Đề tài Hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian 2007 đến nay

Các doanh nghiệp cần đầu tư để duy trì và cải tiến các trang Web của mình để thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm nguồn thông tin từ khách hàng cũng như cho việc giới thiệu sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp cho các khách hàng nước ngoài. Ngoài ra có thể bỏ tiền ra mua các thông tin, hoặc trở thành hội viên của các tổ chức cung cấp thông tin về thị trường cà phê Hoa Kỳ để có được thông tin một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Khi có nhu cầu xúc tiến thương mại với bạn hàng Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam nên triệt để tận dụng các tiện ích có được từ mạng Intemet nếu có ý định làm ăn lâu dài tại Hoa Kỳ. Cụ thể như gửi thư điện tử, khai thác kho dữ liệu khổng lồ về thông tin và tìm kiếm bạn hàng trên mạng. Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước còn có thể thu hút sự chú ý của các công ty tại đây bằng cách đưa ra những mẫu quảng cáo độc đáo trên trang chủ riêng của mình. Về lâu dài có thể hướng tới công tác chuẩn bị cho việc bán hàng qua mạng (e-commerce) một khi có đủ điều kiện về pháp lý và phương thức thanh toán. Một cách chào hàng tương đối hiệu quả khác là tham dự các cuộc hội chợ triển lãm, được tổ chức liên tục hàng ngàn cuộc mỗi năm trên khắp đất Hoa Kỳ. Tuy nhiên, muốn các chuyến đi mang lại kết quả như mong đợi thì doanh nghiệp hay các nhà tổ chức (thường là các trung tâm xúc tiến thương mại) nên có sự phối hợp chặt chẽ với một công ty tại Hoa Kỳ để gặp đối tượng và được hướng dẫn về đi lại. Hiện nay, chi phí thuê mặt bằng tại các cuộc hội chợ triển lãm ở Hoa Kỳ trung bình từ 2.000-3.000 USD cho một gian hàng chừng 10m2. Đó là chưa kể các khoản chi phí gửi hàng và cho nhân viên đi kèm. Đặc biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cần thống nhất hợp tác về phương thức thu mua cà phê trong nước và xuất khẩu, vừa để tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, vừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Thay đổi phương thức bán hàng trừ lùi (kỳ hạn), sang tập trung bán hàng theo phương thức giao ngay. Ngoài các biện pháp tiếp thị, bán hàng, doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư công nghệ và thiết bị mới và đảm bảo giao hàng đúng hạn nếu muốn làm ăn lâu dài tại thị trường Hoa Kỳ. Cần quan tâm đầu tư vào thiết bị máy móc hiện đại, một phần giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp đạt chất lượng hơn, một phần tiết kiệm được chi phí nhiên liệu so với máy móc cũ gây ra để từ đó làm giảm giá thành sản phẩm, qua đó nâng sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam so với hàng hóa của các nước khác vốn đã có mặt từ lâu tại thị trường Hoa Kỳ. Và cuối cùng là đừng quên Đại sứ quán và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng là một địa chỉ mà các doanh nghiệp nên phối hợp chặt chẽ để có thể được cung cấp kịp thời những thông tin về thị trường, tránh các thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra về vật chất cũng như thời gian.

doc69 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2920 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian 2007 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam, chúng ta không phải cạnh tranh với tất cả các quốc gia trên mà chủ yếu là cạnh tranh với Indonesia, Braxin và một số nước Châu Phi khác. Kim ngạch và số lượng Hoa Kỳ luôn là nước nhập khẩu cà phê cao đối với nước ta. Nhu cầu cà phê của người dân Hoa Kỳ rất cao, bình quân hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu trên 1 triệu tấn. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê robusta dưới dạng thô sang Hoa Kỳ. Trước đây cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ đều phải qua các trung gian như Singapo hay HongKong, đặc biệt là Singapo. Tuy nhiên sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam thì các khách hàng Hoa Kỳ đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Điều này làm cho xuất khẩu cà phê Việt Nam có bước phát triển rất nhanh chóng, chỉ sau một năm họ trở thành khách hàng lớn nhất của cà phê Việt Nam với lượng mua hàng năm khoảng 25% lượng cà phê của Việt Nam. Biểu đồ thể hiện xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Hoa Kỳ Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy nhìn chung từ năm 2007 đến 2009 kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ có xu hướng giảm nhưng không đáng kể. Đặc biệt năm 2008 giá cà phê thế giới tăng mạnh nên mặc dù sản lượng cà phê xuất khẩu giảm tới 21,2% tương đương khoảng 28,5 nghìn tấn nhưng kim ngạch giảm 0,89% tương đương 1,9 triệu USD so với cùng kì năm 2007. Và nguyên nhân khiến cho số lượng cà phê xuất khẩu qua Mỹ giảm nhiều như vậy là do Hoa Kỳ đã có những nỗ lực nhằm thi hành các biện pháp an ninh nhập khẩu để làm tăng thêm sức ép đối với những người trồng và xuất khẩu cà phê châu Á, trong đó có Việt Nam ngoài đòi hỏi nhà xuất khẩu phải có giấy chứng nhận về quá trình chấp hành qui định hải quan và tờ khai về các nơi cung cấp cà phê, nhà xuất khẩu còn phải cung cấp thông tin nhằm bảo đảm có thể dễ dàng tìm ra xuất xứ của từng lô cà phê, làm gia tăng chi phí xuất khẩu. Bên cạnh đó, mặc dù đã có nhiều cải thiện nhưng chất lượng cà phê Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ nên sản lượng cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ ngày càng giảm. Đồng thời nguyên nhân là do chi phí xuất khẩu cà phê sang thị trường Hoa Kỳ tăng cao nên các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam chủ động chuyển sang một số thị trường khác như: Bỉ, Italia, Trung Quốc, Việt Nam còn mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê sang một số thị trường khác như vùng Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước ASEAN và vùng Trung Mỹ…Đặc biệt, Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu của Hoa Kỳ về chất lượng cà phê, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn còn trong giai đoạn khủng hoảng nên sản lượng xuất sang Hoa Kỳ giảm mạnh. Đến năm 2009 hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng khoảng 20,36% so với năm 2008 với lý do cầu cà phê tại Mỹ trong năm 2009 tăng cao, thêm vào việc các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ lỏng tay hơn trong việc áp đăt các quy định nhập khẩu nhưng lại giảm 6,69% về giá trị so với năm 2008, nguyên nhân là do giá cà phê thế giới giảm mạnh. Nhưng các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam lại ký trước các hợp đồng từ vụ trước với các nhà nhập khẩu cà phê Hoa Kỳ nên đến lúc giao hàng thì các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước không có đủ hàng để giao, hoặc phải mua hàng với giá cao để giao cho khách hàng. Vì vậy xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ gặp khó khăn. Năm 2010 cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng mạnh về cả về khối lượng và giá trị đạt 153 nghìn tấn và khoảng 250 triệu USD, tăng 19,5% về khối lượng và 27,2% về giá trị so với năm 2009. Nguyên nhân là do giá cà phê thế giới tăng liên tục từ 125 US cent/lb lên 185 US cent/lb theo số liệu thống kê của ICO (hiệp hội cà phê thế giới). Đầu năm 2011 xuất khẩu cà phê 3 tháng đầu tăng mạnh về giá trị do nhu cầu cà phê gia tăng, trong khi nguồn cung tại các nước trồng cà phê lớn như Brazil, Colombia… sụt giảm. Nguồn cung hàng khan hiếm và các quỹ hàng hoá đẩy mạnh hoạt động mua bù thiếu khiến giá cà phê trong 3 tháng đầu năm tăng cao. Do đó chỉ trong 8 tháng đầu năm 2011 Hoa Kỳ đang là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam với khối lượng và giá trị đạt lần lượt 98,5 nghìn tấn và 239,8 triệu USD; giảm nhẹ 3,9% về lượng nhưng tăng tới 53,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2010. Cơ cấu và chủng loại Cà phê xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là cà phê Rubusta (chiếm 80%), cà phê Arabica chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong khối lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Bảng 2.5: Cơ cấu sản phẩm cà phê của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ Đơn vị: nghìn tấn Năm cơ cấu 2007 2008 2009 2010 Cà phê Rubusta 107 71 88 101 Cà phê Arabica 28 35 40 52 Tổng 135 106 128 153 (Nguồn: Tổng cục Hải Quan) Hiện nay giá cà phê Arabica đã cao gấp 2 lần giá cà phê robusta trên thị trường thế giới. Cũng qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ cà phê Arabica nhập khẩu vào Hoa Kỳ cũng có chiều hướng tăng lên. Năm 2007 chỉ chiếm có 20,1% nhưng sang năm 2008 thì tỷ lệ cà phê Arabica đã chiếm đến 33%, và 31,2% vào năm 2009, và năm 2010 đã chiếm khoảng 34% đây cũng là một dấu hiệu tốt của ngành cà phê Việt Nam và nó cũng nằm trong kế hoạch phát triển ngành cà phê mà tổng công ty cà phê Việt Nam đang thực hiện. Chất lượng và giá cả Trong khoảng thời gian 5 năm lại đây ngành cà phê Việt nam đã có bước tiến vượt bậc trong sản xuất, trở thành nước đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê vối. Tuy nhiên, ngành công nghiệp chế biến cà phê của Việt Nam không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của sản xuấ cà phê. Vì vậy, cà phê hạt xuất khẩu có chất lượng không cao. Cà phê hạt của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng, thế giới nói chung, vẫn chưa đạt chuẩn các chỉ tiêu của Hiệp hội Cà phê quốc tế (ICO) về độ ẩm, tạp chất, hạt hư (non, lép, đen) do khâu sơ chế còn dựa nhiều vào tự nhiên (phơi nắng) hoặc sấy thủ công. Hầu hết cà phê Việt Nam phải qua chế biến tiếp ở khâu trung gian để đạt các tiêu chuẩn giao dịch trước khi xuất sang Hoa Kỳ. Nguyên nhân chính làm cho chất lượng cà phê Việt Nam chưa cao là do người dân chưa tuân thủ đúng yêu cầu, quy trình ngay từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, tệ hơn là thu hoạch khi trái còn xanh , bởi điều này không chỉ làm ảnh hưởng tới chất lượng của hạt, của sản lượng, mà còn tác động trực tiếp tới sự phát triển của cây, rút ngắn thời gian ra hoa, quả chín không đúng chu kỳ... làm ảnh hưởng nặng nề vụ thu họach năm sau, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu để tới lúc chín thu họach thì chỉ cần 850 quả/1kg, nếu thu họach khi còn xanh thì phải từ 900– 920 quả mới đạt 1kg. Lâu nay người mua và xuất khẩu trên thị trường cà phê Việt Nam vẫn theo thói quen áp dụng phương pháp truyền thống để đánh giá chất lượng cà phê như: dựa vào tỷ lê hạt đen, hạt vỡ, tạp chất, độ ẩm, thủy phân… Phương pháp này không những lạc hậu so với thế giới, mà còn vô tình đã tiếp tay cho việc thu hoạch cà phê chưa đến độ chín, dẫn đến chất lượng thấp, vậy mà thực trạng này đến nay vẫn chưa mấy cải thiện, vì thế chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện nay nhìn chung chưa đồng đều, lượng tạp chất cho phép còn lại trong cà phê xuất khẩu quá cao, Bảng 2.6: Chất lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam Cà phê Robusta Cà phê Arabica Hình dáng Không đều, kích cỡ hạt nhỏ, có lẫn cành cây, có đá và vỏ Không đều, xám xanh, nhiều hạt còn xanh, thường khô quá hoặc không đủ khô Độ ẩm (ISO 6673 trung bình) 13% 13% Khuyết tật Cao Trung bình Độ chua Thấp + thấp đến trung bình Độ đậm Trung bình Đặc tính Nhẹ đến mạnh Nhạt có vị cỏ Vấn đề Có mùi hôi, mùi khói, bị lên men qua, mốc, có đất Chưa chín, có mùi có, thiếu mùi thơm (Nguồn: Thông tin được thảo luận và xây dựng với trưởng tư vấn chất lượng trộn Toloka- Kraft) Chính do chất lượng cà phê xuất khẩu của chúng được các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đánh giá còn thấp và không đồng đều như thế đã làm cho cà phê xuất khẩu của Việt Nam bị các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ ép giá, do đó giá xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này thấp. Chúng ta là nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới, tuy nhiên chất lượng cà phê chúng ta được đánh giá thấp hơn so với các nước khác như Braxin, Indonexia…Do đó khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam không cao, gặp nhiều khó khăn để xâm nhập vào thị trường lớn. Do đó cần có những giải pháp đồng bộ từ phía các cơ quan chức năng và doanh nghiệp để khắc phục hạn chế trên, đưa sản phẩm cà phê Việt Nam tiến xa hơn nữa trên thị trường Hoa Kỳ. Giá cà phê Trong những năm vừa qua, mặc dù cà phê Việt Nam đã có những cải tiến đáng kể về chất lượng nhưng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa cân xứng vị thế là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới. Năm 2007, có lẽ là một năm mà các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê và nông dân trồng cà phê đều trúng lớn. Cà phê không những được mùa mà còn được giá. Trong năm này, làm ủy thác cũng thắng mà làm trực tiếp cũng thắng. Năm 2007, Việt Nam xuất khẩu hơn 1 triệu tấn cà phê, giá xuất khẩu luôn duy trì ở mức cao, khoảng 1.430 USD/tấn theo giá FOB. Giá cà phê xuất sang thị trường Hoa Kỳ cũng luôn ở mức cao khoảng 1420 USD/tấn. Trái lại, năm 2008 lại khác, cà phê được báo cáo là mất mùa. Đây cũng là năm biến động về giá cà phê trong nước cũng như xuất khẩu không thể lường trước, giá cà phê trong nước phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường cà phê thế giới. Tháng 2/2008 giá cà phê trong nước giao động từ 40.000 – 42.000 đồng/kg, giá cà phê nhân (loại Robusta) xuất khẩu (FOB) tại Tp.HCM đạt tới 2.520 USD/tấn, trong khi giá xuất khẩu cà phê của Brazil luôn cao hơn Việt Nam khoản 2.580 USD/tấn, giá xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Hoa Kỳ khoảng 2.510 USD/tấn thấp hơn 10 USD/tấn so với giá chào bán theo FOB. Đến tháng 8/2008 giá cà phê trong nước giảm khoảng 34.000 - 35.000 đồng/kg thì giá cà phê nhân (loại Robusta ) xuất khẩu đạt khoảng trên 2.000 USD/tấn, đợt rớt giá cao nhất vào trong tuần tháng 10/2008 giá cà phê rớt xuống khoảng còn 26.000 - 27.000 đồng/kg, giá xuất khẩu khoảng 1710 USD/tấn giảm 23,5% so với tháng 9/2008 và giảm 2,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong những ngày đầu tháng 12/2008, giá cà phê xuất khẩu của nước ta giảm xuống còn 1.545-1.560 USD/T, giảm trung bình 65 USD/tấn so với cuối tuần trước, nhưng vẫn tăng 4,2% so với đầu tháng 11/2008. Giá thu mua cà phê nhân loại 1 trong nước giảm 300đ/kg xuống 26.400đ/kg, tăng 2,6% so với đầu tháng trước. Giá cà phê của Việt Nam lúc nào cũng thấp hơn Brazil trung bình mỗi tấn khoản 50-65 USD. Giá cà phê nhân xuất khẩu sang Hoa Kỳ luôn thấp hơn giá chào bán của FOB từ 5-10 USD/tấn, tại thị trường này cà phê của Việt Nam không chỉ cạnh tranh gay gắt với Brazil mà còn cạnh tranh với nước Colombia, Ấn Độ. (Nguồn:Tổng hợp từ viện chính sách và chiến lược PT - NNNT) Biểu diển giá cà phê Quốc tế, trong nước và giá xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2008. (ĐVT:USD/tấn) Năm 2009, giá cà phê thế giới giảm mạnh, dẫn đến thị trường trong nước cũng rớt giá theo.Trong sáu tháng đầu năm này, giá cà phê biến động phức tạp. Cà phê Robusta giao dịch tại thị trường London ngày đứng ở mức khoảng 1.457 USD/tấn. Giá cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ theo đó cũng giảm mạnh, biến động phức tạp giá trung bình năm này khoảng 1.490 USD/tấn. Năm 2010, giá cà phê xuất khẩu bình quân đạt 1.462 USD/tấn. Giá cà phê Việt Nam ngoài sức ép giảm giá trên thị trường Luân Đôn, còn chịu ảnh hưởng bởi Indonesia khi nước này đã bắt đầu thu hoạch niên vụ mới.Giá cà phê nhân xô thu mua ở thị trường nội địa nước ta từ đầu tuần tới nay dao động từ 24.000 – 24.500 đồng/kg, giảm so với 24.800 – 25.000 đồng/kg của tuần trước. Giá cà phê xuất khẩu, loại 2,5% đen và vỡ, tuần này còn trừ lùi 30 USD/tấn so với giá kỳ hạn tháng 7 tại Luân Đôn. Thậm chí, nhiều khách hàng còn trả giá trừ lùi 45 – 50 USD/tấn. Nhìn chung, trong những năm vừa qua khi đem cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ nhà sản xuất sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn bán trong nước. Tuy nhiên, giá cà phê Việt Nam khi chào bán sang thị trường Hoa Kỳ bao giờ cũng thấp hơn so với các nước khác. Nguyên nhân chủ yếu do chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu của thị trường Hoa Kỳ. Đây là một hạn chế lớn mà ta cần khắc phục để cà phê Việt Nam có thể cạnh tranh với các quốc gia khác. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ Các sản phẩm cạnh tranh Cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ chủ yếu là cà phê Robusta (chiếm hơn 80% tổng lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ), chính vì vậy cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ phải cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu khác vào Hoa Kỳ như Inđonesia, Ấn Độ, Cote Divoa…Theo đánh giá thì cà phê Robusta của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ có chất lượng không bằng với cà phê Robusta của Indonesia và một số nước khác. Vì vậy đây chính là các sản phẩm cạnh tranh chính của cà phê xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Ngoài ra cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ còn bị cạnh tranh bởi cà phê arabica vì người dân Hoa Kì có nhu cầu về cà phê arabica khoảng 70% vì vậy cà phê robusta sẽ bị cạnh tranh mạnh và gặp khó khăn trên thị trường Hoa Kỳ. Bên cạnh đó cà phê xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ còn bị cạnh tranh bởi các sản phẩm thay thế khác như chè, nước khoáng, hay các đồ uống khác. Đối thủ cạnh tranh Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Indonesia, Thái Lan, Ấn Độ, các nước Châu Phi, và phải kể đến các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê robusta của Braxin, Colombia, Mêhico, những doanh nghiệp có lợi thế rất lớn so với các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Đó là 1 cản trở rất lớn để cà phê Việt Nam xuất khẩu sâu hơn vào thị trường. Điều đó phải thôi thúc các doanh nghiệp xuất khẩu cần cải tạo các công trình tạo ra sản phẩm cà phê co chất lượng, giá cả phù hơp. Đánh giá về thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Mỹ Kết quả đã đạt được Trong những năm vừa qua, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Khối lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ có xu hướng tăng lên. Đặc biệt là kể từ khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, thì khối lượng cà phê xuất khẩu của chúng ta vào Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng và thị trường Hoa kỳ đã trở thành một thị trường xuất khẩu cà phê lớn của Việt Nam. Tuy thị trường cà phê thế giới có nhiều biến động phức tạp trong thời gian qua nhưng khối lượng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ vẫn giữ vững. Cơ cấu cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ cũng đã có những thay đổi tích cực, tỷ lệ cà phê chè có giá trị cao đã tăng qua từng năm trong tổng khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Bên cạnh đó cà phê thành phẩm trong cơ cấu xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ cũng đã tăng lên trong thời gian qua. Chất lượng cà phê xuất khẩu của cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ cũng đã được cải thiện và ngày một nâng cao. Cà phê Việt Nam được khách hàng Hoa Kỳ đánh giá là mùi thơm và dễ dàng chế biến cũng như sử dụng ngay.Giá cà phê xuất khẩu của chúng ta sang thị trường Hoa Kỳ rẻ, do đó sức cạnh tranh của cà phê xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ cao.. Đạt được những kết quả trên là do những nguyên nhân chính sau đây: Do chính sách mở cửa hội nhập kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước nên ngành thương mại của Việt Nam nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng có được môi trường hoạt động thuận lợi. Mở cửa thị trường Việt Nam có thể quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Việt Nam có điều kiện thiên nhiên, khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi với cây cà phê nên năng suất và sản lượng cà phê không ngừng tăng lên qua từng năm. Việt Nam là nước có năng suất cà phê cao nhất thế giới với 2 tấn/ha, với sự nỗ đầu tư của ngành và Chính phủ thì năng suất cà phê của chúng ta sẽ không ngừng tăng lên trong thời gian tới. Việc Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam vào năm 1994 và việc hai nước ký kết Hiệp định thương mại song phương vào tháng 7/2000 đã tạo điều kiện thuận lợi cho cà phê Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Một trong thị trường lớn nhất thế giới, nó tạo điều kiện giúp cho thương hiệu cà phê Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Hoa Kỳ là một thị trường lớn tiềm năng về cà phê, với nhu cầu tiêu dùng và chê biến cà phê lớn, thị phần cà phê của Hoa Kỳ chiếm 15 –20% thị phần cà phê thế giới. Do các doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động và nhạy bén trong việc tìm kiếm bạn hàng và cơ hội kinh doanh. Bên cạnh đấy Nhà nước ta cũng có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xuất khẩu cà phê sang Hoa Kỳ. Tạo thuận lợi nhiều mặt cho cac doanh nghiệp yên tâm xuất khẩu. Những tồn tại và nguyên nhân Tuy đã đạt được kết quả đáng khích lệ như đã nêu ở trên, xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ vẫn còn một số tồn tại yếu kếm như sau: Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê robusta lớn nhất thế giới và là quốc gia xuất khẩu cà phê nói chung lớn thứ hai thế giới sau Braxin nhưng thị phần cà phê của Việt Nam ở thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 15% còn nhỏ bé so với tiềm năng của cà phê Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam nói chung và sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng còn kém nên dễ bị các nhà nhập khẩu ép giá. Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam còn thấp và không ổn định. Cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chủ yếu là cà phê nhân và là loại cà phê Robusta có giá trị không cao, nên hiệu quả xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ là không cao. Điều này là do cà phê của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt bởi các nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới và có ưu thế về địa lý so với Việt Nam như Mêhico, Braxin, Colombia. Công nghệ chế biến cà phê của Việt Nam chủ yếu là bằng phương pháp thủ công lạc hậu và phân tán. Phương pháp chế biến chủ yếu của cà phê xuất khẩu Việt Nam là phương pháp khô có chất lượng không cao. Phương thức mua bán cà phê xuất khẩu ở Việt Nam còn quá phức tạp cho các nhà nhập khẩu cà phê trên thế giới nói chung và của Hoa Kỳ nói riêng so với việc họ mua trên các sàn giao dịch như London hay NewYork. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng nói riêng cũng như của ngành cà phê Việt Nam nói chung chưa có được một thương hiệu mạnh. Các dịch vụ xúc tiến xuất khẩu kém, chất lượng lại không cao, trong khi đây lại là một vũ khí cạnh tranh hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất khẩu CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ Dự báo về thị trường cà phê thế giới Theo báo cáo công bố tháng 6/2010 của Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ, thời gian gần đây do lượng cà phê tồn kho giảm nên giá cà phê trên thị trường thế giới có xu hướng tăng. Dự kiến sản lượng và tiêu thụ tăng sẽ làm cho thị trường cà phê niên vụ thu hoạch 2010/2011 sôi động hơn. Cà phê tồn kho của thế giới hiện có khoảng 31,3 triệu bao ( 60kg/bao), giảm 5,5 triệu bao so với năm trước, chủ yếu do giảm tồn kho tại Braxin. Hai nước sản xuất cà phê hàng đầu là Braxin và Việt Nam chỉ còn giữ 15% tổng lượng tồn kho, trong khi các nước tiêu thụ là Châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản chiếm tới 75% cà phê tồn kho. Gần đây tại Braxin và Việt Nam, chính phủ có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp mua trữ cà phê tồn kho, nhằm tăng lượng tổn kho tại các nước xuất khẩu và giảm tồn kho các nước nhập khẩu để nâng giá cà phê xuất khẩu. Các nước sản xuất chính: Tổng sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2010/2011 dự kiến đạt mức kỷ lục 139.7 triệu bao, tăng tới 14 triệu bao so với niên vụ trước, chủ yếu do sản lượng tăng mạnh tại Braxin. Riêng hai nước Braxin và Việt Nam sẽ chiếm 50% tổng sản lượng cà phê thế giới. Braxin: Nước này dự kiến sẽ tăng thêm 10,5 triệu bao và đạt sản lượng kỷ lục 55,3 triệu bao trong niên vụ thu hoạch 7/2010 – 6/2011. Riêng cà phê Arabica tăng 8,8 triệu bao đạt 41,8 triệu bao. Sản lượng cà phê Robusta của Braxin tăng thêm 1,7 triệu bao đạt 13,5 triệu bao. Những cơn mưa từ tháng 7-9/2009 đã tạo thuận lợi cho việc ra hoa, kết quả và chăm sóc tốt đã làm tăng sản lượng cà phê. Tuy nhiên nông dân chỉ thu hoạch một vụ, nên việc ra hoa và kết quản vào các thời điểm khác nhau có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng thu hoạch cà phê của Braxin. Việt Nam: Do trước đó đã có lượng mưa phù hợp tại các vùng trồng cà phê ở Tây Nguyên trong thời kỳ ra hoa niên vụ cà phê năm nay (10/2010- 9/2011) hứa hẹn có vụ thu hoạch tốt. Sản lượng cà phê dự kiến tăng 1,2 triệu bao, đạt 18,7 triệu bao đây là năm thứ 5 liên tiếp sản lượng cà phê được giữ ở mức 17,5 -19,5 triệu bao. Trước đây sản lượng cà phê tăng nhanh trong nhiều năm. Indonesia: Dự kiến tăng thêm 400.000 bao đạt sản lượng 9,6 triệu bao trong niên vụ cà phê từ tháng 4/2010 -3/2011, đưa nước này trở thành nước sản xuất cà phê lớn thứ ba sau Braxin và Việt Nam. Dự kiến sản lượng cà phê của Indonesia tiếp tục tăng trong các năm tới do mới đấy chính phủ thông báo đánh thuế với các sản phẩm coca, vì vậy nông dân chặt bỏ coca để chuyển sang trồng cây cà phê. Colombia: Niên vụ thu hoạch cà phê năm nay (10/2010- 9/2011), sản lượng cà phê của Colombia dự kiến tăng 800.000 bao, đạt 9 triệu bao. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, sản lượng vẫn thấp hơn mức trung bình của 5 năm qua là 11,8 triệu bao. Thời tiết nóng và khô trong suốt thời kỳ ra hoa và nông dân lo mất mùa nên không sử dụng đủ lượng phân hóa học để chăm sóc cây cà phê, khiến sản lượng giảm mạnh. Ấn Độ: Niên vụ thu hoạch từ tháng 10/2010 -9/2011, dự kiến sản cà phê Ấn Độ 4,6 triệu bao, giảm 225.000 bao so với niên vụ trước do nhiệt độ cao và ít mưa tại các vùng trồng cà phê. Mexico: Dự kiến đạt 4,6 triệu bao trong niên vụ thu hoạch cà phê 10/2010 -9/2011, tăng 200.000 bao so với niên vụ trước. Thời tiết thuận lợi và nhiều cây mới trồng bắt đầu cho thu hoạch là nguyên nhân tăng sản lượng. Trong những năm tới diện tích trồng cà phê sẽ tiếp tục tăng so với hiện nay. Tình hình tiêu thụ cà phê của thế giới. Dự kiến tổng tiêu thụ cà phê của thế giới đạt mức kỷ lục 131,5 triệu bao, tăng 2,8 triệu bao so với niên vụ trước, trong đó riêng Braxin và EU-27 chiếm khoảng một nửa số này. Trong nhiều năm qua, tiêu thụ cà phê ngay tại các nước sản xuất, nhất là tại Braxin và Việt Nam, đã tăng nhanh hơn các nước nhập khẩu chính là Hoa Kỳ và EU-27. Tại Braxin, hiệp hội cà phê nước này khuyến khích người dân uống cà phế thông qua những chương trình nâng cao chất lượng cà phê. Còn tại Việt Nam, ngày càng có nhiều quán cà phê được mở tại khắp các tỉnh thành làm tăng số lượng người chuyển từ uống trà sang uống cà phê. Dự kiến tiêu thụ cà phê tại một số khu vực trên thế giới: Tại Braxin tăng thêm 750.000 bao, đạt mức 19,5 triệu bao. Tại Việt Nam tăng thêm 140.000 bao, đạt mức 1,2 triệu bao. Tại 27 nước thuộc khối EU tăng thêm 650.000 bao, đạt mức 46,3 triệu bao. Tại Hoa Kỳ tăng thêm 400.000bao, đạt mức 23,7 triệu bao. Tại Nhật Bản tăng 125.000 bao, đạt mức 6,7 triệu bao. Tổng nhập khẩu cà phê của thế giới quy ra cà phê hạt tiêu niên vụ này dự kiến đạt 100,2 triệu bao, tăng 4,4 triệu bao so với niên vụ trước. Riêng cà phê hạt là 90,9 triệu bao; cà phê hòa tan là 9 triệu và cà phê rang xay là 0,3 triệu bao quy đổi. Dự kiến nhập khẩu cà phê tại một số thị trường chính: Tại EU-27 tăng 2,4 triệu bao, đạt mức 46,8 triệu bao. Tại Hoa Kỳ tăng 1,3 triệu bao, đạt mức 23,9 triệu bao. Tại Nhật Bản tăng 125.000 bao, đạt mức 6,8 triệu bao. Tại Liên Bang Nga tăng 250.000 bao, đạt 4,1 triệu bao (trong đó 60% là cà phê hòa tan quy đổi ra bao). Tổng xuất khẩu cà phê của thế giới quy ra cà phê hạt niên vụ năm nay dự kiến đạt 103,4 triệu bao, tăng 5,1 triệu bao so với niên vụ trước. Riêng cà phê hạt là 92,9 triệu bao; cà phê hòa tan là 10,3 triệu cà phê rang xay là 0,2 triệu bao quy đổi. Dự kiến Braxin xuất khẩu cà phê đạt 32 triệu bao, tăng 2,9 triệu bao chủ yếu do tăng nhập khẩu tại EU. Xuất khẩu cà phê hạt có thể đạt 28,6 triệu bao và cà phê hòa tan đạt 3,3 triệu bao quy đổi. Việt Nam dự kiến xuất khẩu 16,8 triệu bao, không thay đổi so với năm trước, trong đó chủ yếu là cà phê hạt chỉ có khoảng 100.000 bao là cà phê hòa tan quy đổi. Colombia dự kiến xuất khẩu của Colombia là 8,8 triệu bao, tăng 900.000 bao so với năm trước. Gần như toàn bộ sản lượng cà phê thu hoạch của Colombia dành cho xuất khẩu. Hiện tại, do nguồn cung khan hiến vào dịp gối vụ, số lượng hợp đồng kỳ hạn ký được trong tháng 7 giảm mạnh đã làm giá cà phê thế giới tăng từ giữa tháng 6/2010. Niên vụ 2009/2010, sau khi điều chỉnh các thống kê chính thức, thực tế cả thế giới sản xuất 125,7 triệu bao, tăng 400.000 triệu bao tăng 1,3 triệu bao và Colombia đạt 8,2 triệu bao, giảm 800.00. Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Giải pháp từ phía nhà nước Chính sách hỗ trợ tài chính đầu tư cho sản xuất, chế biến. Nhà nước cần có chính sách đầu tư xây dựng viện nghiên cứu giống cà phê, ngân hàng giống nhằm đảm bảo sản xuất được giống cà phê có chất lượng cũng như lựa chọn được giống cà phê thích hợp với từng vùng. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà phê. Xây dựng đường giao thông từ nơi sản xuất đến nơi chế biến cà phê để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển. Mặt khác cần xây dựng các chợ giao dịch cà phê để tạo điều kiện cho người sản xuất dễ tiêu thụ sản phẩm của mình, còn doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê thuận lợi cho việc thu mua cà phê chế biến xuất khẩu. Trước mắt Chính phủ cần thực hiện sớm các dự án về xây dựng chợ cà phê ở Đăk Lăk và trung tâm giao dịch cà phê tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ mối quan hệ Chính Phủ cần có các chính sách tìm kiếm các nguồn vốn ODA đầu tư cho sản xuất chế biến cà phê trong nước. Đồng thời cũng tìm kiếm các khoản vay ưu đãi cũng như các chương trình tài trợ từ các tổ chức tín dụng quốc tế như WB, ADB, hay IMF…Bởi vì hiện nay ngoài sự hỗ trợ của Quỹ phát triển Pháp cho dự án cà phê chè, sự hỗ trợ của WB cho nông sản Việt Nam trong đó cà phê chiếm tỷ lệ không lớn thì đến nay gần như rất ít có nguồn đầu tư hỗ trợ nào khác của các tổ chức quốc tế cho ngành cà phê Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện chính sách về chuyển giao công nghệ cho ngành cà phê, đặc biệt là với công nghệ chế biến. Như không đánh thuế đối với các doanh nghiệp khi họ nhập khẩu máy móc trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho chế biến cà phê xuất khẩu. Có chính sách chuyển giao những công nghệ tiên tiến và phù hợp với khả năng tài chính của chúng ta, nhưng tuyệt đối không cho nhập những công nghệ cũ lạc hậu vào. Cho phép ngành cà phê và Tổng công ty cà phê Việt Nam tiếp tục vay từ nguồn đầu tư phát triển Pháp để thực hiện giai đoạn 2 của dự án phát triển cà phê chè tại những địa phương đã thành công trong giai đoạn 1 như Nghệ An, Sơn La, Lâm Đồng. Có chính sách thu hút nguồn vốn FDI vào sản xuất chế biến cà phê, để có thể tiếp thu được công nghệ tiên tiến cũng như cách thức quản lý kinh doanh xuất khẩu cà phê của những tập đoàn kinh doanh cà phê hàng đầu thế giới. Tuy nhiên cũng cần đảm bảo tránh tình trạng biến ngành cà phê Việt Nam trở thành những người làm thuê cho các tập đoàn nước ngoài, trở thành những người cung cấp nguyên liệu thô cho những nhà đầu tư nước ngoài chế biến tại Việt Nam để xuất khẩu. Bởi vì họ có lợi thế hơn về nguồn lực tài chính, về thị trường và về kinh nghiệp kinh doanh cà phê. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường cà phê Hoa Kỳ. Nhà nước giúp đỡ các doanh nghiệp một phần kinh phí cho các đoàn doanh nghiệp đi sang nghiên cứu tìm hiểu thị trường Hoa Kỳ để tìm kiểm cơ hội đầu tư và ký kết các hợp đồng xuất khẩu cà phê cho các khách hàng Hoa Kỳ, đặc biệt là cho những nhà rang xay Hoa Kỳ. Giúp đỡ các doanh nghiệp thành lập văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ, bên cạnh đó thì Chính phủ đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng VICOFA thành lập văn phòng đại diện chung cho cà phê Việt Nam tại Hoa Kỳ. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tham gia các hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm cà phê của mình tại Hoa Kỳ. Thông qua tham tán thương mại và thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc quảng bá sản phẩm của mình tại thị trường Hoa Kỳ. Đồng thời cũng thông qua các cơ quan này cung cấp các thông tin về thị trường cà phê Hoa Kỳ một cách nhanh chóng và chính xác cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong nước. Trợ giúp cho các doanh nghiệp trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại với những đối tác phía Hoa Kỳ như việc hỗ trợ doanh nghiệp trong việc cung cấp các thông tin về hệ thống pháp lý, tư vấn việc thuê luật sư, cách thức và trình tự tranh tụng… Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu khác Chính phủ cần phải giữ nguyên mức hỗ trợ thông qua xuất khẩu cà phê như hiện nay, không nên nâng yêu cầu cao hơn. Bên cạnh đó cần có chính sách thưởng xứng đáng cho các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu mới và vào thị trường mới, đặc biệt là việc xuất khẩu cà phê thành phẩm. Chính phủ cần phải giải ngân sớm và nhanh chóng các dự án đã được phê duyệt như các dự án về xây dựng chợ cà phê, trung tâm giao dịch cà phê hay cá dự án về phát triển cà phê chè. Có chính sách hỗ trợ cho những người trồng cà phê chè về giống, kỹ thuật, vốn và tiêu thụ. Bởi vì trong những năm qua trồng thử thì cây cà phê chè rất khó trồng năng suất thấp hay bị mất mùa và sâu bệnh. Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm khi kinh doanh xuất khẩu cà phê, mà trước hết là Chính phủ cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia vào bảo hiểm bằng việc hỗ trợ một phần phí bảo hiểm, thông qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ và của Quỹ hỗ trợ phát triển. Sau đó khoản này sẽ được dỡ bỏ dần khi các doanh nghiệp lập được cho mình một qũy bảo hiểm. Có chính sách điều chỉnh hoàn thiện thị trường cà phê trong nước tránh tình trạng tranh mua tranh bán gây tổn thất và mất uy tín cho cà phê Việt Nam. Duy trì chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê thông qua tín dụng. Phối hợp với các Ngân hàng thương mại để cung cấp tín dụng cho người trồng cà phê, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thông qua việc giảm bớt các thủ tục vay vốn, các yêu cầu về tài sản thế chấp, cũng như các điều kiện khác. Cần phải nâng cao hơn nữa vai trò và hiệu quả hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển. Hàng năm Quỹ hỗ trợ phát triển cần dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê một khoản hỗ trợ nhất định trong Quỹ hỗ trợ xuất khẩu của mình. Trong cơ cấu hỗ trợ cho xuất khẩu thì mức hỗ trợ cho xuất khẩu cà phê cần được hỗ trợ khoảng 10%. Trong đó cần chia ra làm các loại hỗ trợ như thưởng xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu. Với tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thì Quỹ hỗ trợ nên hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong khâu mua dự trữ và cần kéo dài thời gian cho vay đối với những doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Ngoài ra với những khoản vay tín dụng mà quỹ hỗ trợ xuất khẩu dành cho các doanh nghiệp thì lãi suất phải nhỏ hơn lãi suất tín dụng xuất khẩu của các ngân hàng thương mại khoảng 50% hoặc thấp hơn nữa. Trong đó Quỹ nên dành một khoản hỗ trợ nhất định đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê vào thị trường Hoa Kỳ, nên dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê vào thị trường Hoa Kỳ khoảng 30% trong tổng số hỗ trợ cho việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam, đặc biệt là hỗ trợ cho xuất khẩu cà phê chè xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Một số kiến nghị khác. a. Phối hợp trong khâu quản lý tài chính xuất khẩu giữa trung ương và địa phương. Các địa phương phải cùng với Nhà nước trợ giúp cho các hộ trông cà phê và các doanh nghiệp chế biến kinh doanh cà phê trên địa bàn mình quản lý. Các địa phương cùng với Nhà nước quản lý chặt chẽ tài chính xuất khẩu của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước của Trung ương và địa phương. b. Kết hợp giữa hỗ trợ tài chính với hỗ trợ kỹ thuật Ngoài việc hỗ trợ về vốn cho người trồng cà phê ra thì Nhà nước nên hỗ trợ về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê, đặc biệt là cây cà phê chè cho họ. Việc hỗ trợ kỹ thuật này thông qua việc cử cán bộ kỹ thuật xuống tận cơ sở để hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc cà phê cho những hộ trồng cà phê. Kỹ thuật thu hoạch, phương pháp bảo quản, sơ chế nhằm hạn chế tổn thất trong khâu thu hoạch và sau thu hoạch. c. Chính sách hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành cà phê. Chính phủ cũng cần có các chính sách hỗ trợ trong việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực, bao gồm việc mở các khóa đạo tạo hướng dẫn cho những người nông dân trồng cà phê về kỹ thuật chăm sóc, thu hái và sơ chế, bảo quản cho đến việc giúp đỡ các doanh nghiệp đào tạo tay nghề cho các công nhân làm việc trong các nhà máy chê biến cà phê, đặc biệt là những nhà máy chế biến cà phê thành phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó Nhà nước cũng thông qua hệ thống các trường đại học trong cả nước hỗ trợ đạo tạo cán bộ cho các doanh nghiệp. Đó là thông qua trường Đại học Nông nghiệp để đào tạo kỹ sư về sản xuất cà phê, Đại học Bách khoa trong việc đào tạo các kỹ sư về cơ khí cho các nhà máy chế biến và thông qua các trường thuộc khối kinh tế để đào tạo đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu cà phê cũng như các cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Ngoài ra Nhà nước cũng cần có các khóa học về kinh doanh cà phê, quản trị rủi ro, tìm hiểu hệ thống phát lý và môi trường kinh doanh của các thị trường chính của cà phê Việt Nam trong đó có thị trường cà phê Hoa Kỳ cho các cán bộ của những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê. Hiệp hội và các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu cà phê Nâng cao vai trò của Vicofa để liên kết chặt chẽ hơn các doanh nghiệp kinh doanh cà phê của cả nước lại với nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho ngành cà phê Việt Nam, tránh tình trạng gây ra lộn xộn đối với thị trường trong nước và bị các nhà nhập khẩu nước ngoài ép giá. Đồng thời cũng cần kịp thời có những kiến nghị kịp thời với Chính phủ để điều chỉnh cũng như hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê khi thị trường cà phê thế giới có nhiều biến động, cũng như khi ngành cà phê Việt Nam gặp khó khăn. Tìm kiếm các nguồn tài trợ cho các doanh nghiệp thành viên, nên thành lập một quỹ của hiệp hội để hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi gặp khó khăn. Nguồn của quỹ là thông qua đóng góp của các thành viên hàng tháng hoặc hàng năm, theo tỷ lệ lợi nhuận mà họ đạt được hoặc theo doanh thu. Ngoài ra hiệp hội cũng cần phải tìm kiếm nguồn từ bên ngoài thông qua các tổ chức của các nước phát triển hoặc của Liên hợp quốc. Bên cạnh đó hiệp hội cũng có thể lấy nguồn này từ ngân sách Nhà nước hay qua việc bán thông tin cho các doanh nghiệp trong ngành (Với các doanh nghiệp thành viên thì cung cấp thông tin miễn phí). Ngoài việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp thành viên thì hiệp hội cũng cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đào tạo, quảng bá sản phẩm cũng như tư vấn hỗ trợ về kỹ thuật pháp lý cũng như thương mại xuất khẩu cho các doanh nghiệp khi kinh doanh xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Về phía VCCI cần tổ chức các chuyến đi cho các đoàn doanh nghiệp kinh doanh cà phê sang thị trường Hoa Kỳ đặc biệt là khi tháp tùng các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước đi thăm các nước. VCCI cũng cần hỗ trợ về tư vấn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê, cũng như các hỗ trợ khác như xúc tiến thương mại, triển lãm…mà VCCI tổ chức trong và ngoài nước. Với các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho xuất khẩu cà phê như vận chuyển, tư vấn, bảo hiểm, hải quan, kiểm định thì cần nâng cao chất lượng phục vụ. Tìm cách hạ thấp giá thành các sản phẩm dịch vụ của mình, đặc biệt là với dịch vụ vận chuyển và lưu cảng vì hiện chi phí cảng biển Việt Nam cao gấp 1,5 lần so với các cảng trong khu vực. Thủ tục hải quan cần giải quyết nhanh chóng hơn, đơn giản hơn, giảm phí bảo hiểm và giải quyết nhanh khi thanh toán các khoản bồi thường cho doanh nghiệp nếu có rủi ro xảy ra. Giải pháp từ phía doanh nghiệp Nghiên cứu tìm hiểu về thị trường Hoa Kỳ Muốn hàng Việt Nam thâm nhập sâu vào thị trường Hoa Kỳ, trước tiên doanh nghiệp Việt Nam phải hiểu rõ về những đối thủ cạnh tranh quan trọng của mình. Theo thống kê, đối thủ chính của Việt Nam trong ngành hàng cà phê hiện là Indonesia và Ấn Độ. Vì vậy cần phải tìm hiểu kĩ các đối thủ cạnh tranh để có khả năng cạnh tranh tốt nhất. Tập trung vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ thông qua việc cử các đoàn cán bộ sang Hoa Kỳ khảo sát nghiên cứu thị trường này. Đồng thời cũng nghiên cứu cách thức mua bán cà phê của thị trường Hoa Kỳ cũng như tìm hiểu về hệ thống luật pháp và các quy định liên quan đến buôn bán cà phê trên thị trường này. Cũng có thể thuê các công ty của Hoa Kỳ hay các công ty khác chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường để nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ. Về mối quan hệ với bạn hàng, hầu hết các doanh nghiệp công ty Hoa Kỳ không thích làm việc qua trung gian, coi trọng luật lệ và luôn đòi hỏi mọi việc phải được trả lời nhanh chóng, rõ ràng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hoa Kỳ thường có nhu cầu xuất nhập hàng hóa rất lớn. Đây mới chính là các đối tác chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam . Mặc dù tự do thương mại nhưng ở Hoa Kỳ hiện có rất nhiều luật lệ quy định về kỹ thuật và chất lượng, tạo thành các rào cản kỹ thuật đối với hàng hóa nước ngoài. Ngoài ra, hoạt động của hàng chục hiệp hội ngành hàng tại Hoa Kỳ như Hiệp hội cà phê, Hiệp hội các nhà nhập khẩu hàng dệt may, Hiệp hội giày dép, Hiệp hội chế biến kinh doanh hàng gia vị...là điều mà các doanh nghiệp Việt Nam nên biết đến. Việc tham gia vào hoạt động của các hiệp hội này có thể được xem như một trong những biện pháp thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ hiệu quả nhất. Thông qua hiệp hội, các công ty xuất khẩu Việt Nam có thể được tiếp xúc trực tiếp với các công ty thành viên qua mạng Internet, họp mặt, thư từ.... Và điều quan trọng là doanh nghiệp còn thường xuyên được cung cấp các số liệu về tình hình kinh doanh, xu hướng giá cả cũng như được giải đáp các vướng mắc về thủ tục kinh doanh. Hiện chi phí mà một công ty thành viên phải đóng hàng năm cho hiệp hội chỉ vào khoảng từ 700-800 USD. Đại sứ quán và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng là một địa chỉ mà các doanh nghiệp nên phối hợp chặt chẽ để có thể được cung cấp kịp thời những thông tin về thị trường, tránh các thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra về vật chất cũng như thời gian. Nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam Theo số liệu Bộ NN-PTNT, diện tích cà phê của Việt Nam đạt 525.000ha chủ yếu tập trung tại các tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng và Đắc Nông, với sản lượng đạt gần 1 triệu tấn/năm, giá trị xuất khẩu năm 2008 đạt trên 2 tỷ USD.Việt Nam đã xuất khẩu cà phê đến 88 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên sản xuất cà phê còn nhiều bất cập làm cho chất lượng còn kém, cạnh tranh với các nước trên thế giới còn nhiều khó khăn. Để lấy lại uy tín của cà phê Việt Nam trên thị trường xuất khẩu các doanh nghiệp cần đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho cà phê Việt Nam. Theo đó, các đơn vị sản xuất kinh doanh cà phê cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, quan tâm đầy đủ vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, mở rộng diện tích sản xuất cà phê theo chuẩn và quy tắc chung của cộng đồng cà phê quốc tế, thực hành nông nghiệp tốt (GAP), quản lý cây trồng tổng hợp (ICM), phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) và thực hành chế biến tốt(GMP). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần xây dựng chương trình thương hiệu cho cà phê Việt Nam theo các tiêu chí của chương trình thương hiệu quốc gia (Vietnam Value) đặt ra với các giá trị mang triết lý “chất lượng, đổi mới và sáng tạo, năng lực lãnh đạo” để quảng bá với thế giới. Cà phê Việt Nam ngoài tên thương hiệu còn cần có các thông số tiêu chuẩn phù hợp cho phép người tiêu dùng Hoa Kỳ và thế giới có thể truy xuất nguồn gốc sản phẩm… thông qua mạng Internet. Các doanh nghiệp cà phê Việt Nam cần tiếp cận và hợp tác với các nhà phân phối cà phê tại Hoa Kỳ để tăng cường quảng bá cà phê Việt Nam. Trong khuôn khổ các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam với các nhà nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ đầu tháng 6/2010 do Vicofa phối hợp với Trung tâm Xúc tiến thương mại Việt Nam tại New York tổ chức, ông Alan Kaiser, Giám đốc đối ngoại và truyền thông NCA cho biết, cà phê của Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Xúc tiến thương mại Song song với các giải pháp trên, cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở các thị trường truyền thống và khai thác mở rộng thị trường mới, về xúc tiến thương mại thì cần đầu tư thành lập văn phòng đại diện của mình tại Hoa Kỳ để tìm kiếm thông tin cũng như đưa cà phê của doanh nghiệp tới tay người tiêu dùng Hoa Kỳ. Tiến hành liên kết với các đối tác của Hoa Kỳ hoặc thuê các công ty quảng cáo Hoa Kỳ làm chương trình quảng cáo cho sản phẩm cũng như cho cả doanh nghiệp, cũng có thể thông qua đồng bào Việt Nam đang sinh sống tại Mỹ để quảng bá cho sản phẩm cà phê của mình tới người tiêu dùng Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp cần đầu tư để duy trì và cải tiến các trang Web của mình để thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm nguồn thông tin từ khách hàng cũng như cho việc giới thiệu sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp cho các khách hàng nước ngoài. Ngoài ra có thể bỏ tiền ra mua các thông tin, hoặc trở thành hội viên của các tổ chức cung cấp thông tin về thị trường cà phê Hoa Kỳ để có được thông tin một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Khi có nhu cầu xúc tiến thương mại với bạn hàng Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam nên triệt để tận dụng các tiện ích có được từ mạng Intemet nếu có ý định làm ăn lâu dài tại Hoa Kỳ. Cụ thể như gửi thư điện tử, khai thác kho dữ liệu khổng lồ về thông tin và tìm kiếm bạn hàng trên mạng. Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước còn có thể thu hút sự chú ý của các công ty tại đây bằng cách đưa ra những mẫu quảng cáo độc đáo trên trang chủ riêng của mình. Về lâu dài có thể hướng tới công tác chuẩn bị cho việc bán hàng qua mạng (e-commerce) một khi có đủ điều kiện về pháp lý và phương thức thanh toán. Một cách chào hàng tương đối hiệu quả khác là tham dự các cuộc hội chợ triển lãm, được tổ chức liên tục hàng ngàn cuộc mỗi năm trên khắp đất Hoa Kỳ. Tuy nhiên, muốn các chuyến đi mang lại kết quả như mong đợi thì doanh nghiệp hay các nhà tổ chức (thường là các trung tâm xúc tiến thương mại) nên có sự phối hợp chặt chẽ với một công ty tại Hoa Kỳ để gặp đối tượng và được hướng dẫn về đi lại. Hiện nay, chi phí thuê mặt bằng tại các cuộc hội chợ triển lãm ở Hoa Kỳ trung bình từ 2.000-3.000 USD cho một gian hàng chừng 10m2. Đó là chưa kể các khoản chi phí gửi hàng và cho nhân viên đi kèm. Đặc biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cần thống nhất hợp tác về phương thức thu mua cà phê trong nước và xuất khẩu, vừa để tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, vừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Thay đổi phương thức bán hàng trừ lùi (kỳ hạn), sang tập trung bán hàng theo phương thức giao ngay. Ngoài các biện pháp tiếp thị, bán hàng, doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư công nghệ và thiết bị mới và đảm bảo giao hàng đúng hạn nếu muốn làm ăn lâu dài tại thị trường Hoa Kỳ. Cần quan tâm đầu tư vào thiết bị máy móc hiện đại, một phần giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp đạt chất lượng hơn, một phần tiết kiệm được chi phí nhiên liệu so với máy móc cũ gây ra để từ đó làm giảm giá thành sản phẩm, qua đó nâng sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam so với hàng hóa của các nước khác vốn đã có mặt từ lâu tại thị trường Hoa Kỳ. Và cuối cùng là đừng quên Đại sứ quán và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng là một địa chỉ mà các doanh nghiệp nên phối hợp chặt chẽ để có thể được cung cấp kịp thời những thông tin về thị trường, tránh các thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra về vật chất cũng như thời gian. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Đầu tư vào nghiên cứu cải tạo giống cà phê để có được giống cà phê có năng suất cao, chất lượng tốt. Phát triển thêm cà phê chè, loại cà phê rất được người Mỹ ưa dùng. Tạo được nguồn vốn mạnh, các nguồn mà doanh nghiệp cần huy động cho vốn đầu tư này trước hết là nguồn vốn của chủ doanh nghiệp, vốn đi vay của các ngân hàng đầu tư, từ ngân sách Nhà nước (nếu là doanh nghiệp Nhà nước), các nguồn vốn góp, vốn liên doanh liên kết (kể cả liên doanh với nước ngoài và với các doanh nghiệp trong nước). Ngoài ra doanh nghiệp có thể huy động các nguồn vốn thông qua các tổ chức tín dụng khác, qua tín dụng của các đối tác, qua nguồn liên doanh liên kết và thậm chí là qua nguồn vốn của dân, thông qua việc cổ phần hóa để huy động vốn góp nhàn rỗi từ trong dân. Nâng cao năng lực quản lý của các thành phần trong doanh nghiệp, mở những lớp bồi dưỡng nhằm phát huy tư duy sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp, mời các chuyên gia về kinh tế truyền đạt những kinh nghiệm, từ đó rút ra những bài học bổ ích. Đoàn kết các doanh nghiệp trong nước bằng cách trao đổi những thông tin thu thập được từ nước ngoài, trao đổi công nghệ sản xuất. Tăng cường chế biến sản xuất cà phê tinh, hạn xuất khẩu cà phê thô do sản lượng xuất khẩu cà phê thô cao nhưng giá trị lại thấp, không tương xứng với vị thế hiện có của cà phê Việt Nam, bằng cách đầu tư kỹ thuật, nghiên cứu các sản phẩm. Có thể mời các chuyên gia nước ngoài nhiều kinh nghiệm chuyên về cà phê để chỉ đạo, hướng dẫn nhằm đa dạng hóa sản phẩm nâng cao chất lượng cho sản phẩm. Đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực trong doanh nghiệp, có chính sách thu hút những lao động có trình độ, hiểu biết về cà phê và về kinh doanh xuất khẩu cà phê. Đối với các cán bộ làm công tác kinh doanh xuất khẩu cà phê thì các doanh nghiệp cũng tiến hành công tác đào tạo thông qua các hình thức như tự đào tạo, đào tạo tại chỗ, liên kết với các trường đại học trong nước hoặc là cử đi đào tạo ở nước ngoài. Thậm chí có thể thuê chuyên gia nước ngoài về đào tạo. Với cán bộ làm công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh mua bán cà phê thì cần cử ra nước ngoài đào tạo và học hỏi kinh nghiệm. KIẾN NGHỊ Nhà nước và các đối tượng có liên quan cần coi cà phê là cây trồng mũi nhọn, có nhiều tiềm năng khai thác và cần xác định rõ đây là một mặt hàng chủ lực trong chiến lược phát triển nông nghiệp - cây công nghiệp - nông sản xuất khẩu để có chính sách đầu tư phát triển hợp lý. Nhà nước cần có chính sách bảo hộ cho người sản xuất cà phê để họ có điều kiện duy trì phát triển và thâm canh năng suất cây trồng khi mức giá cà phê xuống ngang bằng hoặc thấp hơn giá thành sản xuất. Chính phủ nên có những biện pháp xúc tiến thương mại, thành lập các cơ quan về ngành hàng cà phê để có thể nghiên cứu hướng đi cho ngành, nghiên cứu khoa học kỹ thuật áp dụng cho trồng trọt và sản xuất cà phê mang lại năng suất cao. Tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm cà phê, không nên để tình trạng quá nhiều đơn vị kiểm tra chất lượng cà phê xuất khẩu như hiện tại mà thiếu kinh nghiệm và nghiệp vụ cà phê. Hiệp hội cà phê nên có nhiều hoạt động tích cực hơn nữa để có thể giúp đỡ các doanh nghiệp, người trồng cà phê có thể cải thiện chất lượng cà phê, giúp các doanh nghiệp xúc tiến thương mại song phương, hướng dãn những thủ tục hành chính khi xuất khẩu. Ngành cà phê cần đa dạng hoá sản phẩm cà phê xuất khẩu, nhất là cà phê chế biến dạng thành phẩm, đồng thời phải nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thế giới. Có chiến lược thị trường cụ thể, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ thị trường và cần có chiến dịch tuyên truyền quảng cáo trên thị trường quốc tế, mở rộng khả năng tiếp thị, xây dựng những bạn hàng lớn ổn định lâu dài đồng thời tranh thủ thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho thâm canh và mở rộng sản xuất cà phê nhất là trong khâu chế biến đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Xây dựng và củng cố hệ thống thông tin trong toàn ngành cà phê, thường xuyên liên tục để nắm bắt và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác, thống nhất trong công tác kinh doanh xuất nhập khẩu, tranh thủ thời cơ thuận lợi trong kinh. Cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động của các doanh nghiệp cà phê và nhất là đội ngũ làm công tác xuất nhập khẩu có đủ điều kiện, năng lực trong hoạt động tiếp thị và kinh doanh cà phê. Người trồng cà phê nên hợp tác với nhau để xây dựng hợp tác xã hay các trang trại có quy mô lớn để có thể tận dụng nguồn lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm….của từng thành viên để sản xuất đồng bộ, đầu tư những công nghệ mới cho đơn vị mình để có thể nâng cao năng suất và chất lượng cà phê. KẾT LUẬN Trong quá trình hội nhập hiện nay, ngành cà phê là một trong những ngành giữ vai trò chủ lực của nước ta, luôn là một trong những ngành hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao. Vì thế có thể coi đây là ngành hàng mũi nhọn cần tập trung phát triển xuất khẩu trong thời gian tới. Đặc biệt, ở thị trường Hoa Kỳ một thị trường trọng yếu nhưng chưa được các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam khai thác hết. Lượng cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ vẫn còn thấp, lượng ngoại tệ thu về chưa tương xứng. Nguyên nhân là do Việt Nam không chỉ phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh bên ngoài mà bản thân ngành cà phê nước ta còn nhiều hạn chế về: chất lượng, chủng loại... nên cần có những giải pháp đồng bộ liên quan đến các khâu sản xuất, kiểm tra chất lượng, củng cố và phát huy hiệu quả các trung tâm giao dịch… để khắc phục những hạn chế, khó khăn và đẩy mạnh xuất khẩu cà phê trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Võ Thu Thanh, Nguyễn Cương, Nguyễn Thị My – Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ về hàng may mặc, thủy sản, nông sản - NXB thống kê, 2001. Nguyễn Ngọc Bích – Buôn bán với Mỹ - NXB TP HCM, 2000. Cục xúc tiến thương mại – Dự báo thị trường hàng nông sản thế giới. Lê Văn Ái, Lê Văn Hoan, Ngô Văn Khoa, Trần Tiến Dũng - Một số vấn đề về thị trường nông sản hàng hóa và vai trò của chính sách tài chính đối với việc mở rộng thị trường nông sản, thực trạng và giải pháp tiêu thụ nông sản – NXB tài chính 2003. Website Tổng cục thống kê Việt Nam, 2008 www.gso.gov.vn Website Hiệp hội cà phê-ca cao Việt Nam(VICOFA), 2008 www.vicofa.org.vn Website Viện chính sách và chiến lược PT – NNNT Website Cà phê Trung Nguyên www.trungnguyen.com.vn Tổng cục hải quan Tailieu.vn Vinacafe DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU Bảng 1.1. Kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Hoa Kỳ những năm vừa qua 23 Bảng 2.1: Diện tích trồng cà phê 27 Bảng 2.2: Thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2009 29 Bảng 2.3 : Tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam thời kì 2006- 2010 30 Bảng 2.4: Dự báo khối lượng và giá trị cà phê xuất khẩu năm 2011 36 Bảng 2.5: Cơ cấu sản phẩm cà phê của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ 46 Bảng 2.6: Chất lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam 48

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian 2007 đến nay.doc
Luận văn liên quan