Đề tài Hoàn thiện hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp tại xí nghiệp gỗ Hà Nội

Việc phân loại chi phí theo cách này cho phép ta thấy được ảnh hưởng của từng loại khoản mục đến kết cấu của giá thành sản phẩm, đồng thời nó cũng cung cấp những thông tin cần thiết để xác định hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm .Các khoản mục chi phí được quy định thống nhất trong từng ngành kinh tế . Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt nam bao gồm 3 khoản mục chi phí :

doc158 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2538 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp tại xí nghiệp gỗ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Xí nghiệp) và vào sổ Cái TK631 (đối với sản xuất kinh doanh phụ của Xí nghiệp). Sổ Cái TK154 Sản xuất kinh doanh chính Tháng : 1 + 2 + 3 năm 2000 đvt : Đồng (VND) Số dư đầu năm Nợ Có Ghi Có các TK đối ứng Nợ với TK này Quý I Quý II ....... Cộng TK154 329.000 TK621 91.406.500 TK622 46.247.576 TK627 51.333.289 Cộng phát sinh Nợ 189.316.350 Có 189.316.350 Số dư cuối quý Nợ Có Sổ Cái TK631 Sản xuất kinh doanh phụ Tháng : 1 + 2 + 3 năm 2000 đvt : Đồng (VND) Số dư đầu năm Nợ Có Ghi Có các TK đối ứng Nợ với TK này Quý I Quý II ......... Cộng TK111 15.934.000 TK152 166.000 TK155 37.994.190 TK214 28.171.000 TK331 10.500.000 TK334 81.235.000 TK338 6.414.381 Cộng phát sinh Nợ 180.414.570 Có 180.414.570 Số dư cuối quý Nợ Có Phân tích tình hình sản xuất – kinh doanh của Xí nghiệp Gỗ Hà nội: Chúng ta tiến hành phân tích tình hình sản xuất – kinh doanh của Xí nghiệp thông qua chỉ tiêu Hiệu quả kinh doanh sau: Hiệu quả kinh doanh = Tổng Doanh thu tiêu thụ Tổng chi phí Tổng Doanh thu tiêu thụ ở đây được Xí nghiệp xác định là tổng Doanh số bán hàng sản phẩm, dịch vụ của Xí nghiệp trong cả năm. Tổng chi phí là toàn bộ chi phí mà Xí nghiệp tập hợp được để sản xuất sản phẩm trong cả năm. Theo số liệu thực tế mà Xí nghiệp Gỗ Hà nội đã cung cấp, ta có: đvt : Đồng (VND) Năm Tổng Doanh thu tiêu thụ Tổng Chi phí Số nộp Ngân sách nhà nước 1998 3.169.712.110 2.974.670.800 135.700.000 1999 3.763.425.670 3.539.328.800 200.300.000 Hiệu quả kinh doanh (năm 1999) = 3.763.425.670 = 1,0633 3.539.328.800 Hiệu quả kinh doanh (năm 1998) = 3.169.712.110 = 1,0656 2.974.670.800 Như vậy, năm 1999 hiệu quả kinh doanh của Xí nghiệp kém hơn năm 1998 có nghĩa là năm 1999, Xí nghiệp đã bỏ ra 1đ chi phí thì thu được 1,0633đ doanh thu, nhưng năm 1998, 1đ chi phí thu được 1,0656đ doanh thu, tức là 1đ chi phí của năm 1999 thu được ít lợi nhuận hơn năm 1998. Về mặt giá trị tuyệt đối, Xí nghiệp xác định: Lợi nhuận = Tổng Doanh thu tiêu thụ – Tổng chi phí – Các khoản phải nộp NSNN Lợi nhuận (năm1999) = 3.763.425.670 - 3.539.328.800 – 200.300.000 = 23.796.821 Lợi nhuận (năm 1998) = 3.169.712.110 - 2.974.670.800 - 135.700.000 = 59.341.344 Trong lĩnh vực sản xuất, năm 1999 Xí nghiệp chỉ đạt được 23.796.821đ lợi nhuận, trong khi đó năm 1998 đạt được 59.341.344đ lợi nhuận. Từ 2 chỉ tiêu (chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu tuyệt đối) đánh giá hiệu quả sản xuất - kinh doanh của Xí nghiệp ta thấy Xí nghiệp sản xuất với hiệu quả kinh doanh của 1đ chi phí giảm đi, đồng thời lợi nhuận của Xí nghiệp cũng giảm đi. Nhưng ta lại thấy tổng doanh thu tiêu thụ năm 1999 lớn hơn so với năm 1998. Từ đó ta có thể nói rằng Xí nghiệp đã mở rộng sản xuất, tiêu thụ được nhiều sản phẩm và mở rộng thị trường. Sản phẩm đồ Gỗ của Xí nghiệp tiêu thụ được nhiều trong giai đoạn này là do hiện nay mức độ xây dựng Thành phố ddang tăng rất mạnh, nhiều công ty được thành lập (theo kiểu Cty TNHH) trong điều kiện thị trường tự do cạnh tranh và sản phẩm đồ Gỗ hiện nay đang trở thành “mốt” mua sắm của dân thành phố. Mặc dù sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm song lợi nhuận thu được lại ít đi. Chứng tỏ vấn đề sử dụng vốn của Xí nghiệp còn non yếu, giá thành đơn vị sản phẩm còn cao, chi phí cho NVL trực tiếp sản xuất cao (sản phẩm đồ Gỗ có đặc điểm tỷ trọng chi phí về vật liệu là lớn). Nguồn nhập NVL là nhiều nơi không ổn định (của tư nhân) nên chi phí về vật liệu thường xuyên biến động, lúc cao lúc thấp theo nhu cầu của thị trường. Để tăng cường hiệu quả sản xuất – kinh doanh của Xí nghiệp Gỗ Hà nội, Xí nghiệp phải tiết kiệm chi phí trong mọi khâu của quá trình sản xuất, từ đó mới hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp trong đó chi phí về vật liệu cần được xem xét chú trọng hơn. Phần III NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP GỖ HÀ NỘI I - Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾT KIỆM CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế, đòi hỏi các nhà sản xuất phải làm thế nào tránh được tình trạng thua lỗ phá sản. Đây là vấn đề bao trùm xuyên suốt hoạt động kinh doanh, thể hiện chất lượng của toàn bộ công tác quản lý kinh tế. Bởi vì, suy cho cùng quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động sản xuất nói riêng là để đảm bảo tạo ra hiệu quả cao nhất. Nguyên tắc cơ bản của hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi, tự trang trải và có lãi. Muốn có lãi cao nhất không có cách nào khác là các nhà sản xuất phải tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, năng lượng, máy móc, thiết bị và thời gian lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất chung, chi phí quản lý doanh nghiệp nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng của sản phẩm sản xuất ra. Tiết kiệm chi phí sản xuất trong phạm vi doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận của Doanh nghiệp. Mặt khác chi phí sản xuất cấu thành nên giá thành sản phẩm, vì thế việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở tiết kiệm các chi phí theo khoản mục giá thành sản phẩm. Giá thành không chấp nhận toàn bộ chi phí phát sinh mà chỉ chấp nhận những chi phí cho sản xuất để hoàn thành một khối lượng hàng hoá, dịch vụ. Đối với phạm vi một nền kinh tế quốc dân thì việc tiết kiệm chi phí có ý nghĩa lớn hơn nhiều. Tiết kiệm chi phí của tất cả các ngành là để tăng thu cho ngân sách nhà nước cải thiện đời sống cho nhân dân. Việc hạch toán chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đảm bảo cho việc cung cấp chính xác, đầy đủ thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, giúp cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo của doanh nghiệp được chính xác, xác định chính xác hiệu quả của công tác sản xuất - kinh doanh và định hướng được công tác sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian trước mắt cũng như kế hoạch tổ chức sản xuất dài hạn của doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các Doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mặt hàng nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ được giá thành. Như chúng ta đã biết, đối với các doanh nghiệp sản xuất việc hạ giá thành sản phẩm là con đường chủ yếu để tăng doanh lợi cho toàn bộ hoạt động sản xuất - kinh doanh. Nó cũng là tiêu đề để hạ giá bán nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường kể cả trong và ngoài nước. Việc tính giá thành là công việc cần thiết quan trọng đối với bất kỳ của doanh nghiệp nào. Tổ chức đánh giá giá thành sản phẩm giúp cho bộ máy quản lý và mọi thành viên trong doanh nghiệp nắm được tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và nhiệm vụ hạ giá thành cung cấp những tài liệu xác thực để chỉ đạo sản xuất - kinh doanh, phân tích đánh giá sản xuất, kiểm tra kiểm soát thường xuyên và có hệ thống nguyên tắc tiết kiệm trong sản xuất. Ngoài ra từ việc tính giá thành để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành còn giúp cho doanh nghiệp từ đó khai thác động viên mọi khả năng tiềm tàng nhằm mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động để không ngừng hạ giá thành sản phẩm. Trên ý nghĩa đó việc hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đang là vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp đều quan tâm nghiên cứu nhằm từng bước nâng cao được hiệu quả sản xuất - kinh doanh của mình, góp phần vào việc quản lý doanh nghiệp một cách chặt chẽ hơn. II - NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP GỖ HÀ NỘI Qua quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài : ''Hoàn thiện hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp Gỗ Hà nội'', em thấy cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thì hoạt động của nền kinh tế thì hoạt động của xí nghiệp đã có những biến đổi để thích ứng Xí nghiệp gỗ hà nội có lịch sử phát triển hơn 40 năm (từ năm 1956) là một trong những đơn vị có bề dày kinh nghiệm trong sản xuất và kinh doanh các mặt hàng và sản phẩm đồ Gỗ và hàng Mộc, cung cấp các loại đồ dùng bằng gỗ và hàng mộc chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đóng góp một phần đáng kể vào thu nhập quốc dân của cả nước. Có được thành quả đó là do có sự quan tâm của Sở công nghiệp Hà nội cũng như sự phấn đấu của tập thể lãnh đạo của xí nghiệp và đội ngũ công nhân viên trong hơn 40 năm qua. Chuyển sang vận hành trong cơ chế thị trường, tuy còn nhiều bỡ ngỡ khó khăn trong cơ chế quản lý mới, song sự nhạy bén và năng động của cơ chế thị trường đã thúc đẩy xí nghiệp linh hoạt và nhạy bén trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Đặc biệt phải kể tới sự chuyển biến của bộ máy quản lý kinh tế đã góp phần không nhỏ vào kết quả chung của xí nghiệp, nó trở thành cánh tay đắc lực thúc đẩy quá trình phát triển của xí nghiệp trong việc vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế thị trường kết hợp với chủ trương chính sách của Nhà nước, đến nay Xí nghiệp đã khắc phục được những khó khăn và hoạt động bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế. Các phòng ban chức năng của Xí nghiệp được tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với quy mô hoạt động mới của Xí nghiệp, phục vụ sát sao với quá trình sản xuất. Song song với quá trình chuyển đổi ấy, hệ thống công tác kế toán tài chính của Xí nghiệp không ngừng được hoàn thiện cả về cơ cấu lẫn phương pháp hạch toán. Ta có thể nhận thấy rõ điều đó qua những ưu điểm của công tác kế toán hiện nay ở Xí nghiệp. Ưu điểm : + Xí nghiệp đã áp dụng phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế của chi phí là hoàn toàn hợp lý. Xí nghiệp đã tách yếu tố chi phí NVL chính, NVL phụ một cách riêng biệt, tạo điều kiện cho việc đánh giá tỷ lệ NVL chính và NVL phụ trong giá thành thành phẩm, giúp cho việc tính giá thành được chính xác. Trên cơ sở đó, Xí nghiệp còn phân chia NVL chính và NVL phụ thành các khoản khác nhau theo các tiêu thức phân loại thích hợp để từ đó tính toán ra các chỉ tiêu cần thiết khác. + Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo từng phân xưởng và cụ thể là cho từng sản phẩm. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn công nghệ sản xuất cuối cùng là hoàn toàn hợp lý, có căn cứ khoa học và phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất quy trình công nghệ của Xí nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, giúp cho công tác chỉ đạo sản xuất và tính giá thành sản phẩm được tốt và hợp lý . + Hiện nay, Xí nghiệp đã và đang sử dụng hệ thống sổ sách theo hình thức Nhật ký chứng từ (NKCT). Sổ sách kế toán của Xí nghiệp tương đối là đầy đủ và đúng đắn theo quy định của chế độ kế toán do Bộ taì chính ban hành. Tạo mối quan hệ mật thiết lẫn nhau giữa các bộ phận trong toàn bộ hệ thống kế toán của Xí nghiệp. Các kế toán viên trong phòng Kế toán tài chính của Xí nghiệp thực hiện theo đúng phạm vi và quyền hạn của mình theo từng nhiệm vụ và phần hành kế toán được giao cho, đồng thời kết hợp các bộ phận đó lại để tạo nên một hệ thống kế toán có liên hệ mắt xích nhau và hoạt động có hiệu quả. Công tác tổ chức luân chuyển chứng từ và sổ sách kế toán cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được nhanh chóng và chính xác. + Việc áp dụng hình thức trả lương theo định mức số giờ công sản xuất thực tế của người công nhân được áp dụng đối với từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm. Việc trả lương theo hình thức này đảm bảo số lượng chất lượng, đúng quy trình kỹ thuật và ngành quy định. Định mức số giờ công sản xuất thực tế được phòng Kỹ thuật – Kế hoạch – Vật tư của Xí nghiệp nghiên cứu theo các phương pháp khoa học đã đề ra cho từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm được sản xuất. Người công nhân không thể cứ đảm bảo số giờ công sản xuất là đủ mà Xí nghiệp còn căn cứ vào chất lượng sản phẩm do người công nhân làm ra đó để có biện pháp thưởng phạt rõ ràng nghiêm minh. Có như vậy, người công nhân mới có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình làm ra. Thành quả đạt được góp phần khuyến khích tinh thần lao động, tiết kiệm vật tư, tiền vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao. + Do đặc điểm hoạt động sản xuất chế tạo sản phẩm của Xí nghiệp tiến hành chưa đều, không thường xuyên, thời gian ngừng sản xuất còn nhièu cho nên kỳ tính giá thành của Xí nghiệp có thể là theo lô, mẻ, đơn đặt hàng sản xuất sản phẩm. Điều này thể hiện sự hợp lý trong công tác tính giá thành tránh sự nhầm lẫn trong công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. + Nhìn chung, Xí nghiệp đã tính toán và lập các Báo cáo tài chính theo đúng quy định của chế độ kế toán ban hành (Bộ tài chính ban hành). Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ hạch toán đã được theo dõi và cập nhật kịp thời. Bộ máy tổ chức kế toán gọn nhẹ (tất thảy chỉ có 3 người làm công tác kế toán tại Xí nghiệp) và công tác kế hoạch giá thành về cơ bản vẫn đảm bảo được yêu cầu vẹn toàn hệ thống thông tin kế toán trong Doanh nghiệp, và giúp cho kế toán phát huy được chức năng giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch giá thành một cách kịp thời và đầy đủ. + Nhận thức được tầm quan trọng của việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nhất là trong cơ chế thị trường, Xí nghiệp đã ra sức tăng cường công tác quản lý kinh tế, quản lý sản xuất mà trước tiên là quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của Xí nghiệp, kế toán thực sự được coi là một công cụ quan trọng trong hệ thống quản lý Xí nghiệp. Hệ thống kế toán của Xí nghiệp tương đối hoàn chỉnh, gọn nhẹ, đội ngũ nhân viên có trình độ kế toán và nắm vững nhiệm vụ của mình. Việc phân công trách nhiệm giữa các phần hành kế toán trong việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm như hiện nay là phù hợp với trình độ và chức năng của các kế toán viên trong Xí nghiệp. Kế toán có nhiệm vụ tập hợp chi phí tại các phân xưởng một cách chính xác, tính đúng và tính đủ, sau đó kế toán chuyển số liệu đó làm cơ sở để tính giá thành sản phẩm trên cơ sở đối chiếu với các phần hành kế toán liên quan để lập thẻ tính giá thành sản phẩm . Công tác kế toán tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội ngoài những ưu điểm lớn trên còn tồn tại những vướng mắc chưa hợp lý cần tiếp tục được hoàn thiện. Nhược điểm : + Vần đề hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất : Không có Doanh nghiệp sản xuất nào mà trong quá trình sản xuất lại không có một lần mắc lỗi và gặp khó khăn trong sản xuất . Cho nên bất cứ một khâu nào trong quá trình sản xuất của Xí nghiệp đều có phát sinh khó khăn và do đó đều có sản phẩm hỏng và trong một số trường hợp, chi phí thiệt hại sản phẩm hỏng cũng đáng kể nhưng Xí nghiệp không mở tài khoản để theo dõi mà thực tế khoản chi phí này được hạch toán vào chi phí sản xuất. Chứng tỏ công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chưa được thực hiện tốt, giá thành phản ánh chưa thật chính xác. Ngoài ra, Xí nghiệp còn phản ánh chưa đủ các khoản chi phí thiệt hại trong sản xuất về ngừng sản xuất. Vì trong quá trình sản xuất năm này qua năm khác Xí nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn như : Thiếu nguyên vật liệu dùng cho sản xuất, ngừng sản xuất loại sản phẩm nào đó do không bán được hàng, tiến hành sửa chữa lớn TSCĐ…khiến cho công tác tập hợp chi phí sản xuất không đầy đủ và giá thành sản phẩm chưa thật chính xác. + Về chi phí khấu hao TSCĐ : Kế toán khấu hao TSCĐ thực hiện đúng theo chế độ quy định và Xí nghiệp tiến hành khấu hao theo phương pháp khấu hao “ Khấu hao theo đường thẳng’’ (phương pháp bình quân). Tuy nhiên, TSCĐ trong Xí nghiệp đã được Xí nghiệp chia thành 2 loại cơ bản là Nhà xưởng và Máy móc thiết bị. Mỗi loại TSCĐ có tỷ lệ khấu hao cơ bản nhất định và chúng đã được xác định từ trước rồi mà (8% và 6%) lại không phản ánh trên Bảng phân bổ số 3 “Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ’’. Đã phân TSCĐ thành 2 loại cơ bản trên và mỗi loại có tỷ lệ khấu hao cơ bản riêng mà lại gộp cả Nhà xưởng và Máy móc thiết bị ở phân xưởng Cơ điện, bộ phận Đời sống và bộ phận kinh doanh dịch vụ. Vấn đề này Xí nghiệp cần phải xem xét và giải quyết ngay. + Về các khoản trích theo lương : Xí nghiệp Gỗ Hà nội cũng tiến hành trích các khoản BHXH và KPCĐ theo lương phải trả thực tế cho cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp sau khi đã tính toán xong tiền lương phải trả Xí nghiệp chỉ trích các khoản BHXH và KPCĐ mà Xí nghiệp không trích BHYT cho cán bộ công nhân viên của Xí nghiệp. Điều này là sai với chế độ kế toán hiện hành của Việt nam, Xí nghiệp nên xem xét vấn đề này ngay và tìm biện pháp giải quyết cho thích hợp. Xí nghiệp chỉ có mỗi tiền lương chính cho CBCNV thôi, ngoài ra không có các khoản phụ cấp hay xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh như : ốm đau, thai sản… Thêm vào đó nữa là các khoản trích BHXH và KPCĐ có tiến hành trích nhưng không đúng với tỷ lệ quy định của Nhà nước là 15% đối với BHXH và 2% đối với KPCĐ Các khoản trích theo lương (BHXH và KPCĐ) chỉ được trích cho công nhân viên sản xuất trực tiếp mà không trích cho nhân viên quản lý phân xưởng (Quản đốc). + Về phương pháp tính giá thành : Xí nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành giản đơn là hoàn toàn hợp lý đối với tình hình thực tế của Xí nghiệp, song trong thực tế Xí nghiệp còn thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng do khách hàng mang lại, do vậy Xí nghiệp nên sử dụng phương pháp giản đơn để tính giá thành cho các sản phẩm theo kế hoạch của Xí nghiệp còn sử dụng phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng cho các đơn đặt hàng phát sinh trong kỳ hạch toán để đảm bảo công tác tính giá thành tại Xí nghiệp chính xác và hoàn thiện hơn nữa. + Hiện tại, bộ phận kế toán tài chính của Xí nghiệp sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá thành thực tế nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ xuất. Bảng kê số 3 chỉ sử dụng ở trong Doanh nghiệp có sử dụng giá hạch toán trong hạch toán chi tiết vật liệu. Bảng kê số 3 được lập trên căn cứ là các NKCT có liên quan tới bên Nợ các TK 152, 153. Tổng hợp giá trị nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính ra hệ số giá chênh lệch giữa giá hạch toán và giá thực tế. Còn Xí nghiệp Gỗ Hà nội sử dụng Bảng kê số 3 mà lại sử dụng giá thực tế không sử dụng giá hạch toán. + Trong cùng một hệ thống kế toán, Xí nghiệp hạch toán kế toán theo hình thức sổ Nhật ký chứng từ . Hình thức sổ kế toán NKCT chỉ thích hợp với Doanh nghiệp có quy mô lớn, mà Xí nghiệp Gỗ Hà nội mặc dù có lịch sử phát triển từ rất sớm nhưng quy mô của Xí nghiệp không lớn (có thể nói là nhỏ nữa), tổng nguồn vốn của Xí nghiệp chỉ xấp xỉ gần 4 tỷ đồng. Cho nên hình thức kế toán NKCT là không thích hợp đối với Xí nghiệp. + Cùng một lúc Xí nghiệp hạch toán hàng tồn kho (hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm) theo 2 phương pháp là : phương pháp KKTX và phương pháp KKĐK. Phương pháp KKTX áp dụng cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của Xí nghiệp, cón phương pháp KKĐK áp dụng cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh phụ. Cùng một lúc mà hạch toán 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho như vậy là rất phức tạp trong công tác tập hợp chi phí sản xuất. + Phân xưởng Cơ điện là một bộ phận của Bộ phận sản xuất – kinh doanh phụ nhưng phân xưởng này lại có ảnh hưởng và tác động tới phân xưởng sản xuất kinh doanh chính nhiều nhất và rõ nét nhất. Xí nghiệp phân chia như vậy là chưa hợp lý, vì các khoản chi phí phát sinh ở phân xưởng Cơ điện được tập hợp vào TK 631.1 rồi sau đó lại phân bổ khoản chi phí này cho phân xưởng Mộc theo số giờ công sản xuất thực tế cho sản phẩm hoàn thành. Xí nghiệp nên coi phân xưởng Cơ điện là bộ phận sản xuất kinh doanh chính thì đúng hơn và dùng TK 627.3 để tập hợp chi phí sản xuất chung phát sinh tại phân xưởng này . + Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh phụ hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp KKĐK thì dùng TK 631 để tập hợp chi phí. Đầu kỳ và cuối kỳ phải kết chuyển vào TK 154 mà Xí nghiệp lại giữ nguyên các khoản chi phí ở TK 631 cả phần dư đầu kỳ và cuối kỳ và cả các khoản chi phí phá sinh trong kỳ. + Lương trả cho công nhân viên sản xuất trong Xí nghiệp là trả theo hình thức lương sản phẩm nhưng tính lương sản phẩm theo giờ công sản xuất thực tế là chưa hợp lý và các sản phẩm đồ Gỗ đòi hỏi phải hoàn thành trong một khoảng thời gian tương đối dài, cho nên trả lương theo giờ (không hợp lý vì nó ngắn quá so với chu kỳ sản xuất của Xí nghiệp). Nên trả lương theo ngày công sản xuất thực tế . + Lương cho nhân viên phân xưởng được trả theo lương của bộ phận gián tiếp thì không kích thích được sự đôn đốc, quản lý, kiểm tra theo dõi được sát sao của Quản đốc đối với phân xưởng mình chịu trách nhiệm theo dõi. Nên trả lương theo sản phẩm thì mới kích thích họ được. + Phần lương tập hợp cho chi phí sản xuất chung (TK 627) của Xí nghiệp được tập hợp lại và phân bổ cho vào chi phí sản xuất cho từng phân xưởng theo tiêu thức phù hợp. Nhưng phần chi phí chung này không bao gồm chi phí trích BHXH, BHYT và KPCĐ từ lương của nhân viên phục vụ phân xưởng. + Máy móc thiết bị của Xí nghiệp chủ yếu là cũ và lạc hậu nên luôn luôn Xí nghiệp phải chi ra những khoản chi phí để sửa chữa theo định kỳ Xí nghiệp nên dùng TK 335 để tập hợp các khoản chi phí đã được dự toán trước chứ không nên để cuối kỳ phát sinh ra thì mới tập hợp và phân bổ hết cho cả quý và để đảm bảo nguyên tắc chính xác và nguyên tắc thận trọng trong kế toán . + Kỳ tính giá thành sản phẩm, kỳ tập hợp chi phí sản xuất theo định kỳ là quý Giá xuất NVL được Xí nghiệp tính theo phương pháp bình quân gia quyền (bình quân cả kỳ dự trữ) cho nên cuối quý mới tính được giá xuất nguyên vật liệu, mới biết được các khoản chi phí phát sinh trong kỳ, cuối quý mới biết được giá thành đơn vị của sản phẩm. Việc cung cấp thông tin cho Giám đốc Xí nghiệp không kịp thời được theo yêu cầu của quản lý kinh tế. Nên thay kỳ hạch toán bằng tháng thì tốt hơn. + Mặc dù Xí nghiệp có Báo cáo kế toán tài chính được lập theo đúng định kỳ nhưng Xí nghiệp vẫn thiếu 1 trong 4 Báo cáo kế toán quan trọng nhất đó là Báo cáo lưu chuyển tiền tệ . III – HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP GỖ HÀ NỘI Qua nghiên cứu thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà nội. Phân tích ưu điểm, nhược điểm dựa vào lý luận chung và tiến hành đối chiếu với Xí nghiệp, em xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến góp phần hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm để Xí nghiệp tham khảo như sau: Ý kiến 1 : Xí nghiệp Gỗ Hà nội từ khi hình thành, tồn tại và phát triển cho tới tận ngày hôm nay, đã phải trải qua nhiều bước biến chuyển thăng trầm của lịch sử, có lúc thuận lợi và cũng có lúc gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cho đến bây giờ, Xí nghiệp đã và đang tồn tại và phát triển theo thời gian, điều đó chứng tỏ Xí nghiệp Gỗ Hà nội đã thực hiện đúng đắn Quy định và chế độ của Nhà nước ban hành, đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sức mạnh của một nền kinh tế quốc dân của cả nước . Những gì tốt đẹp và đúng đắn đã làm được của Xí nghiệp thì Xí nghiệp nên cố gắng duy trì nó. Hiện tại, Xí nghiệp phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế là rất phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình. Theo cách thức phân loại này, cho ta thấy được tỷ lệ từng loại chi phí theo nội dung kinh tế của nó ; vì sản phẩm của Xí nghiệp là các mặt hàng đồ mộc, cho nên tỷ trọng chi phí về nguyên vật liệu là rất đáng kể trong tổng chi phí sản xuất của Xí nghiệp để từ đó có biện pháp thích hợp để tiết kiệm chi phí sản xuất cho Xí nghiệp. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là theo từng phân xưởng và cụ thể là theo từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm. Còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn công nghệ cuối cùng là hoàn toàn hợp lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất của Xí nghiệp. Sổ sách của kế toán là tương đối đầy đủ và đúng đắn theo quy định của Bộ tài chính ban hành. Kế toán viên trong phòng kế toán được đào tạo và kinh nghiệm lâu năm trong nghề, độc lập thực hiện từng nhiệm vụ trong từng phần hành kế toán của mình ; đồng thời kết hợp với các bộ phận khác trong phòng kế toán, tạo nên một hệ thống kế toán hoạt động có hiệu quả. Hình thức trả lương theo số giờ công sản xuất thực tế của người công nhân . Trả lương theo hình thức này sẽ khuyến khích người lao động trong sản xuất, nâng cao được trách nhiệm của công nhân đối với sản phẩm của mình làm ra. Xí nghiệp có sáng kiến khi xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm là theo lô, mẻ, đơn đặt hàng sản xuất sản phẩm ngoài các sản phẩm hoàn thành. Nó thể hiện sự hợp lý trong công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Xí nghiệp có bộ máy kế toán đơn giản và gọn nhẹ . Xí nghiệp có bộ máy quản lý kinh tế tương đối hoàn chỉnh nhưng gọn nhẹ, trong đó tốt hơn cả là bộ máy kế toán tài chính của Xí nghiệp, việc phân công trách nhiệm giữa những người trong bộ máy kế toán rất rõ ràng, theo từng phần hành cụ thể và riêng biệt, không có sự chồng chéo quyền hạn và chức năng giữa các kế toán viên, giúp cho bộ máy kế toán của Xí nghiệp hoạt động có hiệu quả và cung cấp thông tin kế toán cho Giám đốc được chính xác và kịp thời. Trên đây là những gì Xí nghiệp đã làm được. Để đảm bảo cho bộ máy quản lý kinh tế nói chung và bộ máy kế toán nói riêng phát huy được khả năng cuả mình thì Xí nghiệp Gỗ Hà nội phải tăng cường củng cố và hoàn thiện hơn nữa những ưu điểm của mình. Có làm được như vậy thì sự tồn tại và phát triển của Xí nghiệp được bảo đảm một cách chắc chắn hơn. Ý kiến 2 : Kỳ tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà nội được tổ chức tính giá thành sản phẩm theo quý (3 tháng mới tổng hợp số liệu để tính giá thành). Trong điềukiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì kỳ tính giá thành này là không phù hợp vì như ta đã biết bản chất của kế toán là đưa ra những thông tin kinh tế chính xác, nhanh chóng và kịp thời để giúp những người có trách nhiệm đưa ra được các quyết định về hoạt động sản xuất kinh doanh. Những thông tin kinh tế (mà đặc biệt là thông tin về kế toán, về tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm) giúp cho Doanh nghiệp tổ chức tình hình sản xuất phù hợp, liên tục thực hiện biện pháp hạ giá thành có hiệu quả, góp phần vào việc tăng lợi nhuận, đẩy mạnh quy mô sản xuất – kinh doanh. Giá thành được tính vào cuối quý nên sang đầu quý sau Ban giám đốc có thể chưa có những thông tin cần thiết để ra Quyết định chính xác nên ảnh hưởng đến tình hình sản xuất chung của toàn Xí nghiệp. Theo em, việc tính giá thành nên theo từng tháng một để số liệu được đưa ra kịp thời, nhanh chóng góp phần đẩy mạnh sản xuất chung, hoà nhịp với sự phát triển nhanh chóng của thị trường cạnh tranh tự do. Khi mà kỳ tính giá thành sản phẩm được thay đổi từ quý thành tháng thì kỳ hạch toán tập hợp chi phí sản xuất của Xí nghiệp cũng phải thay đổi từ quý thành tháng theo để có sự phù hợp giữa các số liệu, vì quá trình tập hợp chi phí sản xuất có mối liên hệ rất mật thiết với quá trình tính giá thành sản phẩm, nó là cơ sở tiền đề cho quá trình tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp. Hay nói cách khác là kỳ hạch toán kế toán tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội nên thay đổi từ quý thành tháng là một việc làm hợp lý nhất. Nó không những tính toán và cung cấp thông tin kế toán một cách kịp thời mà còn vấn đề theo dõi tình hình xuất nguyên vật liệu của Xí nghiệp được nhanh chóng (vì Xí nghiệp Gỗ Hà nội hiện tại đang tính theo phương pháp bình quân gia quyền đối với các nguyên vật liệu xuất kho; Nếu Xí nghiệp hạch toán theo quý thì đến cuối quý mới tính được giá xuất nguyên vật liệu, cuối quý mới mới biết được chi phí phát sinh trong kỳ, cuối quý mới biết được giá thành đơn vị sản phẩm trong kỳ. Một năm trời mới có 4 lần cung cấp thông tin kế toán tổng hợp cho Giám đốc biết nhưng nếu theo tháng thì một năm sẽ có 12 lần cung cấp thông tin kế toán tổng hợp cho Giám đốc, để giám đốc cập nhật được thông tin kịp thời và thích ứng được với nền kinh tế thị trường luôn luôn biến động). Ý kiến 3 : Trong phần thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp, ta thấy Xí nghiệp đã không hạch toán khoản mục chi phí do thiệt hại trong sản xuất . Những chi phí về thiệt hại trong sản xuất thực chất đã được tính vào chi phí sản phẩm của Xí nghiệp. Hạch toán chi phí về thiệt hại sản phẩm hỏng và ngừng sản xuất sẽ góp phần phản ánh chính xác giá thành sản phẩm. Đối với các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng : Sản phẩm của Xí nghiệp có 2 loại là : Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thành thành phẩm và sản phẩm hỏng không sửa chữa được. Với sản phẩm hỏng sửa chữa được thì để sản phẩm hỏng trở thành thành phẩm, Xí nghiệp phải tốn thêm một khoản chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng. Trình tự tập hợp và phân bổ chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng theo từng nguyên nhân được hạch toán như sau : TK152,153,334 TK142 TK 338 Bồi thường TK821 Tập hợp chi phí Chi phí bất thường Sửa chữa sản phẩm hỏng TK627 Tính vào chi phí SXC Với sản phẩm hỏng không sửa chữa được thì sản phẩm đó coi như bị loại bỏ. Phần thiệt hại từ những sản phẩm hỏng bị loại bỏ này sẽ được xử lý theo từng nguyên nhân và được thể hiện qua sơ đồ sau : TK111,112,152 TK154 TK138 Giá trị phế liệu thu hồi TK334 Bồi thường Giá trị sản phẩm hỏng Không sửa chữa được TK821 Tính vào chi phí bất thường TK627 Tính vào chi phí SXC Đối với các khoản thiệt hại về ngừng sản xuất : TSCĐ của Xí nghiệp chủ yếu là máy móc thiết bị và nhà xưởng cũ, sử dụng lâu năm rồi cho nên cần phải thường xuyên gia cố và sửa chữa để còn sử dụng được nữa. Khi tiến hành sửa chữa TSCĐ thì quá trình sản xuất của Xí nghiệp tạm ngừng và Xí nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí để sửa chữa, khoản này được gọi là thiệt hại về ngừng sản xuất. Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ của Xí nghiệp Gỗ Hà nội do phân xưởng Cơ điện đảm trách và thường Xí nghiệp có kế hoạch về sửa chữa lớn TSCĐ. Cho nên, các khoản chi phí này của Xí nghiệp nên hạch toán vào TK335 –Chi phí phải trả, chứ không nên hạch toán vào TK 631.1 như Xí nghiệp đang làm hiện nay, đảm bảo nguyên tắc thận trọng trong kế toán. Quá trình hạch toán thiệt hại về ngừng sản xuất có thể được thể hiện qua sơ đồ sau: TK334,338,111,152 TK335 TK627,642 Trích trước chi phí về ngừng Chi phí thực tế về ngừng sản xuất theo kế hoạch(1) sản xuất trong kế hoạch(2) Tiến hành trích bổ sung(3) Ghi giảm chi phí(4) Ý kiến 4 : Bảng phân bổ số 3 “Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ” của Xí nghiệp tự tạo ra mẫu không theo quy định của Nhà nước. Theo bảng này (do Xí nghiệp tự làm mẫu) không cho biết được tình hình tăng giảm TSCĐ, tỷ lệ từng loại khấu hao TSCĐ, nguyên giá TSCĐ, số khấu hao đã trích trong tháng trước, số khấu tăng giảm trong tháng. Cho nên để thực hiện theo đúng quy định của chế độ kế toán ban hành và cũng tăng cường công tác quản lý Xí nghiệp nên áp dụng biểu mẫu Bảng kê số 3 “Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ” do Bộ tài chính ban hành. Biểu mẫu này có ở trong Quyển “ Hệ thống kế toán Doanh nghiệp do Vụ chế độ kế toán ban hành. Vì biểu mẫu này phản ánh tất cả những nội dung kế toán mà Xí nghiệp chưa phản ánh trong biểu mẫu của mình. Mặt khác, Xí nghiệp đã chia TSCĐ thành 2 loại là Nhà xưởng và Máy móc thiết bị, tỷ lệ khấu hao cơ bản tương ứng của 2 loại này là 8% và 6%. Nhưng Xí nghiệp đã gộp cả Nhà xưởng và Máy móc thiết bị ở trong “Bảng tính khấu hao cơ bản” ở phân xưởng Cơ điện, bộ phận Đời sống, bộ phận XDCB, bộ phận kinh doanh dịch vụ. Để thấy được tình hình sử dụng TSCĐ của từng loại TSCĐ ở từng phân xưởng sản xuất thì kế toán nên sử dụng biểu mẫu Bảng phân bổ số 3 do Bộ tài chính quy định và ghi vào bảng này chi tiết cho từng loại TSCĐ ở từng phân xưởng. Ý kiến 5 : Với các khoản trích theo lương . Xí nghiệp Gỗ Hà nội cũng tiến hành trích trên cơ sở là tiền lương phải trả sau khi đã tính được nhưng Xí nghiệp chỉ trích BHXH và KPCĐ mà Xí nghiệp không trích BHYT trên quỹ lương phải trả. Điều này là sai với chế độ kế toán, cho nên Xí nghiệp phải trích thêm cả khoản BHYT nữa cho CBCNV của Xí nghiệp. Mặc dù Xí nghiệp đã trích BHXH và KPCĐ nhưng các khoản trích theo lương này không đúng tỷ lệ theo chế độ kế toán hiện hành là 15% (BHXH) và 2% (KPCĐ). Vậy : Để kế toán của Xí nghiệp Gỗ Hà nội hạch toán đúng các khoản trích theo lương thì kế toán của Xí nghiệp phải tiến hành trích đủ cả 3 khoản phải trả là BHXH, BHYT và KPCĐ. Trong đó đối với từng khoản trích, tỷ lệ trích phải đúng theo quy định, như : Quỹ BHXH được hình thành theo tỷ lệ 20% trên tổng quỹ lương (trong đó 15% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và 5% được trừ vào thu nhập của người lao động). Quỹ BHYT được hình thành theo tỷ lệ 3% trên tổng quỹ lương (trong đó 2% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và 1% được trừ vào thu nhập của người lao động). KPCĐ được hình thành theo tỷ lệ 2% trên quỹ lương và khoản mục này được tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Ý kiến 6 : Theo đặc điểm tổ chức sản xuất ở Xí nghiệp thì Xí nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành theo phương pháp trực tiếp là phù hợp. Nhưng trong thực tế, Xí nghiệp còn tiến hành sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng mang lại Để đảm bảo cho công tác tính giá thành được chính xác và kịp thời thì kế toán tính giá thành có thể áp dụng như sau : Phân loại sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng và sản phẩm không sản xuất theo đơn đặt hàng. Đối với các sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng thì tiến hành tập hợp chi phí riêng cho đơn đặt hàng đó. Còn các sản phẩm sản xuất không theo đơn đặt hàng thì ta tính giá thành theo phương pháp trực tiếp đã và đang sử dụng. Ý kiến 7 : Hiện tại, Xí nghiệp đang sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá thành thực tế nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất kho. Theo chế độ kế toán thì Bảng kê số 3 chỉ được sử dụng ở trong Doanh nghiệp có sử dụng giá hạch toán trong hạch toán chi tiết vật liệu. Mà Xí nghiệp sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá xuất NVL, CCDC chỉ theo giá thực tế, điềuđó là sai với chế độ kế toán Việt nam. Nếu Xí nghiệp muốn sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá xuất NVL, CCDC trong hạch toán chi tiết vật liệu thì Xí nghiệp phải sử dụng giá hạch toán để tính toán, và nếu Xí nghiệp sử dụng giá hạch toán để hạch toán chi tiết vật liệu thì nó rất phức tạp so với tình hình hạch toán thực tế vật liệu tại Xí nghiệp. Cho nên Xí nghiệp muốn tính giá xuất NVL, CCDC theo giá thực tế thì không sử dụng Bảng kê số 3 được. Muốn vậy, Xí nghiệp nên đăng ký với Bộ tài chính một biểu mẫu thích hợp (Biểu mẫu này có thể gần giống bảng kê số 3 nhưng không bao gồm cột giá hạch toán) để hạch toán chi tiết Vật liệu. Ý Kiến 8 : Hình thức kế toán mà Xí nghiệp đang áp dụng là hình thức Nhật ký chứng từ (NKCT). Hình thức kế toán NKCT chỉ áp dụng trong những Doanh nghiệp có quy mô lớn, số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều, số lượng tài khoản sử dụng nhiều, yêu cầu quản lý cao và trình độ nhân viên kế toán cao và đồng đều. Xét thấy quy mô của Xí nghiệp không lớn (tổng tài sản gần 4 tỷ đồng), số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh không nhiều, tài khoản sử dụng ít, trình độ kế toán chưa cao, cho nên hình thức NKCT áp dụng cho Xí nghiệp là chưa hợp lý. Cho nên Xí nghiệp nên áp dụng hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ (CTGS) là thích hợp nhất, vì hiện nay Xí nghiệp đang áp dụng kế toán thủ công (ghi chép bằng tay) mà áp dụng hình thức CTGS thì vẫn được, mà sau này khi có điều kiện Xí nghiệp áp dụng kế toán bằng máy Vi tính thì cũng áp dụng được hình thức CTGS một cách dễ dàng. Ý kiến 9 : Xí nghiệp áp đồng thời 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho là phương pháp KKTX và phương pháp KKĐK. Phương pháp KKTX áp dụng cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính còn phương pháp KKĐK áp dụng cho bộ phận sản xuất kinh doanh phụ. Cùng một lúc sử dụng 2 phương pháp thì cũng phức tạp trong công tác kế toán. Có thể áp dụng đồng thời 2 phương pháp đó trong điều kiện lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính và Bộ phận sản xuất kinh doanh phụ là độc lập nhau. Nhưng ở tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội thì giữa 2 lĩnh vực kinh doanh (chính và phụ) này có mối liên hệ với nhau thông qua phân xưởng Cơ điện (vì chi phí tập hợp ở phân xưởng Cơ điện lại được phân bổ cho cả 2 lĩnh vực sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp thông qua các phân xưởng và bộ phận). Cho nên Xí nghiệp chỉ có thể lựa chọn sử dụng một trong hai phương pháp hạch toán trên. Theo em thì Xí nghiệp nên chọn phương pháp KKTX vì theo phương pháp này, cho ta biết tình hình biến động tài sản của Xí nghiệp ở bất cứ thời điểm nào trong kỳ hạch toán và số dư đầu kỳ và cuối kỳ của mỗi khoản mục cần theo dõi. Ý kiến 10 : Phân xưởng Cơ điện thuộc bộ phận sản xuất kinh doanh phụ nhưng sự tác động và ảnh hưởng của nó tới 2 phân xưởng sản xuất chính là phân xưởng Xẻ và phân xưởng Mộc là rõ nét và cơ bản. Phân xưởng Cơ điện chủ yếu thực hiện nhiệm vụ gia cố và sửa chữa TSCĐ cho toàn Doanh nghiệp. Nên chi phí phát sinh tại phân xưởng Cơ điện mang tính chất của chi phí chung hơn vì chi phí của nó được phân bổ cho các phân xưởng và bộ phận khác theo số giờ công sản xuất thực tế. Vậy Xí nghiệp nên coi chi phí tại phân xưởng Cơ điện là một bộ phận của chi phí sản xuất chung và dùng TK627.3 để tập hợp chi phí phát sinh tại phân xưởng Cơ điện này (với TK627.1 “Chi phí sản xuất chung ở phân xưởng Xẻ”. TK627.2 “Chi phí sản xuất chung ở phân xưởng Mộc” ). Ý kiến 11 : Tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất trong Xí nghiệp là trả lương theo sản phẩm (rất tốt vì hình thức trả lương này là hình thức tiến bộ nhất vì nó kích thích được sức lao động của người lao động trong sản xuất, đẩy mạnh năng suất lao động của người lao động). Nhưng tính lương sản phẩm theo giờ công sản xuất thực tế là chưa hợp lý (ngắn quá) vì sản phẩm đồ mộc, gỗ hoàn thành trong khoảng thời gian không ngắn quá (khoảng 10 ngày). Cho nên, Xí nghiệp có thể thay đổi tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất là theo ngày công sản phẩm. Trong khi đó thì tiền lương của các nhân viên quản lý phân xưởng (Quản đốc phân xưởng) lại không làm cơ sở để tính và trích BHXH, BHYT, và KPCĐ, tức là các khoản trích theo lương BHXH, BHYT và KPCĐ của Xí nghiệp được trích trên cơ sở chỉ có tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp sản xuất thôi. Cho nên, để đúng với chế độ kế toán thì các khoản trích theo lương phải được trích trên cơ sở tổng quỹ lương của CBCNV của Xí nghiệp theo đúng tỷ lệ trích được quy định như đã nói ở phần trước. Ý kiến 12 : Định kỳ, bộ máy kế toán của Xí nghiệp đã tính toán và lập ra các Báo cáo tài chính và gửi lên các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan chủ quản – Sở Công nghiệp Hà nội – cơ quan thuế…) theo đúng kỳ hạn nhưng vẫn thiếu 1 trong 4 Báo cáo tài chính quan trọng và “bắt buộc phải có” của Xí nghiệp đó là “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”. Cho nên Xí nghiệp Gỗ Hà nội nên bổ sung lại bộ Báo cáo kế toán tài chính của mình cho đầy đủ theo đúng chế độ kế toán. Và điều này lại rất cần thiết cho Xí nghiệp trong điều kiện Xí nghiệp sẽ tiến hành Cổ phần hoá trong nay mai. Khi cổ phần hoá xong và có điều kiện, Xí nghiệp sẽ tham gia vào thị trường chứng khoán quốc gia, khi đó Xí nghiệp cần phải cung cấp tình hình tài chính của mình thông qua bộ Báo cáo kế toán tài chính để cho các đối tác, các nhà đầu tư tìm hiểu, nghiên cứu và tìm cách hợp tác và đầu tư với Xí nghiệp. Khi đó thì ngoài tình hình tài chính khả quan của Doanh nghiệp, bộ Báo cáo tài chính của Xí nghiệp được lập đầy đủ và đúng theo chuẩn của chế độ kế toán thì sẽ rất có lợi cho Xí nghiệp trong việc tìm đối tác để mở rộng quy mô và đẩy mạnh sự phát triển của Xí nghiệp. Ý kiến 13 : Bất kể một hoạt động nào thuộc lĩnh vực gì, theo quan điểm này hay quan điểm khác thì hoạt động đó phải đem lại lợi ích gì cho bộ phận xã hội nào trong xã hội. Mà hoạt động đó có hợp pháp hay không, có đúng với các quy định mà nhà nước ban hành hay không ? Thì cần phải tiến hành theo dõi, giám sát, kiểm tra, kiểm soát nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động. Cho nên, công tác kiểm toán nội bộ trong Xí nghiệp cần phải được chú trọng hơn nữa và tính hiệu quả rất được quan tâm hiện nay. Thứ nhất là nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của Xí nghiệp hoạt động tốt thì các nghiệp vụ kinh tế qua Xí nghiệp xử lý thì rất an toàn về tính trung thực và tính chính xác của chứng từ và tài liệu kế toán, từ đó mà tạo được lòng tin cho các đối tượng quan tâm tới Xí nghiệp. Thứ hai là nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của Xí nghiệp hoạt động tốt thì các khoản chi ra là tương đối hợp lý, không bị thất thoát rò rỉ tài sản của Xí nghiệp ra ngoài, để mà từ đó xác định được chi phí và giá thành thành phẩm của Xí nghiệp là chính xác. Và cuối cùng là các Báo cáo tài chính được lập là trung thực, trình độ quản lý của nhân viên trong Xí nghiệp được nâng cao và tạo được uy tín lớn trên thương trường. Để làm được như vậy, Xí nghiệp cần tiến hành lập một Ban thanh tra kinh tế tài chính của Xí nghiệp (Ban này khoảng độ 2 người là đủ). Nhiệm vụ của ban là tiến hành kiểm toán nội bộ để từ đó đánh giá việc thực hiện công tác kế toán của các bộ phận trong Doanh nghiệp, có quyết định thưởng phạt cụ thể rõ ràng để nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mọi thành viên trong Xí nghiệp. Bên cạnh đó, định kỳ kế toán cũng cần tổ chức phân tích tình hình tài chính và tình hình thực hiện kế hoạch của Xí nghiệp, vạch ra những nguyên nhân làm cho hoàn thành hoặc chưa hoàn thành, những tiềm năng khả năng tiềm tàng có thể khai thác và đề ra các phương hướng cần phấn đấu để không ngừng hạ thấp giá thành sản phẩm. Cụ thể để thực hiện tốt các hướng hoàn thiện ở trên thì Xí nghiệp phải đảm bảo các điều kiện : - Cần có sự chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa từ Giám đốc Xí nghiệp xuống các phòng, ban, phân xưởng, bộ phận sản xuất để tổ chức hạch toán đầy đủ các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá được chất lượng công tác ở các phân xưởng, các phòng ban. - Công tác hạch toán ở các phân xưởng cần thực hiện tốt sát với mọi chi phí phát sinh. Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa những nhân viên kế toán để tính đúng, tính đủ các chỉ tiêu thông tin kế toán. - Tất cả các phòng ban phải đảm trách tốt nhiệm vụ của mình. Phòng Kỹ thuật – Kế hoạch – Vật tư chịu trách nhiệm xây dựng các định mức tiêu hao và các thông số kỹ thuật phục vụ sản xuất ; dựa vào tình hình thực tế để xây dựng kế hoạch thu mua và cung cấp vật tư kịp thời cho các phân xưởng sản xuất để đảm bảo nhịp độ sản xuất được liên tục. Ý kiến 14 : Hiện nay, theo đà phát triển cao của khoa học kỹ thuật trên thế giới, đặc biệt là lĩnh vực điện tử tin học thì máy Vi tính là một công cụ rất đắc lực cho nhiều hoạt động khác nhau như : Ngân hàng, Bảo hiểm, Bưu chính viễn thông, An ninh quốc phòng, Lưu trữ hồ sơ… và lĩnh vực hạch toán kế toán cũng không nằm ngoài vùng tác động của nó. Trên thế giới, cụ thể là những nước tiên tiến phát triển thì việc áp dụng máy Vi tính vào công tác hạch toán kế toán được phổ biến vì máy Vi tính có những tính năng hoạt động rất tốt trong điều kiện hạch toán kế toán thủ công (ghi chép bằng tay) như : Xử lý dữ liệu cực nhanh, các bản báo cáo tài chính được in ra đẹp, đầy đủ và chính xác, cung cấp số liệu theo yêu cầu của quản lý rất kịp thời, lưu trữ thông tin một cách gọn nhẹ… Cho nên với nhiều tính năng như vậy thì xu hướng chung hiện nay là đưa máy Vi tính vào công tác hạch toán kế toán của Xí nghiệp. Khi mà Xí nghiệp áp dụng máy Vi tính vào công tác hạch toán kế toán thì sẽ giảm được một lượng nhân viên kế toán, và từ đó để giảm được chi phí quản lý Doanh nghiệp của Xí nghiệp hay nói cách khác là trình độ quản lý Doanh nghiệp được nâng cao. Ý kiến 15 : Quản lý chỉ tiêu giá thành thành phẩm : Xí nghiệp Gỗ Hà nội là một Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tự chủ về vốn kinh doanh, tự hạch toán kinh tế lãi lỗ. Muốn sản xuất và kinh doanh có lãi thì Xí nghiệp phải tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường. Khi phân tích chỉ tiêu giá thành để tăng cường quản lý, Xí nghiệp cần xây dựng chi phí định mức, giá thành định mức. Xí nghiệp nên lập hệ thống chi phí định mức dựa vào định mức kỹ thuật của sản phẩm cho mỗi khoản mục, dựa vào chi phí thực tế phát sinh kỳ trước và những yếu tố biến đổi tăng giảm dự kiến trong năm do phòng Kế hoạch và Ban giám đốc Xí nghiệp xác định. Từ hệ thống chi phí định mức này kế toán có thể so sánh với thực tế phát sinh để điều chỉnh tăng giảm các khoản mục chi phí một cách hợp lý. Các khoản mục chi phí khi phát sinh đều phải được kiểm tra kỹ càng từ khâu lập chứng từ đến quá trình sử dụng chi phí đó như thế nào. Sổ sách kế toán phải phù hợp tập hợp đầy đủ, không bỏ sót khoản chi nào, phản ánh một cách trung thực mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp giúp cho việc quản lý của Xí nghiệp ngày càng chặt chẽ hơn. KẾT LUẬN Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp là một công tác không thể thiếu được đối với công tác kế toán tài chính của Doanh nghiệp, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Xí nghiệp Gỗ Hà Nội là một Doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chuyên sản xuất –kinh doanh các sản phẩm hàng mộc. Công tác hạch toán là khâu quan trọng, đặc biệt kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được coi là trung tâm của toàn bộ công việc kế toán, đã cung cấp được những thông tin thực sự cần thiết cho quá trình quản lý của Xí nghiệp. Tuy nhiên, quá trình tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp cũng còn một số hạn chế. Những ý kiến trong bài này không ngoài mục đích góp phần hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm tăng cường công tác hạch toán kế toán, giám đốc chặt chẽ các chi phí sản xuất, tính đúng, tính đủ giá thành. Mục đích của em khi chọn đè tài này là để trình bày Chuyên đề thực tập tốt nghiệp với việc gắn lý luận với thực tế. Trước hết, thể hiện nhận thức về mặt lý luận của em đối với đề tài này và sau nữa là quá trình thực tập timf hiểu thực tế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà Nội . Trong thời gian thực tập thầy giáo hướng dẫn đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo em cả về phương pháp và kién thức cùng với sự chỉ bảo nhiệt tình của các Cô ở Phòng Kế toán - Tài chính (phòng Tài vụ) của Xí nghiệp đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Do thời gian tìm hiểu thực tế không có nhiều và trình độ chuyên môn còn hạn hẹp nên bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kế toán tài chính trong các Doanh nghiệp Nhà xuất bản Tài chính - 1998 2. Kế toán Doanh nghiệp thực hành Chủ biên : TS. Nguyễn Văn Công 3. Chế độ Kế toán mới Nhà xuất bản Thống kê 4. Phân tích hoạt động kinh doanh Trường Đại học KTQD - Khoa Kế toán 5. Kế toán Quản trị và Phân tích kinh doanh Nhà xuất bản Thống kê - 1995 6. Tạp chí Tài chính 7. Nguyên lý Kế toán Mỹ 8. Đặc điểm Kế toán Pháp 9. Giáo trình Phần mềm Kế toán FAST ACCOUNTING . MỤC LỤC Lời nói đầu Phần I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp I - Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất Giá thành sản phẩm Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm II - Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm, dịch vụ Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất Đối tượng tính giá thành Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành III – Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất Phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ IV – Nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ Nguyên tắc hạch toán chi phí vào giá thành sản phẩm Tổ chức hệ thống chứng từ, hệ thống sổ sách để hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp A – Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp Kê khai thường xuyên (KKTX) Hạch toán chi phí Nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT) Hạch toán chi phí Nhân công trực tiếp (NCTT) Hạch toán chi phí trả trước Hạch toán chi phí phải trả Hạch toán chi phí sản xuất chung (SXC) Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất Hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm kinh doanh phụ Tỏng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang B – Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp Kiểm kê định kỳ (KKĐK) Hạch toán chi phí Nguyên vật liệu Hạch toán chi phí Nhân công trực tiếp (NCTT) Hạch toán chi phí SXC Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang V – Hạch toán chi tiết chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ VI - Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo các hình thức sổ kế toán Hình thức sổ Nhật ký chung (NKC) Hình thức sổ Nhật ký sổ cái (NKSC) Hình thức sổ Chứng từ ghi sổ (CTGS) Hình thức sổ Nhật ký chứng từ (NKCT) VII – Kế toán Máy trong công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm VIII – Sơ lược nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất tại một số nước trên thế giới Tại Pháp Tại Mỹ và Canađa Phần II : Thực trạng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội I – những đặc điểm kinh tế kỹ thuật, tổ chức sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp tác động đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp Gỗ Hà nội Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Xí nghiệp Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý Đặc điểm chung về công tác hạch toán kế toán ở Xí nghiệp Gỗ Hà nội II - Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội đối tượng hạch toán chi phí sản xuất Tài khoản sử dụng Tổ chức quá trình hạch toán chi phí sản xuất của Xí nghiệp III - Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội Đối tượng tính giá thành sản phẩm Kỳ tính giá thành sản phẩm Phương pháp tính giá thành thành phẩm Phân tích tình hình sản xuất - kinh doanh của Xí nghiệp Gỗ Hà nội Phần III : Nhận xét, đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội I – ý nghĩa của việc tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường II – nhận xét và đánh giá tình hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội III – Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện hạch toán tập hợp CPSX & tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp tại xí nghiệp gỗ Hà Nội.doc
Luận văn liên quan