Đề tài Hoạt động của Ngân hàng thương mại và đóng góp của Ngân hàng thương mại đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Trong những trường hợp cần thiết như gặp những khách hàng chưa quen biết, mức độ tín nhiệm của Ngân hàng với khách hàng chưa cao, đòi hỏi Ngân hàng phải sử dụng các biện pháp tín dụng để giảm bớt mức độ rủi ro, tạo điều kiện thu hồi nợ chắc chắn. - Bảo lãnh: Người bảo lãnh phải có đủ tư cách pháp nhân (nếu là một tổ chức), có đủ năng lực pháp lý và năng lực hàng vi (nếu là cá nhân), phải có đủ khả năng kinh tế để trả nợ thay trong trường hợp người vay không trả được nợ. - Cầm cố: là việc Ngân hàng cho khách hàng vay vốn bằng việc người vay đưa tài sản của mình đến Ngân hàng đảm bảo cho khoản vay mà họ có thể nhận được món vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản cầm cố. Đến hết thời hạn trả nợ mà người vay không chịu trả hoặc không có khả năng trả nợ thì Ngân hàng sẽ bán đấu giá vật cầm cố để thu hồi nợ. - Thế chấp tài sản: khi sử dụng hình thức thế chấp phải sử lý chặt chẽ các vấn đề sau: + Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có giá trị trao đổi trên thị trường. + Nếu là động sản mà Ngân hàng khó quản lý được trong thời gian người vay sử dụng vốn vay thì Ngân hàng có thể yêu cầu người vay mua bảo hiểm động sản đó và trao giấy tờ gốc cho Ngân hàng. Những động sản thuộc quyền sở hữu của người vay nhưng pháp luật không có quy định phải có giấy tờ chứng minh quyến sở hữu thì nên áp dụng cho vay cầm cố và được quản lý tại kho của Ngân hàng.

docx61 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của Ngân hàng thương mại và đóng góp của Ngân hàng thương mại đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u thanh khoản của các ngân hàng, chứ mức sinh lãi khi đầu tư vào nó không nhiều hoặc thậm chí là bằng không, thông thường tồn tại dưới các hình thức như: tiền mặt để tại ngân hàng (tiền mặt, vàng, ngoại tệ…), dự trữ bắt buộc, tiền gửi tại các tổ chức khác như Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng khác…, các giấy tờ có giá có thể chuyển thành tiền ngay (tín phiếu, kỳ phiếu....). Chính vì thế, tỷ lệ của khoản mục này thay đổi phụ thuộc vào tình hình rút và gửi tiền của khách hàng và dự báo của ngân hàng về nhu cầu rút tiền của khách hàng trong tương lai. - Khoản mục cho vay Khoản mục cho vay hay nghiệp vụ tín dụng là một trong những nghiệp vụ truyền thống và lâu đời nhất của ngân hàng, mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng, với mức bình quân chiếm hơn 50% tổng tài sản. Tỷ lệ khoản cho vay của các ngân hàng Việt Nam đã giảm qua từng năm, từ 57.71% (năm 2005) xuống 53.37%, 49.86% (năm 2006, 2007), và ở mức 49.07% (năm 2008). Kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng các nước phát triển là các dịch vụ ngân hàng sẽ chiếm ưu thế cộng thêm với việc chiếc bánh thị trường cho vay trong nước ngày càng bị chia nhỏ qua từng năm do sự gia nhập thêm của các ngân hàng mới (trong nước lẫn nước ngoài) và sự xuất hiện các kênh đầu tư khác (đầu tư vào công ty con, đầu tư vào công ty khác, đầu tư vào thị trường chứng khoán…) đã làm tỷ lệ của khoản mục này có xu hướng giảm đi. Tuy nhiên, tỷ lệ của khoản mục cho vay giảm qua các năm nhưng không có nghĩa là giá trị tuyệt đối của dư nợ tín dụng của các ngân hàng cũng giảm mà vẩn tăng do tỷ lệ này được tính trên tổng tài sản mà các ngân hàng có khuynh hướng tăng tài sản của ngân hàng mình qua từng năm. Bằng chứng là tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vẫn tăng từ năm 2005 – 2008 - Đầu tư vào chứng khoán Tình hình đầu tư vào chứng khoán của các ngân hàng cho thấy tỷ lệ đầu tư vào loại này (so với tổng tài sản của ngân hàng) có xu hướng tăng lên qua các năm nhưng tăng không nhiều và tăng khá ổn định từ (9.53% - năm 2005 lên 10.6%, 11.2% hai năm sau đó và đến năm 2008 tỷ lệ này là 13.54%). Hoạt động đầu tư chứng khoán là một trong những hoạt động nhằm mục đích đa dạng hoá danh mục tài sản, tạo tính thanh khoản và sinh lời cho Ngân hàng. Hoạt động này đặc biệt sôi động trong giai đoạn 2006 – 2007 cùng với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong năm 2007, tỷ trọng chứng khoán kinh doanh và đầu tư trong tổng tài sản của khối NHTM nhà nước và NHTM cổ phần lần lượt là 18% và 14,5%; tỷ trọng thu nhập từ hoạt động này trong tổng thu nhập tương ứng là 2,2% và 14% Chiếm đa phần trong danh mục chứng khoán đầu tư của các Ngân hàng thường là Trái phiếu Chính phủ và Trái phiếu của các Tập đoàn tài chính. Tuy nhiên, kể từ đầu năm 2008 đến nay, thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh (chỉ số VnIndex giảm hơn 50%). Đồng thời, lãi suất thị trường cũng tăng nhanh khiến lợi tức trái phiếu tăng mạnh (lợi suất trái phiếu tăng khoảng 10%). Đây là những yếu tố gây ảnh hưởng đến danh mục chứng khoán đầu tư và kinh doanh của các ngân hàng cũng như lợi nhuận từ hoạt động mua bán chứng khoán. - Khoản góp vốn, đầu tư dài hạn Hoạt động góp vốn đầu tư dài hạn cũng không nằm ngoài mục đích để phân tán rủi ro cho các ngân hàng, tuy nhiên nhìn vào biểu đồ tỷ lệ đầu tư vào loại hình này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng tài sản có của các ngân hàng, từ năm 2005 -2008 tỷ lệ này chưa bao giờ vượt qua 2% cao nhất là 1.37% vào năm 2008. Tuy nhiên dễ nhận thấy là tỷ lệ này có xu hướng tăng lên qua các năm cho thấy các ngân hàng trong nước cũng đang rất chú ý tới hình thức đầu tư này Điều này cũng không quá khó hiểu khi mà trong thời gian qua xu hướng đầu tư chéo vào các công ty khác ngày càng phổ biến. Một số ví dụ như NHTM cổ phần Sài Gòn đầu tư vào công ty cổ phần đầu tư Sài Gòn Phú Gia, công ty chứng khoán Tân Việt..., NHTM cổ phần Quân Đội đầu tư và công ty chứng khoán Thăng Long, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Hà Nội, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản MB,..), mặt khác do các quy định của ngân hàng nhà nước không cho phép các ngân hàng trong nước không được trực tiếp kinh doanh một số lĩnh vực có mức sinh lời cao nhưng mức rủi ro quá cao nên các ngân hàng có khuynh hướng kinh doanh những lĩnh vực này thông qua các công ty con do ngân hàng góp vốn. - Đầu tư vào tài sản cố định Do đặc điểm của ngành ngân hàng khác với một doanh nghiệp sản xuất, tài sản (Tài sản cố định) mà các ngân hàng sỡ hữu chủ yếu là các tòa nhà, phần mềm vi tính, bản quyền,.. chiếm phần lớn trong tài sản cố định của các ngân hàng, và thường giữ mức cố định qua các năm và chỉ tăng thêm khi ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng thêm sự hiện diện của các chi nhánh. Nhìn vào biểu đồ, tình hình đầu tư vào tài sản cố định của các ngân hàng từ năm 2005 – 2008 chiếm trung bình khoản 3 – 4% và có xu hướng tăng qua từng năm, từ 3.8% (2005) lên 3.92% (2006) và 4.32% (2007), tới năm 2008, tỷ lệ này đã tăng lên nhanh hơn so với những năm trước lên mức 6.9%, nguyên nhân là do trong năm 2008 do sự đổ bộ của các ngân hàng nước ngoài, sự cạnh tranh gay gắt của chính các ngân hàng trong nước nên các ngân hàng ra sức mở thêm các chi nhánh, các văn phòng đại diện cho mình. Tuy có sự tăng nhanh trong năm 2008 nhưng tỷ lệ mà các ngân hàng đầu tư vào tài sản cố định vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với cho vay hay ngân quỹ. Những hạn chế tồn tại trong quản trị thanh khoản và cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Hạn chế trong quản trị thanh khoản Sự tăng trưởng tín dụng quá nóng đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào đầu tư bất động sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa Tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh khoản cao đối với NHTM. Công tác dự báo và phân tích thị trường của các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế, vẫn còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà nước, trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã dự phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác động thị trường. Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các ngân hàng khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống. Vấn đề quản trị thanh khoản tại các ngân hàng chưa tốt, do sự yếu kém từ quản trị tài sản Nợ, Có của các và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu…Ngân hàng nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của ngân hàng nhà nước. - Hạn chế trong quản trị cho vay Danh mục cho vay hiện tại tiềm ẩn mức độ rủi ro rất cao. Sau khi xử lý một lượng lớn nợ tồn đọng, tỷ lệ nợ quá hạn của các NH thương mại nhà nước còn rất thấp. Dường như là chất lượng tín dụng tăng lên rất nhiều. Nhưng thực sự danh mục cho vay hiện tại đang tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro rất cao. Lãi suất cho vay không được xác định khoa học dựa trên chi phí vốn, mức độ rủi ro và mức lợi nhuận hợp lý của ngân hàng. Việc định giá khoản vay được thực hiện một cách cảm tính hoặc cứng nhắc dựa vào mức lãi suất thông báo áp dụng chung cho tất cả mọi khách hàng; việc lượng hoá độ rủi ro của khách hàng, dự án vẫn rất khó khăn ở Việt Nam khi các ngân hàng không có phần mềm và đầy đủ thông tin để định giá. Các thông số của thị trường dùng trong đo lường (như hệ số bêta, xếp hạng tín dụng …) chưa có cơ quan chuyên nghiệp để xác định. Trích lập dự phòng rủi ro trên cơ sở nợ quá hạn chứ không phải trên mức rủi ro tín dụng. Theo quy định hiện nay, các NHTM trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn. Điều này là không hợp lý vì có những khoản vay mặc dù chưa tới hạn nhưng đã tiềm ẩn khả năng mất vốn rất cao, cần được dự phòng rủi ro song lại không được trích lập. Số nợ quá hạn hiện nay của các NHTM nhà nước tương đối thấp sau khi đã xử lý một lượng lớn nợ tồn đọng. Lạm dụng tài sản thế chấp. Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị đẩy lên cao ở hầu hết các thành phố lớn đã làm nảy sinh tư tưởng dựa dẫm thái quá vào tài sản thế chấp. Số lượng các khoản vay để mua bất động sản (nhà, đất) cũng tăng. Tuy nhiên sẽ rất nguy hiểm nếu cán bộ tín dụng quên đi rằng khoản vay cần được trả bằng dòng tiền tạo ra bởi dự án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến mà thôi. III.Nghiệp vụ tín dụng Khái niệm chung 1.1 Tín dụng, tín dụng Ngân hàng Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ. Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả,... Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế và các cá nhân. Trong thực tế hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng nhưng bất kỳ hình thức tín dụng nào cũng có hai giai đoạn: người cho vay chuyển giao vốn cho người đi vay sử dụng trong một thời gian nhất ịnh, và sau khi đến thời hạn do hai bên thoả thuận người đi vay sẽ trả lại cho người cho vay một khoản giá trị lớn hơn, phần tăng thêm gọi là tiền lãi. 1.2 Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân hàng, gây tổn thất cho Ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho Ngân hàng. Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của NHTM như: - Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. - Tỷ lệ nợ xấu trên vốn sở hữu. - Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự chủ phòng tổn thất. - Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) – có khả năng chuyển thành nợ xấu cao. - Nợ không có tài sản đảm bảo. Không một loại hình doanh nghiệp nào mà không phải đối đầu với nguy cơ rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh . Nhưng với các dặc điểm , đặc thù của NHTM có thể kết luận hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ –tín dụng của Ngân hàng gặp phải nguy cơ rủi ro cao hơn cả. Tác động tích cực đến nền kinh tế (1) Khuyến khích tiết kiệm, góp phần hình thành và hỗ trợ các dòng vốn luân chuyển. Trong nền kinh tế luôn xuất hiện những chủ thể ở tình trạng thặng dư tạm thời. Họ có nhu cầu đầu tư để bảo toàn vốn và sinh lời. Tuy vậy, không phải ai cũng có cơ hội thực hiện điều đó. Các NHTM huy động những khoản vốn này dưới nhiều hình thức: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, tích tụ chúng và cho vay lại nền kinh tế. Như vậy, thay vì bị rút khỏi lưu thông, tồn tại dưới dạng cất trữ, tiền được chuyển thành vốn đầu tư, sinh lời. Thông qua hệ thống NHTM, các dòng vốn được hình thành và luân chuyển một cách dễ dàng, thông suốt hơn trong nền kinh tế. Một số bộ phận của các dòng vốn này có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, như các khoản đầu tư vào sự phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng hầu hết các bộ phận khác chỉ đơn thuần làm tăng nguồn lực vốn trong quan hệ với lợi tức tài chính của các khoản đầu tư, cả trong các khoản đầu tư nợ lẫn đầu tư vốn chủ sở hữu. (2) Phân bổ vốn hữu hiệu giữa các ngành, các lĩnh vực. NHTM về bản chất là các doanh nghiệp, kinh doanh vì mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Họ phải lựa chọn những doanh nghiệp hay dự án có khả năng thu hồi nợ, có hiệu quả để cho vay. Nhờ quá trình sàng lọc tín dụng, vốn trong nền kinh tế được tập trung vào những khu vực có khả năng sinh lời cao, mang lại nhiều lợi ích. Những lĩnh vực hay ngành nghề kém hiệu quả sẽ không nhận được vốn. Nhờ các trung gian tài chính này, vốn được phân bổ hữu hiệu giữa các ngành, các lĩnh vực. (3) Giảm chi phí, tối thiểu hóa rủi ro. Việc chuyển dịch vốn diễn ra trực tiếp giữa các chủ thể thặng dư và thiếu hụt vốn đòi hỏi phải tiêu tốn rất nhiều chi phí của cả hai bên: thu thập và xử lý thông tin, chi phí về thời gian, trong nhiều trường hợp, các nhu cầu này không thể tương thích và giao dịch không thể diễn ra. Xét đến cùng, những chi phí phát sinh như vậy gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế vì làm lãng phí, tổn thất nguồn lực. Các NHTM với tư cách là những tổ chức trung gian tài chính, có thể giảm thiểu tới mức thấp nhất những chi phí này. NHTM thu thập và nắm giữ thông tin về một lượng lớn người có nhu cầu về vốn cũng như những người khác sẵn sàng cung ứng vốn. Cũng do được chuyên môn hóa, NHTM có các nghiệp vụ kỹ thuật để san sẻ và phân tán rủi ro. Họ có khả năng thu thập được lượng lớn thông tin liên quan đến số lượng đông đảo các đối tượng khác nhau, có thể giảm sát các khoản tín dụng, giảm các nguy cơ về rủi ro đạo đức cũng như thông tin không cân xứng. (4) Hoạt động của NHTM góp phần nâng cao môi trường kinh doanh, xây dựng văn hóa kinh doanh đối với các doanh nghiệp. Việc NHTM tham gia sâu vào các hoạt động của nền kinh tế như hoạt động góp vốn, tư vấn… cũng tạo ra những hiệu ứng tích cực cho sự đổi mới phong cách làm việc của những chủ thể này. Bản thân NHTM là những tổ chức hoạt động chuyên nghiệp, với hệ thống công nghệ hiện đại, mạng lưới thông tin rộng khắp. Sự năng động và phong cách chuyên nghiệp, minh bạch của ngành Ngân hàng giúp các tổ chức, cá nhân khác trong nền kinh tế hình thành tác phong công nghiệp chuyên nghiệp và văn hóa kinh doanh. (5) Các hoạt động tài trợ của ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp duy trì ổn định sản xuất, đầu tư công nghệ, thay đổi máy móc, nhờ đó nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Ngoài ra, hoạt động cho vay tiêu dùng góp phần kích thích cầu tiêu dùng, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế.Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế, dưới các hình thức cho vay ngày một đa dạng: cho vay vốn lưu động, cho vay vốn cố định, tín dụng thuê mua,... Đặc biệt, việc chuyển hướng mở rộng cho vay tiêu dùng thực sự là một hướng kích cầu có hiệu quả. Thông qua quan hệ tín dụng của các NHTM Nhà nước với các tổ chức tín dụng trong nước thể hiện chủ yếu ở sự biến động của khoản mục cho vay, có thể thấy số lượng giao dịch giữa các tổ chức tín dụng tăng lên liên tục. Mặc dù duy trì được mức tăng trưởng dư nợ trong năm cao song các ngân hàng vẫn kiểm soát được rủi ro ở mức độ an toàn. Tỷ lệ nợ quá hạn luôn được kiềm chế ở mức thấp. (6) Sự đóng góp của hoạt động các NHTM đến tổng thu nhập kinh tế quốc dân. Ngoài việc tăng trưởng mạnh các hoạt động huy động và cho vay, các hoạt động có thu khác của NHTM cũng ngày càng được quan tâm và phát triển. Đây là xu hướng của các NHTM ở các nước phát triển. Đặc biệt khi các hoạt động cho vay và huy động vốn rất nhạy cảm với tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế, các hoạt động khác chính là “phao cứu sinh” cho các NHTM, cụ thể là: Trong năm 2008, trước tình hình hạn chế tăng trưởng tín dụng từ chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng đã tính đến các biện pháp khác để thu hút khách hàng, cải thiện cơ cấu thu nhập. Biện pháp đầu tiên các NHTM đưa ra là nâng cấp, phát triển dịch vụ, chính vì vậy, hoạt động dịch vụ trong năm 2008 tăng trưởng cao, tăng 67% so với năm trước. Trong đó, tăng nhiều nhất là thanh toán trong nước, tăng 72%. Qua đó, kéo theo tổng thu tiền mặt qua quỹ Ngân hàng Nhà nước trong năm 2008 tăng 76%. (7) Hệ thống NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, từ đó tác động đến nền kinh tế. Từ cuối năm 2008, Chính phủ bắt đầu thực hiện gói kích cầu nền kinh tế, trong đó các biện pháp tài chính, tiền tệ là chủ đạo. Các biện pháp tiền tệ gồm: Giảm lãi suất cơ bản: Tính từ ngày 21/10 cho đến hết năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã 5 lần giảm lãi suất cơ bản,  khiến lãi suất cơ bản đã giảm mạnh từ mức đỉnh 14%/năm (ngày 11/6) xuống còn 8,5%/năm. Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc: tính đến hết tháng 6/2009, Ngân hàng Nhà nước đã 5 lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng có 2 lần điều chỉnh giảm. Hỗ trợ lãi suất vay vốn nói chung: hỗ trợ 4% lãi suất cho vay ngắn hạn (thời hạn giải ngân khoản vay tính từ ngày 1/2/2008 đến ngày 31/12/2008) và hỗ trợ 4% lãi suất cho vay trung hạn (thời hạn giải ngân khoản vay tính từ ngày 1/4/2009 đến ngày 31/12/2011). Quy mô gói hỗ trợ lãi suất trị giá 1 tỷ đô la Mỹ, tương đương với tổng cung tín dụng khoảng 496.362 tỷ đồng. Bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của NHTM: Ngân hàng Phát triển Việt Nam đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động, trừ một số lĩnh vực kinh doanh bất động sản, chứng khoán hay đảo nợ. Xử lý nợ quá hạn: Không phạt nợ quá hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn. Các NHTM thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật đối với các hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, nhiều biện pháp mà nhà nước áp dụng chỉ có thể phát huy hiệu quả thông qua hoạt động của các NHTM. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của các NHTM trong chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế. Lợi nhuận thu được của các Ngân hàng thương mại Năm 2010, là một năm rất khó khăn đối với các NHTM nhưng hầu hết đều đã đạt được lợi nhuận cao. Đa số các Ngân hàng đạt lợi nhuận cao đều là những Ngân hàng lớn nắm giữ nhiều giấy tờ có giá. Vào thời điểm khó khăn về thanh khoản, Ngân hàng đem cầm cố giấy tờ có giá vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước với lãi suất cực thấp, sau đó đem cho các Ngân hàng khác vay lại hoặc cho vay ra ngoài với lãi suất cao hơn nhiều là đã thu được khoản lời lớn. Và đến năm nay 2011 thì tham vọng về lợi nhuận của các NHTM vẫn còn rất lớn. Không chỉ các NH lớn mới đặt ra mục tiêu khó với, mà ngay cả những NH có quy mô nhỏ và vừa cũng không ngần ngại đưa ra con số lợi nhuận tăng gấp đôi so với năm trước đó. Dường như những bất ổn vĩ mô của nền kinh tế từ những ngày đầu tháng 2 không ảnh hưởng gì đến hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng , khi giới này vẫn tiếp tục đưa ra mục tiêu đầy tham vọng lợi nhuận trong năm 2011 này. Phải thừa nhận dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng không mấy bị ảnh hưởng. Điều này giải thích vì sao trong thời gian vừa qua, khi hoạt động tín dụng gặp khó khăn, nhiều Ngân hàng vẫn đạt được lợi nhuận cao. Bằng chứng là trong năm 2010, đa số các Ngân hàng lớn nhỏ đều đạt được lợi nhuận vượt kế hoạch đề ra. Chẳng hạn, ACB thu được 3.100 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế; Eximbank đạt lợi nhuận trước thuế 2.380 tỷ đồng, tăng 55% so với năm trước đó; Techcombank đạt lợi nhuận 2.750 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2009; Quân Đội (MB) mặc dù đặt kế hoạch 1.700 tỷ đồng nhưng lại đạt lợi nhuận trước thuế là 2.100 tỷ đồng; Maritime Bank đạt 1.700 tỷ đồng, tăng tới 151% so với năm trước; An Bình đạt 638 tỷ đồng lợi nhuận, tăng 55%; lợi nhuận trước thuế của VPBank đã tăng gấp đôi so với năm 2009 là 637 tỷ đồng. Đáng chú ý hơn cả vẫn là hai NHNN đã cổ phần hóa là Vietcombank thu được 5.430 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 21% so với năm trước; trong khi VietinBank đạt 4.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng lên đến 26%... Bước sang năm 2011, các Ngân hàng tiếp tục thừa thắng xông lên khi đưa ra những dự kiến lợi nhuận cũng không kém phần sôi động. Không chỉ các Ngân hàng lớn mới đặt ra mục tiêu khó với, mà ngay cả những Ngân hàng có quy mô nhỏ và vừa cũng không ngần ngại đưa ra con số lợi nhuận tăng gấp đôi so với năm trước đó. Nhận xét bản thân Trong các lĩnh vực kinh doanh thì NH chính là nghành mà tạo ra nhiều doanh thu và lợi nhuận nhất cho nền kinh tế Việt Nam. Rất nhiều nghành thông báo lỗ , tuy nhiên nghành ngân hàng lại có rất nhiều điều tích cực Tuy nhiên cần phải nhìn nhận 1 cách cụ thể hơn nữa trong khi các ngân hàng không làm ăn được và sát nhập , nợ xâu vẫn ở đó và NH vẫn báo là lãi đó là 1 mâu thuẫn mà chúng ta đặt dấu hỏi ở đây Bộ phận tín dụng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế vì nó ảnh hưởng đến tiền gửi tiết kiệm của người dân. Huy động sức mạnh nhàn rỗi đồng tiền trong nhân dân vì thế nhà nước sẽ bớt đi 1 phần gánh nặng trong việc thống kê nguồn tài sản trong nhân dân. Và đặc biệt nền kinh tế Việt Nam vẫn còn đang yếu so với các nền kinh tế khác nên chúng ta phải tận dụng mọi nguồn nhân lực có thể tận dụng được để phát triển kinh tế đất nước Nguồn thu của NH từ tín dụng đóng góp 1 phần lớn vào nguồn thu của đất nước Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, NH là 1 trong những nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế đi đúng quỹ đạo của nó. Đây là 1 chứng minh cho điều đó Theo nhận định từ bản báo cáo, nền kinh tế Việt Nam hiện khác hẳn với năm 2011. Điều này được thể hiện qua một vài con số thống kê tiêu biểu như cán cân thương mại thặng dư, từ mức thâm hụt 9,8 tỷ USD trong năm ngoái; lạm phát hạ về mức một con số từ mức bình quân 18,6% trong năm 2011; và tỷ giá tiền đồng so với USD đã tăng được 0,8%, từ chỗ mất giá 7,9% trong năm 2011. Rủi ro tín dụng   Trong nền kinh tế xuất hiện nhu cầu cần vốn và “nhu cầu” cho vay vốn. Hai nhu cầu này đều giống nhau ở chỗ để thu lợi nhuận và mang tính chất tạm thời. Nhưng chúng khác nhau về chiều vận động và quyền sở hữu. Do đó, trong nền kinh tế tất yếu tồn tại quan hệ tiêu dùng và tín dụng. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa to lớn đối với NHTM (NHTM) trong chiến lược huy động vốn và phát triển. 3.1 Rủi ro gắn với hoạt động tín dụng của NHTM Tín dụng Ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, ngay cả những hoạt động phi sản xuất cũng không thể thiếu sự hỗ trợ của tín dụng Ngân hàng. Chính vì tín dụng Ngân hàng tham gia vào mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, mà mỗi ngành mỗi lĩnh vực kinh doanh lại có tính đặc thù, có sự phức tạp riêng, có những rủi ro riêng nên rủi ro tín dụng của Ngân hàng mang tính tổng hợp và khả năng xuất hiện là lớn hơn các ngành khác. NHTM không chỉ chịu rủi ro trong việc lựa chọn khách hàng mà còn chịu rủi ro của khách hàng rủi ro tín dụng xảy ra khi bên vay trong giao dịch không thực hiện đươc theo thời gian và điều kiện hợp đồng làm người cho vay phải chịu tổn thất tài chính. 3.2 Các hình thức của rủi ro tín dụng L·i treo ph¸t sinh Nî qu¸ h¹n ph¸t sinh 1. L·i treo ®ãng b¨ng 2. MiÔn gi¶m l·i 1. Nî kh«ng cã kh¶ n¨ng thu håi 2. Xãa nî Kh«ng thu ®­îc l·i ®óng h¹n Kh«ng thu ®­îc vèn ®óng h¹n Kh«ng thu ®ñ l·i Kh«ng thu ®ñ vèn (MÊt vèn) Rñi ro tÝn dông ` 3.3 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 3.3.1 Nguyên nhân từ phía khách hàng Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay (khách hàng) thì nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làn hai trường hợp lớn: Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận. a. Khách hàng gian lận, cố ý lừa Ngân hàng Điều này được thể hiện qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ ,quyền sở hữu tài sản. Doanh nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác, cố ý đưa ra số liệu sai sự thật, phản ánh không đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị. Những món cho vay trên cơ sở nnhững thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro cho Ngân hàng. Bên cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu tài sản, doanh nghiệp có thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều Ngân hàng khác nhau. Khi không thu được nợ, các NHTM phát mãi tài sản thì mới biết bị lừa. Ngoài ra, khách hàng có thể gian lận Ngân hàng thể hiện qua việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất động sản. Việc giá nhà đất đột ngột giảm xuống làm doanh nghiệp kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng không thể trả được nợ Ngân hàng. Ngân hàng có phát mại tài sản thế chấp đi nữa cũng không đủ khoản cho vay vì tài sản thế chấp cũng là nhà đất nên cũng giảm giá trị. b. Khách hàng không gian lận Không chỉ khi khách hàng có ý không tốt Ngân hàng mới gặp rủi ro mà ngay cả khi khách hàng đi vay có đủ tư cách, không có ý gian lận, Ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro tín dụng. Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực quản lý yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả, không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong cạnh tranh nên việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro thì Ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ đúng hạn. Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm cắp có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. 3.3.2. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng Các khoản cho vay có vấn đề và các thiệt hại cho vay có thể xảy ra do sơ hở về thủ tục trong nội bộ Ngân hàng. Đây được gọi là các hoạt động cho vay không hoàn hảo và nó xuất hiện do các nguyên nhân sau đây: - Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không toàn diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn đến sự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng. - Trình độ chuyên môn của cán bộ Ngân hàng nói chung và của cán bộ tín dụng nói riêng còn hạn chế. Hiện nay nhiều cán bộ tín dụng Ngân hàng thiếu năng lực xử lý các thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay. Cán bộ tín dụng không có khả năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội cũng bị hạn chế nên nhều khi cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi không. - Ngân hàng quá chú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao. - Sự cạnh tranh không lành mạnh với các Ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng Ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng... nhằm lôi kéo khách hàng. - Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường tín dụng của nền kinh tế nên hoạt động sai sót, không nắm bắt kịp thời các khoản cho vay có vấn đề. 3.3.3 Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh a. Môi trường kinh tế Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của các NHTM nói riêng. Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế, tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại... Chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các chính sách trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động trực tiếp là các NHTM và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng khác nhau luôn gắn bó mật thiết với hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nếu chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đúng đằn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nhưng ngược lại cũng sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản. b. Môi trường pháp lý Trong hoạt động kinh doanh, song song với hoạt động mang tính kĩ thuật nghiệp vụ và các hoạt động mang tính pháp lý như kí kết hợp đồng kinh tế, đầu tư tài chính tín dụng... Tính pháp lý thể hiện ở các hoạt động kinh doanh luôn tiến hành dựa trên các quy định pháp luật, hay noí cách khác bị giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tín dụng của các NHTM. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn, bất lợi cho cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo nên môi trường cho vay của các NHTM. Môi trường cho vay có ảnh hưởng, tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tín dụng , nó sẽ góp phần làm hạn chế hoặc tăng thêm rủi ro trong các hoạt động tín dụng của các NHTM. 3.3.4 Nguyên nhân từ môi trường xã hội Những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới luôn có ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của các Ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị giữa các nước đời sống kinh tế thế giới cũng có nhiều biến đổi. Muốn phát triển kinh tế một cách toàn diện cần thực hiện mở cửa nền kinh tế để tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật hiệi đại của những nước phát triển, trao đổi, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, đầu tư hoặc vay tiền của nước ngoài... Tất cảc các hoạt động đó tạo nên mối quan hệ kinh tế đối ngoại của mối quốc gia. Những thay đổi về chính trị rất có thể dẫn đến sự biến động cán cân thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái giá các đồng tiền làm biến động thị trường trong nước như giá cả nguyên vật liệu, hàng hoá,dịch vụ, mức lãi suất thị trường, mức cầu tiền tệ... trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động là các NHTM. 3.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng Nợ xấu tăng vọt Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của các NHTM sẽ có xu thế tăng lên trong giai đoạn đầu thực hiện các cam kết mở cửa nếu không có những điều chỉnh kịp thời trong hoạt động tín dụng. Tốc độ tăng nợ xấu ở mức báo động, khi chỉ trong 9 tháng đầu năm đã tăng tới 66% so với cuối năm 2011. Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đến cuối tháng 9 là 8,82% trên tổng dư nợ và ước cả năm vào khoảng 8,5% - 10%. Nợ xấu có tài sản đảm bảo bằng bất động sản và bất động sản hình thành trong tương lai chiếm đến hơn 70% tổng nợ xấu. Nợ xấu tập trung ở nhóm các ngân hàng thương mại với 95,5% tổng nợ xấu của các TCTD trong nước (NHTM Nhà nước chiếm 50,5%). Nợ xấu 10 năm qua. Theo số liệu của NHNN, tín dụng của toàn hệ thống tăng trưởng 4,85% trong 11 tháng đầu năm và ước tăng 5 – 5,5% trong cả năm 2012. Giảm sút tăng trưởng tín dụng Tăng trưởng tín dụng từ năm 2001 tới nay Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1992, mức tăng trưởng tín dụng ở một chữ số. So với mức trung bình của 10 năm trở lại đây (đạt 28%), thì tăng trưởng tín dụng năm nay chỉ bằng 15%. Nguyên nhân tín dụng tăng thấp là cầu yếu, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, hàng tồn kho cao nên nhiều DN không đủ điều kiện vay vốn; các TCTD phải kiểm soát chặt chẽ tín dụng nhằm ngăn chặn nợ xấu... Trong cơ cấu tín dụng, dư nợ bất động sản chiếm tới hơn một nửa, khoảng 1,5 triệu tỷ đồng. Trong khi tín dụng tăng trưởng thấp thì huy động vốn của các TCTD lại tăng mạnh. Trong 11 tháng đầu năm, vốn huy động đã tăng 15,98% so với cuối năm 2011 và ước cả năm đạt mức tăng trưởng 17%. Theo con số được Ngân hàng Nhà nước công bố: “Dư nợ tín dụng năm 2008 ước tăng 21-22% so với cuối năm 2007”. Vốn tín dụng đầu tư vào khu vực dân doanh tăng 35-37%, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12-14%, lĩnh vực xuất khẩu tăng 35-37%, khu vực sản xuất tăng 34-36%, khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng 30%. Vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tăng 40-42%. Đến cuối năm 2008, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ngân hàng tăng 30% so với cuối năm 2007, tỷ lệ an toàn vốn tăng từ 8,9% lên 9,7%. Kết thúc quý 1/2009, với một loạt giải pháp chống suy giảm kinh tế của Chính phủ, trong đó có nới lỏng dần chính sách tiền tệ, dư nợ tín dụng chỉ tăng vỏn vẹn 2,67% so với cuối năm 2008. Tuy nhiên, đến hết tháng 7/2009,  mọi chuyện đã đảo ngược khi nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế từ các tổ chức tín dụng tăng khá, lên tới gần 20% so với cuối năm 2008. Theo số liệu được Ngân hàng Nhà nước công bố, nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế thông qua các tổ chức tín dụng tăng khoảng trên 24% so với cuối năm 2008, cá biệt một số tổ chức tín dụng còn trên 50%. Ý kiến bản thân Vấn đề nợ xấu là trong những vấn đề nhức nhối của đất nước cũng như xã hội hiện nay.  Nền kinh tế chúng ta còn có những vấn đề riêng, những chấn thương riêng và hậu quả của các tổn thương này - đặc biệt là tình trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng, sự kém hiệu quả của đầu tư công và một khu vực tư doanh đói vốn nghiêm trọng - sẽ xuất hiện rõ rệt hơn trong năm 2013 và có thể kéo dài sang những năm tới, khiến nền kinh tế có thể lún sâu vào tình trạng lạm phát trì trệ, nếu chúng ta không sớm có những liệu pháp chữa trị kịp thời và một chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn. Vụ Vinashin là 1 trong những điển hình của vấn đề này. Số tiền cho vinashin vay các NH khó có thể được hoàn lại, điều đó ảnh hướng đến vốn làm ăn, cũng như trả lãi suất cho người gửi tiền. Ảnh hưởng uy tín của Việt Nam trên thế giới. Vấn đề 1 số ngân hàng làm ăn không tốt hay 1 số vấn để như rửa tiền thì ngân hàng là nơi bị lạm dụng điều đó, điển hình như các vụ sát nhập NH diễn ra trong năm 2012 là vấn đề nổi bật trong các trang báo. Ngoài ra cũng không có gì chê trách vấn đề sát nhập vì có thể là để tăng vốn, công nghệ, quy mô…. Các diễn biến thời sự gần đây xung quanh các vụ thâu tóm sau SCB, sau SHB - Habubank lại cho thấy những vấn đề kịch tính đến khó tin nhưng đã trở thành một sự thật hiện hữu: một NH thường thường bậc trung, nếu không nói là vẫn còn nhỏ bé, vẫn có thể có cách nào đó để thâu tóm các NH lớn hơn mình rất nhiều. Trong sáp nhập và thâu tóm, việc tự tìm cách nắm giữ, hoặc thậm chí vận động, thuê người khác mua gom, nắm giữ cổ phiếu là những việc bình thường, không có gì là sai trái.  Dịch vụ chăm sóc khách hàng 1. Khởi nguồn :Xu hướng cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các ngân hàng cần có sự quan tâm và phục vụ khách hàng một cách chu đáo nhằm giữ được uy tín và có đủ sức cạnh tranh được với các ngân hàng lớn khác 2. Định nghĩa : dịch vụ chăm sóc khách hàng là các hoạt động cần thiết mà mỗi ngân hàng phải làm để thỏa mãn khách hàng,phục vụ họ theo cách họ mong muốn để có thể giữ được khách hàng 3. Thực trạng : Các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay đều áp dụng các dịch vụ kết hợp với các phương tiện truyền thông,các dịch vụ điện tử nhằm hỗ trợ được tối đa cho khách hàng một cách tiện lợi và nhanh chóng nhất - Dịch vụ ngân hàng qua Internet : thông qua một chiếc máy vi tính có kết nối internet ở bất cứ đâu,khách hàng có thể truy cập vào tài khoản của mình,quản lý chúng(bao gồm tra cứu thông tin,số dư tài khoản,thẻ tín dụng,thẻ ghi,tra cứu sao kê tài khoản)và thực hiện giao dịch với ngân hàng một cách nhanh chóng với độ an toàn bảo mật cao.Một số ngân hàng áp dụng dịch vụ này có thể kể đến + VCB - iB@nking của Vietcombank +VP SUPER của VPBank => Ưu điểm : có tốc độ truy cập cao,khách hàng có thể theo dõi tài khoản của mình,thực hiện các giao dịch ở bất cứ đâu 1 cách nhanh nhất mà không cần đi đến ngân hàng lưu trữ được 1 lượng dữ liệu lớn,giúp ngân hàng quản lý tốt hơn,đồng thời khách hàng cũng chủ động tìm được các thông tin mình cần trong lúc truy cập,tiết kiệm được chi phí tư vấn cho khách hàng của ngân hàng Nhược điểm : các giao dịch thông qua internet có thể xảy ra lỗi số lượng người truy cập quá cao có thể gây ra nghẽn mạng thông tin và tài sản của ngân hàng có thể bị các hacker ăn trộm và phá hoại -Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại : khách hàng có thể quản lý tài khoản của mình thông qua số điện thoại của bản thân,thông qua việc gọi điện hoặc gửi tin nhắn đến tổng đài của ngân hàng.1 ví dụ có thể kể đến là VCB SMS Banking của Vietcombank =>Ưu điểm : một chiếc điện thoại dễ sở hữu và sử dụng tiện lợi hơn so với máy tính giao dịch trực tiếp và độ bảo mật an toàn cao hơn Nhược điểm: có thể xảy ra nghẽn mạng khi có nhiều người gọi đến,cần số lượng nhân viên trực điện thoại,có thể xảy ra vấn đề về bảo mật khi mất máy - Dịch vụ thẻ ATM :công cụ giúp chủ thẻ có thể rút tiền,chuyển khoản và thực hiện các giao dịch khác,doanh nghiệp có thể trả lương qua tài khoản cá nhân,tiền gửi đem lại khoản tiền lãi cho người gửi => Ưu điểm : dễ sử dụng,có thể rút tiền từ tài khoản 24/24 từ các box rút tiền việc trả lương qua tài khoản giúp minh bạch thu nhập cá nhân,tiết kiệm chi phí,giảm thiểu rủi ro tiền mặt,hạn chế tham nhũng,giúp nhà nước thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ thông qua hạn chế lưu thông tiền Nhược điểm : box rút tiền công nghệ cao đòi hỏi tốn nhiều chi phí xây dựng,sửa chữa,bảo vệ box bị hết tiền,hỏng hóc,tiền rút ra đôi khi bị rách hay nhàu nát. -Ngoài ra còn các chương trình quà tặng ưu đãi hay rút thăm may mắn khác nhằm lôi kéo khách hàng đến với ngân hàng C. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. Nhóm giải pháp cho các vấn đề về vốn nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng 1. Đối với từng Ngân hàng thương mại Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn (phát hành cổ phiếu, trái phiếu...) một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi Ngân hàng trong từng giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn chế các nhược điểm của từng biện pháp. Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ sung, kết hợp với việc cải cách Ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho Ngân hàng...làm tăng lợi nhuận cho Ngân hàng dẫn đến tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại. Các Ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh (thế mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị; Các Ngân hàng thương mại Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Tất cả nhằm mục đích làm tăng uy tín của Ngân hàng - điều này rất quan trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo. Các NHTM có kinh nghiệm có thể hạn chế sự chuyển dịch tiền gửi của khách hàng vì mục tiêu tìm kiếm lãi suất cao bằng các giải pháp khác thay vì tăng lãi suất. Người gửi tiền thực chất đang thực hiện hành vi đầu tư, điều này chỉ ra rằng lợi nhuận cao cũng đi liền với rủi ro cao. 2. Đối với Ngân hàng nhà nước Quản lý thật tốt thị trường chứng khoán vì đây là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung và cho các Ngân hàng TMCP nói riêng. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ rất thuận lợi cho các NHTMCP phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn tự có và nâng cao năng lực tài chính của mình. Việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các Ngân hàng thương mại trong nước (tối đa 30%) cũng góp phần tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN. Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM VN, cải cách Ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho NHTM VN. Hình thành các tập đoàn tài chính -Ngân hàng đủ lớn, mạnh dạn sắp xếp lại NHTMCP theo hướng thanh lý, giải thể những Ngân hàng yếu kém, sáp nhập những Ngân hàng nhỏ không đủ vốn pháp định vào những Ngân hàng lớn (vốn pháp định NHTM đô thị cần điều chỉnh trên 200 tỷ đồng). Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng theo hướng hội nhập. Để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, Nhà nước đã có chính sách bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, hạn mức chi trả ngay tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền hiện nay tối đa là 50 triệu đồng đã được quy định rõ tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, phần tiền gửi vượt hạn mức chi trả sẽ được thanh toán tiếp cho người gửi tiền theo quy định về giải quyết các nghĩa vụ nợ của Luật phá sản. Với quy định này, bản thân người gửi tiền cũng phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn ngân hàng để gửi tiền và việc tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết về chính sách bảo vệ quyền lợi người gửi tiền cũng cần được các NHTM thực hiện một cách đầy đủ, tích cực. Nếu các giải pháp trên đây được thực hiện đồng bộ, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại VN trong tiến trình hội nhập quốc tế. II. Nhóm giải pháp cho vấn đề quản lý tài sản có 1.Về quản trị thanh khoản Thứ nhất, rút kinh nghiệm trong đợt khó khăn thanh khoản vừa qua, các ngân hàng cần thiết lập ngay chiến lược quản trị thanh khoản thông qua việc hoạch định và dự đoán những thay đổi về lưu lượng tiền gửi và cho vay, cũng như những thay đổi về lợi nhuận. Công tác quản trị này phải đánh giá được ảnh hưởng của các yếu tố rủi ro và lợi nhuận. Thứ hai, là nhóm các biện pháp tập trung vào nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh. Đây là một biện pháp được đánh giá là khá căn bản để có thể quản lý thanh khoản trong cả công tác phòng ngừa và xử lý các khó khăn về thanh khoản. Trong hoạt động ngân hàng, chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng. Các ngân hàng cần tổ chức tốt khâu phân tích và dự báo thị trường, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ để triển khai kịp thời các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro. Thứ ba, là nhóm các biện pháp liên quan đến tính liên kết thống nhất giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đây là một vấn đề quan trọng nhằm giúp các ngân hàng có thể hỗ trợ nhau trong những lúc khó khăn không chỉ về thanh khoản, tránh những hiện tượng tạo sự cạnh tranh không lành mạnh. Các NHTM cần minh bạch hóa thông tin tạo sự liên kết bền vững, chủ động phối hợp để đối phó với những tình huống xảy ra thanh khoản bất thường. 2. Về quản trị cho vay Thứ nhất, cần phải cải tiến các quy trình và chính sách quản lý cho vay của các ngân hàng theo hướng tập trung trước hết vào kiểm soát các yếu tố: Tư cách của người cho vay, ý định sử dụng tiền vay và khả năng sẵn sàng trả nợ của khách hàng, coi đó là những cơ sở đầu tiên cho việc ra quyết định cấp tín dụng, thế chấp chỉ nên được xem là nguồn trả nợ thứ hai. Thứ hai, các ngân hàng cần làm cho mọi thành viên có liên quan trong ngân hàng tiếp cận và nắm được nội dung của các thủ tục và chính sách quản lý chovay. Một mặt để nhân viên có điều kiên tìm hiểu, vận dụng và nâng cao các kỹ năng tác nghiệp, nhằm tăng năng suất, tăng mức chủ động và linh hoạt trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ. Mặt khác là để khắc phục các yếu kém về trình độ quản lý và trình độ nghiệp vụ của họ, lường tránh những sai sót và giảm rủi ro. Thứ ba, các ngân hàng cần tiền hành phân quyền và quy trách nhiệm rõ ràng hơn trong việc phán quyết cho vay dựa trên các tiêu chuẩn cân đối chung về nguồn và sử dụng vốn của ngân hàng, các tiêu chuẩn về đảm bảo các tỷ lệ an toàn cho toàn bộ danh mục các tài sản và nguồn vốn và tiêu chuẩn về tính hiệu quả. Các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần, cần thực thi triệt để quy tắc phán quyết tập thể trong việc ra quyết định tín dụng, nhất là đối với các khoản tín dụng lớn và các khoản cho vay các khách hàng đặc biệt. Thứ tư, để làm cho các kế hoạch thu hồi nợ vay sát đúng và việc hoàn trả tiền vay không gây áp lực khó khăn tài chính cho các khách hàng vay vốn thì các ngân hàng cần định hướng rõ về cơ cấu các loại cho vay sẽ được thực hiện, cần có những điều chỉnh thích hợp liên quan đến việc quy định thời gian cho vay và kế hoạch thu hồi nợ, chẳng hạn như: phát triển các phương thức thuê tài chính, cho vay song song, đồng tài trợ vàc các kiểu cho vay có các khoản hoàn trả trong kỳ kiểu như cho vay trả góp… Thứ năm, các ngân hàng cần thường xuyên kiểm tra toàn bộ việc thực hiện chính sách cho vay, phân loại các khoản dư nợ tín dụng hiện có thành các tiêu chuẩn được lựa chọn về rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường; xem xét khả năng hoàn trả từ các nguồn bảo đảm và thế chấp để xác định rủi ro hoàn trả; xác định việc thiết lập dự phòng rủi ro tín dụng cần thiết cho từng trường hợp. III. Nhóm các Giải Pháp Vấn Đề Tín Dụng Các giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro tín dụng Để hạn chế rủi ro tín dụng NHTM có thể sử dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro như sau: 1. Nghiên cứu khách hàng Khi giao tiền cho người vay Ngân hàng chỉ có quyền sở hữu, quyền sử dụng đã trao cho người vay. Do đó, khi người vay sử dụng tiền không đúng mục đích, thì nguy cơ dẫn đến khoản vay không được hoản trả xuất hiện. Vì vậy, việc xem xét đánh giá khách hàng trước khi quyết định cho vay là một việc quan trọng. Các nguyên tắc cho vay và điều kiện đảm bảo tín dụng cơ bản mà hầu hết các Ngân hàng đề ra là: - Tư cách pháp nhân và uy tín của người vay . - Mục đích sử dụng tiền vay, kế hoạch hoàn trả tín dụng. - Các đảm bảo tín dụng các giá trị tài sản thế chấp, năng lực bảo lãnh, bảo hiểm của người vay. Mặt khác, việc dánh giá khách hàng chúng ta có thể đánh giá qua người lãnh đạo của doanh nghiệp, các sản phẩm của doanh nghiệp, thị trường của doanh nghiệp. 2. San sẻ rủi ro San sẻ rủi ro là một biện pháp được nhiều Ngân hàng sử dụng từ trước tới nay, san sẻ rủi ro có ba hình thức chủ yếu: - Tránh dồn vốn: Cách phân phối tín dụng tốt nhất đối với một Ngân hàng muốn tránh rủi ro là dải tiền của mình vào nhiều khoản đầu tư, nhiều khách hàng khác nhau. Không cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một hàng hoá đặc biệt là loại hàng hoá không thiết yếu, Nhà nước không khuyến khích sản xuất, năng lực cạnh tranh không ổn định dẫn đến quá trình sản xuất kinh doanh dễ gặp rủi ro. - Liên kết đầu tư: Nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà Ngân hàng không đủ khả năng cho vay, khó xác định trước mức độ rủi ro. Các Ngân hàng sẽ kết hợp với nhau thành từng nhóm cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án để đầu tư. Các Ngân hàng cùng tham gia đầu tư phải kí với nhau một hợp đồng liên kết thoả thuận rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên. - Bảo hiểm tín dụng: Là biện pháp rất an toàn, hiệu quả cao. Có các hình thức bảo hiểm tín dụng như sau: + Khách hàng vay vốn mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh. đay là biện pháp mà khách hàng chủ động trang bị cho mình một sự bảo đảm khi sản xuất kinh doanh gặp rủi ro. Nguồn tiền từ việc mua bảo hiểm sẽ giúp cho họ trang trải được phần nào vốn vay Ngân hàng. + Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. Đây là hình thức bảo hiểm hay thực chất là Ngân hàng san sẻ với các công ty bảo hiểm về những rủi ro mà họ phải gánh. 3. Thực hiện bảo đảm tín dụng Trong những trường hợp cần thiết như gặp những khách hàng chưa quen biết, mức độ tín nhiệm của Ngân hàng với khách hàng chưa cao, đòi hỏi Ngân hàng phải sử dụng các biện pháp tín dụng để giảm bớt mức độ rủi ro, tạo điều kiện thu hồi nợ chắc chắn. - Bảo lãnh: Người bảo lãnh phải có đủ tư cách pháp nhân (nếu là một tổ chức), có đủ năng lực pháp lý và năng lực hàng vi (nếu là cá nhân), phải có đủ khả năng kinh tế để trả nợ thay trong trường hợp người vay không trả được nợ. - Cầm cố: là việc Ngân hàng cho khách hàng vay vốn bằng việc người vay đưa tài sản của mình đến Ngân hàng đảm bảo cho khoản vay mà họ có thể nhận được món vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản cầm cố. Đến hết thời hạn trả nợ mà người vay không chịu trả hoặc không có khả năng trả nợ thì Ngân hàng sẽ bán đấu giá vật cầm cố để thu hồi nợ. - Thế chấp tài sản: khi sử dụng hình thức thế chấp phải sử lý chặt chẽ các vấn đề sau: + Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có giá trị trao đổi trên thị trường. + Nếu là động sản mà Ngân hàng khó quản lý được trong thời gian người vay sử dụng vốn vay thì Ngân hàng có thể yêu cầu người vay mua bảo hiểm động sản đó và trao giấy tờ gốc cho Ngân hàng. Những động sản thuộc quyền sở hữu của người vay nhưng pháp luật không có quy định phải có giấy tờ chứng minh quyến sở hữu thì nên áp dụng cho vay cầm cố và được quản lý tại kho của Ngân hàng. - Cho vay tín chấp: Chỉ áp dụng đối với khách hàng đã trở nên tin cậy với Ngân hàng. 4. Giám sát và cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế Khi một món tiền đã được cho vay mà người vay có ý muốn tiến hành những hoạt động rủi ro để món tiền nay ít có khả năng thanh toán. Để giảm bớt những biến cố của rủi ro đạo đức các Ngân hàng phải quản lý, giám sát khoản vay trên thực tế và theo những điều khoản của hợp đồng. 5. Hạn chế tín dụng Hạn chế tín dụng là biện pháp giúp Ngân hàng tránh được sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Ngân hàng có thể từ chối cho vay mặc dù người vay sẵn lòng thanh toán lãi suất được công bố, thậm chí một mức lãi suất cao hơn. Việc hạn chế tín dụng có hai tác dụng: Thứ nhất, diễn ra khi Ngân hàng từ chối một món vay với số lượng bất kì nào đó đối với nếu qua điều tra thu thập thông tin Ngân hàng thấy người vay là một người mạo hiểm, có nhiều khả năng rủi ro trong kinh doanh. Thứ hai, Ngân hàng đồng ý cho vay nhưng hạn chế dưới mức cho vay mà người vay yêu cầu, bởi vì món tiền vay càng lớn, người vay càng có điều kiện thực hiện những mạo hiểm trong kinh doanh và do đó khả năg rủi ro sẽ xảy ra. Và như vậy, Ngân hàng cũng dễ rủi ro không thu được nợ, cho nên Ngân hàng cho vay số tiền lớn đối với một người vay bằng cách cho vay làm nhiều lần. 6. Đa dạng hóa đầu tư Việc đa dạng hóa đầu tư và cấp tín dụng là một nguyên lý quan trọng của việc quản lý kinh doanh của Ngân hàng vì nó thực hiện đa dạng hóa mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng. Đây cũng là việc phân tán rủi ro trên các món cho vay. Mặt khác, ta thấy rủi ro tín dụng còn phụ thuộc vào một số yếu tố như tính chất tín dụng, kì hạn tín dụng... Vì vậy, Ngân hàng cần có những quyết định đúng đắn, hợp lý trong tín dụng để hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO * * * Giáo trình Ngân hàng thương mại_Nhà xuất bản thống kê. * *

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxlythuyettctt_nhtm_6378.docx
Luận văn liên quan