây mất thời gian đi lại. Bên cạnh đó, thời gian quy định để thẩm định tùy loại hồ sơ thường là 20 – 45 ngày, nhưng hầu như đều bị kéo dài đến 3,4 tháng, gây ảnh hưởng các công việc và tiến độ thi công rất nhiều. Ngoài ra, trong các dự án đầu tư xây dựng nhà ở khác còn tồn tại một số nguyên nhân sau : Thời gian giải quyết hồ sơ Rất nhiều thủ tục thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý nhưng các địa phương lại bắt chủ đầu tư phải tự thực hiện khiến thời gian bị kéo dài, gây phiền hà cho chủ đầu tư và nảy sinh nhiều tiêu cực. Một số thủ tục hành chính về đầu tư xây dựng trái pháp luật do các địa phương tự đặt ra như : Yêu cầu chủ đầu tư phải xin thỏa thuận về kiến trúc; Xin thỏa thuận về hạ tầng của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ điện, nước; Bổ sung thiết kế ngoài nội dung thiết kế cơ sở; Yêu cầu chủ đầu tư phải làm thay nhiệm vụ của cơ quan đầu mối thẩm định thiết kế cơ sở trong việc xin thỏa thuận của nhiều cơ quan liên quan như môi trường, phòng cháy và chữa cháy, quy hoạch… Sở Quy hoạch lại chia nhỏ các nội dung của đồ án quy hoạch và yêu cầu nhà đầu tư phải làm nhiều thủ tục xin thỏa thuận như : thỏa thuận địa điểm, cấp chứng chỉ quy hoạch hoặc cấp thông tin quy hoạch, chấp nhận chỉ giới đường đỏ và cấp số liệu hạ tầng kỹ thuật, chấp thuận quy hoạch tổng thể mặt bằng, chấp thuận phương án kiến trúc và một số các yêu cầu trái với quy định về nội dung thẩm định thiết kế cơ sở khác. Hay việc quy định quản lý quy hoạch và cung cấp các thông tin về quy hoạch thuộc trách nhiệm cơ quan nhà nước, thế nhưng, UBND TPHN lại giao cho Viện Quy hoạch Xây dựng Hà Nội quản lý về chỉ giới đường đỏ và cung cấp các số liệu hạ tầng kỹ thuật cho từng công ty. Tất cả những quy định trên gây kéo dài thời gian một cách không cần thiết, không đảm bảo yêu cầu cải cách thủ tục hành chính mà lại gây phiền hà, kéo dài thời gian chuẩn bị đầu tư xây dựng hơn. Vốn đầu tư Một dự án tốt, rất nhiều ngân hàng, nhà đầu tư sẽ sẵn sàng đầu tư cho dự án đó. Đối với Dự án N05 cũng vậy. Nhưng xét tổng thể, trên thực tế, có rất nhiều dự án mà “nguồn vốn về” rất dè sẻn, không có điều kiện đầu tư chiều sâu, đồng bộ nhằm giải quyết cơ bản từng bước hệ thống các công trình và hầu hết các nhà Chủ đầu tư phải lấy từ nguồn kinh phí của bản thân chi trả để tiến độ hoàn thiện dự án nhanh hơn, nhưng không phải Chủ đầu tư nào cũng có khả năng về tài chính như vậy. Việc nguồn kinh phí chi cho công trình có liên tục, nhanh và mạnh mới có thể nghĩ tới một dự án xây dựng với thời gian đạt đúng tiến độ. Các khâu như Giải phóng mặt bằng, Tư vấn, Đấu thầu… Nguyên nhân khách quan còn có thể kể đến là sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và các Tỉnh... trong quá trình chuẩn bị dự án đặc biệt là sự chậm trễ trong công tác giải toả mặt bằng xây dựng. Khâu giải phóng mặt bằng của các công trình thường kéo dài, và gây tốn rất nhiều kinh phí. Một dự án mà giải phóng mặt bằng chiếm đến một lượng vốn lớn trong tổng mức kinh phí toàn dự án, hoàn toàn hạn chế việc đầu tư về chiều sâu cho công trình. Công tác đấu thầu, mời thầu Công tác này cũng ảnh hưởng quan trọng đến giai đoạn này. Tình trạng yếu kém của các nhà thầu xây dựng cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới Công tác đầu tư xây dựng của ngành. Thời gian qua do nhiều lý do, trong đó có lý do thuộc về quản lý đầu tư của chính phủ, dẫn đến hầu hết các nhà thầu xây dựng đã và đang bị suy yếu, nhân lực tốt ra đi, máy móc không được tăng cường, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém. Hiện tượng vi phạm quy chế đấu thầu diễn ra khá phổ biến làm cho quá trình đấu thầu trở thành “màn kịch” với “quân xanh quân đỏ”, “thông thầu” hoặc “vây thầu” làm cho kết quả cuộc đấu thầu bị sai lệch do đã được sắp đặt trước Đây cũng là nguyên nhân mà những gói thầu đáng lẽ ra phải đấu thầu mà đã chuyển sang cơ chế chỉ định thầu…hiện tượng tiêu cực có thể chuyển sang một dạng khác nếu lại bị buông lỏng quản lý. Nguyên nhân quan trọng phải đề cập đến, đó là kỷ luật chi tiêu tài chính của các doanh nghiệp tư vấn và doanh nghiệp xây dựng rất lỏng lẻo, hầu như chưa có cơ chế kiểm soát, đặc biệt là việc chi tiêu tiền mặt của các doanh nghiệp này. Có thể nói, nếu chỉ dừng lại ở khâu kí kết hợp đồng và thanh quyết toán giữa chủ đầu tư hoặc đại diện chủ đầu tư với các nhà thầu tư vấn, xây dựng…được thể hiện khá chặt chẽ, nhưng do dự án thì ít mà các nhà thầu tư vấn và xây dựng lại quá nhiều ( bao gồm nhiều nhà thầu không có năng lực so với yêu cầu công việc …), vì vậy, đã nảy sinh mối quan hệ bất bình đẳng giữa các đơn vị giao thầu, buộc các nhà thầu phải thực hiện các hành vi tham ô, biển thủ tiền bạc, bớt xén vật tư…cho bản thân mình cũng như hành vi hối lộ dưới dạng “lại quả” cho chủ đầu tư và những người liên quan đến quá trình quản lý dự án. Cũng có khi do mối quan hệ cá nhân, chủ đầu tư lựa chọn tư vấn quen nhưng không đảm bảo năng lực theo yêu cầu của dự án. Năng lực của các nhà thầu tư vấn hoặc nhà thầu xây dựng còn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về lượng và chất. Hệ quả của sự yếu kém này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện dự án cũng như chất lượng và hiệu quả của dự án. Một thời gian rất dài không ai chăm lo đến việc Tăng cường năng lực cho các cơ quan tư vấn. Tuy cũng là các doanh nghiệp nhưng sản phẩm tư vấn có trình độ thấp thì xã hội chịu thiệt thòi nhiều hơn. Các cơ quan Tư vấn thực tế mới là sự chuyển đổi từ các đơn vị Khảo sát-Thiết kế, tỷ lệ "thợ vẽ" còn chiếm phần lớn cho nên chúng ta thiếu rất nhiều chuyên gia Tư vấn giỏi. Để có một nhân lực tư vấn đủ năng lực cần thời gian đào tạo và trưởng thành trong công việc trên 10 năm. Cung cách điều hành, tư duy bảo thủ trì trệ ở một số đơn vị, một số cá nhân Tư vấn đã làm chậm hoặc mất đi khả năng "Tự nâng cao năng lực" của Tư vấn (một yếu tố tối cần thiết để Tư vấn phát triển và hội nhập). Sự chậm phát triển của Tư vấn phần nào cũng do các chính sách của Nhà nước và ngành chưa thực sự tạo động lực thúc đẩy Tư vấn phát triển. Một khi chúng ta ý thức được rằng sự yếu kém của Tư vấn sẽ dẫn đến sản phẩm không tốt cho xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của ngành thì các cơ quan Chính phủ, Bộ chuyên ngành cần có những chính sách nhằm khuyến khích Tư vấn nâng cao năng lực (việc chọn thầu tư vấn với giá rẻ lâu nay không khyến khích Tư vấn sáng tạo, tìm tòi giải pháp tốt nhất cho dự án). Chất lượng nhân sự của doanh nghiệp Ngoài ra, do trình độ và năng lực hạn chế, chủ đầu tư không biết cách điều hành tư vấn đưa ra những đòi hỏi, mệnh lệnh không hợp lý dẫn tới ức chế tâm lý, giảm hưng phấn và ý tưởng sáng tạo của tư vấn. Cũng vì lý do hạn chế năng lực mà chủ đầu tư trở nên dễ dãi hay lệ thuộc vào nhà thầu tư vấn khi nghiệm thu các công việc này. Công tác giám sát và phản biện lại nhà thầu tư vấn không phải lúc nào cũng được chủ đầu tư chú ý đúng mức. Năng lực của các cơ quan thay mặt cho chủ đầu tư còn những bất cập. Điều này thể hiện ở gần như mọi "công đoạn" từ chuẩn bị dự án đến thực hiện dự án. Một số bộ phận còn thực hiện công việc theo tư duy rất cũ mặc dù môi trường đầu tư (chế độ, chính sách... được đổi mới hàng ngày). Tính thụ động trong công việc còn khá phổ biến, trách nhiệm cá nhân (cá nhân hoặc cơ quan) còn chưa được làm minh bạch nên dễ dẫn đến tình trạng "mọi người đều quan tâm một việc nhưng trách nhiệm thì không ai là người chịu chính". Tình trạng này khá phổ biến ở cơ quan công quyền các cấp chứ không riêng ngành xây dựng. Xác định vai trò trách nhiệm của "chủ đầu tư" còn lúng túng trong thời gian dài làm cho không AI là chủ thực sự, chịu trách nhiệm từ đầu cho đến khi kết thúc quá trình xây dựng công trình. Sự lấn cấn giữa chức năng quản lý nhà nước về đầu tư và quản lý sản xuất đôi khi còn chưa được phân biệt. Tình trạng giảm thiểu chất lượng của công tác chuẩn bị dự án có một phần không nhỏ thuộc về trách nhiệm của các cơ quan quản lý có trách nhiệm thẩm định dự án; quyết định đầu tư và thẩm định thiết kế kỹ thuật. Thẩm định dự án chưa thực sự là chốt chặn cuối cùng trước khi trình người quyết định đầu tư để gạn ra các dự án không có hiệu quả. Thực tế vẫn lọt lưới nhiều dự án lớn không có hiệu quả gây nên tình trạng lãng phí trong xây dựng cơ bản. Liên đới trách nhiệm trong vấn đề này là của cả người quyết định đầu tư. Nhiều ý kiến cho rằng, việc phân vai và chế tài trách nhiệm đối với các chủ thể tham gia giai đoạn chuẩn bị dự án chưa được rõ ràng, mạnh mẽ, từ đó dễ dẫn đến các sai phạm. Một số trình tự, thủ tục liên quan tới thẩm tra, thẩm định và quyết định đầu tư cần phải được hoàn thiện hơn. Có nhiều ý kiến cho rằng, không nên để cơ quan quản lý nhà nước thẩm định thiết kế kỹ thuật. Việc thẩm định và quyết định đầu tư nên để cho chủ đầu tư tự tổ chức thực hiện và tự chịu trách nhiệm. Do đặc thù của công tác chuẩn bị dự án thường thể hiện kết quả trên giấy nên ảnh hưởng của công việc này tới chất lượng công trình thường bộc lộ ở những giai đoạn sau và khó được nhận biết. Có nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay, sự suy giảm chất lượng công trình do các nguyên nhân phát sinh từ giai đoạn chuẩn bị dự án ở VN còn lớn hơn cả sự suy giảm chất lượng do các nguyên nhân phát sinh trong quá trình thi công. Điều đáng nói, các hư hỏng, xuống cấp do nguyên nhân bắt nguồn từ khảo sát thường nghiêm trọng và khó khắc phục. Vì thế, theo các chuyên gia nhìn nhận, cần phải tiến hành rất nhiều giải pháp đồng bộ mới chấm dứt được tình trạng này. CHƯƠNG III – MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHUẨN BỊ THỰC HIỆN THI CÔNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ Ở Trên đây là những thành tựu và những tồn tại trong công tác chuẩn bị thủ tục giai đoạn chuẩn bị thi công dự án đầu tư xây dựng nhà ở. Để hoạt động chuẩn bị thi công đạt hiểu quả cao hơn, ta cần có một số biện pháp thay đổi cho các vấn đề gặp phải, để tháo gỡ những vướng mắc, tránh gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Sau đây, em xin phép đưa ra một số giải pháp và kiến nghị sau nhằm rút ngắn thời gian trong khâu thi công và chất lượng của công việc. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VINAHUD – VINACONEX Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực Xuất phát từ vai trò quan trọng của nhân tố con người và cũng căn cứ vào thực tế của công ty thì phải nhận thấy rằng việc quan tâm đến đào tạo và tuyển dụng nhân viên luôn phải là yếu tố đầu tiên khi lập kế hoạch phát triển của công ty. Đặc biệt, khi mà lĩnh vực xây dựng lại là một lĩnh vực mà nhân tố con người luôn giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động. Trong hoạt động đấu thầu từ khâu mua Hồ sơ mời thầu, lập Hồ sơ dự thầu đến thi công công trình, dù cho có nhiều máy móc thiết bị nhưng nếu không có người giỏi lập được những bộ Hồ sơ dự thầu tốt thì cũng không có công trình và máy móc thiết bị có thể hoạt động tốt. Khi nhìn vào một công ty, người ta luôn nhìn vào đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty ấy. Bởi vậy, em xin phép đưa ra những giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực cho công ty như sau : + Đối với các cán bộ làm công tác chuẩn bị thực hiện dự án xây dựng: Đối với đối tượng này, yêu cầu đặt ra là phải hiểu pháp luật, hiểu thị trường, có kỹ năng quản lý và có am hiểu về các lĩnh vực chuyên môn. Vì vậy đổi với họ có thể tiến hành đào tạo trực tiếp thông qua : Tham gia các lớp học về pháp luật. Ở nước ta, pháp luật luôn thường xuyên thay đổi nên việc cập nhật pháp luật thường xuyên là vô cùng quan trọng. Có thể mở mỗi năm 2 lần và mời các chuyên gia về luật giảng dạy để truyền đạt những sự thay đổi mới nhất về các bộ luật có liên quan cho toàn thể cán bộ trong công ty. Bên cạnh việc mở các lớp học về pháp luật, công ty có thể đặt mua định kỳ các báo về pháp luật cho các phòng, ban hoặc lập bảng tin để thường xuyên cập nhật những sự thay đổi về luật mới nhất. Tham gia các lớp học đào tạo chuyên môn nghiệp vụ: Việc đào tạo chuyên môn về tất cả các lĩnh vực cũng cần được quan tâm chú ý. Bên cạnh việc mở rộng và thuê những giảng viên có kinh nghiệm của các trường đại học, của các trung tâm thuộc lĩnh vực liên quan, công ty có thể cử cán bộ đi học tập nâng cao chuyên môn ở các lớp học do bộ Xây dựng tổ chức. Giải pháp về quản lý tiến độ thực hiện dự án Vấn đề mà các Chủ đầu tư, nhà thầu công trình thường gặp phải trong chuẩn bị thi công công trình xây dựng là ở chỗ các dự án xây dựng càng phức tạp thì tiến độ thi công hoàn tất công trình thường vượt quá hạn định và quá mức chi phí dự kiến. Đây chính là vấn đề về thời gian và chi phí xây dựng mà cả hai đều có quan hệ mật thiết với nhau theo kiểu đối kháng, tức là muốn tăng tiến độ thi công để tiết kiệm toàn bộ thời gian xây dựng, thì tổng chi phí đầu tư xây dựng cũng tăng theo. Vì vậy, bài toán đặt ra là luôn mong muốn tối ưu hóa được tiến độ thi công công trình xây dựng, đặc biệt là các công trình lớn, phức tạp. Với thực tiễn như vây, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các mô hình Tối ưu hóa Tiến độ của một công trình xây dựng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Việc lập một kế hoạch tổ chức thực hiện dự án theo một trình tự lôgic, xác định những công việc cần làm, nguồn lực thực hiện và thời gian làm những công việc đó nhằm hoàn thành tốt mục tiêu đã xác định của dự án. Quản lý thời gian và tiến độ dự án là quá trình quản lý bao gồm việc thiết lập mạng công việc, xác định thời gian thực hiện từng công việc cũng như toàn bộ dự án và việc lập kế hoạch, quản lý tiến độ thực hiện dự án. Ta có thể sử dụng các sơ đồ mạng để trả lời các câu hỏi sau một cách khoa học : Dự án cần bao nhiêu thời gian để hoàn thành ? Lúc nào có thể bắt đầu, kết thúc; nếu công việc bị kéo dài thì có thể kéo dài bao nhiêu ngày mà vẫn đảm bảo ? Những công việc nào là trọng tâm, cần tập trung chỉ đạo ? GIẢI PHÁP CHUNG Hoàn thiện nâng cao công tác tư vấn Trong lĩnh vực xây dựng, có các loại hình tư vấn chủ yếu sau : Tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng; Tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng; Tư vấn khảo sát xây dựng; Tư vấn thiết kế công trình; Tư vấn giám sát thi công, lắp đặt; Tư vấn kiểm định chất lượng xây dựng và các Tư vấn xây dựng khác. Vai trò của nhà tư vấn là rất quan trọng và ích lợi mà một chuyên gia tư vấn có đủ năng lực mang lại là rất lớn, vì thế người hành nghề tư vấn phải có đủ, không chỉ các điều kiện năng lực chuyên môn, mà còn phải có tư cách phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp tốt. Các đơn vị tư vấn tiếp tục tuyển dụng, đào tạo đủ lực số lượng và chất lượng kỹ sư thiết kế để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ: Cung cấp thiết kế bản vẽ thi công các công trình đúng tiến độ; Công tác khảo sát, lập dự án, thiết kế, giám sát, xử lý thiết kế tại hiện trường, thí nghiệm, lập hồ sơ mời thầu cho các công trình đầu tư của Tổng công ty; Lập kế hoạch thiết kế chi tiết theo hàng tháng, tuần cho các công trình để kiếm tra việc thực hiện, đảm bảo cung cấp thiết kế kịp thời đáp ứng với yêu cầu thi công. Hoàn thiện công tác thẩm định xây dựng dự án Công tác thẩm định dự án đầu tư ( TĐDAĐT ) là công tác không thể thiếu trong quá trình chuẩn bị đầu tư thi công. Kết quả của công tác này là cơ sở để tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định trên cơ sở lựa chọn những dự án có hiệu quả. Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn và mọi thành phần kinh tế tới khi ra quyết định và cấp giấy phép đầu tư phải qua khâu thẩm định về hiệu quả kinh tế xã hội, về quy hoạch xây dựng, các phương án kiến trúc, công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên. Nguyên tắc này đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cho các dự án đầu tư. Tránh thực hiện những dự án chỉ đơn thuần có lợi về hiệu quả tài chính. Các cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý Nhà nước các dự án đầu tư trước hết phải đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích kinh tế xã hội và lợi ích của các chủ đầu tư. Thẩm định một dự án xây dựng bao gồm: Thẩm định các điều kiện pháp lý Thẩm định mục tiêu của dự án Thẩm định về sự cần thiết của dự án ( được thực hiện trong quá trình chuẩn bị đầu tư ) Thẩm định về kỹ thuật, công nghệ của dự án Thẩm định về tài chính của dự án Thẩm định về kinh tế - xã hội Thẩm định về tác động của môi trường Thẩm định kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện dự án Để các phương pháp thẩm định được áp dụng trong thực tế đem lại hiệu quả cao, em xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu về việc vận dụng các phương pháp thẩm định góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư. Lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp: Có nhiều chủ thể tham gia TĐDAĐT như : Chủ đầu tư, ngân hàng hay tổ chức tín dụng, hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan này có chức năng, vị trí cũng như mục đích thẩm định khác nhau, song để ra các quyết định đầu tư của các chủ thể phụ thuộc nhiều vào việc áp dụng phương pháp thẩm định. Do vậy, tùy theo chủ thể cũng như đặc trưng của dự án mà lựa chọn những phương pháp thẩm định thích hợp, đảm bảo yêu cầu : Phương pháp được lựa chọn phù hợp với khả năng và điều kiện của chủ thể thẩm định. Phương pháp lựa chọn phải theo đúng những yêu cầu, quy định của Nhà nước. Phương pháp thẩm định phải tối ưư trong số các phương pháp đưa ra. Lựa chọn các tiêu chí, tiêu chuẩn thích hợp : Các tiêu chuẩn đưa ra phải phù hợp với quy mô, tính chất của dự án. Công việc này phải đặt trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tránh so sánh cứng nhắc, máy móc có thể dẫn đến bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Tuy nhiên, việc so sánh chỉ mang tính chất tham khảo, không lấy đó làm tiêu chuẩn để đánh giá. Phải xem xét các chỉ tiêu trong môi trường động, thay đổi như chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu kinh tế - xã hội để phân tích, đánh giá. Kết hợp các phương pháp thẩm định nhằm đánh giá toàn bộ DAĐT : Mỗi phương pháp thẩm định đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Vấn đề quan trọng là cán bộ thẩm định phải nhận thức rõ các ưu điểm, nhược điểm đó Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định : Chất lượng công tác TĐDAĐT phụ thuộc rất nhiều vào trình độ kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ. Với yêu cầu của công tác thẩm định phải có kiến thức sâu rộng mới có đủ năng lực để xem xét, đánh giá các dự án phức tạp cả về kinh tế lẫn kỹ thuật. Thời gian tới cần đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ thẩm định dự án, nâng cao trình độ tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, mời các chuyên gia trong và ngoài nước tới đào tạo, tập huấn, tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở thực tế với các trường đào tạo để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định kế cận. Trang bị, khuyến khích họ hiểu vai trò quan trọng của công tác thẩm định cũng như việc vận dụng các phương pháp thẩm định trong việc xem xét, đánh giá DAĐT. Công tác này không dừng ở ý nghĩa của một thủ tục bắt buộc mà phải được coi là cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, cần phải gắn quyền lợi với trách nhiệm của cán bộ thẩm định dự án. Cần có những quy định rõ ràng, chi tiết và cụ thể về quyền lợi với trách nhiệm của mỗi cán bộ; Khuyến khích phát huy sáng kiến, tổ chức phát động các phong trào thi đua trong việc áp dụng các phương pháp mới trong DAĐT. Nâng cao khả năng nắm bắt, xử lý thông tin trong quá trình vận dụng các phương pháp thẩm định : Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc nắm bắt thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định phải đầy đủ, kịp thời, có độ tin cậy cao. Do vậy, cần xây dựng hệ thống cung cấp thông tin từ cơ sở đến Trung ương, hệ thống thông tin nội bộ hiện đại, giúp cho việc truy cập thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời cho công tác TĐDAĐT. Tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ cho việc vận dụng các phương pháp thẩm định khoa học : Việc kết hợp phương pháp thẩm định khoa học, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại đòi hỏi thời gian cần đầu tư hệ thống tin học theo hướng hiện đại, áp dụng các kỹ thuật phân tích, xử lý thông tin kịp thời, chính xác và hiệu quả. Cụ thể như khảo sát thông tin về thị trường sẽ chính xác hơ, việc thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin sẽ diễn ra nhanh chóng và đầy đủ hơn. Giải pháp về đấu thầu Xuất phát từ những hạn chế trong vấn đề quản lý hoạt động đấu thầu đã nói ở phần trước, chuyên đề này xin đề xuất một số giải pháp có thể áp dụng nhằm nâng cao tính khách quan , minh bạch của đấu thầu như sau : Đổi mới công tác đấu thầu, chọn thầu và giám sát chế tài các nhà thầu. Những công trình quan trọng hay phức tạp cần ưu tiên lựa chọn theo các tiêu chí kỹ thuật. Năng lực nhà thầu xây dựng cũng không nên chỉ xét trên “bài dự thi” như hiện nay. Qua hội thảo “đấu thầu chuyên nghiệp” do Bộ Kế hoạch Đầu tư tổ chức gần đây ( do WorldBank tài trợ ), các chuyên gia Trung quốc đã trình bày kinh nghiệm rằng Trung quốc hiện nay hầu hết đã thuê Tư vấn đấu thầu chuyên nghiệp ( không thuộc chủ đầu tư ) thực hiện các dịch vụ từ chuẩn bị hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu ( tất nhiên lựa chọn cuối cùng là quyền của chủ đầu tư nhưng không thể chọn 1 nhà thầu ngoài danh sách đề nghị của Tư vấn đấu thầu ). Chúng ta cũng nên khuyến khích các tổ chức Tư vấn đấu thầu chuyên nghiệp. Họ không chỉ chấm thầu trên cơ sở “bài thi” mà còn phải thẩm tra thực tế năng lực của các nhà thầu. Sự sơ suất hoặc cố tình gian lận của cán bộ đấu thầu có thể dẫn đến phá sản của doanh nghiệp này ngoài vấn đề liên quan đến cơ quan bảo vệ pháp luật. Hiện nay nếu cán bộ của Chủ đầu tư có vi phạm thì chỉ có thể xử lý kỷ luật mà không thể chế tài cơ quan thực hiện. Cũng có tình trạng các chủ đầu tư, tuy không tin tưởng năng lực nhà thầu nhưng lại vẫn phải chọn nhà thầu đó nếu họ đạt điểm cao nhất trong bài dự thầu. Nếu Tư vấn đấu thầu chuyên nghiệp không lựa chọn nhà thầu đó vào danh sách cuối cùng (có lý do) chủ đầu tư sẽ không phải bất đắc dĩ chấp nhận nhà thầu này trúng thầu. Đối với công tác chuẩn bị đấu thầu, Chủ đầu tư phải thực hiện đúng quy định của quy chế đấu thầu, chi tiết hóa Hồ sơ mời thầu, đảm bảo các điều kiện ràng buộc cần thiết, phải chi tiết đầy đủ, có thông tin và tiêu chuẩn kỹ thuật giá thầu, quy định giải quyết các phát sinh, tranh chấp, chỉ rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tư vấn giám sát trong quá trình thi công. Tham gia hiệp hội các nhà thầu Một công trình xây dựng nói chung thường được tiến hành theo hình thức cạnh tranh rộng rãi, số lượng nhà thầu tham gia lớn nên tính cạnh tranh rất cao. Nếu công ty chỉ đơn phương hoạt động trên thị trường, không có sự liên kết với các công ty khác, đối tượng khác thì việc giành được và thực hiện được những hợp đồng lớn là rất khó khăn. Thực tế thị trường đã chứng minh rằng chính sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà thầu là nguyên nhân dẫn đến giá dự thầu xuống thấp vì ai cũng muốn trúng thầu, cũng cố tìm cách để hạ giá dự thầu của mình xuống thấp đến mức có thể. Điều này chỉ có lợi cho bên mời thầu còn bản thân chính các công ty xây dựng bị thiệt do họ đã cố tình hạ mức doanh thu mà họ sẽ nhận được xuống thấp. Giải pháp hợp lý cho tình trạng này là công ty phải tham gia vào một tổ chức nào đó của các nhà thầu, ở đó họ sẽ được bảo vệ, được giúp đỡ trong khi dự thầu. Khi các đối thủ cạnh tranh trong cùng một gói thầu là những người ở trong cùng một tổ chức thì họ sẽ cạnh tranh một cách công bằng hơn, không dùng mọi cách để có thể có công trình như trước kia. Điều này sẽ dẫn đến kết quả là giá gói thầu sẽ không quá thấp như hiện nay. Tăng cường thực hiện hình thức liên doanh, nhận thầu phụ Hình thức liên doanh trong đấu thầu là hình thức mà các nhà thầu cùng nhau tham dự một gói thầu với tư cách một nhà thầu. Trong hợp đồng liên doanh phải xác định rõ đối tượng nào thực hiện công việc nào, lợi nhuận đạt được sau khi hoàn thành công trình sẽ được phân chia như thế nào. Năng lực của nhà thầu liên doanh là năng lực tổng hợp của tất cả các nhà thầu trong liên doanh đó. Hình thức nhà thầu phụ là hình thức các nhà thầu nhận thi công một phần trong gói thầu của các nhà thầu chính hay được nhà thầu chính thuê thi công một phần công việc mà không phải tham dự thầu. Ưu điểm : Đối với một công ty có quy mô về vốn nhỏ như công ty thì thực hiện hai biện pháp này rất thích hợp bởi nó không đòi hỏi vốn lớn, kinh nghiệm nhiều như khi tham gia đấu thầu riêng lẻ. Đồng thời làm như vậy, công ty có thể học hỏi được các kinh nghiệm quản lý của các đối tác. Đó là những bài học không phải có tiền là có được. Nhược điểm : Lợi ích của công ty giảm do phải chia sẻ lợi nhuận (hình thức liên danh) hoặc không chủ động trong tổ chức thi công. Quy định về những tiêu chuẩn bắt buộc của Hồ sơ mời thầu ( HSMT ) HSMT chính là những tiêu chuẩn mà bên mời thầu yêu cầu đối với công trình họ muốn. Vì vậy, nhìn vào HSMT các nhà thầu sẽ biết được họ phải làm gì để trúng thầu. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều HSMT còn chưa rõ ràng còn mang tính ưu tiên không phù hợp hay cố ý đưa ra những yêu cầu mà nhiều nhà thầu không thể thực hiện được. Để giải quyết vấn đề đó, các cơ quan nhà nước cần phải đưa ra các quy định tối thiểu phải có trong một bộ HSMT: các tiêu chí đánh giá, yêu cầu về tư cách tham dự phải hợp lý và mang tính khách quan, yêu cầu về máy móc thiết bị, vật liệu sử dụng. Đối với chủ đầu tư : Khi lập HSMT cũng phải đảm bảo tính khách quan. Đưa ra các biện pháp xử lý tình trạng phá giá trong đấu thầu Cũng giống như bán phá giá, phá giá trong đấu thầu là hiện tượng nhà thầu đưa ra giá quá thấp so với giá thực có của công trình nếu thực hiện đúng các yêu cầu về kỹ thuật của công trình. Thực tế, hiện nay có rất nhiều nhà thầu vì mục tiêu trúng thầu mà đưa ra giá quá thấp khiến các nhà thầu có biện pháp kỹ thuật tốt không thể trúng nổi. Để hạn chế tình trạng đó : + Cơ quan quản lý Nhà Nước : đưa ra định mức đơn giá cho từng loại công trình trên cơ sở một số lượng lớn các công trình đã thực hiện có chất lượng tốt. + Bên mời thầu : Đưa ra mức giá gói thầu tối thiểu trên cơ sở sử dụng các loại vật liệu, máy móc thiết bị, nhân công để có thể đạt chất lượng công trình ở mức sử dụng được : Những Hồ sơ dự thầu có mức giá nào nhỏ hơn giá bên mời thầu đưa ra sẽ bị loại. Nhưng để thực hiện được điều này, bên mời thầu phải có những cán bộ chuyên môn giỏi trong lĩnh vực tính giá dự thầu. Chấm hai lần Công tác chấm thầu còn nhiều vấn đề cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác đấu thầu của công ty, cụ thể nó ảnh hưởng đến kết quả của các cuộc đấu thầu. Để giảm được hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu. Các nhà đầu tư cần tuyển chọn những người có chuyên môn cao, có trách nhiệm, trung thực, uy tín vào Hội đồng chấm thầu (hội đồng này thành lập khi tổ chức đấu thầu). Thành viên của hội đồng này được tuyển chọn từ những người ngoài công ty, có chuyên môn trong nhiều lĩnh vực. Một số giải pháp khác Chống khép kín trong mối quan hệ Chủ đầu tư – tổ chức tư vấn và các nhà thầu trong nội bộ ngành, một địa phương, tỉnh, thành phố bằng biện pháp xây dựng cho được các tổ chức tư vấn thẩm tra, thẩm định, kiểm toán độc lập đối với Chủ đầu tư cũng như không có lợi ích ràng buộc đối với các nhà thầu tư vấn và xây dựng. Trong nhiều trường hợp cần thiết có thể cho thuê tư vấn của nước ngoài tham gia các khâu này. Đây là kinh nghiệm cũng như nguyên tắc hàng đầu của các tổ chức tư vấn quốc tế mà Việt Nam không phải ngoại lệ. Kiên quyết xóa bỏ hình thức đấu thầu hạn chế, thực hiện đấu thầu rộng rãi, công khai, minh bạch đối với tất cả các gói thầu cũng như công khai các tiêu chí xét thầu về năng lực, kinh nghiệm cũng như giá cả. Kiên quyết hạn chế và không quay lại hình thức chỉ định thầu ( trừ một số ít các dự án liên quan đến bí mật quốc gia, cũng như an ninh, quốc phòng…) Hạn chế tối đa việc chi tiêu tiền mặt trong đầu tư xây dựng, kiên quyết và xiết chặt kỉ luật chi tiêu tài chính của các doanh nghiệp tư vấn và nhà thầu xây dựng – những người bị Chủ đầu tư “ra giá” ép buộc phải được “chi trả” mỗi khi được “giao thầu” hoặc được “thắng thầu”. Tăng cường các biện pháp quản lý giám sát của ngân hàng, tài chính, kho bạc đối với các dòng tiền luân chuyển trong quá trình thực hiện đầu tư. Chỉ có như vậy mới hạn chế được nạn tham ô và rửa tiền của các cá nhân cũng như các tổ chức hiện nay. Giải pháp về vốn Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo năng lực tài chính cho các Chủ đầu tư , cần phát huy được các lợi thế, nguồn vốn nên được huy động từ các nguồn vốn khác nhau như từ các nhà đầu tư tiềm năng trong nước, nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư, công ty tài chính, các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tiền tệ. Tập trung vốn từ lâu, tính thêm tiền lãi hàng tháng của ngân hàng mà vẫn chưa xây dựng gây bức xúc cho Chủ đầu tư. Vì vậy, khi đã tập hợp đủ vốn, việc tiếp tục được sự tin tưởng của các nhà đầu tư và tổ chức tài chính, cũng phụ thuộc lớn vào khả năng sử dụng vốn hiệu quả. Lâu nay, ngoài phần vốn tự có, các doanh nghiệp phải vay vốn của các tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển. Vì vậy, tham gia Thị trường chứng khoán ( TTCK ) là một xu thế tất yếu của các doanh nghiệp bởi đây là kênh huy động vốn hiệu quả. Qua việc thu hút được nguồn vốn trong và ngoài nước giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi bán cổ phần qua TTCK, giá cổ phiếu sẽ là thước đo trung thực của xã hội về doanh nghiệp trên mọi phương diện : tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, uy tín, thương hiệu, khả năng phát triển… KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Giải pháp cho vấn đề Giải phóng mặt bằng (GPMB) Thông lệ hiện nay là, lập dự án trước, GPMB sau. Thông lệ này đã tạo ra một tiền lệ không cách cứu chữa: Khi có dự án quy hoạch, giới đầu cơ tập trung mua đất ở khu vực lân cận đẩy giá đất lên cao. Dự toán chi phí đền bù GPMB trở nên một con số nhỏ bé, vô nghĩa so với giá trị thực của đất thời điểm triển khai. Nhiều dự án tưởng như trong tầm tay nhưng khi triển khai do thiếu tiền đền bù đã phải chững lại để điều chỉnh theo phương án mới khả thi hơn. Để chữa trị căn bệnh này, em xin phép đưa ra giải pháp mà các nhà xây dựng đô thị Trung Quốc đã thực hiện : GPMB trước, lập dự án sau. Nếu không giải phóng được mặt bằng thì không có dự án. Nói như vậy không có nghĩa là cứ GPMB rồi lập dự án sau. Khi ra thông báo GPMB, giá đền bù phải có thời hiệu để phù hợp với giá cả thị trường thời điểm đó. Tình trạng thông báo GPMB, nhưng mãi không thấy tiến hành đã làm cho người dân khổ sở và phiền hà. Nhà cửa hư hỏng, dột nát không dám sửa chữa, chật chội không dám cơi nới mà nơm nớp lo chuẩn bị di dời. Có trường hợp người dân phải chờ đợi hàng chục năm trời mà vẫn không được di dời, khiến họ khủng hoảng lòng tin và không thành tâm ủng hộ Nhà nước. Trung Quốc thường lập quy hoạch tổng thể cho cả một khu đô thị lớn hàng trăm héc ta, hay chí ít cũng trên 50 ha. Những khu đô thị nhỏ bé, manh mún sẽ dễ mâu thuẫn với quy hoạch tổng thể. Thêm vào đó, cùng với quy hoạch khu đô thị mới sẽ tạo cơn sốt đất cho những khu vực lân cận. Đây là mầm họa cho công tác GPMB cho những dự án tiếp theo. Giải pháp cho vấn đề cấp phép xây dựng (CPXD) Với nội dung được quy định trong Nghị định số 16/2005/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 09/2005/TT-BXD của Bộ Xây dựng hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng, và gần đây là Thông tư số 02/2007/TT-BXD hướng dẫn thực hiện Nghị định 112/2006/NĐ-CP, việc CPXD cho những công trình quy mô lớn từ cấp I trở lên, nhờ đó đã giảm được thời gian đi lại, chờ đợi của các chủ đầu tư. Người xin phép xây dựng chỉ cần nộp hồ sơ tới cơ quan CPXD mà không phải xin ý kiến thỏa thuận của cac cơ quan về những vấn đề liên quan đến công trình mà việc này là thuộc trách nhiệm của cơ quan CPXD. Với mục tiêu tiếp tục phân cấp mạnh cho chính quyền các cấp tổ chức thực hiện CPXD trên địa bàn, Sở Xây dựng chỉ cấp giấy phép xây dựng đối với những công trình lớn, những công trình trên các trục đường phố chính và tập trung thực hiện chức năng hướng dẫn, quản lý và kiểm tra thực hiện, nên thời gian qua số giấy phép xây dựng do các Sở Xây dựng cấp tiếp tục giảm, chỉ chiếm dưới 10%. Đồng thời với việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính, công khai các quy định; chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc và nâng cao nhận thức về chuyên môn, pháp luật của cán bộ, công chức, cũng như nhận thức của nhân dân nên số lượng chủ đầu tư chấp hành việc xin phép xây dựng đã tăng lên. Quy định công khai các thủ tục hành chính và thái độ tác phong của cán bộ công chức trong việc CPXD và tăng cường công tác CPXD và quản lý trật tự xây dựng. Ngoài việc ban hành các quy định và tổ chức việc cấp phép, thời gian qua một số địa phương đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật về xây dựng, cũng như đã tổ chức các lớp hoặc cử những người trực tiếp thực hiện công tác CPXD tham gia các khóa đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ hoặc bồi dưỡng kiến thức pháp luật liên quan đến công tác này. Nhờ trình độ cán bộ cấp cơ sở đã được nâng cao, nhận thức của nhân dân đã được chuyển biến. Giải pháp khắc phục : Đẩy nhanh hơn nữa công tác lập quy hoạch chi tiết xây dựng, công tác cấp hoặc xác nhận các giấy tờ về quyền sử dụng đất. Tiếp tục phân cấp mạnh đi đôi với việc xây dựng bộ máy đủ về số lượng và chất lượng cũng như trang bị cơ sở vật chất đủ để thực hiện nhiệm vụ cho các cơ quan CPXD đồng thời quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan cấp phép và chính quyền địa phương nơi xây dựng công trình. Thực hiện cải cách hành chính triệt để, khẩn trương rà soát loại bỏ các thủ tục không cần thiết, xây dựng quy trình thực hiện cơ chế “một cửa” liên thông giữa các cơ quan có liên quan đến công tác CPXD để đảm bảo thời gian cấp phép theo đúng quy định. Các Sở Xây dựng đã bố trí cơ sở vật chất và nhân lực để thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả tại phòng “một cửa”, niêm yết công khai các thủ tục, hồ sơ, điều kiện, thời gian cấp phép. Một số Sở Xây dựng đã quy định những người thực hiện công việc này phải đeo thẻ công chức, có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn người xin giấy phép thực hiện đúng các quy định, không được gây phiền hà, nhũng nhiễu, tiêu cực khi thực hiện công việc, tuyệt đối không được lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện chậm trễ không đúng theo quy định, nếu có hành vi tiêu cực sẽ bị xử lý kỷ luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đồng thời với chức năng là cơ quan quản lý ngành, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục rà soát các quy định để đề xuất điều chỉnh hoặc điều chỉnh các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành cho phù hợp với tình hình thực tế. Tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan báo cáo đề xuất Chính phủ bổ sung, sửa đổi cho phù hợp, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện: Căn cứ các quy định của Thành phố và Trung ương về cấp phép xây dựng, quản lý xây dựng và đầu tư xây dựng. Các đơn vị và UBND rà soát lại các văn bản đã có, ban hành các hướng dẫn mới cho phù hợp với yêu cầu mục tiêu đặt ra và phù hợp với tình hình mới nhằm thực hiện tốt hơn việc quản lý đất sử dụng, cấp phép xây dựng, đầu tư xây dựng và quản lý trật tự xây dựng theo đúng quy định. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý xây dựng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Bên cạnh những giải pháp cụ thể cho từng công việc nêu trên, em xin phép đưa ra một số kiến nghị bổ sung thêm nhằm hoàn thiện công tác chuẩn bị thi công công trình xây dựng nhà ở như sau : Đối với lãnh đạo Thành phố và lãnh đạo các Sở, Ban, ngành hữu quan: Phải có trách nhiệm chủ động, sáng tạo cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển Thủ đô trong việc tổ chức nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội; tổ chức thực hiện các kế hoạch, quy hoạch, các dự án đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng được phê duyệt. Tập trung tháo gỡ những khó khăn, thực hiện biện pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, thúc đẩy, kích cầu đầu tư xây dựng, tạo môi trường thuận lợi để khai thác và phát huy các tiềm năng kinh tế tài chính của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế. Chủ động sáng tạo tìm kiếm các giải pháp tạo vốn, khai thác tối đa các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước. Trước hết tập trung hoàn thiện thị trường tiền tệ, lành mạnh hóa tài chính các Ngân hàng thương mại, nghiên cứu sớm thành lập mới các tổ chức trung gian.. Chú trọng đến kĩ năng phát triển dự báo kinh tế - tài chính đề phục vụ cho dự báo về quy hoạch phát triển Thủ đô qua các thời kỳ trong tương lai. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở Bãi bỏ các quy định tại các văn bản của địa phương và Bộ, ngành không phù hợp với quy định của các luật và Nghị định của Chính phủ. Bên cạnh đó, em xin kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại các Nghị định của Chính phủ, bao gồm : + Quy định về điều kiện để giao đất, cho thuê đất tại Điều 30 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai theo hướng tạo thuận lợi cho Chủ đầu tư, nên nghiên cứu hình thức tạm giao đất để Chủ đầu tư có điều kiện tiến hành các công việc khảo sát, nghiên cứu lập dự án. + Quy định về các dự án phải lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường tại Điều 6, Điều 7 và Phụ lục I, Phụ lục II của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP theo hướng hạn chế bớt đối tượng các dự án phải lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường để giảm bớt thủ tục và thời gian cho Chủ đầu tư. Những dự án có lượng chất thải lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường thì mới cần thiết phải lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường. + Quy định về thủ tục thẩm duyệt về phòng cháy, chữa cháy tại Điều 16 và Phụ lục số 3 của Nghị định số 35/2003/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật Phòng cháy, chữa cháy theo hướng: Những công trình có nguy cơ gây thảm họa khi xảy ra cháy như: nhà cao tầng, công trình văn hóa, thương mại tập trung đông người, bãi đỗ xe ngầm, kho hàng dễ cháy, nổ…thì mới cần thiết phải có phương án phòng chống cháy, nổ khi thẩm định thiết kế cơ sở. Các công trình còn lại khi thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công mới yêu cầu phải có thẩm duyệt về phòng cháy, chữa cháy. Các UBND Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương phải chủ động rà soát các văn bản của địa phương mình để kịp thời loại bỏ các thủ tục do địa phương tự đặt ra trái pháp luật hoặc không phù hợp với thự tế, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ, công chức tự đặt ra các yêu cầu sai quy định. Tăng cường phân công, phân cấp trong quản lý xây dựng cho quận, huyện, xã, phường, phối hợp tốt với các cơ quan liên quan trong quản lý xây dựng, thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” liên thông. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị để chấn chỉnh, khắc phục các vấn đề tồn tại và thực hiện các giải pháp nêu trên. Trong đó, yêu cầu các địa phương tập trung nguồn lực và chỉ đạo đẩy nhanh công tác lập Quy hoạch xây dựng; xây dựng kế hoạch cụ thể và xác định rõ lộ trình phủ kín Quy hoạch chi tiết xây dựng để làm cơ sở cho quản lý xây dựng trên địa bàn. Đồng thời, Bộ sẽ tiếp tục tạo ra hành lang cơ chế pháp lý huy động nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia đầu tư từ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông chứ không phải chỉ tập trung vào một vài doanh nghiệp nhà nước hay một vài công ty trực thuộc. Xây dưng một mô hình quản lý đầu tư xây dựng các dự án xây dựng theo hướng tích cực, năng động hơn Mô hình mới không chỉ quan tâm đến đầu tư xây dựng mà cần quản lý khai thác công trình một cách hiệu quả nhất. Mô hình là sự liên kết hữu cơ (có thực hiện, có phản hồi, điều chỉnh hoàn thiện) giữa các mô dun QUY HOẠCH - ĐẦU TƯ XÂY DỰNG - QUẢN LÝ KHAI THÁC. Từ mô hình tổng thể, căn cứ vào Luật xây dựng và các văn bản dưới luật để thiết kế một hệ thống thực hiện. Hệ thống này cần thể hiện rõ các công đoạn của công việc, chỉ ra ai (hay cơ quan nào) có trách nhiệm giải quyết, nội dung, phạm vi , thời gian của mỗi công đoạn cần được chỉ ra rõ ràng và yêu cầu về cán bộ, trang thiết bị.. để hoàn thành nhiệm vụ; khi vận hành hệ thống sẽ bộc lộ các khâu yếu, các cán bộ không đủ năng lực. Trong mô hình, hệ thống như đã nêu các quy định, cơ chế về các chủ thể tham gia xây dựng công trình như Chủ đầu tư, Tư vấn, Nhà thầu xây dựng, Giám sát đầu tư... sẽ được quy định rất rõ ràng. Để thiết lập Mô hình và cung cách quản lý hệ thống đòi hỏi sự quyết tâm cao của Lãnh đạo bộ và các cơ quan chức năng. Tổ chức cán bộ Đối với đội ngũ cán bộ quản lý trong bộ máy quản lý Nhà nước là nhân tố quan trọng trong việc đảm bảo các dự án đầu tư được thực hiện một cách có hiệu quả, đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình. Có thể nói, hiệu quả quản lý Nhà nước về đầu tư tại Bộ Xây dựng phụ thuộc phần lớn vào năng lực trình độ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý. Nhận thức được vai trò đó, Bộ Xây dựng và các Sở ban ngành nên tập trung triển khai, đào tạo, tập huấn cho các cán bộ lãnh đạo và cán bộ dự án về các văn bản mới trong quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản. Em xin kiến nghị một số giải pháp sau: Tiếp tục củng cố, đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ trong bộ máy quản lý đô thị ở cấp quận và chính quyền địa phương. Công tác cán bộ (nhân sự) cũng được lựa chọn nhằm đáp ứng việc vận hành hệ thống đã được thiết kế. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng. Xây dựng lực lượng cán bộ công chức đủ mạnh để hoàn thành nhiệm vụ quản lý xây dựng trên địa bàn theo yêu cầu mới, làm tốt chế độ đào tạo thường xuyên, tập huấn kịp thời cho đội ngũ cán bộ, công chức quản lý xây dựng tại địa phương. Có hình thức khen thưởng các cán bộ công chức thực hiện tốt các quy định. Phê bình, nhắc nhở và xử lý kỷ luật các công chức cán bộ có thái độ gây nhũng nhiễu, cố tình trì hoãn công việc được giao. Kiện toàn và nâng cao năng lực quản lý trật tự xây dựng của Đội quản lý trật tự xây dựng đô thị quận theo đề án tổ chức lực lượng Thanh tra xây dựng của UBND Thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền pháp luật cũng cần được tăng cường phổ biến sâu rộng, nhằm nâng cao nhận thức cho mọi người để nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật nói chung, Luật Đất đai nói riêng, bảo đảm việc quản lý và sử dụng đất đạt hiệu quả, tiết kiệm. Quy định rõ năng lực, quyền hạn, trách nhiệm về : Điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân Chứng chỉ hành nghề Điều kiện cấp Chứng chỉ hành nghề Kiến trúc sư Điều kiện cấp Chứng chỉ hành nghề Kỹ sư Điều kiện năng lực của giám đốc tư vấn quản lý dự án Điều kiện năng lực của tổ chức tư vấn khi làm tư vấn quán lý dự án Điều kiện năng lực chủ nhiệm khảo sát xây dựng Điều kiện năng lực chủ nhiệm thiết kế công trình Điều kiện năng lực chủ trì thiết kế xây dựng công trình Điều kiện năng lực tổ chức tư vấn khi thiết kế xây dựng công trình Điều kiện của cá nhân hành nghề độc lập thiết kế, khảo sát Điều kiện của tổ chức nước ngoài lập quản lý dự án, khảo sát xây dựng tại Việt Nam Quyền và nghĩa vụ cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề Quyền và nghĩa vụ các bên trong công tác quản lý dự án xây dựng. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxGiải pháp nhăm nâng cao hiệu quả chuẩn bị thực hiện thi công dự án nhà ở.docx
Luận văn liên quan