Đề tài Hoạt động mở rộng thị trường lĩnh vực cơ điện tử của viện IMI- Công ty cổ phần 3B

Lí do chọn đề tài “ Mở rộng thị trường cơ điện tử tại Việt Nam” Cơ điện tử “ Cơ hội vàng” cho nền công nghiệp của những nước chậm phát triển và đang phát triển Để hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang phải tìm lời giải cho bài toán cạnh tranh về giá cả lẫn chất lượng sản phẩm trên thị trường trong nước và nước ngoài. Theo các chuyên gia kinh tế một trong những điểm yếu mà sản phẩm của Việt Nam khó có thể cạnh tranh, thâm chí thua ngay trên sân nhà là những sản phẩm có tính “ thông minh”. Ví dụ trong hoàn cảnh hang hóa cơ khí xuất khẩu của Việt Nam hiện nay mới chủ yếu là phần cứng thô sơ, phi tiêu chuẩn có hàm lượng “ thông minh” thấp, giá cả thường tính trên khối lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, nền chông nghiệp Việt Nam còn tụt hậu đòi hỏi phải đầu tư nhiều nên đã làm tăng giá thành sản phẩm, do đó khó có khả năng cạnh tranh ngay tại Việt Nam cũng như trong khu vực. Để có khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại của thế giới, từng bước có thể tự thiết kế, chế tạo các thiết bị, máy móc điều khiển thông minh trong những năm đầu thế kỷ 21, Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII và kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khóa IX khẳng định: Việc ứng dụng và phát triển Cơ điện tử là một bước đi rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất nước. Cơ điện tử cho phép những nước nghèo, chậm phát triển không nhất thiết phải đi theo trình tự phát triển của những nước công nghiệp đã đi qua- phương pháp cổ điển và cách thức tiếp cận truyền thống- nữa mà có thể “ đi tắt đón đầu”. Đó là các nước chậm phát triển có thể tạo ra những đột phá trong tư duy CÔNG NGHỆ TỔNG HỢP tạo ra những sản phẩm mới có tính cạnh tranh trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này, nếu chúng ta biết tận dụng truyền thống Thông minh- sáng tạo- cần cù của dân tộc. CHƯƠNG I Giới thiệu về Viện máy và dụng cụ Công nghiệp- Công ty cổ phần 3B- Lí do chọn đề tài “ Mở rộng thị trường cơ điện tử tại Việt Nam”. 3 1. Viện máy và dụng cụ Công nghiệp. 3 1.1. R&D 3 1. 2. Đào tạo. 3 1.3.Sản xuất kinh doanh. 4 2. Công ty cổ phần 3B. 5 CHƯƠNG II Cơ điện tử của Việt Nam trong quá trình hội nhập nói chung và của Công ty cổ phần 3B nói riêng. 6 1. Xu thế phát triển cơ điện tử của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng những năm gần đây. 6 2. Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường của viện IMI và Công ty cổ phần 3B những năm gần đây. 14 CHƯƠNG III Triển vọng nào cho sự mở rộng thị trường có chiều sâu của Viện IMI và Công ty cổ phần 3B 20 1. Định hướng phát triển cơ điện tử ở Việt Nam 20 2. Định hướng phát triển tại Công ty cổ phẩn 3B. 31 KẾT LUẬN 32 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2514 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động mở rộng thị trường lĩnh vực cơ điện tử của viện IMI- Công ty cổ phần 3B, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tập đoàn lớn về công nghiệp như tập đoàn oto Ford, Toyota, Tập đoàn thiết bị điện lực ABB của Thụy Sỹ, Tập đoàn thiết bị Hanaka… Điều này cho thấy triển vọng phát triển không ngừng trong tương lai của công ty cổ phần 3B. CHƯƠNG I Giới thiệu về Viện máy và dụng cụ Công nghiệp- Công ty cổ phần 3B- Lí do chọn đề tài “ Mở rộng thị trường cơ điện tử tại Việt Nam” 1. Viện máy và dụng cụ Công nghiệp Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp (IMI - Holding) - Công ty mẹ Nhà nước, Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ đầu ngành của Bộ Công Thương được thành lập ngày 23/05/1973. Hiện nay làm việc tại IMI Holding có khoảng 2000 Cán bộ Khoa học và Công nhân viên, có trụ sở chính tại số 46 Láng Hạ, Đống Đa - Hà nội, chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh, và có các Công ty thành viên, đại diện tại nhiều thành phố lớn trên cả nước và ở nước ngoài. Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp được tổ chức và hoạt động theo mô hình Công ty Mẹ - Công ty Con, trong đó Công ty Mẹ là là Doanh nghiệp Khoa học công nghệ. Nhằm mục đích gắn nghiên cứu khoa học với Đào tạo và Sản xuất, theo định hướng phát triển thành tập đoàn Khoa học công nghệ, hoạt động của Viện IMI gồm 03 lính vực chủ yếu:  1.1.   R&D  - Nghiên cứu phát triển các ứng dụng khoa học công nghệ cơ điện tử trong các ngành công nghiệp, dân dụng, y tế và môi trường. - Nghiên cứu thiết kế các sản phẩm công nghệ cao mang tính đột phá và nghiên cứu phát triển các công nghệ đặc biệt.  - Nghiên cứu phát triển công nghệ thiết kế và thử nghiệm CHIP công nghiệp, các phần mềm kỹ thuật và quản lý. - Tư vấn khoa học, kỹ thuật trong lĩnh vực công nghiệp và môi trường.  1. 2. Đào tạo - Đào tạo tiến sỹ kỹ thuật trong lĩnh vực Cơ khí chế tạo máy và Cơ điện tử. - Đào tạo kỹ sư ngành Cơ điện tử trên cơ sở phối hợp với Trường Đạo học Công nghệ.  1.3.Sản xuất kinh doanh - Chuyển giao nhanh và đưa vào sản xuất công nghiệp các sản phẩm khoa học để tạo ra các sản phẩm mới có giá trị gia tăng lớn. - Sản xuất kinh doanh và lắp đặt các loại máy và thiết vị công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp, dân dụng, y tế và môi trương. - Cung cấp các hệ thống tự động hóa, các bộ tích hợp chip công nghệ, các phần mềm quản lý và kỹ thuật - Tư vấn đầu tư, kinh doanh du lịch, dịch vụ thuê văn phòng, nhà xưởng Bên cạnh đó, Viện máy và dụng cụ Công nghiệp đã nhận được các giải thưởng, khen tặng cho những nỗ lực không ngừng. Các sản phẩm đã đạt giải thưởng Hồ Chí Minh gồm: Nhóm sản phẩm Cơ điện tử trong lĩnh vực đo lường Công nghiệp Nhóm sản phẩm Cơ điện tử phục vụ ngành kỹ thuật điện và bảo vệ môi trường Nhóm sản phẩm Cơ điện tử trong lĩnh vực máy công cụ Nhóm sản phẩm cơ điện tử phục cụ ngành chế biến nông sản Nhóm sản phẩm Cơ điện tử phục vụ ngành xây dựng Có thể nói, Viện máy và dụng cụ công nghiệp đã đóng góp lượng chất xám không nhỏ góp phần cho xây dựng đất nước thời kỳ xây dựng và đổi mới nói chung và cho sự nghiệp phát triển triển ngành Cơ điện tử của Việt Nam nói riêng. 2. Công ty cổ phần 3B Công ty cổ phần 3B là một trong những công ty con của Viện Máy và dụng cụ Công nghiệp thuộc Bộ Công Thương được thành lập ngày 7/12/2007 dựa trên cơ sở hợp nhất 3 trung tâm nghiên cứu của Viện bao gồm: Trung tâm thiết bị công nghiệp Trung tâm kỹ thuật cao Trung tâm gia công áp lưc Công ty cổ phần 3B chuyên hoạt động và sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực nghiên cứu, chế tạo, chuyển giao các thiết bị, công nghệ trong các lĩnh vực Máy công cụ CNC Dây chuyền thiết bị đồng bộ điều khiển tự động Thiết bị phục vị ngành lâm nghiệp, nông nghiệp Các sản phẩm cơ điện tử kỹ thuật cao Thiết bị phục vụ nhiều ngành nghề khác Với những nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao và phát triển công nghệ, công ty cổ phần 3B đã chiếm lĩnh thế mạnh trong các ngành: Chế tạo gá hàn, lắp ráp oto Dây chuyền sản xuất cáp, thiết bị điện Hệ thống thông gió nhà xưởng Thiết bị công nghiệp, vỏ máy biến thế công suất lớn Khung vỏ thang máy, vỏ bơm xăng Ngày 8/7/2010 Công ty cổ phần 3B đã chính thức nhận chứng chỉ ISO 9001:2000 như một phần thưởng lớn cho những phấn đấu cho những thành tựu trong sản xuất kinh doanh của mình. Ngày nay, Công ty cổ phần 3B đang nỗ lực hướng đến mở rộng thị trường Cơ điện tử cả chiều sâu lẫn chiều rộng bằng cách nâng cao sản xuất kết hợp chiến lược kinh doanh thích hợp để vươn đến những thị trường xa hơn. CHƯƠNG II Cơ điện tử của Việt Nam trong quá trình hội nhập nói chung và của Công ty cổ phần 3B nói riêng 1. Xu thế phát triển cơ điện tử của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng những năm gần đây. Sự phát  triển của CĐT đang chuyển dần từ các sản phẩm CĐT cao cấp  (máy bay, tên lửa,  rô bốt vũ  trụ…)  sang  các sản phẩm CĐT  công nghiệp  (ô  tô,  camera, đầu DVD, rôbốt gia đình…). CĐT công nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị  trường sản phẩm chế tạo hàng  loạt, như chu kỳ đổi mới sản phẩm ngắn, giá cả phải có sức cạnh tranh và thời gian đưa ra thị trường phải nhanh. Do vậy, CĐT công nghiệp không chỉ đơn  thuần có tư duy thiết kế hệ thống mà phải có cả  tư duy thiết kế hướng sản phẩm. Mặt khác, chúng ta cũng thấy sự chuyển dịch thay thế các chức năng, nguyên lý và thiết kế cơ  khí  sang  các giải  pháp phần mềm. Tỷ lệ  phần mềm sẽ ngày  càng lớn trong các sản phẩm CĐT. Phần lớn phần mềm được  thể hiện  trong các chíp phần cứng, do vậy  ta hiểu  thiết kế phần mềm ở đây  là sự  thiết kế phối hợp cứng/mềm (hardware/software co-design).   Ngoài các sản phẩm và hệ  thống CĐT  thông  thường, đã xuất hiện nhiều sản phẩm hệ thống vi cơ điện (MEMS - Micro Electro-mechanical Systems) và hiện nay chúng ta  đang  được  nghe  nhiều về hệ  thống  nano cơ  điện tử  (NEMS  -  Nano  Electro-mechanical Systems). Trong khi CĐT thông  thường và MEMS dựa  trên cơ sở khoa học của cơ học và lý thuyết điện từ trường, thì NEMS dựa trên cơ sở khoa học của cơ lượng tử và đi sâu vào  thế giới vi mô cấp nguyên tử. Công nghệ nano hứa hẹn nhiều kết quả và ứng dụng phi thường nhưng cũng còn rất nhiều thách thức, đòi hỏi thời gian và đầu tư lâu dài. Với bản chất gắn kết nhiều công nghệ cao trong một sản phẩm, CĐT ngày càng tích hợp  trong nó những công nghệ mới. Trước  tiên, phải nói đến lĩnh vực  trí  tuệ nhân tạo, bao gồm cả lĩnh vực xử  lý  tiếng nói và hình ảnh, sẽ mang lại  linh hồn và cảm xúc cho các sản phẩm CĐT  trong tương  lai. Việc  tích hợp với công nghệ sinh học tạo  nên  các hệ  thống  bio-mechatronics  đang mở  ra  những  chân  trời mới  cho sự sáng tạo của loài người. Xu thế phát triển của cơ điện tử trên thế giới là tích hợp ngày càng nhiều công nghệ cao, sản phẩm ngày càng “thông minh” hơn và kích thước ngày càng nhỏ hơn. Một số công nghệ mới đóng vai trò quan trọng trong các sản phẩm và hệ cơ điện tử trong thời  gian tới  là: Công  nghệ mạng máy  tính nhúng  và  công  nghệ vật  liệu mới. Với công  nghệ mạng máy  tính  nhúng,  các sản  phẩm cơ điện tử sẽ  có  chức năng hội thoại và phối hợp thực hiện được nhiều nhiệm vụ có độ phức tạp cao hoặc đồng thời ở nhiều địa điểm trên diện rộng. Công nghệ vật liệu mới cho ta những vật liệu có đặc tính như điều khiển được hoặc có khả năng biến dạng để chế tạo các cơ cấu chấp hành hoặc cấu trúc cơ khí không gian 3 chiều cho sản phẩm cơ điện tử. Công  nghệ micro/nano  nhằm  thu  nhỏ  các  thiết bị máy móc  xuống  kích  thước của phân tử cho các sản phẩm công nghệ trong tương lai. Với việc điều khiển chính xác các nguyên tử và phân tử, con người có  thể chế tạo  ra các cảm biến mới, các vật liệu  nhân tạo  “thông  minh”, bộ  nhớ  có  dung lượng  terabyte  (1012  byte),  các rôbốt/máy kích  thước micro, các hệ  thống  “thông minh” cực nhỏ... Tuy nhiên, công nghệ nano còn nhiều  thách  thức mà hiện nay con người chưa giải quyết được. Sự hiểu biết cơ chế hoạt động, điều khiển ở kích  thước nano còn chưa hoàn hảo. Các nghiên cứu về vi/nano cơ điện tử mới đang ở giai đoạn đầu. Xu thế thông minh hoá các sản phẩm cơ điện tử được thể hiện ở việc phát triển “trí thông minh” cho các sản phẩm. Các nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, mạng nơron, hệ chuyên  gia,  giải  thuật  gen,  các  phương  pháp xử  lý  song  song...  đang  là hướng nghiên cứu thời sự cho các hệ điều khiển thông minh áp dụng cho các sản phẩm cơ điện tử  trong tương  lai. Và với việc xử  lý  trong  thời gian  thực các  tín hiệu của cảm biến âm thanh, hình ảnh, tiếng nói, các cảm biến tiếp xúc như lực, mômen... sẽ tạo ra các sản phẩm cơ điện tử có khả năng đối  thoại và tự suy diễn,  ra quyết định, tự thích nghi với môi trường như những sinh vật sống Trong thời gian qua, lĩnh vực CĐT của nước ta đã có những chuyển biến vượt bậc. Hợp  tác quốc tế về CĐT đã được  thúc đẩy ở cả ba miền: Hội nghị Nhật - Mỹ - Việt Nam RESSCE  ‘98 ở Hà Nội, RESSCE  ’00 ở  thành phố Hồ Chí Minh,  trường hè về CĐT ở Đà Nẵng năm 2002 và Hội nghị quốc tế lần  thứ 9 về công nghệ CĐT  ICMT 2004 tại Hà Nội. Lĩnh vực đào tạo CĐT đã được hình thành tại nhiều trường đại học ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Các cuộc thi sáng tạo robot đã mang lại nhiều cơ hội cho giới trẻ trong việc tiếp cận các phương pháp và kỹ năng thiết kế, tích hợp các sản phẩm CĐT. Việc nghiên cứu về CĐT đang được  triển khai tốt tại các viện nghiên cứu,  trường đại học và nhiều cơ sở sản xuất. Chúng  ta cũng đã tổ chức   Hội  nghị CĐT  toàn  quốc lần  thứ  nhất tại Khu  công nghệ  cao Hòa Lạc năm 2002 và lần thứ 2 tại Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. Những gì mà các nhà khoa học đề cập tại các hội nghị đã chứng tỏ  tiềm năng nghiên cứu sáng tạo của chúng ta trong lĩnh vực mới mẻ này.  Mặc dù chưa có nền công nghiệp CĐT, song một số  sản phẩm CĐT đã được nhiều cơ sở trong nước và các liên doanh tổ chức sản xuất tại Việt Nam như: Viện Máy và Dụng cụ  Công  nghiệp,  Nhà máy sản  xuất  robot  ở  Khu  công  nghiệp  Nomura Hải Phòng. Trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010, CĐT đã được xác định là một trong những lĩnh vực công nghệ trọng điểm. Tuy nhiên sự phát triển của lĩnh vực này ở nước  ta gặp  không  ít  khó  khăn  do bản  thân CĐT  là một ngành khoa học công nghệ mới nên việc  thâm nhập vào đời sống sản suất đòi hỏi phải có một quá trình thay đổi nhận thức và chính sách vĩ mô. Sự phát triển có được trong thời gian qua chủ yếu là tự phát, tuân theo quy luật cung cầu của thị trường, sự nỗ lực của các chuyên gia  tâm huyết và sự phát  triển do  Internet mang lại. Có  thể nói, CĐT ở Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức. Về mặt cơ hội, thị trường CĐT là thị trường mới không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước đang phát triển và phát triển trên toàn cầu. Đây là thị trường chưa bị bão hoà nên mức độ cạnh  tranh chưa khốc  liệt. Mặt khác, nhu cầu sử dụng các sản phẩm CĐT ngày càng nhiều và chủng  loại sản phẩm có  thể nói  là vô tận. Các sản phẩm CĐT được hình  thành từ các ý tưởng  thông minh hoá, bổ sung các chức năng mới cho các sản phẩm hiện hành và tạo ra các sản phẩm mới bằng sự tích hợp liên kết nhiều công nghệ cao trong sản phẩm từ đơn giản đến phức tạp. Như vậy  ta có  thể thông minh hoá, tạo  linh hồn và cảm xúc cho các đồ dùng,  thiết bị, máy móc xung quanh  ta,  sáng tạo  nên  các sản  phẩm mới với  các  chức năng vượt  trội. Với sức tưởng tượng phong phú của người Việt Nam, chúng  ta hoàn  toàn có  thể  tin tưởng vào khả năng sáng tạo các sản phẩm mới kiểu này.  Thị  trường rộng lớn của   CĐT sẽ tạo nên nhiều cơ hội việc  làm mới cho các nhà nghiên cứu và  các nhà sản xuất với nhiều ứng dụng trong mọi ngành nghề, từ nông nghiệp,  y tế, năng lượng,  giao  thông vận tải… tới  các  ngành dịch vụ  giải  trí, bưu chính viễn thông, an ninh quốc phòng... Ví dụ thị trường ô tô đang phát triển với tốc độ chóng mặt do tác động của công nghệ CĐT. Có đến 90% các cải tiến đổi mới ở ô tô nằm  trong phần mềm và phần điện tử. CĐT cũng đang tạo  ra nhiều cơ hội việc làm trong giáo dục và đào tạo. Các kỹ sư cơ khí, kỹ sư điện ở các nhà máy hiện nay cần được đào tạo, bổ túc các kiến thức và cách làm việc phối hợp của CĐT. Đây là một nhu cầu vô cùng lớn. Mặt khác, nhu cầu kỹ sư CĐT được đào tạo bài bản sẽ là một nhu cầu luôn tăng trưởng.  Bên cạnh những cơ hội,  ta cũng  còn phải đối mặt với nhiều  thách  thức  trong quá trình phát triển CĐT như: Về đào tạo nguồn nhân lực: CĐT là một lĩnh vực liên ngành nên việc đào tạo ở các trường cũng rất đa dạng. Một giáo trình chuẩn về CĐT của các trường đại học lớn ở các nước còn chưa hình  thành. Điều này cũng khó có  thể có do  tính đa dạng sản phẩm của lĩnh vực CĐT. Mặt khác, sự phối hợp giữa đào tạo và sản xuất trong lĩnh vực CĐT cũng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc kết hợp bài giảng với việc thực hành CĐT ở các nhà máy. Sự phát triển của CĐT đòi hỏi phải cập nhật thông tin của nhiều ngành công nghệ, trong đó, công nghệ vi điện tử và công nghệ thông tin có tốc độ phát triển rất nhanh. Do vậy, yêu cầu về các giảng viên cũng phải cập nhật được các kiến thức mới. Điều này không phải là dễ dàng đối với các nước nghèo như Việt Nam. CĐT là lĩnh vực có tính ứng dụng cao và đòi hỏi kỹ năng thực hành của nhiều công nghệ cao, nhất  là công nghệ điều khiển  thời gian  thực, các hệ nhúng, vì vậy vấn đề thực hành cũng là một thách thức không nhỏ. Ngoài ra, các phòng thí nghiệm CĐT cũng đòi hỏi không ít kinh phí và trí tuệ.  Về nghiên cứu khoa học: CĐT, một mặt  là công nghệ tạo nên sản phẩm mới, mặt khác lại  là một lĩnh vực khoa học hóc búa, cần nhiều nghiên cứu tập  trung vào các tác động tương hỗ giữa các lĩnh vực công nghệ khi chúng được  tích hợp với nhau một cách hữu cơ. Thế nhưng chúng ta còn biết quá ít về các ảnh hưởng, về tác động qua lại này trong khi đây lại là bản chất của CĐT. Có nắm bắt được cơ sở khoa học của các tác động tương hỗ này thì mới phát huy được những tính năng vượt trội mà chỉ sự liên kết các công nghệ mới có được. Đây lại là một thách thức lớn cho nghiên cứu vì phải đối mặt với những vấn đề của hệ thống lớn, mang tính phi tuyến, nhiều bất định và thay đổi theo thời gian.  Về  thiết kế sản phẩm: việc  thiết kế các sản phẩm CĐT  theo phương pháp  liên kết các hệ thống nhỏ đi từ dưới lên (bottom-up) như hiện nay sẽ dần dần không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, giá thành, thời gian. Việc thiết kế theo hệ thống lớn là một thách thức đối với CĐT. Điều này đòi hỏi các chương trình  thiết kế CAD cho các sản phẩm CĐT phải được mở rộng  ra nhiều lĩnh vực  (CAD cho cơ + CAD cho điện tử + CAD cho điều khiển…) và xử  lý được độ phức tạp của chương  trình  thiết kế tổng hợp,  khả năng mô  hình  hoá  và  mô  phỏng hệ  thống lớn. Mặt  khác,  các chương trình thiết kế này còn phải đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của các ứng dụng CĐT. Về  độ  tin cậy của sản  phẩm:  việc  tích hợp nhiều  công  nghệ  trong một sản  phẩm đương nhiên sẽ  làm giảm  độ  tin cậy của sản  phẩm do độ phức tạp của hệ  thống tăng. Việc đưa vào hàng trăm hệ vi điều khiển được kết nối thành mạng trong một ô tô  liệu có  làm hoạt động của ô  tô kém  tin cậy hơn so với ô  tô cơ khí  truyền  thống? Thực tế là độ tin cậy của sản phẩm CĐT lại là một vấn đề ít được mổ xẻ tại các cơ sở sản xuất. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát  triển của CĐT  trong tương lai. Thách  thức đối với sản xuất: sản xuất các sản phẩm CĐT đòi hỏi những năng lực thiết kế và chế tạo, kể cả các điều kiện lắp ráp mà không phải luôn có trong một cơ sở sản xuất. Đối với những cơ sở vừa và nhỏ, việc có đủ các điều kiện này không phải dễ dàng. Mức độ hợp tác giữa các chuyên gia CĐT, tự động hoá đòi hỏi có sự gắn kết  cao. Cách  làm  việc  chuyển dịch từ  các  chuyên  gia  độc lập  sang  làm  việc theo nhóm chuyên gia phối hợp đa ngành cũng không phải dễ vì phải  thay đổi nếp làm việc đã hình  thành từ  lâu ở Việt Nam. Ngay cả khâu  kiểm  tra chất lượng sản phẩm cũng đòi hỏi nhiều trang thiết bị hơn để có thể đánh giá được chất lượng sản phẩm ở từng công nghệ khác nhau. Trong thời gian qua, lĩnh vực CÐT của nước ta đã có những chuyển biến vượt bậc. Hợp tác quốc tế về CÐT đã được thúc đẩy ở cả ba miền. Việc nghiên cứu về CÐT đang được triển khai tốt tại các viện nghiên cứu, trường đại học và nhiều cơ sở sản xuất. Chúng ta cũng đã tổ chức Hội nghị CÐT toàn quốc lần thứ nhất tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc năm 2002 và lần thứ hai tại Ðại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. Những gì mà các nhà khoa học đề cập tại các hội nghị đã chứng tỏ tiềm năng nghiên cứu sáng tạo của chúng ta trong lĩnh vực mới mẻ này. Mặc dù chưa có nền công nghiệp CÐT, song một số sản phẩm CÐT đã được nhiều cơ sở trong nước và các liên doanh tổ chức sản xuất tại Việt Nam như: Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp, Nhà máy sản xuất robot ở Khu công nghiệp Nomura Hải Phòng. Trong chiến lược phát triển KH và CN Việt Nam đến năm 2010, CÐT đã được xác định là một trong những lĩnh vực công nghệ trọng điểm. Tuy nhiên sự phát triển của lĩnh vực này ở nước ta gặp không ít khó khăn do bản thân CÐT là một ngành khoa học - công nghệ mới, cho nên việc thâm nhập vào đời sống sản xuất đòi hỏi phải có một quá trình thay đổi nhận thức và chính sách vĩ mô. Sự phát triển có được trong thời gian qua chủ yếu là tự phát, tuân theo quy luật cung - cầu của thị trường, sự nỗ lực của các chuyên gia tâm huyết và sự phát triển do internet mang lại. Có thể nói, CÐT ở Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức. Về mặt cơ hội, thị trường CÐT là thị trường mới không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước đang phát triển và phát triển trên toàn cầu. Ðây là thị trường chưa bị bão hòa, cho nên mức độ cạnh tranh chưa khốc liệt. Mặt khác, nhu cầu sử dụng các sản phẩm CÐT ngày càng nhiều và chủng loại sản phẩm có thể nói là vô tận. Các sản phẩm CÐT được hình thành từ các ý tưởng thông minh hóa, bổ sung các chức năng mới cho các sản phẩm hiện hành và tạo ra các sản phẩm mới bằng sự tích hợp liên kết nhiều công nghệ cao trong sản phẩm từ đơn giản đến phức tạp. Như vậy, ta có thể thông minh hóa, tạo linh hồn và cảm xúc cho các đồ dùng, thiết bị máy móc chung quanh ta, sáng tạo nên các sản phẩm mới với các chức năng vượt trội. Với sức tưởng tượng phong phú của người Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào khả năng sáng tạo các sản phẩm mới kiểu này. Bên cạnh những cơ hội, ta cũng còn phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển CÐT. Về đào tạo nguồn nhân lực: CÐT là một lĩnh vực liên ngành, việc đào tạo ở các trường cũng rất đa dạng. Chưa có một giáo trình chuẩn về CÐT, do tính đa dạng sản phẩm của lĩnh vực CÐT. Mặt khác, sự phối hợp giữa đào tạo và sản xuất trong lĩnh vực CÐT cũng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc kết hợp bài giảng với việc thực hành CÐT ở các nhà máy. CÐT là lĩnh vực có tính ứng dụng cao và đòi hỏi kỹ năng thực hành của nhiều công nghệ cao, nhất là công nghệ điều khiển thời gian thực, các hệ thống nhúng, vì vậy vấn đề thực hành cũng là một thách thức không nhỏ. Về nghiên cứu khoa học: CÐT một mặt là công nghệ tạo nên sản phẩm mới, mặt khác lại là một lĩnh vực khoa học hóc búa, cần nhiều nghiên cứu tập trung vào các tác động tương hỗ giữa các lĩnh vực công nghệ khi chúng được tích hợp với nhau một cách hữu cơ. Về thiết kế sản phẩm: việc thiết kế các sản phẩm CÐT theo phương pháp liên kết các hệ thống nhỏ đi từ dưới lên như hiện nay sẽ dần dần không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, giá thành, thời gian. Việc thiết kế theo hệ thống lớn là một thách thức đối với CÐT. Ðiều này đòi hỏi các chương trình thiết kế CAD cho các sản phẩm CÐT phải được mở rộng ra nhiều lĩnh vực (CAD cho cơ + CAD cho điện tử + CAD cho điều khiển...) và xử lý được độ phức tạp của chương trình thiết kế tổng hợp, khả năng mô hình hóa và mô phỏng hệ thống lớn. Mặt khác, các chương trình thiết kế này còn phải đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của các ứng dụng CÐT. Thách thức đối với sản xuất: sản xuất các sản phẩm CÐT đòi hỏi những năng lực thiết kế và chế tạo, kể cả các điều kiện lắp ráp mà không phải luôn có trong một cơ sở sản xuất. Ðối với những cơ sở vừa và nhỏ, việc có đủ các điều kiện này không phải dễ dàng. Ngay cả khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm cũng đòi hỏi nhiều trang thiết bị hơn để có thể đánh giá được chất lượng sản phẩm ở từng công nghệ khác nhau. Nước ta nằm trong khu vực châu Á, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Với thị trường to lớn và các cơ hội riêng, CÐT sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển và tăng trưởng bền vững của Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần có một chính sách vĩ mô, khuyến khích đầu tư cho đào tạo, nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm CÐT. Trong sự phát triển ngành công nghiệp CÐT, theo chúng tôi các cơ quan chức năng tập trung đầu tư để trong một thời gian ngắn có được một số sản phẩm chủ chốt trong một số lĩnh vực như thiết bị gia dụng, thiết bị y tế, phương tiện giao thông, máy gia công, chế biến nông sản... Việc đào tạo nguồn nhân lực cũng đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cũng cần được đẩy mạnh, nhất là đối với lớp trẻ. Có thể nói, CÐT tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển, phồn thịnh của đất nước, đồng thời đòi hỏi nhiều sự thay đổi ở nhiều lĩnh vực. Nhiệm vụ của chúng ta là tạo được sự phát triển hài hòa và bền vững trong quá trình chuyển đổi từ tư duy chuyên môn hóa sang tư duy cộng năng đa ngành. Tuy nhiên, lại cần phải nhận định rằng hiện nay điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam là chưa có khả năng thiết kế tổng hợp có hiệu quả và kinh tế những sản phẩm mới trong thời gian ngắn nhất, nên khả năn bám sát thị trường chưa cao. Nếu ngành chế tạo máy của Việt Nam chỉ tạo ra những sản phẩm cơ khí đơn thuần thì rất khó cạnh tranh tỏng xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Ứng dụng cơ điện tử để chế tạo ra các máy công cụ thông minh, thiết bị thông minh là giải pháp đột phá tạo ra sức cạnh tranh cho ngành chế tạo máy. Do vậy Việt Nam cần tập trung vào phần cứng đặc thì và phần mềm “ TRÍ TUỆ” bởi ngày nay trí tuệ cũng là một trong những nguồn lực kinh tế cao. 2. Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường của viện IMI và Công ty cổ phần 3B những năm gần đây Phải công nhận một điều rằng những năm gần đây Viện IMI nói chung và công ty cổ phần 3B nói riêng đã có những phát triển vượt bậc trong lĩnh vực kinh doanh ngành hàng Cơ điện tử, Báo cáo tài chính quý và năm cho thấy mức tăng trưởng Vốn lên tục từ 2007 đến 2010: Biểu đồ 1: Biểu đồ Nguồn vốn Điều đồ cho thấy từ năm 2008 nguồn Vốn tăng đáng kể từ 25 tỷ lên 55 tỷ và đang có dấu hiệu tăng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế này. Bên cạnh mức tăng về nguồn vốn, công ty liên tục gia tăng giá trị về tài sản nắm giữ như nhà xưởng, kho bãi, mác móc công cụ có tính chất khoa học công nghệ cao Biều đồ 2: Giá trị tài sản sở hữu của Công ty 3B Biểu đồ 2 cho thấy giá trị tài sản hiện vật công ty nắm giữ ( không bao gồm giá trị bất động sản) cho thấy để phục vụ cho chiến lược mở rộng kinh doanh, công ty đã chú trọng vào đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao hàm lượng chất xám và khoa học công nghệ vào sản phẩm. Biểu đồ 3: Biểu đồ lợi nhuận Biểu đồ lợi nhuận cho thấy rõ rang việc kinh doanh hàng cơ điện tử liên tục tăng vọt tỏng 3 năm trở lại đây, mặc dù lãi suất ngành cơ điện tử chưa cao ( khoảng 30%) song doanh thu vẫn tăng mạnh, điều này chứng tỏ chiến lược kinh doanh đã đi đúng hướng. Song song với việc đầu tư chế tạo sản xuất, công ty 3B còn nhận gia công quốc tế cho các tập đoàn lớn về công nghiệp nặng trên thế giới tại các thị trường Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á doanh thu từ gia công cũng chiếm phần không nhỏ trong tổng doanh thu. Biểu đồ 4: Biểu đồ lĩnh vực kinh doanh Biểu đồ 5: Biều đồ ngành hàng kinh doanh Biều đồ ngành hàng kinh doanh cho thấy, Công ty cổ phần 3B hiện đang chếm ưu thế trong lĩnh vực đồ gá, dây chuyền phụ trợ lắp ráp ôtô. Mà xu hướng ngành công nghiệp oto ở Việt Nam đang phát triển, thị trường tiềm năng nên khả năng phát triển lĩnh vực này của Công ty 3B rõ rang rất khả quan. Xong, không nên chủ quan cho rằng các sản phẩm của Công ty đều do tự chế tạo ra, mà thật ra Công ty mới chỉ nội địa hóa sản phẩm được 60 % Biều đổ 6: Tỷ lệ nội địa hóa hàng hóa Biểu đồ 6 cho thấy tỷ lệ nội địa hóa hàng hóa, có tới 30% linh kiện vẫn phải nhập khẩu, điều này gây thất thoát một lượng tiền đáng kể cho các công ty nước ngoài, công ty đang cố gắng giảm nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài xuống 20%, thay vào đó, sử dụng cá sản phẩm có sẵn trong nước. Ta hãy cùng tham khảo biểu đồ số 7 về tỷ trọng nhập khẩu linh kiện từ các nước chính: Biểu đồ 7: Các nước nhập khẩu Biểu đồ 7 cho thấy Công ty chủ yếu nhập hàng hóa/ linh kiện từ Nhật là chủ yếu bên cạnh có Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore. Và không thể phủ nhận là Nhật vẫn là một trong những nước đi đầu về chất lượng, sự đa dạng cũng như giá cả, chủng loại hàng hóa trong lĩnh vực cơ điện tử nói riêng và nhiều ngành hàng khác nói chung. CHƯƠNG III Triển vọng nào cho sự mở rộng thị trường có chiều sâu của Viện IMI và Công ty cổ phần 3B 1. Định hướng phát triển cơ điện tử ở Việt Nam Để có khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại của thế giới, từng bước có thể tự thiếtkế, chế tạo các thiết bị, máy móc điều khiển “thông minh” trong những năm đầu củathế kỷ XXI, việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng cơ điện tử là một vấn đề rất quantrọng. Tuy có những đặc điểm riêng, nhưng cơ điện tử Việt Nam cũng không vượt rakhỏi xu thế phát triển chung của thế giới. Công nghệ cơ điện tử hình thành xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công nghiệp Việt Nam. Hàng hoá cơ khí xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là phần cứngthô sơ, phi tiêu chuẩn, có mức độ “thông minh” thấp, nên giá cả thường tính trên khốilượng sản phẩm. Bên cạnh đó, nền công nghiệp nước ta còn lạc hậu, đòi hỏi đầu tư nhiều như vậy sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, do đó khó có khả năng cạnh tranh ởthị trường trong nước cũng như trong khu vực. Cơ điện tử sẽ cho phép chúng takhông phải đi theo những bước phát triển mà các nước công nghiệp đã đi qua, mà có thể tạo ra những đột phá trong tư duy công nghệ tích hợp, tạo ra những sảnphẩm mới có khả năng cạnh tranh. Điều đó sẽ giúp cho hàng hoá của nước ta đứngvững trên thị trường trong bối cảnh toàn cầu hoáđang diễn ra mạnh mẽ. Phần “trí tuệ” của sản phẩm cơ điện tử sẽ chiếm tỷtrọng ngày càng lớn trong giá cả của máy móc vàthiết bị. Nếu 15 năm trước đây, tỷ lệ giữa phần cơkhí/phần cứng/phần mềm là 60/25/15 thì vào năm1998, tỷ lệ này còn 30/15/55 và hiện nay tỷ lệ phầnmềm còn cao hơn. Do vậy, với khả năng sáng tạocủa người Việt Nam, chúng ta cần phải chú trọngđến giải pháp sáng tạo trong thiết kế, tích hợp tổng thể liên ngành các phương pháp điều khiểnvà công nghệ lập trình để tạo dựng được phần "trítuệ" gắn bó hữu cơ với "phần cứng" của máy móc để "tăng mạnh giá trị gia tăng" của sản phẩm, qua đó tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trong khu vực. Đây là "cơ hội vàng" cho các nước đang phát triển như Việt Nam có thể "đi tắt đón đầu", đi thẳng vào kinh tế tri thức, phát huy tài năng trí tuệ đểtạo ra các sản phẩm đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các hướng nghiên cứu chính của cơ điện tử cần tập trung là: 1) Đẩy mạnh khả năngmô phỏng và thiết kế tổ hợp liên ngành của các cán bộ KH&CN để có thể thiết kế ranhững sản phẩm cơ điện tử mới, đặc biệt là sử dụng công nghệ thiết kế mẫu ảo(virtual prototyping). 2) Nghiên cứu, chế tạo một số sản phẩm cơ điện tử, đặc biệttrong một số lĩnh vực cơ khí trọng điểm (máy công cụ, máy động lực, thiết bị kỹ thuậtđiện - điện tử, cơ khí ô tô và các thiết bị đo lường điều khiển), các cụm truyền động(actuator), hệ thống đầu đo (sensor). 3) Lựa chọn các sản phẩm cơ điện tử mới, đặctrưng và phù hợp với yêu cầu của Việt Nam, có khả năng cạnh tranh trong khu vựcvà trên thế giới để tập trung nghiên cứu - phát triển và tự chế tạo sản phẩm côngnghệ cao, như: Phần mềm và phần cứng tiên tiến phục vụ thiết kế hệ cơ điện tử;rôbốt di động, rôbốt song song, trạm phát điện gió; thiết bị gia công thông minh cóđiều khiển số... 4) Ngoài ra, Việt Nam còn cần phải tiếp cận những công nghệ hiệnđại trong nghiên cứu và phát triển các sản phẩm cơ điện tử tiên tiến, đòi hỏi trình độkỹ thuật công nghệ cao nhất của thế giới hiện nay, như: Vệ tinh nhỏ, rôbốt thôngminh, các hệ vi cơ điện tử (MEMS) và nano cơ điện tử (NEMS)... Trong đào tạo cơ điện tử cần: 1) Xây dựng chương trình đào tạo đại học và trên đại học ngành cơ điện tử theo hướng chuẩn - mở (cho các hướng khác nhau của cơ điện tử), có trình độ ngang tầm khu vực. Áp dụng hình thức đào tạo gắn với thực tế và đổi mới căn bản các phương pháp giảng dạy hiện nay. 2) Xây dựng chương trìnhđào tạo đẳng cấp quốc tế để sinh viên có điều kiện tiếp cận và nhanh chóng bắt kịpnhững kỹ thuật hiện đại nhất hiện nay. 3) Phát huy mạnh mô hình kết hợp giữa cáctrường đại học và viện nghiên cứu đã và đang được Trường Đại học Công nghệ(thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội) kết hợp với Viện KH&CN Việt Nam tổ chức thựchiện. 4) Đẩy mạnh việc mở đào tạo đại học và trên đại học chuyên ngành cơ điện tử. Ngoài ra, để có được một sự phát triển bền vững, chúng ta cần đầu tư xây dựng Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về cơ điện tử trên cơ sở liên kết các đơn vị nghiên cứu để có khả năng thiết kế và chế thử các sản phẩm mới của cơ điện tử với mô hình nghiên cứu - chuyển giao công nghệ và đi vào những vấn đề mũi nhọn của cơ điện tử (thiết kế mô phỏng hệ cơ điện tử; rôbốt, thiết bị thông minh; vệ tinh nhỏ; điều khiển nhúng; ứng dụng vi cơ điện tử, nano cơ điện tử). Chúng ta cần tiến hành ngay việc xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, điều tra thị trường và lập kế hoạch chi tiết phát triển sản phẩm cơ điện tử đến năm 2010 và các định hướng cho phát triển sản phẩm cơ điện tử có tính chiến lược cho giai đoạn sau. Trên cơ sở đó, xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển sản phẩm cơ điện tử trong 10 năm (2010-2020). Trong những năm qua, Viện KH&CN Việt Nam đã đạt được các thành tích đáng kể trong lĩnh vực cơ điện tử. Quan hệ hợp tác nghiên cứu và triển khai của Viện trong lĩnh vực cơ điện tử cũng không ngừng được tăng cường. Viện luôn chủ động, tích cực trong những hoạt động tổ chức và tham gia các Hội nghị cơ điện tử trong nước và quốc tế. Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 về cơ điện tử (VCM2006) là một Hội nghị có quy mô và mang tinh thần đổi mới nhất từ trước đến nay. Hội nghị do nhiều đơn vị đồng phối hợp tổ chức và được cả "3 nhà": Nhà khoa học, nhà giáo dục và nhà sản xuất kinh doanh quan tâm tham dự. Với phương châm: Tạo sự gắn kết hữu cơ giữa "Nghiên cứu - Đào tạo - Sản xuất kinh doanh" vì sự phát triển chung của cơ điện tử Việt Nam, hy vọng sẽ tạo ra được bước đột phá cho sự phát triển lĩnh vực này ở nước ta. Nắm bắt được các xu thế của cơ điện tử ( chuyển dần từ các sản phẩm cơ điện tử cao cấp, chuyên biệt sang các sản phẩm cơ điện tử công nghiệp; chuyển dịch thay thế các chức năng, nguyên lý và thiết kế cơ khí sang các giải pháp phần mềm; chuyển dịch từ phương pháp tiếp cận trên cơ sở phối ghép hệ thống nhỏ sang phương pháp tiếp cận hệ thống lớn toàn cục; mở rộng gắn kết với các công nghệ mới khác và đi từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô ), với sự thay đổi nhận thức kịp thời và có các chính sách vĩ mô phù hợp, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển ngành cơ điện tử và các sản phẩm cơ điện tử trong nước đủ sức cạnh tranh với khu vực và quốc tế. Nghiên cứu phát triển cơ điện tử của nước ta được giới chuyên gia nhận thức được tầm quan trọng, tầm chiến lược và thảo luận nhiều từ những năm 2000. Tuy nhiên trước đó đã có một số đơn vị từ sự khó khăn cạnh tranh thị trường của sản phẩm cơ khí truyền thống, đã có sự đổi mới sản phẩm theo hướng cơ điện tử. Có thể tóm tắt trình phát triển nghiên cứu cơ điện tử của nước theo những mốc quan trọng sau : Về công tác nghiên cứu khoa học & Công nghệ : Nhiều đề tài thuộc lĩnh vực cơ điện tử đã xuất hiện trong các chương trình nghiên cứu khoa học và phát công nghệ cấp nhà nước như KC03- Chương trình khoa học & Công nghệ về Công nghệ Tự động hoá, KC05- Chương trình khoa học & Công nghệ về Phát triển Công nghệ chế tạo máy, trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và truyền thông,... đã khẳng định sự xích lại gần nhau của các ngành này, đó chính là xu thế tất yếu của cơ điện tử. Tuy nhiên, chúng ta rất cần một chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp nhà nước về cơ điện tử đảm bảo lối tiếp cận tổng thể (top-down) và xuyên suốt hàng chục năm đối với lĩnh vực đa ngành này . Trong 12 công trình, cụm công trình vinh dự được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2005 thuộc nhiều lĩnh vực, có hai công trình trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật: “Nghiên cứu, thiết kế chế tạo cụm thiết bị cơ điện tử cho công nghiệp” do Bộ Công nghiệp đề cử và “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ cơ khí tự động hoá trong công nghiệp chế biến một số nông sản, thực phẩm” thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo do Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt nam đề cử, đều thuộc lĩnh vực “cơ điện tử”. Điều này thể hiện, hiện tại các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về cơ điện tử ở Việt nam đã có ý nghĩa lớn về khoa học và thực tiễn, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao và đã trở thành một xu thế phát triển của ngành cơ khí và tự động hoá hiện đại. Về đào tạo Tháng 1/1999 Bộ môn đầu tiên thuộc khoa cơ khí trường Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh đã được thành lập. Cũng năm này cơ điện tử được đào tạo cho lớp kỹ sư tài năng của Đại học Bách khoa Hà nội. Đại học Bách Khoa Hà Nội cũng đã kết hợp với TU Dresden và TU Hannover ( CHLB Đức ) để đào tạo các khoá cao học quốc tế ngành cơ điện tử. Trong 2005 Đại học Bách khoa Hà nội mở 4 chuyên ngành cơ điện tử trong các Bộ môn khác nhau ( Bộ môn cơ kỹ thuật; Bộ môn cơ sở thiết kế máy và rôbốt & Bộ môn cơ học kết cấu và vật liệu phi kim loại; Bộ môn Công nghệ chế tạo máy & Bộ môn cắt kim loại và dụng cụ công nghiệp; lớp KS tài năng cơ điện tử) trong hệ đào tạo ngành cơ khí. Đến nay, cơ điện tử còn được giảng dạy ở Bách khoa Đà nẵng, Đại học sư phạm kỹ thuật Thủ Đức, Đại học Cần Thơ, Đại học công nghiệp Hà nội và một số trường Đại học dân lập. Đến 2006 Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh cũng sẽ được mở ngành đào tạo cơ điện tử. Đầu năm 2006, Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp và Trường Đại học công nghệ ( Đại học Quốc gia Hà nội ) đã ký thoả thuận phối hợp đào tạo kỹ sư cơ điện tử theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu và sản xuất công nghiệp công nghệ cao, một phương thức đào tạo hiệu quả, xây dựng được lực lượng khoa học & Công nghệ trình độ cao cho công nghiệp, nhanh chóng đưa ra sản phẩm công nghệ cao phục vụ xã hội. Về sản xuất Trước nhu cầu ngày càng lớn và rộng rãi về sản phẩm cơ điện tử, dự tính mỗi năm trên 5 tỷ USD nhập ngoại, một số đơn vị nghiên cứu trong nước đã chủ động đưa ra thị trường những sản phẩm cơ điện tử dạng thử nghiệm như các máy Công nghệ cao của Cơ khí Hà Nội, dây chuyền chế biến nông sản ( ứng dụng tự động hoá ) của Viện Cơ điện nông nghiệp & Công nghệ sau thu hoạch, dây chuyền sản xuất bia của Đại học Bách khoa,vv… Nhưng về mặt bài bản và qui mô, Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp( IMI) - Bộ Công nghiệp có thể nói là mô hình tiêu biểu, đầy đủ và tổng hợp nhất trong cả ba lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo và sản xuất sản phẩm cơ điện tử công nghệ cao. Hơn 10 năm đổi mới, với định hướng chủ động chuyển dịch từ cơ khí thuần tuý sang cơ điện tử, Viện đã đạt được những thành công đáng khích lệ: hơn 70 sản phẩm thuộc các nhóm cơ điện tử trong lĩnh vực máy công cụ, cơ điện tử phục vụ ngành xây dựng, cơ điện tử trong lĩnh vực đo lường công nghiệp, Quang cơ điện tử phục vụ ngành chế biến nông sản, cơ điện tử phục vụ ngành xử lý và bảo vệ môi trường đã được nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và chuyển giao sản xuất công nghiệp, tạo lượng hàng hoá hàng nghìn tỷ đồng, tiết kiệm nhiều ngoại tệ cho đất nước; xây dựng được mô hình công ty mẹ – công ty con, trong đó công ty mẹ là doanh nghiệp hoạt động khoa học & Công nghệ đầu tiên tại Việt nam. Năm 2005, Viện đã vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học & Công nghệ cho cụm công trình 51 sản phẩm cơ điện tử trong công nghiệp. Mục tiêu, phương hướng nghiên cứu phát triển cơ điện tử ở Việt Nam trong những năm tới. Chưa nói đến vi cơ điện tử, nanô cơ điện tử vốn đã lôi kéo rất nhiều ngành liên quan, trong thế kỷ XXI, chúng ta sẽ chứng kiến nhiều hơn nữa sự phát triển tương hỗ rất mạnh của nhiều ngành khác xoay quanh cơ điện tử: quang-cơ điện tử ( opto-mechatronics ), sinh học-cơ điện tử ( bio-mechatronics ), khoa học không gian,... Một số ứng dụng tiêu biểu của cơ điện tử - tiêu điểm của các ngành: trong ngành hàng không - vũ trụ ( quân sự và dân sự ): cơ điện tử rất tự nhiên từ lâu là động lực phát triển chính. Các hệ thống lái tự động, định vị tự động, phát hiện tránh đường, điều phối không lưu,... và rất nhiều kỹ thuật, trang thiết bị mới, tinh vi đã ra đời sớm nhất trong ngành này. Tuy nhiên, do đặc thù riêng mà không được phổ biến rộng rãi trong công nghiệp nói chung. Cũng vậy, với kỹ thuật quân sự: các hệ thống vũ khí, khí tài do thám, tấn công thông minh, phòng thủ phản ứng nhanh ( các hệ thống tên lửa đánh chặn, tìm diệt,...) và rất nhiều bí mật quân sự khác thực sự từ lâu đã được phát triển theo lối tiếp cận cơ điện tử hiện đại, chứ không phải đến khi nó được đề xuất và nghiên cứu sau này trong dân dụng. Trong ngành cơ khí: rôbốt, máy công cụ Công nghệ cao, hệ thống đo 3D phục vụ kiểm tra chính xác cao hoặc cho thiết kế ngược,... Trong ngành tự động hoá: giám sát và điều khiển tích cực quá trình (tại từng thiết bị cho đến quy mô toàn nhà máy),... Trong ngành công nghệ thông tin: mô phỏng, mô hình hoá, cung cấp công cụ tối ưu hoá, cung cấp công cụ cho tạo mẫu nhanh, sản xuất phân tán kỹ thuật số, phần mềm điều khiển nhúng, các hệ thống giám sát và định vị toàn cầu,...Trong công nghiệp tiêu dùng: điều hoà kỹ thuật số, lò vi sóng, nồi cơm điện, máy giặt, tủ lạnh thông minh,... Trong công nghiệp ôtô: các hệ thống lái tự động, các hệ thống an toàn kiểu mới,... Trong y sinh học: thiết bị xét nghiệm, chẩn đoán, điều trị, phục hồi chức năng, cùng với việc tích hợp các công cụ khai thác thông tin, dữ liệu di truyền sinh học để kiểm soát tổng thể các phương tiện chăm sóc sức khoẻ (ứng dụng máy ghi nhiệt và trí tuệ nhân tạo để phát hiện sớm khối u; tạo môi trường ảo để phục hồi từ xa cho người già bị giảm nhận thức; các công cụ có trợ giúp bởi máy tính để phân tích chứng bệnh tim mạch, châm cứu,...),v.v. Có thể nhận thấy, cơ điện tử là phạm trù rộng, chúng ta cần đặt mục tiêu nghiên cứu phát triển cơ điện tử của nước ta trong những năm tới là có những sản phẩm chiến lược. Việc lựa chọn phương hướng nghiên cứu cơ điện tử cần có hiệu quả mang tính đi tắt đón đầu, do vậy có 3 lĩnh vực chúng ta cần phải làm chủ bằng được, đó là: Sản phẩm cơ điện tử trong tiêu dùng: Những đồ gia dụng ví dụ: thiết bị cảnh báo, bếp từ, đầu VCD, máy giặt, máy ảnh số,... là những mặt hàng mang tính thông minh nhưng không quá phức tạp về cấu hình. Sự thông minh nằm nhiều ở phần điều khiển (cứng và mềm của thiết bị), phần mà theo nhận định của nhiều chuyên gia là thuộc năng khiếu của người Việt Nam. Mặc dù về giá trị kinh tế không thật cao, nhưng do là vật dụng thông dụng nên lương tiêu thụ (với đất nước 83 triệu dân) là lớn. Nếu không làm chủ thị trường này, chắc chắn chúng ta sẽ bị Trung Quốc và Hàn Quốc “qua mặt”. Thiết bị và hệ thống cơ điện tử trong công nghiệp: Khá nhiều thiết bị công nghiệp ví dụ như máy công cụ Công nghệ Cao, trạm trộn bê tông tự động, dây chuyền sản xuất xi măng, hệ thống hút bụi công nghiệp,…. đã là kết quả nghiên cứu từ các đề tài nghiên cứu khoa học & Công nghệ và đang được triển khai tốt trong đời sống sản xuất. Có thể nhận thấy rằng chúng ta có thể thiết kế, và tích hợp tốt thiết bị công nghiệp thông minh. Nhược điểm của chúng ta là khâu chế tạo. Tuy nhiên trên thế giới, không một nước nào, Hãng nào lại chế tạo một hệ thống từ A-Z, theo xu hướng chung này chúng ta sẽ tuyển chọn đâu là những vấn đề cần đầu tư để có thể chiếm thị phần lớn trong sản phẩm cơ điện tử loại này. Thiết bị cơ điện tử trong lĩnh vực y tế: Trong mọi xã hội giàu, nghèo sức khoẻ con người luôn được đặt lên hàng đầu vì con người là nguồn vốn quý nhất của mọi quốc gia. Việc phát triển thiết bị cơ điện tử y tế có ý nghĩa hơn khi bản thân thiết bị không những đã thúc đẩy sự phát triển của rất nhiều lĩnh vực liên quan ( vật lý - nguồn năng lượng tia bức xạ, hệ thống quang học, hệ thống cảm biến – nhận dạng, công nghệ thông tin - xử lí ảnh,...) mà còn có hiệu ứng đomino đến các lĩnh vực khác như sinh hoá, chẩn đoán, trị liệu,... Phương hướng nghiên cứu cơ điện tử của chúng ta có thể tập trung vào kỹ thuật tích hợp hệ thống từ các mô đun tiêu chuẩn hoá, đầu tư vào nghiên cứu thiết kế hệ điều khiển và phần mềm, chế tạo một phần cấu hình vật lí và phần cứng điều khiển tương thích. Giải pháp và chính sách để có chiến lược sản phẩm cơ điện tử Cùng bắt đầu từ một ví dụ: hãy quan sát hai quốc gia châu á cùng phát triển về công nghệ thông tin. ấn Độ có rất nhiều nhân lực trong ngành công nghệ thông tin, đó là lực lượng hùng mạnh được gửi đi đào tạo bài bản và làm việc tại Thung lũng Silicon (Mỹ), cũng như gia công phần mềm ngay trong nước để xuất khẩu. Hàn Quốc có số kỹ sư làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin ít hơn rất nhiều so với ấn Độ. Tuy nhiên doanh số và lợi nhuận đem lại từ ngành công nghệ thông tin của Hàn Quốc đạt được cao hơn rất nhiều nhờ gắn liền với sản phẩm công nghệ- lượng sản phẩm cơ điện tử của họ nhiều gấp hàng chục lần, thậm chí cả trăm lần so với của ấn Độ. Phần mềm được phát triển tích hợp trong các thiết bị mang đậm màu sắc Hàn Quốc như màn hình kỹ thuật số , ti vi kỹ thuật số, tủ lạnh kỹ thuật số, máy giặt fuzzy logic, đa phương tiện kỹ thuật số,... đã tạo ra một thị trường đem lại doanh số hàng trăm tỷ USD/năm. Phân tích như vậy để thấy gia công thuê phần mềm ( theo kiểu thuần tuý outsourcing ) không phải là hướng đi có lợi nhất mà phải chủ động gắn kết với các sản phẩm cơ điện tử để đạt được giá trị gia tăng cao. Như vậy, hướng tới sản phẩm cơ điện tử cần phải là sự lựa chọn ưu tiên số 1 trong việc phát triển ngành công nghệ thông tin ở các nước châu á, mà bài học rõ nét nhất là các nước thành công nhanh như Hàn Quốc và gần đây là Trung Quốc. Nhà nước cần có định hướng phát triển ngắn hạn 5 năm, dài hạn 20-30 năm, hoạch định những sản phẩm cơ điện tử chiến lược, chủ đạo phù hợp với Việt Nam và xác định lộ trình thực hiện. Để sớm rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, các ngành công nghiệp của ta cần tiếp cận tổng thể, xây dựng hệ thống trên cơ sở tích hợp các mô đun tiêu chuẩn hoá, nâng cao tính sáng tạo trong thiết kế phần mềm, giải pháp tích hợp hệ thống, đầu tư vào phần “thông minh” của sản phẩm. Việc quy hoạch các ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất phần nào các thiết bị tiêu chuẩn hoá trong nước cũng được xem là cần thiết. Nhưng giá trị gia tăng lớn nhất, độc đáo nhất và cũng bền vững nhất của sản phẩm cơ điện tử lại nằm ở công nghệ nguồn, phần chất xám gửi gắm vào trong các thiết bị điều khiển của sản phẩm - linh hồn của máy móc. Những sản phẩm cơ điện tử chiến lược trong trung và dài hạn sẽ được định hình và đạt được thông qua một số giải pháp sau : Thành lập chương trình khoa học & Công nghệ cấp nhà nước về cơ điện tử Để có tiếp cận tổng thể tầm quốc gia và xuyên suốt hàng chục năm, xây dựng các hướng phát triển ưu tiên và các nhiệm vụ cụ thể có tính kế thừa cao, đảm bảo hiệu quả và tập trung ; Ưu tiên phát triển những trung tâm thiết kế và thử nghiệm chip Xây dựng những trung tâm thiết kế và thử nghiệm chip ở các tỉnh thành lớn, từng bước hình thành lực lượng khoa học trình độ cao phục vụ phát triển các sản phẩm cơ điện tử: làm chủ và sở hữu được thành phần quan trọng nhất của những thiết bị điều khiển thông minh là những chip điều khiển cho công nghiệp, chứa đựng phong cách thiết kế và sắc thái riêng mang thương hiệu của nhà sản xuất sản phẩm cơ điện tử. Việc tiếp cận với công nghệ tạo chip có thể thực hiện từ một trong hai hướng: Công nghệ chế tạo chip ( chip making ) bao gồm toàn bộ quá trình thiết kế và sản xuất công nghệ các loại chip với các công nghệ bán dẫn khác nhau ; Công nghệ thiết kế chip (chip design) là các công việc liên quan tới việc định hình cho các chip rỗng dưới con mắt của nhà thiết kế ứng dụng. Công nghệ chế tạo chip đầy đủ đòi hỏi một nền công nghiệp hiện đại của quốc gia với sự đầu tư lớn, còn công nghệ thiết kế chip đòi hỏi đầu tư ít hơn tập trung chủ yếu vào chuyển giao các nguồn tri thức, đào tạo nhân lực làm chủ và đón đầu công nghệ. Đầu tư vào thiết kế chip và phần mềm nhúng cho phép tiếp cận, làm chủ công nghệ nguồn cũng như chủ động giữ được bản quyền với chi phí hợp lý. Chỉ có đi theo hướng thiết kế chip mới đem lại giá trị gia tăng cao. Vì thiết kế chip được đánh giá là “high risk-high return” thay vì gia công thuê phần mềm thuần tuý (kiểu outsourcing) vẫn chỉ được xem là một ngành dịch vụ “low risk-low return”. Việc làm chủ công nghệ thiết kế chip còn đặc biệt quan trọng trong việc chế tạo các môđun chức năng thay cho các bản mạch bằng linh kiện rời trong các trang thiết bị quân sự (vũ khí, khí tài) do sau thời gian dài sử dụng đã hỏng, không có điều kiện nhập linh kiện rời thay thế. Ngoài ra, các môđun được chế tạo mới bằng các chip do ta tự thiết kế không chỉ làm chức năng sửa chữa, thay thế, mà quan trọng hơn là nó có thể làm thay đổi tính năng của thiết bị trong việc cải tiến, gây bất ngờ cho đối phương, nâng cao hiệu quả chiến đấu. Những luận cứ trên cho thấy sự cần thiết xây dựng các trung tâm thiết kế chip tại Việt nam. Việc đầu tư chiều sâu về khoa học công nghệ ban đầu cho các trung tâm thiết kế chíp có thể đưa tới cảm giác khó đạt hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, nếu quyết tâm đầu tư phát triển trung tâm thiết kế chip thành các cơ sở đồng bộ thiết kế và thử nghiệm chip thì theo các tính toán dự báo sẽ có quá trình hoàn vốn nhanh, hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, lợi ích chính khi làm chủ công nghệ thiết kế chip là tạo ra tiềm lực khoa học công nghệ, tạo thế chủ động cho sự phát triển của cơ điện tử và các ngành hữu quan cấu thành, tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế quốc dân, đặc biệt trong an ninh, quốc phòng. Đào tạo nguồn nhân lực Cơ điện tử đã được triển khai đào tạo ở một số trường Đại học kỹ thuật và đang được các trường cao đằng, dạy nghề quan tâm, mong muốn đưa vào chương trình giảng dạy. Còn sớm để có thể đánh giá chương trình đào tạo về cơ điện tử hiện hành, nhưng về vĩ mô cần có chính sách đào tạo các giáo viên chuyên ngành cơ điện tử theo quy hoạch của nhà nước. Xây dựng hệ thống đào tạo ngành cơ điện tử nhiều trình độ: dạy nghề, Đại học, sau Đại học để có đủ nhân lực phục vụ chương trình nghiên cứu phát triển, sản xuất, vận hành, hiệu chuẩn, hiệu chỉnh các thiết bị cơ điện tử từ nhiều cấp độ, theo lộ trình đi tắt đón đầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Để không lỡ nhịp với xu thế phát triển theo hướng cơ điện tử của các ngành khoa học kỹ thuật và công nghệ trong thế kỷ 21, chúng ta rất cần những chương trình nghiên cứu khoa học & Công nghệ riêng ở quy mô quốc gia đáp ứng nhu cầu tổng thể của đất nước. Đã đến lúc phải đánh giá đúng vai trò “đòn bẩy” của các sản phẩm cơ điện tử đối với nền kinh tế đất nước; phải làm chủ lĩnh vực cơ điện tử từ nhiều góc độ: khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giáo dục và phải đầu tư đáp ứng được các yêu cầu cho nó trong quá trình phát triển. Xác định nhóm sản phẩm cơ điện tử chủ đạo của đất nước, hoạch định các chính sách dài hạn và ngắn hạn, lộ trình thực hiện là vô cùng cần thiết. Và trong giai đoạn 5 năm tới ( 2006 - 2010 ) chúng ta cần sớm có chính sách phát triển cơ điện tử với trọng tâm là công nghệ thiết kế chip tại Việt nam. 2. Định hướng phát triển tại Công ty cổ phẩn 3B Ngay từ những ngày đầu thành lập, tiếp nối truyền thống phát triển của Viện IMI, công ty cổ phần 3B luôn đặt mục tiêu phát triển bền vững hàng đầu, đó là phát triển cả về con người lẫn kinh tế, song song với việc chú trọng đầu tư vào sản phẩm, nâng cao sản xuất và có chiến lược kinh doanh cụ thể, công ty còn chú trọng đầu tư vào nhân lực, không ngừng nâng cao khả năng chuyên môn của đội ngũ cán bộ. Mặt kinh doanh, công ty tập trung vào khai thác tiềm năng cũng như đồng thời chăm sóc khách hàng, giữ chân khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng tiềm năng. Qua đó, tăng số lượng hợp đồng ngoại cũng như các mối liên kết nước ngoài. KẾT LUẬN Quán triệt phương châm đi tắt đón đầu về KH&CN, chúng ta cần tạo môi trường vàmạnh dạn đón nhận các công nghệ cao nhất của ngành cơ điện tử. Trong quá trình phát triển, nên học tập mô hình của Nhật Bản và châu Âu, với các bước đi: Nghiêncứu - triển khai các công nghệ mới với các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm chế tạo thiết bị mẫu, khuyếch tán kết quả nghiên cứu qua cơ chế hàng hoá, thươngmại… Trước mắt, Nhà nước cần có chính sách, cơ chế đầu tư cho đào tạo ngành cơ điệntử tại các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, đồng thời khuyến khích sự phối hợp của các ngành, công ty trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo qua mạng về cơ điện tử. Trong tương lai gần, cần tiến hành xây dựng chương trình đào tạo cơ điện tử đẳng cấp quốc tế ở nhiều trường đại học.Đưa công nghệ cơ điện tử vào chương trình nghiên cứu trọng điểm về KH&CN củaquốc gia. Đổi mới trong việc xây dựng đề tài cấp nhà nước, lựa chọn và đưa ra sảnphẩm tầm cỡ của ngành cơ điện tử. Nghiên cứu phát triển công nghiệp cơ điện tử cần tập trung theo các hướng sau: Mộtlà, chủ yếu phát triển phần mềm (do phần cứng chế tạo phải đầu tư lớn và đã đượcchuẩn hoá trên toàn thế giới). Hai là, chế tạo các môđun nhỏ của cơ điện tử, chủ yếulà phục vụ cho các ngành công nghiệp khác (do chi phí đầu tư sản xuất phần cứngcơ điện tử rất cao, đặc biệt là chế tạo cơ khí chính xác). Ba là, để chuẩn bị chonhững bước đột phá trong công nghiệp cần đi vào nghiên cứu, ứng dụng trong lĩnh vực vi cơ điện tử và nano cơ điện tử. Về phía công ty cổ phần 3B Bên cạnh việc đẩy mạnh kinh doanh, nâng cao sản xuất, công ty cũng cẩn có kế hoạch giữ chân nhân tài, tránh tình trạng chảy máu chất xám, bởi chát xám cũng là nguồn tài nguyên giá trị. Kết hợp cùng các chính sách của đất nước, hy vọng công ty sẽ ngày một giàu mạnh hơn. Mục Lục DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Cuộc chạy đua vào thế kỷ XXI của Konrad Seitz BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ BÁO CÁO THỰC TẬP ĐỀ TÀI “ HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG LĨNH VỰC CƠ ĐIỆN TỬ CỦA VIỆN IMI- CÔNG TY CỔ PHẦN 3B” Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Thu Hà Họ và tên sinh viên: Phạm Cẩm Vân Lớp: Anh 5- K47 MSV: 0851020058 Hà Nội- 2011

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo 2011- Hoạt động mở rộng thị trường lĩnh vực cơ điện tử của viện imi- công ty cổ phần 3b.doc