Đề tài Hàng rào phi thuế quan (NTBs) ở Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển

MỤC LỤC Lời mở đầu 2 Từ đó đến nay, hoà vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, tự do hoá thương mại, Việt Nam ,theo phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,các bên cùng có lợi, đã có quan hệ buôn bán với 165 nước trên thế giới, ký hiệp định thương mại song phương với 72 nước (trong đó có Hoa Kỳ), trở thành thành viên của các tổ chức khu vực và thế giới như IMF, WB, ADB ( 1992), ASEAN (1995) APEC (1998) , AFTA . và đang tiến hành đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quá tình hội nhập đó, sự tồn tại dai dẳng các hàng rào phi thuế quan là một trở ngại lớn đối với Việt Nam bởi vì một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo cho Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào xu hướng tự do hoá thương mại là cắt giảm tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan này. Vì vậy việc xem xét các hàng rào phi thuế quan đang được áp dụng taị Việt Nam, nghiên cứu những hạn chế của chúng cũng như đưa ra giải pháp nhằm dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan này là một yêu cấp cấp thiết đối với chúng ta hiện nay trong quá trình thực hiện các chương trình hội nhập kinh tế lớn như: Thực hiện CEPT/ AFTA, hiệp định thương mại Việt-Mỹ và gia nhập WTO. Đó cũng là những vấn đề mà em muốn đề cặp trong phạm vi tiểu luận này. Tiểu luận gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về hàng rào phi thuế quan (NTB) ở Việt Nam. Chương II: Những mặt hạn chế của các hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam Chương III: Thuế quan hoá - một biện pháp tích cực nhằm dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan Chương I: Tổng quan về hàng rào phi thuế quan (NTBs) ở Việt Nam 4 1. Những hàng rào phi thuế quan hiện đang được áp dụng ở Việt Nam 4 2. Những mục tiêu dự kiến của các hàng rào phi thuế quan 16 3. Mâu thuẫn giữa hàng rào phi thuế quan với các qui định khác 20 Chương II: Những hạn chế của hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam 23 I. Biến động giá cả 23 2. Lãng phí trong nhập khẩu 23 3. Năng suất và chất lượng giảm sút 24 4. Tăng chi phí 24 5. Những doanh nghiệp tư nhân nhỏ chịu thiệt thòi 25 Chương III. Thuế quan hoá - Một giải pháp tích cực nhằm dỡ bỏ NTBs 28 1. Ưu điểm của thuế quan 28 2. Vì sao hệ thống thuế quan tốt hơn nhiều nhưng Việt Nam vẫn sử dụng NTBs 30 3. Làm thế nào để chuyển NTBs sang hệ thống thuế quan 31 Lời kết 38 Danh mục Tài liệu tham khảo 39

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6201 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hàng rào phi thuế quan (NTBs) ở Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trình hội nhập kinh tế lớn như: Thực hiện CEPT/ AFTA, hiệp định thương mại Việt-Mỹ và gia nhập WTO. Đó cũng là những vấn đề mà em muốn đề cặp trong phạm vi tiểu luận này. Tiểu luận gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về hàng rào phi thuế quan (NTB) ở Việt Nam. Chương II: Những mặt hạn chế của các hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam Chương III: Thuế quan hoá - một biện pháp tích cực nhằm dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan.. Em xin chân thành cảm ơn thạc sĩ Nguyễn Quang Minh giảng viên môn Quan hệ kinh tế quốc tế - người đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành tiểu luận này. Vì thời gian và trình độ có hạn nên tiểu luận không tránh khỏi sai sót. Mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để tiểu luận được hoàn chỉnh hơn Hà Nội tháng 4 _ 2001 Sinh viên thực hiện Bùi Mạnh Tuân CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN Ở VIỆT NAM Các hàng rào phi thuế quan (NTBs) vẫn còn là một điểm nổi bật trong chính sách thương mại ở Việt Nam. Các hạn chế về số lượng hoặc các chỉ tiêu phân bổ ngoại tệ và nhiều biện pháp hành chính khác nhau được áp dụng để kiểm soát, quản lý và hạn chế nhập khảu một số chủng loại hàng hoá. Sự tồn tại dai dẳng của những hàng rào phi thuế quan này trái ngược với những biện pháp mà chính phủ thực hiện nhằm cải thiện chất lượng của chế độ thương mại. Các hạn chế về số lượng là các hàng rào thương mại ở trình độ thấp. Tác động của nó không được minh bạch, thu nhập hay lợi tô sẽ rơi vào người nắm giữ hạn ngạch ưu đãi , mức độ bảo hộ không hiển thị rõ ràng và sự cách ly khỏi sức ép của thị trường có thể ở mức tuyệt đối. Do mức độ bảo hộ là không rõ ràng nên rất khó xây dựng được chương trình tự do hoá thương mại. Bảo hộ dựa trên thuế quan là xuất phát điểm cho một chường trình tự do hoá và một cơ chế giảm bớt sự bảo hộ theo phương thức tiến hành từng bước và dễ nhận biết. Mặc dù những lợi thế của hệ thống thuế quan là rõ ràng song hàng rào phi thuế quan vẫn tiếp tục được sử dụng ở Việt Nam, có lẽ bởi vì người ta cho rằng hàng rào phi thuế quan có thể giúp đạt được những mục tiêu mà hệ thống thuế quan không có khả năng thực hiện được . Một đặc điểm hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam là chúng đôi khi được áp dụng cho nhiều mục tiêu. Bước đầu tiên việc thiết kế một chiến lược để bãi bỏ dần hay rỡ bỏ hàng rào phi thuế quan là xác định các biện pháp hiện đang được áp dụng và những mục tiêu cơ bản mà những biện pháp này cần đạt được. Đây chính là mục đích của chương này. 1. Những hàng rào phi thuế quan hiện đang được áp dụng ở Việt Nam Bảng 1 tóm lược một loạt các hàng rào phi thuế quan được áp dụng ở Việt Nam. Bảng này được dựa trên nghiên cứu về các biện pháp phi thuế quan (trong đó hàng rào phi thuế quan là bộ phận ) do McCarty tiến hành năm 1999 nhằm phục vụ cho văn phòng Chính phủ. Nghiên cứu này phân loại các biên pháp dựa theo phân loại các biện pháp kiểm soát thương mại của hội nghị liên hợp quốc về mậu dịch và phát triển (UNCTAD). Bảng 1: Dựa trên định nghĩa trong đó hàng rào phi thuế quan là các hành động của chính phủ (thông qua luật hoặc biện pháp hành chính) có tác dụng làm thay đổi các khuyến khích đối với sản xuất hoặc tiêu thụ hàng hoá có thể thương mại ( hoặc ngoại thương ) được . Tất cả các hàng rào phi thuế quan được liệt kê trong bảng 1 tạo ra sự bất đồng về thương mại giữa Việt Nam và các nước khác, tuy nhiên hạn chế về số lượng (QRs) đối với hàng hoá nhập khẩu ( và các biện pháp khác như quá trình phân bổ và cấp giấy phép nhập khẩu hỗ trợ cho hệ thống hạn chế về số lượng) và các biện pháp về phân bổ ngoại tệ có lẽ là những rào cản thương mại lớn nhất. Các hạn chế về số lượng (QRs) l Có thể phân chia các sản phẩm chịu hạn chế về số lượng ra thành 3 nhóm chính: -Hàng hoá nhập khẩu có điều kiện bao gồm: +Những hàng hoá nêu trong Nghị định 57/1998/NĐCP là những hàng hoá phải có giấy phép nhập khẩu và nhập khẩu có điều kiện. +Các sản phẩm bổ sung theo qui định của Quyết định 254/1998/QĐ-TTg -Hàng hoá chịu sự quản lí chuyên ngành của các bộ chủ quản. -Hàng hóa bị cấm nhập khẩu và xuất khẩu. Phạm vi ảnh hưởng của các hạn chế về số lượng (QRs) QRs được xác định theo mức phân loại sản phẩm tương đối cụ thể. Các số liệu về sản xuất và nhập khẩu ở Việt Nam thường được đưa ra ở mức gộp kiến cho các ước tính phạm vi ảnh hưởng cuả NTPs ( tính theo tỷ lệ sản xuất hay nhạp khẩu của các mặt hàng chịu ảnh hưởng) gặp khó khăn. Tuy nhiên số liệu quốc gia về nhập khẩu và bảng cân đối liên ngành mới nhất có thể dùng làm cơ sở để ước tính phạm vi ảnh hưởng của NTPs. Biểu 1.2 : Phạm vi nhập khẩu bị hạn chế về số lượng (Nguồn : IEDB, tính toán của CIE) Biểu đồ 1.2 cho thấy xấp xỉ 40 % hàng hoá nhập khẩu phải chịu hạn chế về số lượng . Những con số này dựa trên cơ cấu nhập khẩu năm 1996, còn quy định về nhập khẩu lại là của năm 1999. Phần lớn số hàng hoá nhập khẩu thuộc danh mục hàng hoá quy định trong Nghị định 57 và thuộc dạng nhập khẩu có điều kiện ( hoặc cấm nhập trong trường hợp thuốc lá điếu mặc dù vào năm 1996 , một khối lượng đáng kể thuốc lá điếu đã được nhập). Quyết định 254 vào năm 1999 đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng thêm 5 %. Quản lý chuyên ngành ảnh hưởng đến 13 % tổng nhập khẩu. Tuy nhiên con số ước tính này nhiều khả năng có sai số tương đối lớn. Các hạn chế về số lượng gây ra những méo mó thương mại khi áp dụng đối với nhập khẩu một số loại hàng hoá . Bởi vậy nên những ước tính về phạm vi ảnh hưởng của hàng rào phi thuế quan thường bị thấp hơn giá trị thực sự nếu như các tính toán sử dụng số liệu thực tế. Nếu tiến hành tính toán phạm vi ảnh hưởng của NTBs đưa vào giả định hoạt động thương mại trong điều kiện hoàn toàn tự do (điều không có trên thực tế) thì phạm vi này chắc còn lớn hơn nhiều. Số liệu trên không bao gồm những ảnh hưởng của một loạt các NTBs khác như kiểm soát ngoại tệ và kiểm soát tín dụng. Các NTBs khác có tác động không thể dự đoán trước được và không đồng đều đối với các hàng hoá. Do đó khó thực hiện những phân tích những ý nghĩa về phạm vi ảnh hưởng của NTBs . Tuy nhiên có thể kết luận phạm vi ảnh hưởng thực tế của NTBs ở Việt Nam sẽ cao hơn rất nhiều nếu tính đến những rào cản này . Như trong ví dụ được thảo luận ở phần tới. Việc nhập khẩu hàng tiêu dùng bị hạn chế bằng các kiểm soát được thực hiện trong lĩnh vực ngân hàng. Trong năm 1996 , các hàng hoá tiêu dùng vẫn chưa bị kiểm soát số lượng một cách rõ nét chiếm khoảng 1/4 lượng nhập khẩu. Nếu tất cả mặt hàng này mà chịu sự hạn chế về số lượng thì phạm vi ảnh hưởng của NTBs được ước tính ở mức trên 60 %. Biểu đồ 1.3 cho thấy ảnh hưởng của QRs tính theo mức độ sản xuất hàng hoá. Số liệu về sản xuất dựa trên cân đối liên ngành năm 1996 của Việt Nam. Khoảng 24 % sản xuất hàng hoá nhận được từ bảo hộ của QRs. Phạm vi ảnh hưởng tính theo tổng giá trị sản xuất (hàng hoá và dịch vụ) chiếm khoảng 15 % những con số này phần nào phản ánh tỷ trọng cao của nông nghiệp và quy mô sản xuất nhỏ bé đối với chủng loại hàng hoá được bảo hộ như xăng dầu và phân bón. Việc phân loại theo bảng I/O được thực hiện ở mức độ gộp rất cao và do vậy khó xác định riêng rẽ các mặt hàng thuộc quy định 57 và 254. Hơn nữa do có khả năng phóng đại phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của NTBs do một số ngành cũng sản xuất không phải chịu hạn chế về số lượng . Tuy nhiên sự phóng đại này không còn nữa như tính đến ảnh hưởng của các hàng rào phi thuế quan khác như quản lý chuyên ngành và kiểm soát ngoại tệ. Để có khái niệm về mức độ ảnh hưởng , kiểm soát quản lý chuyên ngành đối với nhập khẩu của các sản phẩm như động vật sống, dược phẩm, thuốc trừ sâu, các hoá chất hữu cơ, các ấn phẩm và thiét bị truyền thanh có phạm vi tác dộng là 5 % tổng sản xuất hàng hoá và dịch vụ hay 8 % tổng sản xuất hàng hoá. Bảng 1.3 : Sản xuất hàng hoá chịu ảnh hưởng của các hạn chế về số lượng Nguồn số liệu: GSO (1999a), tính toán của CIE Phân bổ ngoại tệ Quyết định 254 yêu cầu hàng hoá tiêu dùng và nhiều nguyên liệu nhập (hợp kim thép, nguyên liệu thô PVC, thanh nhôm và cấu trúc nhôm) phải do thuế , phụ htu và các phương thức tanh toán khác nhau điều tiết, trong thực tế, điều này có nghĩa là các ngân hàng không được phép phát hành thư tín dụng trả chậm để nhập khẩu những hàng hoá này. Các nhà nhập khẩu các mặt hàng này phải có đủ vốn ngay để trang trải cho các hàng hoá này. Điều này đặt ra một trở ngại đối với các công ty có vốn lưu động nhỏ. Các công ty nhỏ, của tư nhân có khả năng trong diện này, các yêu cầu về bán ngoại tệ cho ngân hàng làm tăng thêm khó khăn cho các công ty đang gập phải khó khăn trong việc tiếp cận đến vốn dùng để nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng và các loại hàng hoá khác. Ngoài hạn chế về thư tín dụng trả chậm, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang khuyến khích các ngân hàng thương mại hạn chế tiếp cận ngoại tệ dùng cho việc nhập khẩu hàng hoá trong nước đã sản xuất thay thế được. Điều này dẫn đến mức độ tuỳ ý cao trong việc phân bổ ngoại tệ tạo nên một NTB rất không minh bạch. Kết quả là chỉ những doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn mới có khả năng tiếp cận ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá đó. Không những điều này tăng sự bảo hộ đối với nhung xnhà sản xuất trong nước mà còn gây bất lợi cho những doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực tư nhân có ít ảnh hưởng đối với hệ thống ngân hàng. Có các tín hiệu trái ngược nhau về những kiểm soát . Một số công ty cho rằng chúng chẳng qua chỉ là một sự giám sát , sự vận động của ngoại hối và không thực sự tạo ra rào cản nào cả. Nhưng các công ty khác thì phải lựa chọn giữa mua trong nước và nhậpkhẩu các sản phẩm giấy, thép, xi măng và một số hàng hoá khác đã cho biét rằng các rào cản dựng nên đối với họ trong việc mua ngoại tệ là quá lớn nên họ phải quay sang các nguồn cung cấp trong nước. Các NTBs khác Nhóm NTBs quan trọng khác là các biện pháp tương tự htuế quan trong phan loại của UNCTAD. ở Việt Nam những biện pháp này bao gồm : vụ thu hải quan, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng( đặc biệt, có nhữnh miễn trừ cụ thể đối với những hàng hoá thể ngoại thương được). Tuy thuế tiêu thụ đặc biệt hay được đánh vào hàng xa xỉ phẩm trên danh nghĩa được áp dụng cho hàng hoá bất kể xuất xứ, những miễn giảm đặc biệt đối với những sản xuất trong nước có nghĩa là quy định này thực tế chỉ áp dụng đối với hàng xuất khẩu. Việc sử dụng tối thiểu để định giá hàng nhập khẩu cũng thuộc vào nhóm NTBs này. Cơ quan hải quan báo cáo rằng số lượng hàng hoá nằm trong danh mục giảm từ 37 năm 1997 xuống còn 11 năm 1999. Các mặt hàng được bãi bỏ nếu phạm vi tác động của gian lận thương mại đối vpới hàng hoá đó thấp và nếu giá cả thị trường ổn định và do đó cơ quan Hải quan có thể dễ dàng đánh giá chính sác của giá báo trong hoá đơn nhạp khẩu. Hải quan công nhận rằng giá tối thiểu không phải là phương pháp phù hợp để xác định thuế nhập khẩu và đề nghị rằng luật hải quan phải được sửa đổi để đưa vào điều khoản phù hợp với quy định về giá của GATT. Thủ tục hải quan thực hiên chậm chạp và các quy trình nặng nề là một rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu, và do đó cũng cần nhận thấy rằng đã có mọt số biện pháp thực hiện nhằm tạo thuận lợi cho việc xử dụng các đại lý hải quan (customs agents) . Điều này có lẽ là hợp lý vì các nỗ lực trong việc đẩy nhanh các thủ tục hải quan là đối nghịch với xu hướng dựa vào NTBs. 2. Các mục tiêu dự kiến của các hàng rào phi thuế quan: Bảng 1.1 mô tả các mục tiêu của các hàng rào phi thuế quan (NBTs) ở Việt Nam. Bảo hộ ngành công nghiệp trong nước là một mục tiêu chung xuyên suốt NTBs nhưng trong một số trường hợp NTBs có rất nhiều mục tiêu. Chẳng hạn thuế tiêu thụ đặc biệt về cơ bản là công cụ tăng thu ngân sách nhưng những miễn trừ đối với các nhà sản xuất trong nước làm cho nó trên thực tế trở thành thuế đánh thêm vào nhập khẩu để tăng sự bảo hộ đối với các nhà sản xuất trong nước. Những hạn chế về thư tín dụng trả chậm ban đầu cũng được áp dụng để giải quyết các vấn đề về nợ nước ngoài ngắn hạn, nhưng hiện nay đang được sử dụng để hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng và các hàng hoá khác. Trong trường hợp QRs nhiều hạn chế dường như được áp dụng nhằm phục vụ cho mục tiêu bảo hộ, song tuỳ thuộc vào từng sản phẩm mà các mục tiêu khác lại là chính. Bảng trình bày chi tiết hơn các mục tiêu của các hạn chế về số lượng đối với với sản phẩm. Sự hiện diện của các hạn chế về số lượng trong thương mại phần nào là sản phẩm được thừa kế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà ở đó thương mại được quản lý nhằm đạt được cân bằng về tài chính và hiện vật trong nền kinh tế. Về mặt này, các hạn chế về số lượng đối với xăng dầu và phân bón có thể đuợc xem như một chỉ tiêu được phân bố cho việc nhập khẩu các sản phẩm để bảo đảm đủ cung cấp cho nền kinh tế hơn là các giới hạn trên được áp dụng bắt buộc đối với nhập khẩu. QRs đối với phân bón nói riêng được áp dụng như là phương tiện để bảo đảm cung cấp đủ phân bón ở mức giá ổn định chứ không phải là một biện pháp bảo hộ. Nếu như điều này dường như là đúng đối với trường hợp phân ure là loại phân bón Việt Nam có công suất sản xuất nhỏ, song những quy định cấm gần đây đối với nhập khẩu phân NPK tạo ra một sự bảo hộ đáng kể đối với các nhà sản xuất trong nước. QRs đối với xe máy tạo ra một lựa chọn chính sách lưỡng nan khá thú vị. Một mặt Việt Nam muốn khuyến khích phát triển ngành công nghiệp sản xuất xe máy trong nước bằng cách bảo vệ ngành này khỏi canh tranh của hàng nhập khẩu. Mặt khác, Việt Nam muốn hạn chế số lượng xe máy ở Việt Nam do cơ sở hạ tầng đường xá kém. Đạt được một cách thoả đáng những mục tiêu mâu thuẫn với nhau như vậy dường như là một việc không thể làm được. Những hạn chế về nhập khẩu có điều kiện áp dụng đối với các mặt hàng được quy định trong nghị định 57 có mục tiêu chủ yếu là bảo hộ trong trường hợp hạn chế về nhập khẩu có điều kiện áp dụng cho các mặt hàng được quy định trong quyết định 254, tuy mục tiêu nêu ra là đảm bảo cán cân thanh toán, song bảo hộ có lẽ là lý do cơ bản của các mặt hạn chế này. Các kiểm soát đối với hàng hoá chịu sự quản lý chuyên ngành của các bộ chủ quan và cấm nhập khẩu có mục tiêu da dạng, song tập trung chủ yếu vào bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường và an toàn công cộng, Những mục tiêu này là cơ sở của các quy chế điều tiết của nhà nước ở nhiều nước, song để đạt được mục tiêu này thì có thể sử dụng các công cụ khác có hiệu quả cao hơn và ít tốn kém hơn so với các hạn chế về nhập khẩu. Các mặt hàng bị hạn chế Mục tiêu Hạn chế nhập khẩu có điều kiện + Phân bón - Bảo đảm cung cấp đủ tại mức giá ổn định - Bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước + Xăng dầu - Bảo đảm cung cấp đủ - Bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước - Bảo vệ môi trường + Phương tiện xe mô tô gắn máy - Bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước - Bảo vệ môi trường + Các mặt hàng quy định trong nghị định 57 - bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước - Các mặt hàng quy định trong quyết định 154 - Cán cân thanh toán - Bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước Hạn chế quản lý chuyên ngành - Các chất hoá học (Bộ Công nghiệp) - An toàn cho mọi người - Động vật hoang dã, động thực vật giống, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, thức ăn động vật - Sức khoẻ dân chúng - Bảo vệ môi trường - Kiểm soát cách ly - Dược phẩm (Bộ Y tế) - Sức khoẻ mọi người - Giống thuỷ sản, thức ăn nuôi trồng thuỷ sản và chất hoá học bảo vệ môi sinh dưới nước (Bộ thuỷ sản) - Sức khoẻ mọi người - Các ấn phẩm, các tác phẩm điện ảnh, các phương tiện truyền thông audio và video (Bộ Văn hoá) - Bảo vệ các giá trị văn hoá Hạn chế quản lý chuyên ngành - Tjiết bị chống áp suất, thang máy và các vật liệu nổ (Bộ LĐ TBXH) - Sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp - Các thiết bị ngân hàng (NHNN Việt Nam) - Các tiêu chuẩn kỹ thuật - Thiết bị truyền sóng, thu và phát sóng radio (Tổng cục Bưu chính Viễn thông) - Bảo trì bảo dưỡng hoà nhập mạng lưới thông tin viễn thông Hàng hoá cấm - Vũ khí đạn dược - An toàn cho mọi người - An ninh quốc gia - Các loại ma tuý - Sức khoẻ cho mọi người - Nhiệm vụ quốc tế - Chất hoá học độc hại - An toàn xã hội và môi trường - Các văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ - Bảo vệ các giá trị văn hoá - Pháo các loại và đồ chơi trẻ em - An toàn xã hội - Thuốc lá điếu - Sức khoẻ xã hội - Bảo hộ - Hàng tiêu dùng và phụ tùng xe ô tô và mô tô đã qua sử dụng - Bảo vệ môi trường - Trường hợp quản lý (định hía) - Hình ảnh quốc gia - Bảo hộ - Phương tiện tự hành tay lái nghịch - An toàn xã hội 3. Mâu thuẫn giữa NTBs với các quy định khác. Ở Việt Nam, để đạt được các muc tiêu cụ thể, Chính phủ sử dụng nhiều công vụ. Do vạy việc bãi bỏ dần NTBs chỉ có tác dụng khi có những cải cách bỏ trợ đối với các quy định khác. Điều này nghĩa là việc bãi bỏ NTBs hạn chế hàng nhập khẩu vào một ngành cụ thể có thể không tạo ra sự phân bố lại nguồn lực nếu có một công cụ điều tiết khác sẽ lại được áp dụng. Thép là một ví dụ khác về sự tác động lẫn nhau giữa các chính sách. Được biết Ban Vật giá Chính phủ đã đặt ra việc kiểm soát giá tối thiểu đối với một số loại thép bởi vì công suất sản xuất mới sắp tới việc cạnh tranh trong nước sẽ rất gay gắt trong một số lĩnh vực - đặc biệt khi cầu đang xuống. Việc bãi bỏ các quy định cấm nhập khẩu đối với thép xây dựng có thể sẽ không làm tăng hiệu quả trong ngành sản xuất thép trong nước nếu giá tối thiểu làm hạn chế cạnh tranh ở thị trường trong nưóc. Cũng tương tự như vậy, đầu tư ở các lĩnh vực mới mở có thể không đuợc khuyến khích nếu giá tối đa hạn chế lợi nhuận của nhà sản xuất. Trong một số trường hợp, việc bãi bỏ NTBs có thể khiến một số quy định trở lên không cần thiết. Một số ví dụ tiêu biểu trong trường hợp này là phân bón, Nhập khẩu phân NTK hiện đang bị cấm do công suất sản xuất trong nước đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Hạn chế này là một sự bảo hộ quan trọng cho các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, nghị định 250/1998/NĐ-CP ngày 24/12/1998 quy định rằng phân bón trong nước không được bán trên mức giá của hàng nhập khẩu tương tự. Yêu cầu này sẽ trở lên không cần thiết nếu phân bón được phép nhập khẩu tự do vì cạnh tranh sẽ không cho phép giá trong nước tăng lên trên mức giá của hàng nhập khẩu cùng loại (có vẻ như quy định này không có hiệu lực chút nào vì số liệu giá cả của Ban Vật giá Chính phủ cho thấy trong năm 1998, mức giá trong nước vượt so với giá cùng loại trên thế giới là 30%). Trong trường hợp xi măng, những hạn chế đối với nhập khẩu xi măng cũng cho phép định giá cao hơn ở một số thành phố lớn để trợ cấp chéo hàng bán cho các khu vực nông thôn với mục tiêu phát triển nông thôn. Cạnh tranh từ hàng hoá nhập khẩu sẽ hạn chế khả năng các doanh nghiệp nhà nước phân biệt các mức giá và do vậy cần một công cụ thay thế như trợ cấp của Chính phủ. Sự bảo hộ bằng các NTBs sẽ khiến đầu tư ở khu vực được bảo hộ hấp dẫn hơn - đặc biệt nếu có được sự bảo đảm là bảo hộ sẽ tiếp tục. Để giải quyết mối lo lắng về việc đầu tư quá mức, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch đầu tư đã khuyến nghị lên Chính phủ không tiếp tục phê duyệt thêm công suất sản xuất thép, trừ trong 4 lĩnh vực được ưu tiên. Đồng thời quyền lực của chính quyền địa phương và các khu công nghiệp trong việc phê duyệt dự án cũng đã bị huỷ bỏ. Những hành động này đã làm giảm các nguồn lực phân bổ cho các lhu vực này. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận thấp hoặc đang giảm sút là tín hiệu khiến các nhà đầu tư nhận thấy đầu tư không còn hấp dẫn nữa. Trong khi những hành động của Chinh phủ duờng như không thống nhất vói hoạt động của nền kinh tế thị trường, chúng đươc xem như một nỗ lực bắt chước các kết quả đạt được của thị trường bằng cách chống lại các tác động tiêu cực của bảo hộ. Bãi bỏ NTBs đối với thép và đồng thời giảm mức bảo hộ đối với ngành này sẽ giúp làm cho những can thiẹp của Chính phủ trở lên không cần thiết. CHƯƠNG II : NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NTBs Ở VIỆT NAM Khả năng có thể tiên liệu và tính minh bạch là hai đặc điểm quan trọng tạo nên một chính sách tốt. Việc sử dụng hàng rào phi thuế quan làm công cụ để thực hiện chính sách thương mại và chính sách công nghiệp không đáp ứng được hai yêu cầu đó. Bởi vậy chương này tập trung xem xét những tác động của việc sử dụng rộng rãi các hàng rào phi thuế quan như là một công cụ bảo hộ ở Việt Nam, đồng thời đưa ra lý do giải thích tại sao việc xoá bỏ những hào rào như vậy lại quan trọng cho sự phát triển kinh tế Việt Nam cả trong những giai doạn trung hạn cũng như dài hạn. 1. Biến động giá cả: Cơ chế quản lý thương mại ở Việt Nam vẫn luôn đi theo hướng chung là tìm mọi biện pháp để kiểm soát nhập khẩu với mục tiêu giữ giá cả trong nước theo sát với giá cả thế giới. Tuy nhiên những sai lầm hầu như không thể tránh khỏi trong quá tình đánh giá và xác định thời điểm thực hiện đã gây ra tình trạng giá cả biến động mạnh ở thị trường trong nước. Giá cả biến động, sự khan hiếm của các mặt hàng như xi măng, sắt thép, giấy và thuốc trừ sâu diễn ra trong nhiều năm là những bằng chứng rõ nét. Tổn phí kinh tế của các chính sách gây ra sự biến động của giá cả thường là rất lớn. Giá cả biến động tạo ra những tín hiệu hỗn tạp cho nhà sản xuất và người tiêu dùng, hạn chế khả năng lập kế hoạch cũng như khả năng đầu tư của họ. 2. Lãng phí trong nhập khẩu: Nếu các sản phẩm có thể thay thế lẫn nhau được và việc nhập khẩu những sản phẩm thay thế được cho phép thì những người tiêu dùng và các nhà sản xuất sử dụng những sản phẩm đó làm nguyên liệu sẽ thực hiện sự thay thế. Ví dụ thép chất lượng cao được phép nhập khẩu và có thuế suất nhập khảu bằng không. Điều này khuyến khích các công trình xây dựng thiết kế vượt yêu cầu và sử dụng thép chất lượng cao trong khi các loại thép chất lượng cao không phù hợp. Có hai lý do để giải thích, thứ nhất giá của thép chất lượng cao không phải chịu thuế rẻ hơn và thứ hai, khi thép xây dựng bị cấm nhập khẩu còn thép xây dựng sản xuất trong nước có chất lượng không bảo đảm thì chỉ còn cách duy nhất là sử dụng thép chất lượng cao. Cách thay thế như vậy có ý nghĩa là nèn kinh tế cũng sẽ phải chịu một khoản lãng phí bởi giá tính bằng ngoại tệ của thép chất lượng cao nhập khẩu sẽ cao hơn so với giá nhập khẩu thép xây dựng phục vụ cho cùng một mục đích. Và nếu như người tiêu dùng vẫn có khả năng tìm được mặt hàng thay thế thì rõ ràng biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo hộ ngành sắt thép trong nước không thực hiện được đúng mục tiêu của mình. 3. Năng suất và chất lượng giảm sút. Khi bản thân chất lượng của các sản phẩm hàng hoá trong nước vốn đã thấp hơn so với những hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh, đồng thời khả năng thay thế cũng bị hạn chế thì chất lương những sản phẩm được sản xuất trong các khâu sau sẽ bị ảnh hưởng. Trường hợp của ngành nhựa là một ví dụ minh hoạ rất rõ nét, sản phẩm của ngành công nghiệp nhựa Việt Nam hiện nay đang cạnh tranh rất tốt với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên quyết định gần đây về kiểm soát lượng DOP nhập khẩu nguyên liệu quan trọng để sản xuất nhựa - đã buộc những nhà sản xuất không còn cách lựa chọn nào khác là phải nua những sản phẩm DOP sản xuất trong nước. Không những việc bắt buộc sở dụng DOP sản xuất trong nước tác động đến chi phí của các Công ty thuộc khâu sau bởi giá mua trong nước cao hơn giá nhâp khẩu tới 25% mà chất lượng sản phẩm sản xuất trong nước cũng bị giảm. Điều này dẫn tới chất lượng hàng hoá ở các khâu sản xuất sau bị giảm xuống và làm lợi nhuận của những nhà sản xuất sản phẩm nhựa. 4. Tăng chi phí. Hệ thống quản lý thương mại hiện nay phần nào chịu ảnh hưởng của tụ tưởng muốn tự cân đối nhu cầu bằng sản xuất trong nước đối với những mặt hàng được bảo hộ. Nếu ước tính thấy năng lực sản xuất trong nước của một mặt hàng có thể đáp ứng được nhu cầu thì lập tức nhà nước quyết định cấm nhập khẩu mặt hàng đó. Biện pháp bảo hộ toàn hoàn bằng cấm nhập khẩu chỉ càng làm tăng chi phí sản xuất trong nước - điều kiện cần thiết để sản phẩm có thể sản xuất ở Việt Nam. Như vậy, với một vài sản phẩm tự cân đối trong nước sẽ đòi hỏi việc tiếp tục được bảo hộ và người sử dụng ở khâu sau sẽ phải chịu giá cao hơn. 5. Những doanh nghiệp tư nhân nhỏ chịu thiệt thòi. Cách làm hiện nay chỉ có lợi cho những doanh nghiệp lớn, hoạt động lâu năm và có ảnh hưởng. Đây là những doanh nghiệp có thể gây áp lực đến quá trình hoạch định chính sách hoặc có quan hệ mật thiết với các cơ quan có quyền quyết định. Các doanh nghiệp tư nhân nhỏ nhìn chung không thể tác động đến môi trường chính sách hay không được hưởng những đối xử ưu đãi không chính thức trong hệ thống chung. Ngành nhựa là một ví dụ rất rõ ràng cho thấy những doanh nghiệp tư nhân nhỏ đã có thể mở rộng hoạt động sản xuất có hiệu quả và hoàn toàn có thể đứng vứng được mà không cần phải có sự bảo hộ lớn. Lợi ích của các doanh nghiệp này đã bị tác động mạnh bởi quyết định bảo hộ các doanh nghiệp nhà nước hoặc liên doanh với nhà nước sản xuất nguyên vật liệu và đầu vào. Ngoài ra còn có cả bằng chứng cho thấy những doanh nghiệp tư nhân nhỏ sử dụng một số loại nguyên liệu và sản phẩm khó kiếm được ngoại tệ để nhập khẩu. Khi những hạn chế về số lượng được xoá bỏ, chi phí sản xuất nông nghiệp sẽ giảm khoảng 3%, chủ yế là nhờ giá phân bón giảm xuống. Nghành xây dựng cũng có lợi với việc chi phí trực tiếp giảm đi 4% bởi giá xi măng giảm cùng với giá các sản phẩm khác như sắt thép, kính và xăng dầu cũng giảm. Lợi ích của nghành in và xuất bản sẽ do giá giấy thấp hơn đem lại và nghành chế biến thực phẩm sẽ là được lợi nhièu với mức chi phí tiết kiệm được là 6,4% nhờ giảm chi phí từ các đầu vào then chốt của các nghành. Nhờ tiết kiệm những khoản chi phí như vậy nên các nghành nâng cao được khả năng cạnh tranh trên cả thị trường trong và ngoài nước và do đó tăng được sản lượng và mở rộng việc làm. Và dẫu cho việc dỡ bỏ những hạn chế số lượng nhập khẩu có thể gây ảnh hưởng đến số lượng việc ngành sản xuất những sản phẩm trước đât được bảo hộ, chẳng khó khăn ta có thể thấy được rằng một khi các ngành liên quan tăng thu nhập từ những đầu vào giảm, họ sẽ mở rộng hoạt động và giải quyết được số việc làm dôi dư đó. Một điểm khác có liên quan cũng cần được nói tới. Dù cơ chế miễn giảm thuế là có lợi trực tiếp cho nhà xuất khẩu vì nó cho phép họ sử dụng đầu vào nhập khẩu với giá thế giới song cơ chế này sẽ không ảnh hưởng gì tới giá cả của đầu vào sản xuất trong nước vì như chúng ta đã thấy, những giá này bị nâng lên bởi những biện pháp bảo hộ áp dụng cho đầu vào của những ngành thuộc những khâu trước trong quá trình sản xuất chúng. Hơn nữa cơ chế miễn giảm thuế theo kiểu đó thực ra cũng tạo ra thiên vị bất lợi đối những đầu vaò sản xuất trong nước cũng bởi lý do trên (các ngành này cũng phải dùng các đầu vào có giá cao hơn do bảo hộ ND). và tuy có thể thiết kế những cơ chế miễn thuế tinh vi hơn, giải pháp thực tế hơn cả là giảm tình trạng bảo hộ đồng đều cho tất cả các mặt hàng. Điểm thứ hai cần được bàn về cách ước tính chi phí ở trên là ở chỗ chúng mới chỉ đựoc tính đến những tác động trực tiếp của bảo hộ tới chi phí bằng việc xem xét những đầu vào được bảo hộ bởi các biện pháp hạn chế số lượng mà thôi. Trên thực tế những khoản tiết kiệm chi phí có lẽ còn cao hơn bởi vì chi phí sản xuất các đầu vào khác cũng sẽ giảm. Điều này luôn xảy ra bởi lẽ ngay quá trình sản xuất những đầu vào này cũng sẽ tận dụng các sản phẩm được bảo hộ bằng hạn chế số lượng và do vậy cũng giảm được chi phí của mình. Thứ ba, phân tích không tính đến những sản phẩm thay thế khác nhau cho các đầu vào mà các doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng chúng nếu chi phí của những đầu vào thay đổi. Trong chừng mực các doanh nghiệp có thể thay đổi cách phối hợp các yếu tố sản xuất của mình theo hướng giảm giá đầu vào thì khả năng cắt giảm thêm chi phí dễ xảy ra. Cần phải sư dụng một mô hình cân bằng tổng thể có thể tính toán được thì mới có thể tính được toàn bộ những tác động gián tiếp chới chi phí và khả năng thay thế đầu vào. Điểm thứ tư liên quan đến những nhân tố khó định lượng hơn của hàng rào phi thuế quan. Những tính toán nói trên chưa hề đề cập đến phần chi phí tăng thêm do việc mất thời gian bởi không tiếp cận được tới những đầu vào cần thiết hoặc do phải tăng thêm số lượng nhân viên giải quyết những trở ngại về mặt hành chính để có được những đầu vào đó. tương tự, ngay cả phần chi phí tăng do chỉ tiếp cận được đến những đầu vào có chất luợng thấp cũng không được tính đến. Và điểm cuối cùng cần phải nói về phân tích này là giả định xoá bỏ được hoàn toàn những hạn chế về số lượng. Nếu thay cho chúng là những mức thuế mới tương đối cao (tức là vẫn duy trì bảo hộ) thì những tiết kiệm chi phí được ước tính sẽ không xảy ra. Chỉ có thể có được toàn bộ lợi ích khi giảm bớt sự bảo hộ. Điều này không có nghĩa là thuế hoá là một việc làm vô ích, song sẽ được lợi hơn nếu tiến hành thuế hoá các hạn chế về số lượng với một múc thuế thấp hơn so với tương đương thuế quan được ước tính. Với trường hợp của nông nghiệp có thể nói rằng phần tiết kiệm chi phí phản ánh toàn bộ tổn phí của việc sử dụng hạn chế về số lượng chứ không phải của việc sử dụng thuế. Chương I đã xác định được mục tiêu của hạn chế số lượng là nhằm đảm bảo thực hiện cung ứng ở một mức giá ổn định chứ không phải là để bảo hộ. Tuy nhiên cũng như trong một số nghiên cứu khác lại cho thấy giá phân bón trong nước cao hơn giá trên thế giới tới 30%. Việc thuế hoá nhằm giữ cho mức bảo hộ dự kiến cố định sẽ có thể đưa tới kết quả là thuế thay thế áp dụng cho phân bón chỉ còn ở mức con số không. Như thế thì nông nghiệp sẽ có thể thực sự được hưởng toàn bộ ức tiết kiệm chi phí như được tính ở trên. Phân tích trên đây đã cho thấy rằng mặc dù hàng rào phi thuế quan bảo hộ được một số ngành nhất địng song chúng làm tăng chi phí đối với những ngành khác. Đặc biệt với cơ cấu kinh tế như của Việt Nam hiẹn nay thì những ngành được chính phủ côi là cần có sự nghiệp phát triển nông thôn (ngành công nghiệp), xuất khẩu (ngành chế biến lương thực) và đầu tư (xây dựng) lại luôn bị sự bảo hộ này làm ảnh hưởng. Nếu do các ngành này là quan trọng nên cần duy trì sự bảo hộ thì việc bảo hộ như vậy cần phải được thực hiện theo một cách hiệu quả nhất. CHƯƠNG III : THUẾ QUAN HOÁ - MỘT GIẢI PHÁP TÍCH CỰC NHẰM DỠ BỎ CÁC NTBs 1. Ưu điểm của thuế quan: Một trong những nền tảng cơ bản của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) khi được thành lập năm 1948 là nếu cầu thiết phải bảo hộ thì biện pháp bảo hộ phải ở dưới dạng thuế quan (một nền tảng cơ bản khác là nguyên tắc "tối huệ quốc" - mức thuế nhập khẩu thấp nhất được áp dụng đối vói một hàng hoá nhập khẩu từ một nước cần phải được áp dụng cho sản phẩm đó nếu như được nhập khẩu từ tất cả các nước khác). Bởi vậy nội dung và mục tiêu chủ yếu của những vòng đàm phán đầu tiên trong khuôn khổ GATT là chuyển hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào phi thuế quan khác thành thuế quan. Thành công chính của vòng dàm phán Urugoay vừa kết thúc năm 1997 là thuế hoá được các biện pháp bảo hộ nông nghiệp. Việc thuế hoá đã được thảo luận trong một số diễn đàn ở Việt Nam. Tại sao việc thuế hoá lại được khuyến khích rộng rãi (nhưng không phải cho tất cả) đến vậy ? Có một vài nguyên nhân sau sẽ giải thích lý do tại sao thuế được coi là một phương thuốc tốt về mặt chính sách. Truớc hết, khác hạn ngạch, với thuế quan, những thông tin về biến động giá cả thế giới sẽ được chuỷen tải đến những nhà sản xuất,. người tiêu dùng và các nhà đầu tư trong nước. Mặc dù thuế quan vẫn bóp méo việc phân bổ nguồn lực trong nước song ít ra thì hệ thống thuế tính theo giá trị hàng nhập khẩu cũng chuyển tải những tín hiệu quan trọng về những thay đổi trong giá thế giới đến sự phân bổ các nguồn lực. Và như đã nói đến ở trên, những hạn chế về số lượng dù cố định hay linh hoạt cũng chắn không cho những thông tin này chuyển tải tín kiệu đến nền kinh tế trong nước. Thứ hai, mức thuế quy định mức bảo hộ mà chính phủ nước sở tại sẵn sàng dành cho một ngành cụ thể nào đó (và suy ra múc thuế mà Chính phủ sẵn sàng đánh vào các ngành còn lại của nền kinh tế) chứ không phải cho phép mức dộ bảo hộ tự hình thành từ những thay đổi của giá trong nước và giá thế giới. Nếu chính phủ đặt mức thuế quan là 25% thì điều đó có nghĩa là giá trong nước sẽ cao hơn giá trên thế giới là 25%. Nếu có hạn chế về số lượng, tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa (một cộng với thuế suất nhập khẩu) sẽ bằng tỷ lệ giữa giá trong nước chia cho giá thế giới. trong trường hợp này nếu giá trong nước hoặc giá trên thế giới thay đổi thì tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa cũng thay đổi thao. Tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa (hay tương đương thuế quan) có thể chỉ còn bằng không hoặc có thể tăng vọt mà không cần chính phủ phải đưa ra bất cứ một quyết didnhj nào về mặt chính sách. Thứ ba khác với các hàng rào phi thuế quan, mức độ bảo hộ trong thuế quan rất rõ ràng, minh bạch. giống như những hình thức thuế khác, có rất nhiều lý do để những người tiêu dùng, các nhà sản xuất và đầu tư cần dễ dàng nhận biết được thuế suất. Và đối với các nhà đầu tư, để có được những quyết định đúng đắn họ cần phải biết liệu có thể có những biện pháp bảo hộ nào trong tương lai. Như vậy thuế quan cho phép tạo nên khả năng tiên liệu và tính minh bạch một đặc tính mà những hàng rào phi thuế quan theo hiểu hạn chế số lượng hoàn toàn không có được. Thứ tư khi Chính phủ muốn tự do hoá thương mại thuế quan cho phép giảm bớt mức độ bảo hộ một cách rõ ràng và hoàn toàn có thể tính toán trước. Còn trong trường hợp chính phủ thực hiẹn tự do hoá thương mại bằng cách mới lỏng hạn ngạch thì tỷ lệ giảm bớt bảo hộ sẽ không thể dự tính được. Thứ năm, chính phủ có thể nhận được những khoản thu từ thuế quan còn những khoản thu từ những hàng rào phi thuế quan thì lại bị phung phí làm chi phí bị đẩy lên cao hoặc làm rơi vào tay những người có được hạn ngạch ưu đãi dưới dạng lợi tô. Hơn nữa trong những cuộc đàm phán thương mại, việc giải quyết những hàng rào thương mại cụ thể là rất dễ thực hiện, trong khi đó các hạn chế số lượng sẽ dẫn đến việc chạy chọt và những hoạt động vô tác dụng khác. Và cuối vùng, thuế quan cho phép hình thành khả năng "tự động" cân đối nền kinh tế mà không gây biến động giá cả trong nước. thuế quan giúp cân bằng cung cầu đồng thời đảm bảo mức chênh lệch giữa giá trong nước và giá thế giới đúng bằng mức thuế đã quy định. 2. Vì sao hệ thống thuế quan tốt hơn nhiều nhưng Việt nam vẫn sử dụng NTBs ? Có thể có một nguyên dân của thực tế đó là do một trong số trường hợp cần phải quản lý nhập khẩu ddể đảm bảo an toàn công cộng. Ví dụ cần kiểm soát nhập khẩu xăng dầu để bảo đảm chỉ những doanh nghiệp, cá nhân được đào tạo và trang bị đầy đủ mới đuơc tham gia mua bán, trao đổi mặt hàng vốn rất nguy hiểm này. Cũng có thể một nguyên nhân khác phù hợp với tình hình của Việt Nam là thu nhập từ việc có được hạn ngạch xuất khẩu hay nhập khẩu sẽ rơi vào ngân sách các tỉnh. Do vậy, hàng rào thuế quan là một nguồn thu của các tỉnh. Dù đây là một cách tạo nguồn thu rất không hoàn hảo (với những lý do đã nêu trên) nhưng néu không có cơ sở chế tạo và chia sẻ nguồn thu tốt thì hàng rào phi thuế quan có thể sẽ là một sự lựa chọn thay thế. Để thực hiện chức năng mua bán và quản lý nhà nước đối với một số sản phẩm nhất định như dược phẩm, các chín phủ cũng có thể đi tới quyết định sử dụng hàng rào phi thuế quan. Trong một số trường hợp, chỉ só chính phủ mới có thể đàm phán và đạt được những thoả thuận có lợi với những công ty đa quốc gia. Một nguyên nhân khác của việc sử dụng hàng rào phi thuế quan là do Chính phủ muốn ổn định thị trường trong nước. tuy nhiên như đã được đề cập ở trên, những gì đang diễn ra giúp khẳng định rằng cách sử dụng hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam chỉ làm tăng giá và gây biến động lượng hàng trên thị trường. Nếu diểm qua báo chí trong một vài năm vừa rồi chúng ta có thể thu thập rất nhiều những tít báo, những tiêu đề về tình trạng giá cả bất ổn định. có rất nhiều ví dụ như vậy được dẫn chứng đối với những hàng hoá được gọi là "giữ cân bằng", ví dụ như xi măng, giấy, kính và sắt thép. Ở Việt Nam cách sử dụng hàng rào phi thuế quan là di sản của cơ chế kinh tế ké hoạch hoá tập trung bao cấp. Cho tới năm 1989 Việt Nam vẫn chưa sử dụng và nhìn nhận được vai trò củ thuế như một phương tiện để kiểm soát nhập khẩu hay để tăng thu nhập từ nhập khẩu. Và những mục tiêu này đã đươc đặt ra khi Nhà nước thực hiện định hướng cho hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và xác định mức dóng góp của chính vào ngân sách. Trên thực tế kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thường vẫn đi theo phương pháp "ngoài ngân sách" để đáp ứng chi tiêu và mục tiêu chính sách của các cơ quan trung ương, tỉnh và địa phương. Chỉ khi các phần tử của hệ thống thu ngân sách chính thức xuất hiện thì những cơ quan quản lý hành chính mới quyết tâm xóa bỏ đi hệ thống mà trong đó việc bảo vệ những nguồn thu tiền mặt và những nguồn lực khác của các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò the chốt đối với việc trang trải cho các chi tiêu công cộng. Hiện nay những nhân tố của một hệ thống thuế hiện đại, những cơ chế thu từ việc nắm sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước và một khuôn khổ cho việc chia sẻ thu thập và nguồn thu giữa các cấp chính quyền vẫn còn đang ở giai đoạn hình thành. Và vì vậy rất dễ hiẻu tại sao các cơ quan quản lý lại muốn sử dụng các công cụ chính sách có tác dụng duy trì việc tiếp cận đến các nguồn lực. Hệ thống này càng trở lên phức tạp bởi vẫn còn nhiều doanh nghiệp thương mại hoặc sản xuất vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của các bộ và các cơ quan có trách nhiệm xây dựng chính sách và các quy định điều tiết quan trọng. Khoảng 43% khối lượng hàng hoá xuất khẩu và 35% lượng hàng nhập khẩu do các bộ hoặc chính quyền địa phương thực hiện. 3. Làm thế nào để chuyển NTBs sang hệ thống thuế quan ? 3.1. Nên thuế hoá với mức thuế suất nào : Thay thế NTBs bằng thuế quan đòi hỏi phải xác định được loại thuế quan hay thế phù hợp. Không có những quy tắc chặt chẽ và nhanh chóng nào giúp xác định được loại thuế quan thay thế phù hợp. Không có những quy tắc chặt chẽ và nhanh chóng nào giup xác định thuế thay thế phù hợp cũng như cách thức để tính loại thuế này. Cuối cùng thì đây cũng là vấn đề phải tự suy luận. Tuy nhiên có nhiều thông tin mà các nhà hoạch dịnh chính sách có thể kiếm được nhằm giúp cho việc suy luận đánh giá này. 3.2. Xem xét các chênh lệch giá cả. Một hệ thống hạn ngạch hay quản lý nhập khẩu thường hạnc hế mức nhập khẩu và cho phép giá của các hàng hoá tương tự được sản xuất trong nước cao hơn so với nếu không có kiểm soát. Tuy sự chênh lệch giá cả tạo ra bởi kiểm soát không chỉ là nhân tố duy nhất có ảnh hưởng đến sản xuất các quyết định thương mại và tiêu dùng, song nó vẫn có thể chỉ ra chi phí cơ hội mà đất nước phải chịu do hệ thống này gây nên. Giá hàng nội địa có thể khác giá nhập khẩu vì nhiều lý do và không chỉ do kiểm soát nhập khẩu. Do vậy việc ước tính chỉ riêng tác động của kiểm soát nhậo khẩu là một vấn đề không đơn giản. tuy nhiên sự chênh lệch giữa giá nội địa của hàng hoá và giá miễn thuế nhập khẩu của hàng hoá tương tự hoặc hoàn toàn tương thích là một xuất phát hưu ích. Có một số điểm đáng lưu ý trong việc so sánh các giá này. Thứ nhất, kiểm soát nhập khẩu cho phép các nhà cung cấp đặt giá cao hơn so với nếu không có sự kiểm soát. Lợi ích của các mức giá cao này có thể thuộc về nhà nhập khẩu hoặc về nhà xuát khẩu ở nuớc cung cấp. trong cả 2 trường hợp thì giá cũng tăng lên trước khi hàng nhập khẩu cập bến. Do vậy việc so sánh giá hàng hoá nhập khẩu miễn thuế và giá bán buôn hàng hoá nhập khẩu có thể đánh giá không hết mức tăng lên của giá hàng hoá nhập khẩu do việc kiểm soát gây ra. Nếu sự so sánh được thực hiện giữa hàng hoá sản xuất nội địa và hàng hoá nhập khẩu thì điều quan trọng là phải tiến hành việc so sánh giá tại các giai đoạn tương thích với nhau trong chuỗi phân phối. Tốt nhất là so sánh giá xuất xưởng (không tính đến thuế gián thu đối với hàng hoá thành phẩm với giá hàng hoá nhập khẩu miễn thuế tại kho của nhà nhập khẩu. Ở Việt Nam cũng cần lưu tâm đến cách thức xử lý thuế gián thu đã được đưa vào trong giá báo cáo vởi bì hàng hoá trong nước và hàng nhập khẩu có thể nhận được cách đối xử khác nhau và số liệu sẵn có về giá có thể bao gồm những loại thuế này. Hạn chế về số liệu có thể bắt buộc phải thực hiện việc so sánh ở những khâu sau, chẳng hạn tại mức giá bán buôn trong nuớc. Nếu phải tiến hành so sánh như vậy thì cần nhận thấy rằng giá cả tại khâu đó sẽ bao gồm phí lưu thông cần để trang trải cước phí vận chuyển, chi phí bốc dỡ xử lý hàng và lợi nhuận của nhà bán buôn. Điều cốt lõi và bảo đảm rằng giá được tính ở tại các giai đoạn tương thích trong chuỗi phân phối hàng hoá. Điểm thứ hai cần nhấn mạnh là giá cả sẽ khác nhau do sự khác biệt về chất lượng, dịch vụ sau bán hàng và các đặc tính dịch vụ khác. Tuy cần phải thực hiện so sánh cùng một loại sản phẩm song điều này không phải lúc này cũng thực hiện được. Phải luôn lưu ý đến khác biệt về đặc tính của sản phẩm khi tính toán sự chênh lệch giá cả. Néu các sản phẩm cạnh tranh ít được người tiêu dùng nhìn nhận như là các sản phẩm có thể thay thế lận nhau thì ước tính tương đương thuế quan nhận được trên cơ sở tính toán chênh lệch giá giữa hàng hoá nội địa và hàng hoá nhập khẩu sẽ bị kém chính xác. Cuối cùng cần nhắc lại một thuộc tính của NTBs - đó là chúng đưa ra mức bảo hộ bị biến động do giá trong nước ngoài và giá trên thế giới (và do vaạy là tương đương thuế quan) thay đổi theo thời gian. Trong thực tế, càn phải có một hệ thống bảo hộ không đổi, nhận biết được và do Chính phủ đặt ra chứ không phải do thiếu sót tạo thành. Đây là một trong những lý do chính giải thích sự cần thiết phải chuyển sang chế độ thuế quan ở tại bất cứ nước nào. Điểm này cần được hiểu theo cách mà NTBs được quản lý ở Việt Nam. Chế độ quản lý không nhất thiết phải là hạn ngạch cố định mà là một nỗ lực nhằm cân bằng nhu cầu thị trường trong nước bằng cách quản lý thương mại. Một số người chịu trách nhiệm tư vấn về các mức độ và hình thức bảo hộ cho rằng diều chỉnh nhập khẩu thường xuyên giúp họ bảo vệ thị trường trong nước không được phép chênh lệch quá xa mức giá quốc tế này. Vì những lý do trên nên không cần phải thực hiện việc so sánh giá cả nhằm để điều chỉnh các ước tính về mức độ bảo hộ. Thay vào đó, các so sánh giá cả được thực hiện là nhằm để đo tương đương thuế quan một cách khái quát. Có nghĩa là hcúng phải cho thấy khoảng phạm vi chứ không phải là đưa ra một mức thuế quan chính xác. Điểm quan trọng là không nên tiêu phí nỗ lực và nguồn lực một cách quá mức cho việc xác định cính xác tương đương thuế quan khi những biện pháp này, như sẽ thảo luận trong phần dưới đây, chỉ là một yếu tố quyết định thuế quan thay thế cuối cùng. Xi măng minh hoạ cho vấn đề về sự biến đổi theo thời gian cũng tương đương thuế quan ước tính. Vào năm 1998 sự chênh lệch giữa giá xi măng miễn thuế được nhập khẩu chính thức và xi măng đen sản xuất trong nước là khoảng 33 USD, với giá bán xi măng trong nước là 75 USD/tấn. Tuy nhiên vào năm 1999 giá xi măng trong nước xuống còn 55 USD/tấn, do vậy chênh lệch giá cả ít hơn. Một số nhà sản xuất cho rằng việc sản xuất trong nước của họ có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu tại mức thuế quan là 50%. Công việc giám sát chênh lệch giá cả hiện đang được thực hiện có thể cung cấp các thông tin hưu ích không chỉ đối với hàng hoá sẽ được thuế quan hoá mà cả với các hàng hoá khác như hàng hoá chịu sự quản lý chuyên ngành. Trong trường hợp các hàng hoá chịu sự quản lý chuyên ngành, thông tin là một biện pháp để chính phủ (và các đối tượng khác) có thể giám sát xem liệu nó có vô hình tạo ra sự bảo hộ quá mức với các ngành công nghiệp trong nước hay không. 3.3. Xem xét các thông tin khác. - Danh mục thuế quan hiện tại. Danh mục thuế quan hiện tại cũng cung cấp thông tin phù hợp cho công việc thuế quan hoá. Cho tới tận năm nay, các nhà sản xuất các mặt hàng quy định trong Quyết định 254 chỉ được bảo hộ bằng thuế quan. Danh mục thuế quan đối với hàng hoá này là một chỉ số hữu dụng của mức bảo hộ phù hợp. Do tình hình đã thay đổi rất nhiều kể từ khi ban hành Quyết định 254 nên danh mục thuế quan có thể không còn là một chỉ số tốt. Lý do là Việt Nam có xu hướng cho phép hàng hoá được nhập khẩu miễn thuế nếu chúng không được sản xuất trong nước. Sử dụng danh mục thuế quan có thể làm thay đổi cách đói xử với các hàng hoá có quan hệ mật thiết với nhau và điều này có thể khuyến khích sử dụng hàng thay thế một cách lãng phí trong khâu tiêu dùng và sản xuất. Đối với tất cả hàng hoá, một nguyên tắc quan trọng là các hàng hoá mới được thuế quan hoá được đưa vào danh mục thuế quan với thuế suất không khác xa sản phẩm tương tự. Từ quan điểm quản lý hành chính, các nhân viên hải quan sẽ dễ dàng quản lý thuế quan khi các hàng hoá tương tự có mức thuế suất tương đương vì việc phân loại sản phẩm khi đó sẽ trở nên đơn giản hơn. Quan trọng hơn là áp dụng thuế quan tương tự có nghĩa là giá tương đối của các hàng hoá (tương đối so với giá thế giới ) không bị bóp méo nhiều. Các quyết định của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng mạnh bởi giá tuơng đối và do khác với mức thuế suất cao đối với một mặt hàng dễ dàng bị thay thế bởi một hàng hoá khác với mức thuế suất thấp hơn có thể khuyến khích việc thay thế mặt hàng . Sử dụng sắt đặc biệt có chất lượng cao thay cho sắt xây dựng thông thường trong ngành xây dựng là một ví dụ. Xét về chi phí ngoại hối thì việc thay thế hàng hoá có chất lượng cao sẽ rất tốn kém. Nó cũng giảm hiệu quả về việc bảo hộ mà mức thuế suất cao dự định thực hiện. -Đấu giá Trong một số trường hợp, bán đấu giá quyền nhập khẩu có thể được sử dụng như một cư chế chuyển tiếp để biết được tác động của hạn chế định lượng nên giá cả, tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi một mức độ tói đa cố định ( hoặc ít nhất là dự đoán được) hoặc hạn chế vèe số lượng nhập khẩu. NTBs của việt nam không được thiết kế theo cách này và cố gắng thành lập một hệ thống đấu giá chỉ gây ra sự nhầm lẫn. Trong thực tế, việc xây dựng một cơ sở hạ tầng hành chính để tến hành đấu giá thành công trong điều kiện của Việt Nam nhiều khi hướng sự chú ý của chính sách ra khỏi hoạt động có hiệu quả hơn. Như đã nêu ở trên, thuế quan có thể áp dụng nhằm đạt được mức chênh lệch tương đương giữa giá nhập khẩu miễn thuế và giá nhập khẩu "có hạn ngạch" ở bất cứ thời điểm nào. Điều này không có nghĩa rằng tác động boả hộ trong trường hợp này cũng sẽ không như với hạn ngạch, nhưng nó có nghĩa là mức gia được chọn hay sự bất lợi về chi phí của sản xuất trong nước sẽ được thuế quan hỗ trợ . Vấn đề chủ yếu là liệu có nên lắm bắt cơ hội thuế quan hoá để thu hẹp mức chênh lệch gia như hiện nay không. Có thể xem xét cải cách NTBs như một quá trình gồm hai giai đoạn . Gai đoạn đầu là giai đoạn báo hiệu chuyển sang hệ thống bảo hộ dựa vào thuế quan, trong đó các nhà sản xuất trong nước phải hoạt động trong khuôn khổ mức chênh lệch cố định giữa giá thế giới và giá trong nước của hàng nhập khẩu . Do đây là một thay đổi quan trọng trong cách tiếp cận đến chính sách bảo hộ , có lẽ có thể lập luận rằng chọn thuế quan cao vẫn là việc nên làm nếu nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi . Giai đoạn thứ hai của quá trình sẽ bao gồm việc cải thiện cơ cấu của danh mục thuế quan và đưa thuế quan đối với các hàng hoá trước đây được quản lý vào quá trình cải cách thuế quan và giảm bớt bảo hộ . 3.4 Các cuộc cải cách bổ sung : Mục tiêu cuối cùng của thuế quan hoá là cải thiện những tín hiếu đối với phân bổ nguồn lực ở Việt Nam. Lợi ích của thuế quan hoá sẽ tăng lên nếu như có thêm những tiến bộ trong việc bãi bỏ dần các canr trở đối với phân bổ nguồn lực . Điều này phần nào có nghĩa là hợp lý hoá việc kiểm soát giá cả (cả kiểm soát trực tiếp do Ban Vật Giá chính phủ thực hiện và những kiểm soát gián tiếp từ các công ty khai thác sức mạnh thị trường của họ ở trên các thị trường có ít sức cạnh tranh ). Chính sách cải cách bổ sung liên quan đến các cản trở trên thị trường các yếu tố sản xuất . Các nguồn lực quan trọng hiện đang được khai thác sử dụng trong các doanh nghiệp nhà nước. CIE (1998c) xác định một số chính sách giúp cải cách thị trường yếu tố sản xuất và cải cách doanh nghiệp nhà nước Các cuộc cải cách đang tiến hành là nhằm nâng cao hiệu quả và quản trị của khu vực này và do đó sẽ giúp đất nước nhận được nhiều lợi ích hơn nữa từ thuế quan hoá . Thuế quan hoá phải bổ sung cho và được bổ sung bởi các cải cách đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay . LỜI KẾT Hiện nay trên thế giới, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Hội nhập vào xu hướng ấy là một tất yếu khách quan của tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cũng như bất kì một cuộc chơi nào, cơ hội luôn kèm theo thách thức. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, khi mà thực lực còn yếu, thêm vào đó là sự mới mẻ, xa lạ của các nguyên tắc trò chơi (chưa nắm vững luật chơi) trong khi áp lực về thời gian (tốc độ) và tính khắc nghiệt của luật chơi (sòng phẳng) quá lớn thì thách thức đến trước và cơ hội đến sau. Tuy nhiên không phải vì thế mà nản chí, chùn bước, bi quan thúc thủ dẫn tới sự cô lập trong thế giới toàn cầu hoá. Vấn đề đặt ra là phải hội nhập như thế nào để vượt qua thách thức và tận hưởng tối đa lợi ích do toàn cầu hoá mang lại. Trong thời gian vừa qua có thể thấy rằng lĩnh vực ngoại thương của nước ta đã được tự do hoá một cách đáng kể theo mọi thước đo. Điều này được thể hiện thông qua sự tăng tỷ trọng thương mại trong GDP và sự đa dạng hoá của cả xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Đó là một dấu hiệu đáng mừng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta hiện nay. Tuy nhiên nó vẫn là một con đường dài với nhiều chông gai phía trước. Trong đó các hàng rào phi thuế quan dày đặc, tồn tại dai dẳng với rất nhiều hạn chế là một trong những trở ngại lớn. Dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan này trong một sớm một chiều không phải là một điều dễ dàng. Trong giai đoạn hiện nay, thuế quan hoá các hàng rào phi thuế quan là một giải pháp có tính khả thi hơn cả. Bởi vì thuế quan có những ưu điểm hơn hẳn, đông thời bảo hộ bằng thuế quan là phù hợp với qui định của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Con đường hội nhập đang rộng mở thênh thang trước dân tộc ta. Việc dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan sẽ góp phần làm con đường ấy bằng phẳng và dễ đi hơn, giúp Việt Nam đến với toàn cầu hoá nhanh hơn bằng đôi chân của chính mình./. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Nghiên cứu về các biện pháp phi thuế quan do McCarty tiến hành năm 1999. - Nghị định 57/1998/NĐ-CP. - Quyết định 254/1998/QĐ-TTg. - Các tạp chí : + Những vấn đề kinh tế thế giới. + Châu Á - Thái Bình Dương. - Các báo : + Ngoại thương. + Thời báo kinh tế Việt Nam. + Đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHàng rào phi thuế quan (NTBs) ở Việt Nam trên con đường hội nhập & phát triển.doc
Luận văn liên quan