Đề tài Hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: thực trang và triển vọng

Khóa luận Ngoại thương 95 trang Trong giai đoạn hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển đất nước góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập của các nước vào nền kinh tế thế giới. Nhận thức rõ điều này, liên tục trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam với mục tiêu đưa Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thực hiện nhiều chính sách, biện pháp nhằm đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Trong những năm gần đây, Việt Nam cùng với các nước ASEAN đang là điểm đến đầy hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhật Bản là trong những nước phát triển nhất ở châu Á, là cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Mặc dù là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, thiếu nguyên liệu cho sản xuất nhưng bù lại Nhật Bản lại có công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến. Chính vì thế họ có xu hướng đầu tư ra bên ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu Á, để khai thác các nguồn lực sẵn có của những nước này. Với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị hợp tác suốt hơn 30 năm trên tinh thần “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, trong nhiều năm qua, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản luôn nằm trong nhóm 5 nước đứng đầu, các dự án đầu tư của Nhật Bản được đánh giá là thành công nhất về phương diện vốn đầu tư thực hiện và hiệu quả triển khai. Khu vực phía Bắc Việt Nam với thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hóa, chính trị , kinh tế của cả nước, với vùng đồng bằng sông Hồng là vùng trọng điểm kinh tế của cả nước đã và đang thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là từ các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong những năm qua, Nhật Bản đã đầu tư một lượng vốn một lượng vốn đầu tư đáng kể góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của khu vực này. Tuy nhiên, quy mô đầu tư vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm lực kinh tế của Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam và xuất hiện nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp Nhật Bản khi đầu tư trực tiếp vào khu vực này Vì vây, nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp Nhật Bản tại khu vực phía Bắc Việt Nam nhằm phân tích thực trạng đầu tư cũng như triển vọng của nguồn vốn đầu tư để rút ra một số giải pháp cho việc tăng cường thu hút đầu tư vào miền Bắc Việt Nam là rất cần thiết. Vì vậy, em đã lựa chọn “Hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: thực trang và triển vọng” là đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. LỜI MỞ ĐẦU: Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp: 1.1 Cơ sở lý luận về FDI: 1.1.1 Khái niệm FDI: 1.1.2 Đặc điểm của FDI: 1.1.2.1 FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư 1.1.2.2 Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp 1.1.2.3 Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi 1.1.3 Hình thức của FDI: 1.1.3.1 Theo hình thức thâm nhập 1.1.3.2 Theo quy định của pháp luật Việt Nam 1.1.4 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài: 1.1.4.1 Đối với nước chủ đầu tư: 1.1.4.2 Đối với nước nhận đầu tư: 1.1 Kinh nghiệm thu hút FDI Nhật Bản của một số quốc gia: 1.1.1 Trung Quốc: 1.1.2 Malaysia: 1.1.3 Ấn Độ: 1.1.4 Thái Lan: Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động FDI của Nhật Bản vào Việt Nam: 2.1.1 Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam: 2.1.2 Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản (2003) 2.1.3 Hiệp đinh về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa CHXHCN Việt Nam và Nhật Bản: 2.1.4 Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA) 2.2 Tổng quan FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 2.2.1 Quy mô vốn đầu tư: 2.2.2 Cơ cấu đầu tư 2.2.2.1 Cơ cấu đầu tư theo ngành: 2.2.2.2 Cơ cấu đầu tư theo địa phương: 2.2.2.3 Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư: 2.3 Tình hình đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 2.3.1 Quy mô đầu tư: 2.3.2 Cơ cấu đầu tư: 2.3.2.1 Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực đầu tư: 2.3.2.2 Cơ cấu đầu tư theo địa phương: 2.3.2.3 Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư: 2.3.3 Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào một số tỉnh: 2.3.3.1 Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Hà Nội: 2.3.3.2 Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Vĩnh Phúc: 2.3.3.3 Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Bắc Ninh: 2.3.3.4 Đầu tư trực tiếp của Nhât Bản vào Hải Dương: 2.3.4 Một số dự án đầu tư lớn của Nhật Bản ở các phía Bắc Việt Nam: 2.3.4.1 Dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam VNPT với Tập đoàn NTT 2.3.4.2 Dự án Công ty TNHH Canon Việt Nam của Tập đoàn Canon Nhật Bản 2.3.4.3 Công ty TNHH Panasonic Việt Nam 2.3.4.4 Công ty TNHH Điện tử Meiko Việt Nam 2.4 Đánh giá chung đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào khu vực phía Bắc: 2.4.1 Một số kết quả đạt được: 2.4.1.1 Kết quả: 2.4.1.2 Nguyên nhân của những kết quả đạt được: 2.4.2 Hạn chế của các dự án FDI của Nhật Bản vào các tỉnh phía Bắc: 2.4.2.1 Những hạn chế: 2.4.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế: Chương III: Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào khu vực phía Bắc Việt Nam: 3.1 Những nhân tố ảnh hưởng đến FDI của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 3.1.1 Thuận lợi: 3.1.1.1 Môi trường chính trị-xã hội ổn định: 3.1.1.2 Vị trí địa lý thuận lợi: 3.1.1.3 Miền Bắc có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động: 3.1.1.4 Miền Bắc có tiềm năng về thị trường tiêu thụ: 3.1.1.5 Quan hệ đầu tư phát triển tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản: 3.1.2 Khó khăn: 3.1.2.1 Nền kinh tế thị trường còn sơ khai: 3.1.2.2 Hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính còn nhiều hạn chế: 3.1.2.3 Những yếu kém trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật: 3.1.2.4 Hoạt động xúc tiến đầu tư ở các địa phương miền Bắc còn nhiều hạn chế: 3.1.2.5 Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển: 3.2 Chiến lược đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 3.3 Triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 3.4 Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 3.4.1 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, quy định đối với hoạt động FDI: 3.4.2 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính: 3.4.3 Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng: 3.4.4 Phát triển công nghiệp phụ trợ: 3.4.5 Đổi mới phương thức vận động và xúc tiến đầu tư: 3.4.6 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản: KẾT LUẬN: TÀI LIỆU THAM KHẢO:

doc95 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2520 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: thực trang và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nguồn vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam. Trong khi một số lĩnh vực mà Nhật Bản có thế mạnh thì Nhật Bản chưa đầu tư nhiều vào Việt Nam như lĩnh vực tài chính và bảo hiểm, lĩnh vực kinh doanh bất động sản, lĩnh vực phân phối bán lẻ. Lượng vốn đầu tư vào một số lĩnh vực chưa xứng với tiềm lực của Nhật Bản. 2.4.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế: Thứ nhất, về cơ chế hành chính. Mặc dù đã có những tiến bộ rõ rệt về tính thông thoáng, gọn nhẹ trong thủ tục, quy trình cấp phép của các tỉnh miền Bắc nói chung nhưng ở một số tỉnh như Phú Thọ, Quảng Ninh, Hưng Yên,…thì cơ chế một cửa vẫn chưa thực sự được triển khai có hiệu quả. Thứ hai, đó là những yếu kém của cơ sở hạ tầng phục vụ đầu tư của các tỉnh phía Bắc. Trong đó hạ tầng điện và hạ tầng cảng là mối quan tâm lớn nhất hiện nay. Một số địa bàn có điều kiện tự nhiên và vị trí thuận lợi như Hải Phòng và Quảng Ninh thì cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện để thu hút được nhiều nguồn vốn FDI của Nhật Bản chưa tương xứng với tiềm năng của các tỉnh này. Thứ ba, đó là khả năng yếu kém hay buông lỏng quản lý của một số cơ quan chức năng đầu tư cấp địa phương. Các cơ quan này đã không có sự thẩm định kỹ càng về dự án đầu tư nên đôi khi gây ra hiện tưởng nhà đầu tư không có khả năng nhưng vẫn được cấp phép rồi rơi vào tình trạng đình trệ trong sản xuất, làm ăn thua lỗ. Thứ tư, ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhật Bản chủ yếu tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo, chế biến cho nên yêu cầu về nguồn cung của ngành công nghiệp hỗ trợ là rất lớn. Không có nguồn cung ứng tại chỗ buộc các nhà đầu tư phải nhập linh kiện, khiến giá thành cao, sức cạnh tranh giảm. Chương III: Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào khu vực phía Bắc Việt Nam: 3.1 Những nhân tố ảnh hưởng đến FDI của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 3.1.1 Thuận lợi: 3.1.1.1 Môi trường chính trị-xã hội ổn định: Việt Nam luôn là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định nhất trong khu vực. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế chính trị- xã hội của nước ta luôn được ổn định, không tiềm ẩn xung đột về tôn giáo và sắc tộc. Đây là một trong những lợi thế nổi trội nhất của Việt Nam so với các quốc gia khác. Chính điều này đã tạo ra tâm lý an toàn cho nhà đầu tư khi đầu tư tại Việt Nam, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư yên tâm sản xuất kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Với những ổn định trong chính trị - xã hội, Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm từ phía các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Nhật Bản. Theo kết quả điều tra điều tra của JETRO năm 2010 cho thấy 70% doanh nghiệp Nhật Bản muốn đầu tư tiếp tại Việt Nam và chính sách đổi mới, mở cửa cùng với sự ổn định về chính trị, môi trường sống an toàn, an ninh là những nguyên nhân cơ bản khiến lượng vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam tăng.( kinh tế Việt Nam hấp dẫn nhờ chính trị ổn định phapluatvn.vn Phượng lê) 3.1.1.2 Vị trí địa lý thuận lợi: Khu vực phía Bắc được chia thành vùng đồng bằng sông Hồng và miền núi trung du phía Bắc gồm Đông Bắc và Tây Bắc. Đồng bằng sông Hồng có vị trí đặc biệt quan trọng, là cửa ngõ thông ra biển. Ở đây có thủ đô Hà Nội, đầu mối chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Các đầu mối giao thông lớn tập trung ở đồng bằng sông Hồng tạo ra sự liên kết với các khu vực trong và ngoài nước. Với cảng Hải Phòng và bờ biển trải dài hàng trăm cây số là cửa ngõ ra vào thế giới của các tỉnh miền Bắc. Khu vực này có sân bay Nội Bài cũng góp phần giúp đầu tư và thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới thuận tiện hơn. Đây là vị trí khá thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Miền Bắc có vị trí địa lý mang tính chiến lược đối với các nhà đầu tư Nhật Bản. Miền Bắc Việt Nam có vị trí tiếp giáp với phía Nam Trung Quốc, là khu vực lý tưởng để thực hiện mục tiêu, sản xuất với Trung Quốc. Hà Nội chỉ cách biên giới Việt Trung 170 km, là cửa ngõ xuất khẩu sang Trung Quốc cũng như các nước ASEAN và phương Tây. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn yếu kém do vậy trong hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp chế tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử cần phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc, vị trí địa lý thuận lợi liên lạc với Trung Quốc là yếu tố đảm bảo cho việc cung cấp linh kiện nhanh chóng. Và đặc biệt khu vực phía Bắc với vị trí của nó là điểm hẹn đầu tư an toàn và hiệu quả cho chiến lược “Trung Quốc +1” của Nhật Bản, giúp các nhà đầu tư Nhật Bản giảm thiểu rủi ro khi đầu tư. Thuận lợi hơn nữa là miền Bắc Việt Nam gần với Nhật Bản hơn các miền khác. Đây là yếu tố chiếm ưu thế của miền Bắc so với miền Nam. Vị trí của Hà Nội rất gần với khu vực Kansai của Nhật Bản. Đây là khu kinh tế năng động nhất của Nhật Bản và đặc biệt khu vực này có Osaka, thành phố lớn thứ hai của Nhật Bản, trung tâm văn hóa nổi tiếng, là cửa ngõ của Nhật Bản đến khu vực Đông Nam Á. 3.1.1.3 Miền Bắc có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động: Khu vực miền Bắc Việt Nam có nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú. Đông Bắc có những khoáng sản có ý nghĩa quan trọng cho việc thu hút đầu tư nước ngoài như than, apatit, sắt, đồng, chì, kẽm, thiếc…Đây được coi là những tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp khai khoáng và cung cấp nguyên vật liệu cho các khu công nghiệp, phát triển công nghiệp phụ trợ. Còn Tây Bắc lại có thế mạnh về thủy điện. Đây là nơi cung cấp điện năng cho cả nước, và tạo sức hút lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Không những có nguồn tài nguyên phong phú, khu vực miền Bắc còn có nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ học vấn , chuyên môn khá cao. Khu vực này tập trung nhiều nhất các trường đại học trong cả nước, đặc biệt là các trường kỹ thuật. 60% các trường đại học Việt Nam tập trung ở Hà Nội, số sinh viên ở đây cũng cao gấp 1,6 lần so với thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đặc điểm hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản bởi các nhà đầu tư này luôn mong muốn tìm kiếm nơi có nguồn nhân lực được đào tạo, có tay nghề cao để có thể làm việc ở những nơi có thiết bị máy móc hiện đại và phức tạp. Ngoài ra, khu vực miền Bắc có giá nhân công rẻ hơn so với miền Nam. Đây là đặc điểm lợi thế của miền Bắc khi thu hút FDI của Nhật Bản. Theo điều tra của JBIC(2010) cho thấy có tới 60,2% doanh nghiệp Nhật Bản trả lời cho rằng chi phí nhân công rẻ là lý do khiến Việt Nam trở thành thị trường triển vọng đối với các nhà đầu tư Nhật Bản. 3.1.1.4 Miền Bắc có tiềm năng về thị trường tiêu thụ: Hiện nay, khu vực phía Bắc có đến 30,7 triệu dân, là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư Nhật Bản. Và nhất là thu nhập của người dân ngày càng tăng, nhu cầu về các mặt hàng giá trị có chất lượng cao của Nhật Bản ngày càng tăng lên như nhu cầu về hàng điện tử, xe máy, ô tô… Theo IMF dự báo, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ tăng từ 1060 USD năm 2009 lên 1609 USD năm 2014. Điều này khiến các nhà đầu tư hi vọng thị trường tiêu thụ sẽ được mở rộng hơn nữa. 3.1.1.5 Quan hệ đầu tư phát triển tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản được chính thức thiết lập từ năm 1973. Trong nhiều năm qua, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Quan hệ đầu tư giữa hai nước đang phát triển tốt đẹp với những cam kết liên quan đến đầu tư được ký kết như sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản, hiệp định về tự do xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa Nhật và Việt Nam, hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản (VJEPA). Các cam kết đầu tư này đã tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam và nó tạo được nền tảng vững chắc cho việc hình thành khu vực thương mại tự do song phương giữa hai nước. Quan hệ tốt đẹp giữa hai nước sẽ là bước đệm cho quan hệ giữa Nhật Bản vào miền Bắc nước ta. 3.1.2 Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi mà miền Bắc Việt Nam có được để thu hút FDI của Nhật Bản thì vẫn còn nhiều những trở ngại đối với nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung khi hoạt động đầu tư trực tiếp tại đây. Trong số những trở ngại đó, đặc biệt phải kể đến một số những vấn đề sau đây: 3.1.2.1 Nền kinh tế thị trường còn sơ khai: Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã thành công trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn rất sơ khai, chưa hoàn chỉnh. Thị trường hàng hóa, dịch vụ còn nhiều biểu hiện tiêu cực như xuất hiện nhiều hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, hàng kém chất lượng…, hiện tượng bất cân xứng thông tin còn phổ biến. Thị trường hàng hóa sức lao động và thị trường khoa học-công nghệ mới manh nha. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng chưa phát triển đúng với tiềm năng. Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt còn quá lớn. Doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp xúc với nguồn vốn vay so với doanh nghiệp nhà nước. Vai trò, chức năng và nguyên tắc hoạt động khách quan của thị trường chưa được tôn trọng đầy đủ, vận dụng hợp lý. Sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Tình trạng độc quyền doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước còn kéo dài, với những hình thức mới được “hợp thức hoá” nhưng thiếu những biện pháp cần thiết để được khắc phục... ( n)Với những tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, những yếu kém vốn có của Việt Nam cũng bộc lộ rõ hơn, lạm phát tăng cao, tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng. Trình độ sơ khai của nền kinh tế thị trường trong nước chưa đủ đảm bảo một môi trường đầu tư thuận lợi, chưa đủ sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và với nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. 3.1.2.2 Hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính còn nhiều hạn chế: Đây là vấn đề mà rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đưa ra ý kiến khi đầu tư vào Việt Nam. Hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn tồn tại một số nhược điểm gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Trong đó nhược điểm lớn nhất là hệ thống pháp luật chưa minh bạch, ổn định. Hệ thống pháp luật không chỉ thiếu luật mà còn thay đổi luật một cách thường xuyên và rất nhanh chóng. Chính sự thiếu minh bạch của pháp luật đã tạo những kẽ hở cho tệ nạn tham nhũng, lộng quyền, gây phiền hà cho các nhà đầu tư, làm xấu đi môi trường đầu tư. Theo công bố của tổ chức minh bạch quốc tế (TI), năm 2010, mức độ tham nhũng ở Việt Nam xếp hạng 116 trên 178 quốc gia và vùng lãnh thổ, kém xa các nước khác trong khu vực: Singapore đứng thứ 1, Thái Lan và Trung Quốc đứng thứ 78, Malaysia đứng thứ 56, Indonesia đứng thứ 110. Còn xét trong 63 tỉnh thành của Việt Nam thì hầu hết các tỉnh ở miền Bắc tính minh bạch chưa được đánh giá cao: Hà Nội 5,62/10 điểm đứng thứ 40, Ninh Bình đứng thứ 41, Vĩnh Phúc đứng thứ 42,Hà Nam đứng thứ 43, Phú Thọ đứng thứ 44, Thái Nguyên đứng thứ 46, Hưng Yên đứng thứ 47, và một số tỉnh như Hải Phòng, Nam Định, Cao Bằng, Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình ở tốp cuối của bảng xếp hạng. Các nhà đầu tư khó tiếp cận tài liệu, thông tin của tỉnh. Nhược điểm thứ hai là các văn bản quy phạm phát luật thiếu tính nhất quán về nội dung và thời hiệu thi hành. Sự mâu thuẫn và chống chéo giữa các luật, nghị định, thông tư với nhau đã gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi thi thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, quy định giữa các địa phương cũng không thống nhất gây trở ngại cho nhà đầu tư khi muốn nộp hồ sơ đầu tư. Nhược điểm thứ ba là các thủ tục hành chính còn rất rườm rà. Thủ tục hành chính của Việt Nam tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn là yếu tố gây cản trở đối với các nhà đầu tư. Quá trình làm các thủ tục hành chính từ khâu nộp đơn đến khâu ra quyết định cuối cùng còn quá lâu và không trong sạch. Theo báo cáo điều tra các doanh nghiệp Nhật Bản của JETRO công bố tại hội thảo “Kinh tế Việt Nam” ở Tokyo vào cuối tháng 2 năm 2010 vừa rồi thì hạn chế lớn nhất khi các nhà đầu tư Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam là sự phức tạp của thủ tục hành chính(67,2% doanh nghiệp). 3.1.2.3 Những yếu kém trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Mặc dù trong nhiều năm qua Việt Nam đã đầu tư cải thiện nhiều hạng mục trong cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng của Việt Nam vẫn chưa phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế về chi phí và chất lượng. Đây hiện được xem là vấn đề lớn nhất cản trở môi trường kinh doanh của đất nước. Theo báo cáo của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) năm 2010, thì vấn đề cơ sở hạ tầng yếu kém của Việt Nam vẫn trở ngại hàng đầu đối với doanh nghiệp Nhật Bản. Điểm tích cực là số lượng các doanh nghiệp Nhật rất không hài lòng với cơ sở hạ tầng giảm xuống từ 43,1% xuống còn 30,8%. Tuy nhiên, đa số doanh nghiệp Nhật (80%) cho rằng Việt Nam cần cải thiện hệ thống đường xá, sau đó là điện năng, cảng và hệ thống cấp thoát nước. Giao thông vận tải và điện, hai hoạt động hạ tầng thiết yếu nhất, lại tỏ ra là hai lĩnh vực cơ sở hạ tầng yếu kém nhất ở Việt Nam khi các vụ cúp điện và tắt nghẽn giao thông ngày càng xảy ra. Theo đánh giá của UNDP thì mật độ đường giao thông/km của Việt Nam chỉ bằng 1% mức trung bình của thế giới, tốc độ truyền thông trung bình của Việt Nam chậm hơn thế giới 30 lần. Cùng với đó, tình trạng thiếu điện của Việt Nam ảnh hưởng tiêu cực đến kế hoạch kinh doanh đã khiến cho không ít các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư nước ngoài phải lo ngại. Theo Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, đã có nhà đầu tư phản ứng khá gay gắt, thậm chí có thể dừng đầu tư nếu không xử lý được dứt điểm tình trạng cắt điện đột ngột. Cuộc khảo sát gần đây của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy khoảng 70% doanh nghiệp Nhật Bản cảm thấy bất an vì thiếu điện khi kinh doanh tại Việt Nam. Không những hệ thống hạ tầng yếu kém mà chi phí dịch vụ còn cao. Điều này đã gây thách thức cho Việt Nam trong việc thu hút và giải ngân hiệu quả vốn FDI. Chi phí dịch vụ hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp như: viễn thông, cảng biển, vận tải của Việt Nam được đánh giá chỉ ở mức trung bình của các nước trong khu vực. Cước phí điện thoại quốc tế tại Việt Nam cao gấp đôi so với các nước Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore. Đa số gói cước vận tải đi từ các cảng của VN đều phải chịu mức cước cao hơn 20%-30% so với giá cước của các nước khác trong khu vực, dù cùng điểm đến và hải trình tương đương nhau. Chẳng hạn, cùng đến cảng Yokohama (Nhật Bản), giá dịch vụ vận chuyển container đi từ cảng Đà Nẵng cao hơn đi từ cảng của Thái Lan tới 300-400 USD/TEU (tương đương container 20 feet). Ngoài ra, chi phí thuê phòng và thuê nhà ở của người nước ngoài tại Việt Nam cũng cao vào hàng cao nhất nhì khu vực. Theo điều tra về môi trường kinh doanh do Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản (Jetro) công bố, TP HCM có chi phí thuê văn phòng đắt thứ tư châu Á, cao hơn cả Singapore, Seoul, ngang ngửa với Bắc Kinh. Giá nhà cho người nước ngoài thuê tại Hà Nội đắt hơn nhiều so với các thành phố lớn khác tại châu Á như Singapore, Thượng Hải hay Seoul. 3.1.2.4 Hoạt động xúc tiến đầu tư ở các địa phương miền Bắc còn nhiều hạn chế: Cuộc cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực đang diễn ra gay gắt. Vì vậy, hoạt động xúc tiến đầu tư ngày càng trở nên quan trọng. Cũng như các tỉnh thành trên đất nước, các tỉnh miền Bắc đang rầm rộ đẩy mạnh hoạt động xúc tiến và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động này: Hoạt động xúc tiến đầu tư còn thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu mục tiêu dài hạn, còn dàn trải, chưa tập trung vào một số ngành, lĩnh vực, đối tác tiềm năng. Hiệu quả của các cuộc hội thảo về đầu tư nước ngoài chưa cao, chủ yếu trao đổi, tọa đàm, giải quyết vướng mắc cho các nhà đầu tư đã tham gia đầu tư, kêu goi được ít các nhà đầu tư tiềm năng. Trong một số trường hợp hoạt động xúc tiến đầu tư còn mạng nặng tính hình thức, chỉ để tuyên truyền, quảng bá tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương. Sự phối hợp trong hoạt động xúc tiến đầu tư giữa địa phương ở miền Bắc cũng như các địa phương khác của nước ta với các Bộ, Ngành, cơ quan Trung ương và các Sở, Ngành, đơn vị của địa phương chưa đồng bộ, chặt chẽ. Công tác xúc tiến đầu tư thường được tiến hành riêng rẽ, thiếu sự chỉ đạo thống nhất làm giảm hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư. Tình trạng cạnh tranh lẫn nhau giữa các địa phương trong thu hút đầu tư vẫn còn tồn tại, gây thiệt hại không nhỏ cho chính các địa phương. Trong các cuộc xúc tiến đầu tư, thông tin dành cho nhà đầu tư nước ngoài còn rất sơ sài, cung cấp ít các thông tin thực sự có ích cho nhà đầu tư. Các dự án kêu gọi đầu tư mới chỉ đưa ra những thông tin về ngành nghề, tổng vốn đầu tư... rất tổng thể. Trong khi đó còn rất nhiều thông tin cụ thể mà các nhà đầu tư cần biết như kết cấu hạ tầng và các chi phí, lao động và giá cả… lại không có. Đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư kém về trình độ năng lực, khả năng ngoại ngữ và khả năng marketing còn nhiều hạn chế. Số lượng đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, được đào tạo nước ngoài vẫn chưa có nhiều. Những yếu kém này của đội ngũ tiến hành hoạt động xúc tiến đang là những vấn đề chính hạn chế hiệu quả của bất kỳ chương trình xúc tiến đầu tư nào. Chất lượng các trang thông tin điện tử còn thấp, không được cập nhập thông tin đầy đủ, chưa triển khai thực hiện các đề án đăng kí kinh doanh, quản lý doanh nghiệp qua mạng. Hầu hết các tỉnh miền Bắc chưa xây dựng được trang thông tin chuyên trách nhằm xúc tiến đầu tư . Trong khi đó, nhiều địa phương ở miền Nam đã xây dựng trang thông tin chuyên trách hoạt động xúc tiến đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp như thành phố Hồ Chí Minh, Bạc Liêu, Trà Vinh, Cần Thơ, An Giang, Đắc Lắc… 3.1.2.5 Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển: Cùng với sự chậm trễ về cải thiện cơ sở hạ tầng, thiếu nguồn lao động tay nghề cao thì sự chậm trễ trong việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ là những rào cản lớn nhất hiện nay khi các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là nhà đầu tư Nhật Bản đề cập đến những khó khăn khi đầu tư vào Việt Nam. Công nghiệp phụ trợ là nền tảng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chính yếu. Mặt khác, một trong những đặc điểm cơ bản của FDI Nhật Bản là tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp sản xuất máy móc với mức độ yêu cầu chất lượng cao và tương đối phức tạp. Để sản xuất ra một sản phẩm, các doanh nghiệp Nhật Bản cần rất nhiều công đoạn. Bản thân các công ty này hiện cũng chỉ giữ lại trong quy trình của mình các khâu nghiên cứu, phát triển sản phẩm hay lắp ráp, đồng thời thuê các nhà cung cấp nội địa chuyên môn hóa gia công các công đoạn của sản phẩm. Do đó, công nghiệp phụ trợ được xem là yêu cầu then chốt để Việt Nam tiếp tục thu hút được dòng vốn đầu tư từ Nhật Bản. Nhìn chung công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn sơ khai, manh mún. Cho đến nay, công nghiệp phụ trợ ở nước ta chủ yếu vẫn do các doanh nghiệp nhà nước phần lớn sản xuất, cung cấp những sản phẩm có chất lượng thấp và giá thành cao vì công nghệ lạc hậu, quản lý còn yếu… nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước. Một bộ phận khác là các hộ kinh doanh cá thể phần lớn sản xuất những sản phẩm công nghiệp phụ trợ cấp thấp đang gặp khó khăn về vốn và công nghệ. Bên cạnh đó, trong số doanh nghiệp Việt Nam làm công nghiệp phụ trợ có rất ít các doanh nghiệp cung ứng linh kiện. Hiện nay chủ yếu là các nhà cung ứng linh kiện Nhật Bản đang đầu tư vào Việt Nam, tiếp theo là các doanh nghiệp Đài Loan, cuối cùng mới là các doanh nghiệpViệt Nam. Công ty Nhật Bản chỉ mua 24% phụ tùng, linh kiện từ Việt Nam, còn lại thì phải nhập khẩu trong khi ở Thái Lan con số này là 55,6%, Indonesia 44,3%. Việt Nam hiện vẫn thiếu các cơ sở sản xuất nguyên vật liệu cơ bản như sắt, thép, nguyên liệu nhựa, cao su kỹ thuật, hóa chất cơ bản, linh kiện điện tử, bông sợi, da…Trong khi đó, công nghệ gia công còn lạc hậu, công suất thấp, giá thành cao, chất lượng không ổn định như các khâu đúc tạo phôi, rèn ép, mài, gia công, xử lý bề mặt, sản xuất khuôn mẫu... Ngoài ra, sức cạnh tranh của các cơ sở sản xuất công nghiệp phụ trợ còn thấp, thiếu sự phối kết hợp, phân giao chuyên môn hóa giữa các cơ sở sản xuất phụ trợ và hầu như  thiếu hẳn sự phối hợp, phân giao sản xuất, liên kết giữa nhà sản xuất chính với các nhà thầu phụ, giữa các nhà thầu phụ với nhau, giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa. Một vấn đề khác là môi trường kinh tế, pháp luật của Việt Nam hiện chưa tạo đủ điều kiện để các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư vào các khâu sản xuất phụ trợ với định hướng phát triển dài hạn, bền vững trong bối cảnh hội nhập. Các mối liên kết kinh tế chủ yếu theo ngành dọc. Hệ thống thuế chưa có tác dụng tích cực thúc đẩy công nghiệp phụ trợ phát triển. Dung lượng thị trường cũng còn nhỏ, chưa đảm bảo quy mô công suất sản xuất kinh tế đối với công nghiệp phụ trợ. Với tình trạng như hiện nay, để thu hút hiệu quả nguồn vốn FDI của Nhật Bản, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc giải quyết sớm bài toán phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cùng với những vướng mắc khác đang tồn tại trong ngành nay. 3.2 Chiến lược đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã thực hiện chiến lược quay trở lại đầu tư vào khu vực châu Á. Trước đây, động cơ của các doanh nghiệp Nhật Bản sang châu Á chủ yếu là để giảm giá thành sản xuất vì ở đây có nguồn nhân công rẻ mạt. Tuy nhiên trong những năm gần đây, mục đích đầu tư của các nhà đầu tư Nhật Bản khi quan tâm đến thị trường châu Á đã có sự thay đổi. Các công ty Nhật Bản hiện quan tâm nhiều hơn đến “Khả năng phát triển thị trường” chứ không phải là “Đạt chi phí sản xuất thấp” như trước đây. Tỷ lệ các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào thị trường châu Á nhằm tìm kiếm nguồn lực đầu vào rẻ ngày càng giảm,từ năm 2006 đến năm 2010, tại thị trường Trung Quốc giảm từ 58% xuống còn 36%; Việt Nam giảm từ 72% xuống còn 62%. Mặt khác, số công ty Nhật Bản đầu tư vào thị trường châu Á với mục đích tìm kiếm thị trường có tiềm năng phát triển lớn đã tăng nhanh, chỉ trong vòng 2 năm từ năm 2008 đến năm 2010, tại thị trường Việt Nam tăng từ 48% lên 62%, Trung Quốc tăng từ 77% lên 88%. Chính vì xu hướng chuyển từ tìm kiếm thị trường có nguồn lực đầu vào rẻ sang tìm kiếm thị trường có tiềm năng phát triển cao, các công ty Nhật Bản đã dần chuyển vồn đầu tư sang các nước Đông Á, các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, nhu cầu về hàng hóa chất lượng cao của Nhật Bản ngày càng tăng. Tốc độ tăng trưởng cao của khu vực khiến khu vực này dần trở thành trung tâm thu hút vốn FDI của thế giới. Các nhà đầu tư Nhật Bản cũng muốn mở rộng hoạt động đầu tư tại các nền kinh tế mới nổi này nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư của mình. Khu vực Đông Á đang nổi lên bao gồm các nước đang phát triển như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philipin, Thái Lan, Việt Nam và nền kinh tế mới Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan. Đồng thời, theo đánh giá của các nhà đầu tư Nhật Bản trong những năm gần đây, 4 quốc gia mà họ cho là sẽ trở thành cứ điểm sản xuất hàng công nghiệp quan trọng của thế giới trong tương lai là Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ và Việt Nam. Theo kết quả điều tra của JBIC năm 2010, theo kế hoạch trung hạn, tỷ lệ các nhà đầu tư Nhật Bản mở rộng ra nước ngoài chiếm 82,6%. Và đặc biệt, các quốc gia Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ đứng đầu trong danh sách mảnh đất triển vọng của các nhà đầu tư Nhật Bản trong 3 năm tới. Trong bốn nước trên, Trung Quốc vẫn là quốc gia được các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý nhiều nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùa Nhật Bản coi Trung Quốc là “công xưởng của thế giới”. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, những dòng vốn đầu tư theo dạng này đã đạt tới điểm bão hòa. Dòng vốn FDI Nhật Bản đổ vào thị trường này chủ yếu nhằm mục tiêu mở rộng thị trường tiêu thụ tại Trung Quốc và có xu hướng mở rộng thị trường tiêu thụ sang các nước trong khu vực nhằm phân tán rủi ro theo chiến lược đầu tư “Trung Quốc+1”. Ứng cử viên cho chiến lược này là Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và một số nước châu Á khác. Vào thời điểm hiện tại có thể nói Việt Nam được chú ý nhiều nhất. Điều này được giải thích là do Việt Nam có một số lợi thế về vị trí địa lý kết nối hai thị trường Trung Quốc và ASEAN, ổn định chính trị, lương nhân công thấp, lao động cần cù và Việt Nam rất có thiện cảm với Nhật Bản đã trở thành ứng cử viên sáng giá nhất trong chiến lược “Trung Quốc+1” của Nhật Bản. Xem Việt Nam là thị trường tiềm năng trong chiến lược đầu tư của mình, Nhật Bản đã và đang đẩy mạnh thúc đẩy đầu tư sang Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng. Hiện nay, bên cạnh các nhà đầu tư truyền thống như Canon, Honda, Toyota, Panasonic,…đang mở rộng đầu tư ở khu vực miền Bắc là sự xuất hiện thêm nhiều nhà đầu tư mới đến từ xứ sở hoa đào như Sumimoto, Brother, Meiko…cho thấy khu vực này đang được các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý trong chiến lược đầu tư của mình. 3.3 Triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: Vào đầu năm nay, Nhật Bản vừa mới bị hứng chịu trận thiên tai sóng thần và động đất lớn nhất trong lịch sử đã gây ra thiệt hại nặng nề đối với nền kinh tế Nhật Bản. Trong thời gian tới, Nhật Bản phải tập trung mọi nguồn nội lực và tranh thủ vốn đầu tư từ bên ngoài để tái thiết khu vực bị thiên tai và phục hồi kinh tế sau thảm hoạ, do vậy nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của nước này sẽ có xu hướng tạm giảm. Nhưng về cơ bản có thể thấy nhu cầu vốn đầu tư đó không ảnh hưởng đáng kể tới nguồn vốn mà Nhật Bản đã và sẽ còn đầu tư vào VN. Thị trường VN tuy không đóng vai trò quyết định, nhưng cũng có tầm quan trọng nhất định đối với việc phục hồi và tăng trưởng xuất khẩu của Nhật Bản. Đầu tư và xuất khẩu của Nhật Bản sang VN vì thế cũng sẽ góp phần vào việc phục hồi kinh tế ở Nhật Bản sau thảm hoạ. Đồng thời, dựa trên những phân tích về chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư Nhật Bản và những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam ở trên ta có thể kỳ vọng rằng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam nói chung cũng như miền Bắc nói riêng trong thời gian tới sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể bởi thảm họa vừa qua của Nhật Bản. Nhận định mới đây của các công ty Nhật Bản trong báo cáo điều tra mới nhất của JIBC về triển vọng đầu tư tại Việt Nam cho thấy, Việt Nam hiện đang đứng ở vị thứ 3 trong danh sách mảnh đất triển vọng đối với các nhà đầu tư Nhật Bản cho thời gian trung hạn và đứng thứ 4 cho thời gian dài hạn. Theo đánh giá chung của các doanh nghiệp Nhật Bản ở châu Á, hiện nay Việt Nam đang hội đủ các yếu tố thuận lợi nhất như lao động khéo tay, chăm chỉ, nguồn lao động rẻ, nền kinh tế chính trị ổn định, khả năng phát triển của thị trường nội địa. Hơn thế nữa, quan hệ song phương giữa hai nước đang trong gian đoạn rất ổn định và tốt đẹp, nhất là quan hệ đầu tư. Nhiều hiệp định song phương được ký kết giữa hai nước như hiệp định đối tác kinh tế (EPA), hiệp định về tự do xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa Nhật và CHXHCN Việt Nam, hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản(VJEPA) cùng với Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản tạo điều kiện thúc đẩy dòng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam hiện nay và trong thời gian sắp tới. Ông Marugani, trưởng văn phòng nghiên cứu quốc tế của JBIC cho biết các doanh nghiệp Nhật Bản đang dần thay đổi quan niệm không chỉ coi Việt Nam là một cơ sở sản xuất mà còn là một thị trường tiềm năng để tiêu thụ các sản phẩm của doanh nghiệp Nhật. Các doanh nghiệp Nhật Bản đang bị hấp dẫn bởi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây. Và đặc biệt mới đây nhất Ngân hàng thế giới trong báo cáo của mình đã dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng lên 6,3% trong năm 2011 và tăng lên trung bình 7,2%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Yếu tố thuận lợi này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn FDI của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các đầu tư Nhật Bản trong giai đoạn sắp tới. Theo ông Inotani Takahide - Giám đốc Công ty VIT Japan (công ty chuyên hoạt động kinh doanh với các DN Việt Nam và Nhật Bản) đang hoạt động tại Việt Nam, ngày càng nhiều DN Nhật Bản sang Việt Nam để tìm cơ hội đầu tư. Điều này mở ra cơ hội thu hút vốn FDI của Nhật Bản cho Việt Nam nói chung cũng như miền Bắc nói riêng. Trong những năm qua, các địa phương miền Bắc đã nỗ lực không ngừng cải thiện môi trường đầu tư và liên tục có những hội thảo nhằm xúc tiến cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật Bản đang tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại thị trường các tỉnh miền Bắc. Cùng với đó là sự xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất chất lượng cao, đặc biệt là khu công nghiệp cao Hòa Lạc đã tạo nên lợi thế so sánh của miền trong việc thu hút FDI của các doanh nghiệp Nhật Bản. Với xu hướng nguồn vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng, miền Bắc với những lợi thế so sánh riêng của mình nhất định sẽ có những tăng trưởng vượt bậc trong việc thu hút FDI từ nhà đầu tư Nhật Bản. 3.4 Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: 3.4.1 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, quy định đối với hoạt động FDI: Nếu như tính hấp dẫn của một quốc gia trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài trước hết thể hiện ở luật, thì tính hấp dẫn của một địa phương cụ thể nằm ở hệ thống quy định, chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư của địa phương đó. Trong giai đoạn hiện nay và trong giai đoạn sắp tới, mặc dù dòng vốn FDI chảy vào có xu hướng tăng song sự cạnh tranh trong thu hút FDI càng cao. Bởi vậy, để có thể thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư khác thì việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài là việc mà các địa phương phía Bắc cần hết sức lưu tâm. Các địa phương cần phải ban hành những quy định mới khi có những nhân tố mới phát sinh hoặc điều chỉnh những chính sách đã có sao cho phù hợp với những thay đổi xảy ra. Cùng với đó, địa phương cũng nên công bố những quy đinh mới và phổ biến rộng rãi trên báo, đài ở cả địa phương và Trung ương để gây chú ý với các nhà đầu tư. Việc hệ thống hóa những quy định chính sách từ nhỏ nhất đến lớn nhất sẽ làm cho các nhà đầu tư dễ nắm bắt hơn những chính sách của địa phương hơn cũng như có niềm tin vào những chính sách đó. Các quy định được đưa ra và được công bố một cách đơn lẻ thưởng gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi muốn tập hợp chúng để xem xét, đánh giá. Do đó, việc đưa ra được một hệ thống chính sách và quy đinh thống nhất đối với hầu hết các vấn đề của việc cấp phép hay quản lý đầu tư sẽ tạo cho nhà đầu tư tâm lý yên tâm khi có những dự án đầu tiên vào địa phương và tạo ra động lực để nhà đầu tư tăng cường hoạt động của mình trong những thời gian tiếp theo. Bên cạnh việc chủ động đưa ra những chính sách của riêng mình, các địa phương cũng cần phải liên tục theo dõi và cập nhập những chính sách, quy định mới của Trung ương. Điều này sẽ không gây khó khăn cho địa phương khi có những sự chỉ đạo, giám sát hay điều hành từ Trung ương. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp nước ngoài có những dự án lớn cần phê duyệt của Chính phủ cũng sẽ không gặp khúc mắc gì giữa chính sách của Trung ương và địa phương. Bởi nếu quy định của địa phương có mâu thuẫn với chính sách chung của cả nước thì các nhà đầu tư sẽ mất niềm tin vào chính sách của địa phương. 3.4.2 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính: Muốn thu hút được nguồn vốn FDI nói chung cũng như FDI Nhật Bản nói riêng thì các địa phương miền Bắc nhất thiết phải tiến hành cải cách thủ tục hành chính. Các địa phương cần phải nghiên cứu, xây dựng, thực hiện cơ chế và tổ chức quản lý trước, trong và sau khi cấp giấy phép đầu tư theo hướng một cửa, một đầu mối tạo thuận lợi và giảm chi phí cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dưới đây là một số giải pháp nhằm cải thiện thủ tục hành chính ở các địa phương phía Bắc: Đổi mới quan điểm về thủ tục hành chính: cơ quan quản lý nhà nước phải có nhận thức, quán triệt quan điểm phục vụ trong chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính là nhiệm vụ trung tâm tìm cách đơn giản hóa thủ tục hành chính tới mức cao nhất, đem lại thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, mọi thủ tục hành chính cần hướng vào việc tạo thuận lợi cho các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Các thủ tục hành chính được thực hiện với thời gian ngắn nhất và chi phí thấp nhất. Cải tiến mạnh mẽ thủ tục cấp phép đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục hành chính thực sự theo nguyên tắc liên thông “một cửa”, “một đầu mối”. Các địa phương cần rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư và kiên quyết bãi bỏ những loại giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư và kiên quyết bãi bỏ những loại giấy phép, quy định, tiêu chí thẩm định không cần thiết hoặc làm cản trở đến hoạt động đầu tư. Đồng thời các địa phương cần công khai các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư trên cơ sở đã đơn giản hóa và giảm bớt thủ tục không cần thiết. Các loại giấy tờ, văn bản cần thiết phải được công khai, có mẫu sẵn để thuận tiện hơn cho các nhà đầu tư. Tạo điều kiện cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài sau khi được cấp phép triển khai nhanh và sớm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc triển khai thực hiện dự án bao gồm các thủ tục về cấp đất, giải tỏa đền bù đất đai, xây dựng công trình, nhập khẩu vật tư thiết bị, đánh giá tác động môi trường…cần đơn giản theo hướng các cơ quan chức năng hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng những quy định của luật pháp có liên quan, theo dõi quá trình xây dựng doanh nghiệp. Công tác thanh tra, kiểm soát sau khi cấp giấy phép cũng phải được đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả nhằm hướng dẫn nhà đầu tư thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm. Tuy nhiên tránh tình trạng lợi dụng chức quyền, lợi dụng việc thanh tra, kiểm tra để gây khó khăn cho hoạt động bình thường của doanh nghiệp. 3.4.3 Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng: Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nơi nào có cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật tốt thì nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Với các nhà đầu tư Nhật Bản cũng vậy, các dự án đầu tư chủ yếu chỉ tập trung ở những địa bàn thuận lợi về cơ sở hạ tầng. Vì vậy yếu tố quan trọng cần chú ý đầu tư nâng cấp, cải thiện cơ sở hạ tầng để đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư nước ngoài khác. Nếu so sánh với khu vực phía Nam, ngoại trừ Hà Nội và thành phố Hải Phòng, các tỉnh phía Bắc không có điều kiện tự nhiên cũng như cơ sở hạ tầng thuận lợi. Hệ thống giao thông ở khu vực phía Bắc, đặc biệt ở các tỉnh miền núi còn hầu như mới trong giai đoạn được đầu tư cải tạo, còn rất nhiều hạn chế, kém hơn rất nhiều so với khu vực phía Nam. Bản thân khu vực miền Bắc với vùng Tây Bắc có địa hình chủ yếu là khu vực đồi núi thường gây ra tâm lý e ngại với các nhà đầu tư. Vì vậy, miền Bắc cần phải chú trọng cải thiện cơ sở hạ tầng nhằm thu hút hiệu quả hơn FDI Nhật Bản. Các địa phương cùng với các bộ ngành liên quan cần ưu tiên nâng cấp mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước, giao thông vận tải, sân bay, bến cảng, xử lý chất thải và vệ sinh môi trường. Các địa phương cần phải tập trung đầu tư để hoàn thành mạng giao thông liên hoàn, đồng bộ và thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa đi cả nước và nước ngoài. Hệ thống giao thông vận tải phải đảm bảo an toàn, tiện lợi, góp phần giảm thiểu tới mức cao nhất chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; làm đúng với chương trình, kế hoạch, tránh dài trải, lãng phí. Với các tỉnh miền núi phía Bắc, điều kiện cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải còn kém do vậy Nhà nước cần có chính sách ưu tiên hơn nữa trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA để đầu tư vào xây dựng, nâng cấp các tuyến đường giao thông chính trên địa bàn tỉnh, từ đó cải thiện sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Bên cạnh đó, các địa phương miền Bắc cần chú ý đầu tư cải thiện hệ thống cầu cảng. Trong khi nhập nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu đều vẫn phải chủ yếu dựa vào nguồn nhập khẩu thì vấn đề cầu cảng là vô cùng quan trọng khi lựa chọn địa điểm đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, các nhà đầu tư sẽ ưu tiên những địa điểm mà gần hệ thống cầu cảng, thuận tiện cho việc nhập khẩu nguyên vật liệu, qua đó giúp tiết kiệm chi phí vận chuyển. Do đó, đối với riêng thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh cần chú ý cải thiện hệ thống cầu cảng của mình. Hải Phòng và Quảng Ninh là nơi tập trung cảng biển lớn nhất khu vực miền Bắc. Tuy nhiên, hệ thống cảng biển ở đây vẫn chưa được đầu tư xây dựng và phát triển xứng với tiềm năng của nó do vậy thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh cần phối hợp với các cơ quan liên ngành để lên kế hoạch vận động, khuyến khích và kêu gọi dự án đầu tư xây dựng và nâng cấp cảng, từ đó có thể tận dụng tốt hơn vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi sẵn có của các thành phố này. Bên cạnh đó, các địa phương nên tập trung đầu tư, xây dựng phát triển hạ tầng KCN, KCX nhằm tăng cường sức hấp dẫn của các KCN, KCX với các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy rằng các khu công nghiệp, khu chế xuất ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Ở Việt Nam, ở các tỉnh phía Nam có thể dễ dàng nhận thấy sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp Nhật Bản nói riêng của hệ thống khu công nghiệp như KCN ở Bình Dương, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh…Chính vì thế, đầu tư xây dựng khu công nghiệp nhằm thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản trên địa bàn các tỉnh miền Bắc là một chiến lược hết sức quan trọng. Do đó, Ban quản lý các KCN ở khu vực phía Bắc cần quan tâm tới một số giải pháp sau: Đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án xây dựng hạ tầng KCX hay KCN dưới mọi hình thức đầu tư. Đa số trong các trường hợp có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài thi chất lượng công trình được đảm bảo hơn do đó tạo lòng tin hơn nơi các nhà đầu tư. Cần đảm bảo, duy trì và nâng cao hơn nữa chất lượng và điều kiện cơ sở hạ tầng trong các KCN đã và đang hoạt động như nguồn cung cấp dịch vụ nước, điện, bưu chính viễn thông. Tăng sức hấp dẫn của các khu công nghiệp bằng cách đưa ra những ưu đãi đặc biệt cho các nhà đầu tư. Đặc biệt là xét trong mối quan hệ so sánh với các khu công nghiệp, khu chế xuất ở khu vực phía Nam. Các ưu đãi như: giá thuê đất, mặt bằng; giá dịch vụ như điện, nước, điện thoại, thời hạn ưu đãi về thuế có thể được kéo dài… Ban quản lý các khu công nghiệp hay cơ quan quản lý chức năng tương đương khác cần tổ chức cuộc phỏng vấn thăm dò điều tra, lấy ý kiến của các nhà đầu tư trong địa bàn về mức độ thỏa mãn của họ đối với môi trường đầu tư hiện tại. Kết quả điều tra này sẽ là cơ sở để các cơ quan quản lý chức năng tìm ra những biện pháp tối ưu và hiệu quả nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Hơn thế, thông qua các điều tra này, các nhà đầu tư có thể đưa ra những ý kiến đóng góp một cách sát thực hơn. 3.4.4 Phát triển công nghiệp phụ trợ: Công nghiệp phụ trợ có vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút FDI nói chung cũng như FDI Nhật Bản nói riêng. Hơn thế, đặc điểm của các nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam là hoạt động trong lĩnh vực chế tạo nên yêu cầu về công nghiệp phụ trợ phát triển càng cao. Hiện nay, công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn đang ở trình độ sơ khai, hầu hết nguyên, phụ liệu nhập từ nước khác. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất trong việc thu hút FDI từ Nhật Bản của Việt Nam. Bởi vậy, để thúc đẩy nguồn vốn đầu tư nước ngoài của Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư khác, thì Việt Nam cần phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ. Để phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau: Phải chỉ ra các ngành cần phát triển công nghiệp phụ trợ đề đưa ra các biện pháp để thúc đẩy phát triển. Chính phủ có thể sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi để xây dựng một quỹ tài chính ổn định đảm bảo cho việc phát triển công nghiệp phụ trợ của những ngành đã được chỉ định. Việc chỉ định các ngành cần phát triển là việc chỉ rõ các phạm vi ưu tiên để có nguồn ngân sách cụ thể, minh bạch. Cho rà soát lại các cơ sở sản xuất các ngành phụ trợ tại các công ty nhà nước, ưu tiên cấp vốn và tạo các điều kiện khác để đổi mới thiết bị, thay đổi công nghệ tại những cơ sở đã có quy mô tương đối lớn. Lập chế độ tư vấn kỹ thuật và quản lý để mời các chuyên gia nước ngoài vào giúp thay đổi công nghệ và cơ chế quản lý tại từng doanh nghiệp nhà nước. Cần có chính sách khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Đặc biệt khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất các ngành công nghiệp phụ trợ với sự hỗ trợ đặc biệt về vốn và những ưu đãi đặc biệt về thuế như miễn thuế nhập khẩu thiết bị và công nghệ, miễn thuế doanh thu…Đưa ra chính sách ưu đãi đặc biệt và chỉ áp dụng có thời hạn. Một số nước đã phát triển, đặc biệt là Nhật, có chương trình xúc tiến chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các nước đang phát triển. Việt Nam nên đặc biệt tiếp nhận nhanh sự hỗ trợ này để nhanh chóng tăng khả năng cung cấp các mặt hàng công nghiệp phụ trợ hiện có, nhất là các mặt hàng đang sản xuất tại các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, nhân lực là vấn đề sống còn cho phát triển bất cứ một ngành nào, vì vậy để phát triển công nghiệp phụ trợ, cần phải xây dựng được một đội ngũ kỹ sư lành nghề, có khả năng sản xuất nguyên phụ liệu hoặc nghiên cứu công nghệ để đưa công nghiệp phụ trợ phát triển. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho Việt Nam trong vấn đề này là áp dụng những biện pháp khuyến khích đào tạo và học tập ngành công nghiệp phụ trợ như đưa ra những chính sách khen thưởng, chứng chỉ cho các cá nhân có quá trình học tập tốt, có tay nghề cao. Chứng chỉ này sẽ giúp công nhân, kỹ sư được nâng lương hoặc nâng cao vị trí trong công ty. 3.4.5 Đổi mới phương thức vận động và xúc tiến đầu tư: Đổi mới đa dạng hóa các phương thức vận động xúc tiến đầu tư, in các ấn phẩm quảng cáo về môi trường đầu tư của các tỉnh phía Bắc bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Nhật. Một số tỉnh chưa có cơ quan xúc tiến riêng như thì nên thành lập một cơ quan xúc tiến đầu tư riêng của từng tỉnh với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhật Bản, là đầu mối chịu trách nhiệm cung cấp tất cả các thông tin cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật Bản trong cùng địa bàn. Điều này chắc chắn sẽ tăng sức hút môi trường đầu tư tại các tỉnh phía Bắc. UBND các tỉnh có nhiều dự án FDI Nhật Bản đang hoạt động hiệu quả như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, cần chủ động tăng cường tiến hành hoạt động xúc tiến đầu tư trên mọi phương tiện thông tin đại chúng như đài báo, tivi…Thành công của dự án này chính là phương cách xúc tiến đầu tư hiệu quả nhất. Hiện nay, nhu cầu đầu tư của Nhật Bản vào các tỉnh phía Bắc là rất lớn, nên UBND và Sở kế hoạch đầu tư các tỉnh này cần tiến hành tổ chức các hoạt động trao đổi trực tiếp đoàn doanh nghiệp với các địa phương của Nhật Bản, như hoạt động trao đổi đoàn doanh nghiệp như hai tỉnh …đã làm gần đây. Các hoạt động như thế sẽ giúp các doanh nghiệp có cơ hội trao đổi trực tiếp về một số nhóm lĩnh vực mà cả hai bên cùng quan tâm, đề ra phương hướng hợp tác sơ bộ cũng như cơ hội để đối tác Nhật Bản có thể thấy rõ tiềm năng của môi trường đầu tư của tỉnh. Thêm vào đó, UBND các tỉnh, địa phương nên chủ động tổ chức xúc tiến đầu tư sang Nhật Bản như ….đã làm gần đây. Chính những hoạt động xúc tiến như thế này sẽ giúp cải thiện tình trạng thiếu thông tin của doanh nghiệp Nhật Bản về thị trường và môi trường đầu tư các tỉnh phía Bắc. Cần có những cuộc tiếp xúc trao đổi học hỏi kinh nghiệm giữa các địa phương trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Ở khu vực miền Bắc, có thể thấy các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Bắc Ninh,…điển hình cho thành công trong công tác xúc tiến, là mô hình cho các địa phương khác học tập. 3.4.6 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản: Một trong những chỉ tiêu để các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là thị trường lao động ở nước sở tại. Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bởi tỷ lệ lao động trẻ và giá nhân công rẻ. Tuy nhiên, đây chỉ là lợi thế trước mắt, bởi khi mà kinh tế càng ngày càng phát triển, yêu cầu của các nhà đầu tư càng lớn thì việc phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao mới là mấu chốt quan trọng. Vì vậy, để đẩy mạnh hợp tác kinh tế với Nhật Bản cũng như các quốc gia khác thì vấn đề cần phải làm là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cả về trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, có khả năng nắm bắt những vấn đề công nghiệp hiện đại. Để mau chóng đào tạo một đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu khắt khe của nhà đầu tư Nhật Bản, cụ thể chính quyền địa phương cũng như các cấp Nhà nước có liên quan cần phải: Để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lao động đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư nước ngoài khác, Việt Nam cần coi trọng hơn nữa việc đầu tư cho giáo dục. Việt Nam nên ưu tiên nguồn vốn ODA để nâng cao chất lượng giáo dục phát triển nguồn nhân lực. Chính phủ cần dành một khoản ngân sách lớn hơn cho đầu tư phát triển các trường dạy nghề. Bên cạnh phát triển các trung tâm dạy nghề đồng thời đẩy mạnh việc đào tạo tại nước ngoài. Cần khuyến khích các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia hoạt động đào hỏi tạo để tận dụng và khai thác thế mạnh của các doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực. Khuyến khích các doanh nghiệp thành lập các trung tâm đào tạo nghề, các tập đoàn thành lập các trung tâm công nghệ cao để công nhân kỹ thuật có điều kiện theo học, tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến của thế giới và đào tạo công nhân để làm việc cho doanh nghiệp mình. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một trong những mục tiêu phát triển để thu hút nguồn vốn FDI từ Nhật Bản vì vây cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực trong các khu này để thu hút nguồn vốn một cách hiệu quả. Cần phải đào tạo các công nhân có trình độ chuyên ngành. Bên cạnh phát triển trình độ chuyên môn, cần phải chú ý phát triển trình độ ngoại ngữ. Trình độ ngoại ngữ cũng là một trong những rào cản đòi hỏi phải có những bước chuyển biến nhanh chóng để có thể đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp FDI. Cần tích cực vận động mở rộng nguồn nhân lực tiếng Nhật như phối hợp với các trường đại học, cao đẳng để khuyến khích việc học và giảng dạy tiếng Nhật… . KẾT LUẬN: Với những nỗ lực lớn trong quá trình đổi mới và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Việt Nam hiện đang được xem là điểm đầu tư hấp dẫn nhất ở Đông Nam Á. Theo số liệu của Liên hợp quốc, Việt Nam hiện đang ở trong Top 10 nước phát triển năng động nhất của thế giới. Trong những năm gần đây, cùng với nỗ lực không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, Việt Nam đã có những thành công đáng kể trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung cũng như vốn đầu tư của Nhật Bản nói riêng. Nhật Bản, cường quốc lớn thứ 3 thế giới với thế mạnh về công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến hiện đang là một trong những đối tác đầu tư quan trọng của Việt Nam. Nguồn vốn FDI của Nhật Bản đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển kinh tế nước ta. Miền Bắc Việt Nam với những lợi thế so sánh của mình đang ngày càng nhận được những ưu ái từ phía các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong thời gian gần đây, với những nỗ lực của cả hai bên, nguồn vốn FDI Nhật Bản vào miền Bắc có tăng đáng kể. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế của môi trường đầu tư đã làm cho tình hình đầu tư chưa thực sự ổn định và chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Trong thời gian sắp tới, trong chiến lược đầu tư đẩy mạnh vào Đông Á, Việt Nam được xem là địa điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản. Đây là cơ hội cho Việt Nam nói chung cũng như miền Bắc nói riêng đón dòng vốn đầu tư này. Vì thế, vấn đề cơ bản hiện nay của miền Bắc Việt Nam là duy trì những lợi thế vốn có, khắc phục khó khăn, nhanh chóng tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, hoàn thiện hơn để trở thành điểm đến lý tưởng của làn sóng đầu tư này từ Nhật Bản. Trên cơ sở phân tích trên, khóa luận xin đưa ra một số biện pháp để phần nào khắc phục những khó khăn và cải thiện phần nào môi trường đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn FDI tương xứng với tiềm năng của vùng. Đó là chúng ta cần phải thực hiện nhất quán các chính sách đầu tư, cải cách thủ tục hành chính đồng thời cải thiện hoạt động xúc tiến đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và công nghiệp hỗ trợ nhằm tăng cường sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Tài liệu tiếng Việt Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, NXB Giáo dục, Hà Nội TS Phùng Xuân Nha, Giáo trình đầu tư quốc tế, ĐH Quốc gia Hà Nội PGS-TS Hoàng Thị Chính, giáo trình kinh tế quốc tế, ĐH Kinh tế-ĐH Quốc gia TPHCM. Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Nhật Bản về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư. Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản. Bộ Kế hoạch và đầu tư, cục đầu tư nước ngoài : Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Luật đầu tư 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Quang Minh (2007), Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Viện khoa học xã hội Việt Nam-Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Ninh: số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Hải Dương: số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài Tài liệu tiếng Anh: 1.JBIC(2010), Survey Report on overseas business operations by Japanese Manufacturing companies. 2. (2010) Survey of Japanese-affiliated firms in Asia and Oceania. 3. Yukiko Fukunaga, Shifting FDI Trends in Vietnam: Broadening Beyond Manufacturing Base to Consumer Market III. Tài liệu website: Báo điện tử Thời báo kinh tế Việt Nam : Cục đầu tư nước ngoài: Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam: Tổng cục thống kê: Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO Khu công nghiệp Việt Nam Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội Khu công nghiệp Bắc Ninh Trung tâm văn hóa thông tin tư vấn và xúc tiến đầu tư Bắc Ninh: Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản Vietnam bussiness forum Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nhật Trang điện tử của báo đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam- thực trang và triển vọng.doc
Luận văn liên quan