Đề tài Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn 20 năm đổi mới, cải cách, mở cửa phát triển nền kinh tế theo cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong đời sống kinh tế - xã hội. Trước xu thế hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới, dệt may Việt Nam càng đứng trước nhiều cơ hội và thách thức lớn. Với những quy định của Hiệp định Thương mại về hàng dệt và may mặc đối với các thành viên của WTO và những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đối với ngành dệt may có tác động trực tiếp tới ngành dệt may Việt Nam. Ngành dệt may đang đứng trước vận hội mới, thâm nhập và phát triển thị trường mới, giữ vững thị trường truyền thống là vấn đề được đặt ra hiện nay. EU là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới đồng thời cũng là bạn hàng truyền thống của dệt may xuất khẩu Việt Nam. Nhưng trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển ngành dệt may của Việt Nam cũng như nhu cầu tiêu thụ của EU. Chính vì vậy, vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong thời gian tới là hết sức thiết thực. Xuất phát từ lý do đó, em xin chọn đề tài “Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề thực tập. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY[/B] 1.1. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam 1.1.1. Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 1.1.2. Các sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam 1.1.4. Nguồn nhân lực trong ngành dệt may 1.1.5. Phân tích SWOT đối với ngành dệt may Việt Nam 1.2. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam trong thời gian qua 1.2.1. Thực trạng sản xuất hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009 Tình hình về ngành dệt may Việt Nam hiện nay 1.2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009 1.2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1.2.2.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của dệt may Việt Nam 1.2.2.3. Hình thức xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1.2.2.4. Thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam 1.2.3. Đánh giá khái quát về tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 – 2009 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU 2.1.1. Một số đặc điểm về thị trường hàng dệt may EU 2.1.1.1. Dung lượng thị trường 2.1.1.2. Tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng hàng dệt may EU 2.1.1.3. Kênh phân phối 2.1.1.4. Những quy định của EU đối với hàng dệt may nhập khẩu 2.1.2. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 2.1.2.1. Vị trí của xuất khẩu hàng dệt may trong nền kinh tế Việt Nam 2.1.2.2. Một số thoả thuận giữa Việt Nam và EU về hàng dệt may 2.1.2.3. EU là “thị trường vàng” cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 2.2. Thực trạng xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua 2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu 2.2.2. Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU 2.2.3. Cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam trong EU 2.3. Một số đánh giá về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời gian qua 2.3.1. Thành công đạt được 2.3.2. Một số tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời gian qua 2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 3.1.1. Mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 3.1.2. Phương hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 3.2. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 3.2.1. Dự báo thị trường dệt may EU đến năm 2020 3.2.2. Những cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU 3.2.2.1. Những cơ hội 3.2.2.2. Thách thức 3.3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới 3.3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 3.3.1.1. Nâng cao vai trò của Cục xúc tiến Thương mại Việt Nam 3.3.1.2. Hoàn thiện chính sách tín dụng cho ngành dệt may 3.3.1.3. Hoàn thiện chính sách về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành dệt may 3.3.1.4. Hoàn thiện công tác quản lý hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đối với hàng dệt may 3.3.1.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hải quan 3.3.1.6. Các giải pháp khác 3.3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.3.2.1. Nghiên cứu đánh giá thực trạng thị trường hàng dệt may EU 3.3.2.2. Doanh nghiệp cần lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh phân phối của thị trường EU 3.3.2.3. Giải pháp về nâng cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của doanh nghiệp 3.3.2.4. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh đổi mới mẫu mã, đa dạng hoá hàng dệt may xuất khẩu 3.3.2.5. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường EU 3.3.2.6. Liên kết các doanh nghiệp trong nước trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang EU KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc61 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4751 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p dệt may đóng vai trò tích cực trong việc tạo vốn tích luỹ cho quá trình công nghiệp hoá, đây là ngành không đòi hỏi lượng vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn nhanh. - Công nghiệp dệt may là ngành thu hút nhiều lao động, không chỉ tạo việc làm cho những công nhân trực tiếp trong ngành mà còn tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động của những ngành phụ trợ, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp trong nền kinh tế. - Ngành công nghiệp dệt may phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác như ngành cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt may, ngành nông nghiệp trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm… - Xuất khẩu dệt may tạo nguồn thu ngoại tế phục vụ nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. 2.1.2.2. Một số thoả thuận giữa Việt Nam và EU về hàng dệt may Chính sách của EU đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU dựa trên cơ sở các Hiệp định về dệt may và Hiệp định hợp tác được ký kết giữa Việt Nam và EU. Những chính sách này được điều chỉnh thay đổi phụ thuộc vào từng thời kỳ, theo mức độ phát triển kinh tế của hai bên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU. - Ngày 18/12/1992 Việt Nam và EU đã ký Hiệp định về các sản phẩm dệt may, tạo hành lang pháp lý đầu tiên cho việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU. Theo đó các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang EU được chia làm 2 loại, mặt hàng xuất khẩu theo hạn ngạch và mặt hàng tự do xuất khẩu. Doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu sang EU 151 chủng loại hàng trong đó có 46 loại xuất khẩu tự do vào EU và 105 loại xuất khẩu theo hạn ngạch. - Tháng 8/1995 Việt Nam và EU đã ký kết sửa đổi Hiệp định dệt may. Trong lần sửa đổi này, EU đã đồng ý tăng hạn ngạch hàng dệt may Việt Nam từ 20-23%, đồng thời giảm số chủng loại hàng chịu hạn ngạch từ 105 xuống còn 54 mặt hàng. Hiệp định lần này giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng hạn ngạch, tăng KNXK hàng dệt may vào thị trường EU, góp phần đưa ngành dêt may Việt Nam trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, biến thị trường EU thành thị trường trọng điểm của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. - Ngày 7/11/1997 Hiệp định hàng dệt may Việt Nam – EU một lần nữa được ký lại. EU đồng ý tăng 40% khối lượng hạn ngạch so với Hiệp định lần trước và cho phép Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc, nhiều mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào EU hưởng thuế suất 0%. - Ngày 3/11/2004 Việt Nam – EU đã ký tắt thoả thuận hạn nghạch dệt may, từ ngày 1/1/2005 EU đã dỡ bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU không bị hạn chế về số lượng. Đây là một thoả thuận có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. - Đặc biệt là kể từ 11/01/2007 Việt Nam chính thức tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, khung pháp lý về thị trường thương mại dịch vụ giữa Việt Nam – EU đã được mở hoàn toàn. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi hơn trong việc tham gia các thị trường trên thế giới. 2.1.2.3. EU là “thị trường vàng” cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam EU là khu vực đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may, chiếm 46% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hằng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại đem đến cơ hội tuyệt vời cho các nước xuất khẩu hàng dệt may trong đó có Việt Nam. Năm 2005 sau khi hạn ngạch được dỡ bỏ giữa các nước thành viên WTO nhập khẩu hàng dệt may của EU tăng mạnh, tăng 21,5% so với năm 2004. Sang năm 2006, EU nhập khẩu 165.549 triệu USD hàng dệt may tăng 12% so với năm 2005. Theo thống kê của cơ quan thống kê EU (EUROSTAT), thị phần dệt may của EU trên thế giới là khoảng 26% với kim ngạch xuất khẩu hằng năm lên tới 60 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Trung Quốc. Các nước trong EU xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm da cao cấp, quần áo thời trang, dạ hội, áo lông thú. Như vậy các nước EU chỉ quan tâm tới những sản phẩm may mặc cao cấp mà vẫn bỏ ngỏ thị trường sản phẩm may mặc đại trà phục vụ cho nhu cầu ăn mặc thông thường, trong khi đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng được khoảng trống này. Thị trường EU tạo điều kiện để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường khác. EU không chỉ được biết đến là nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới mà còn là một trong những nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. EU nhập khẩu hàng dệt may từ các quốc gia đang phát triển như Việt Nam dưới hình thức gia công hoặc đặt hàng trực tiếp sau đó đưa vào kênh bán lẻ trên khắp châu Âu, bán trực tiếp sang các thị trường khác dưới những thương hiệu của nhà bán lẻ. Như vâỵ, thị trường EU chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị buôn bán hàng dệt may của thế giới, là một trong những thị trường xuất khẩu và tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới. Trên cơ sở quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và EU về dệt may, với vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang một thị trường tiềm năng như EU là thiết thực và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. 2.2. Thực trạng xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua Sau khi Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết năm 1995, quan hệ giữa hai bên có nhiều bước phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương. KNXK của Việt Nam sang EU không ngừng tăng lên, dệt may là ngành tiên phong tìm chỗ đứng trên thị trường EU. Tuy nhiên EU là thị trường rất khó tính, nhiều rào cản thuế quan và phi thuế quan được áp dụng nên hàng dệt may Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn va thách thức. Tuy vậy, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU cũng đã đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua. 2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu EU là thị trường nhập khẩu dệt may lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Các thành viên EU: Đức, Pháp, Anh, Hà Lan… là các bạn hàng truyền thống của dệt may Việt Nam từ những năm 1980, nhưng với số lượng không lớn. Từ sau khi Hiệp định dệt may Việt Nam – EU được ký kết thì KNXK dệt may Việt Nam sang EU có sự tăng đột phá, trong vòng 4 năm KNXK tăng 201 triệu USD, với tốc độ bình quân là 13,2%/năm. Bảng 2.1: KNXK dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua Đơn vị: triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 KNXK 610 591 546 600 660 841 1243 1459 1704 1644 % tăng 9,75 -3,21 -7,61 9,89 10.0 27,42 47,8 17,37 16,79 -3,5 Nguồn: Niên giám thống kê Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy năm 2001 và 2002 là hai năm đáng buồn của xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU, KNXK giảm 64 triệu USD so với năm 2000. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, các doanh nghiệp dệt may đã quá tập trung vào thị trường Mỹ mà bỏ quên thị trường EU. Năm 2003, thời gian tự do xuất khẩu sang Mỹ đã hết và với việc EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam nên KNXK dệt may sang EU đã tăng trở lại, đạt 600 triệu USD, tăng 9,89% so với năm 2002. KNXK dệt may của nước ta sang EU tiệp tục tăng trong những năm gần đây, năm 2004 đạt 660 triệu USD, năm 2005 đạt 841 triệu USD, đến năm 2006 KNXK đạt 1243 triệu USD - đánh dấu một mốc lịch sử lần đầu tiên KNXK dệt may Việt Nam sang EU đạt trên 1 tỷ USD, với tốc độ tăng là 47,8% so với năm 2005. Đến năm 2007, 2008 tốc độ tăng vẫn cao nhưng có phần bị chững lại. Năm 2009, tốc độ tăng đã giảm 3,5%. Mặc dù KNXK dệt may nói chung có tăng nhưng do nhu cầu tiêu dùng tại các nước EU đã sụt giảm nghiêm trọng dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 nên KNXK dệt may sang EU đã giảm 3,5% so với năm 2008. Hình 2.1: KNXK dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua Đơn vị: triệu USD Nguồn: Niên giám thống kê Về tỷ trọng, mặc dù thị trường EU từ vị trí số 1 đã tụt xuống vị trí thứ 2 trong KNXK dệt may của Việt Nam, nhưng trong thời gian tới EU vẫn được xác định là thị trường mục tiêu của dệt may Việt Nam, một thị trường đầy tiềm năng, chỉ tiêu đặt ra trong năm 2010 này là KNXK đạt 2,2 tỷ USD. Do đó, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tăng KNXK sang EU nhiều hơn. 2.2.2. Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU Có thể nhận thấy rằng dệt may Việt Nam đang trong tình trạng thiếu trầm trọng đội ngũ thiết kế giỏi, do đó những mặt hàng xuất khẩu của chúng ta thường đơn giản về mẫu mã, chủng loại và màu sắc. Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp dệt may đã nỗ lực nhiều trong khâu thiết kế và đa dạng hoá sản phẩm nhưng do một số điều kiện có hạn nên sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung và sang EU nói riêng vẫn chỉ là những sản phẩm truyền thống như: áo sơ mi, áo khoác, quần âu, áo jacket… Các sản phẩm quần âu, áo sơ mi, áo jacket chiếm phần lớn trong KNXK của nước ta. Các sản phẩm này là các sản phẩm truyền thống của ta, là những sản phẩm dễ làm, không có độ phức tạp cao. Giai đoạn 2002-2004 là giai đoạn xuất khẩu dệt may sang EU tăng cao, một phần là do EU tăng hạn ngạch dệt may sau khi ký Hiệp định khung về quan hệ Việt Nam – EU. Đến năm 2006, các mặt hàng có KNXK cao và tăng mạnh là: áo jacket, áo sơ mi, quần âu, áo khoác… bên cạnh đó lại giảm xuất ở các mặt hàng như: áo len, đồ lót, khăn, càvạt… Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong năm 2008 các chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là: áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần short… và giảm xuất ở một số mặt hàng như: áo len, đồ lót, khăn, quần jacket… Xét về trị giá, mặt hàng quần là chủng loại mặt hàng có KNXK tăng cao nhất, tăng tới 81 triệu USD so với năm 2007, đạt 205 triệu USD. Đứng thứ hai là mặt hàng áo jacket với mức tăng 63 triệu USD. Tuy nhiên xét theo tổng KNXK thì áo jacket là mặt hàng có KNXK cao nhất, đạt 246 triệu USD. Năm 2009 là năm kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU giảm đáng kể do nhu cầu tiêu dùng tại các nước EU đã sụt giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân là do suy thoái kinh tế toàn cầu khiến người tiêu dùng EU phải thắt chặt chi tiêu. Hy vọng trong những năm tới KNXK dệt may sang thị trường EU sẽ tiếp tục lấy lại đươc đà tăng trưởng. Trong những năm tới việc đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm và sự quan tâm nhiều hơn của chính phủ, các bộ ban ngành liên quan đến ngành dệt may sẽ có những chiến lược phát triển ngành dệt may phù hợp hơn, có những chính sách hỗ trợ đào tạo cán bộ cũng như công nhân có trình độ cao đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khoa học công nghệ. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang EU sẽ đa dạng hơn về mẫu mã và chất lượng, ngày càng có nhiều những sản phẩm có tính phức tạp được sản xuất và xuất khẩu. 2.2.3. Cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam trong EU Cơ cấu thị trường trong EU có sự phân tách khá rõ ràng, trong các nước thành viên của EU một số quốc gia nhập khẩu chính hàng dệt may Việt Nam là Đức, Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia chiếm tới 80-90% KNXK hàng dệt may của Việt Nam. Các nước còn lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Từ trước đến nay Đức vẫn là thị trường truyền thống số một của dệt may Việt Nam trong số các nước thành viên EU. Đức luôn đứng đầu về KNXK hàng dệt may của Việt Nam. Năm 2003, KNXK dệt may của Đức từ Việt Nam là 184,5 triệu USD tăng lên đến năm 2009 đạt 395,5 triệu USD chiếm 23,32% thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang EU, chiếm 4,34% tổng KNXK dệt may của EU. Trước năm 2002 thì Pháp luôn là thị trường nhập khẩu dệt may lớn thứ hai trong EU của Việt Nam. Tuy nhiên từ sau 2002, Anh đã vượt qua Pháp để trở thành nước nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam trong khối EU với KNXK năm 2003 là 74,4 triệu USD tăng lên 316,5 triệu USD năm 2008, từ chỗ chiếm 12,3% năm 2003 tăng lên 18,5% năm 2009 tỷ trọng nhập khẩu dệt may của Việt Nam trong các nước thành viên EU. Hình 2.2: Tỷ trọng thị trường nhập khẩu dệt may Việt Nam trong các nước EU năm 2009 Đơn vị tính: % Nguồn: Niên giám Thống kê và Bộ Công thương Năm 2003, Tây Ban Nha nhập khẩu dệt may của Việt Nam 41,3 triệu USD đến năm 2004 thì đây là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 66,5 triệu USD tăng 61% so với năm 2003. Từ chỗ chỉ đứng thứ tư trong số các thị trường nhập khẩu của Việt Nam trong khối EU thì đến năm 2008 Tây Ban Nha đã vươn lên chiếm 13% thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 222,86 triệu USD. Pháp là bạn hàng lâu năm của Việt Nam, vài năm trở lại đây thì mức nhập khẩu đã sụt giảm đáng kể, từ chỗ đứng thứ hai trong số các nước EU nhập khẩu dệt may Việt Nam thì đến năm 2009 đã tụt xuống đứng thứ năm sau Hà Lan, đạt 150,33 triệu USD, do mức tiêu dùng của người dân Pháp đối với hàng dệt may Việt Nam giảm mạnh; họ chuyển sang dùng những mặt hàng dệt may cao cấp của các nước xuất khẩu khác. Nhìn chung, tốc độ tăng KNXK hàng dệt may Việt Nam sang các nước thành viên EU tăng khá mạnh. Dự đoán xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU trong những năm tới sẽ có nhiều kết quả lạc quan hơn. 2.3. Một số đánh giá về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời gian qua Qua những phân tích về thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong thời gian qua, có thể rút ra những thành công và những hạn chế tồn tại như sau: 2.3.1. Thành công đạt được: Thứ nhất: KNXK hàng dệt may của Việt Nam sang EU tăng với tốc độ bình quân khá cao. Theo số liệu bảng 2.1, giai đoạn từ 2000-2009 KNXK dệt may Việt Nam sang EU tăng bình quân khoảng 13,8%/năm, giai đoạn 2001-2002 có sự sụt giảm về KNXK sang EU do nguyên nhân chủ yếu là thời kỳ này Hiệp định BTA với Mỹ có hiệu lực nên các doanh nghiệp đã quá tập trung vào thị trường Hoa Kỳ mà lơ là thị trường EU. Nhưng ngay sau đó thì tốc độ tăng trưởng lại được phục hồi. Năm 2006, KNXK đạt 1243 triệu USD tăng 47,6% so với năm 2005, đây là mức tăng kỷ lục từ trước đến nay. Đến năm 2009, KNXK dệt may sang EU cũng tăng cao đạt 2,1 tỷ USD tăng 19,19% so với năm 2007. Dự tính trong năm 2010 này sẽ đạt được khoảng 2,2 tỷ USD. Thứ hai: Năng lực xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU trong những năm gần đây dần được nâng cao. Sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam đang dần được cải thiện, tạo được sự tin cậy của các nhà nhập khẩu trên thị trường EU. Các doanh nghiệp trong nước đã có nhiều biện pháp để đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu nâng cao chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm. Nhiều công nghệ mới đã được các doanh nghiệp sử dụng, nhờ đó năng suất lao động cũng tăng lên, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ngày càng được cải thiện, năng lực quản lý của cán bộ được nâng cao. Khoảng cách về giá cả trong nước với các đối thủ cạnh tranh đang dần được thu hẹp. Ngoài các sản phẩm truyền thống như: áo jacket, áo sơ mi, quần âu…thì cho đến nay đã xuất khẩu các sản phẩm chất lượng cao như: comple,veston, quàn jean…cùng với rất nhiều thương hiệu thời trang nổi tiếng như: lụa Thái Tuấn, vải Thành Công… Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang EU góp phần ổn định và phát triển sản xuất. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may đã giải quyết hàng nghìn việc làm cho công nhân và có đóng góp to lớn trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU chiếm một tỷ trọng khá lớn trong KNXK hàng dệt may của Việt Nam, do đó nó có vai trò hết sức quan trọng đối với việc ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước. Thứ tư: Xuất khẩu dệt may sang thị trường EU ngày càng củng cố thị trường truyền thống và mở rộng thêm các thị trường mới. Xuất khẩu dệt may sang thị trường EU ngày càng chiếm tỷ trọng khá cao. Năm 2009 KNXK đạt 2101 triệu USD chiếm 21% tổng KNXK dệt may trong cả nước. Bên cạnh những thành công có thể nói là khá tiêu biểu trên trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang EU trong thời gian vừa qua thì cũng không thể không kể đến những mặt còn hạn chế của dệt may Việt Nam. 2.3.2. Một số tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời gian qua Thứ nhất: Quy mô xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU còn quá nhỏ so với tiềm năng kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của thị trường EU. Với những lợi thế trong ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, hàng dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể cạnh tranh với hàng hoá của Trung Quốc hay Thái Lan. Nhưng trên thực tế, hiện tại dệt may Việt Nam vẫn hoàn toàn dưới cơ các đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Bên cạnh đó, quy mô của ngành còn chưa thực sự tương xứng với những gì mà chúng ta có. Hàng dệt may Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của EU. Đây là một điều đáng tiếc của dệt may Việt Nam khi mà nhu cầu của EU rất lớn nhưng hàng của Việt Nam chưa thể thâm nhập được nhiều. Thứ hai: Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu sang EU chưa phong phú, chất lượng chưa đồng đều. Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sang EU những mặt hàng chất lượng trung bình, phục vụ tầng lớp khách hàng trung lưu và thấp hơn. Đối với những mặt hàng cao cấp mang tính xa xỉ, chúng ta chưa đáp ứng được với thị trường EU. Chúng ta còn thiếu nhiều nhà sáng tạo, thiết kế mẫu mã mang tính độc đáo, riêng biệt. Các mặt hàng xuất khẩu vào EU mới chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm, đòi hỏi kỹ thuật không cao, còn các mặt hàng có giá trị và đòi hỏi kỹ thuật phức tạp thì mới chỉ có một số ít doanh nghiệp có khả năng sản xuất được. Thứ ba: Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam tuy đã được nâng cao hơn trước nhưng vẫn còn thấp. Về chất lượng: Người tiêu dùng EU đáng giá hàng hoá qua hệ thống tiêu chuẩn quốc tế như: ISO 9000, ISO 14000, SA 8000…. Hiện nay ngành dệt may Việt Nam chỉ có gần 100 doanh nghiệp đạt được chứng chỉ ISO 9000, khoảng 30 doanh nghiệp có chứng chỉ SA 8000, 10 doanh nghiệp có chứng chỉ ISO 14000. Đây là các con số quá khiêm tốn. Về thương hiệu sản phẩm: Việt Nam chưa có những thương hiệu nổi tiếng. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu mới làm gia công cho nhà nhập khẩu EU, hàng làm xong rồi được xuất khẩu dưới các thương hiệu nổi tiếng khác. Do vậy, người tiêu dùng EU không biết đó là những sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Về giá cả: Hàng dệt may Việt Nam vẫn còn có giá khá cao so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU. Thứ tư: Hình thức xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sang thị trường EU còn quá đơn giản. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU chủ yếu qua 2 hình thức xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu qua trung gian (trong đó gia công xuất khẩu và xuất khẩu qua trung gian chiếm khoảng 79% giá trị xuất khẩu). Các doanh nghiệp chưa có sự liên kết hợp tác kinh doanh, do đó doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU. 2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại * Nguyên nhân từ phía Nhà nước: - Chính phủ và các Bộ ngành liên quan vẫn chưa có những chính sách hợp lý đối với ngành sản xuất dệt may xuất khẩu như: chính sách đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may, chính sách phát triển vùng nguyên liệu phục vụ ngành dệt may… - Khâu sản xuất phụ liệu vẫn chưa được chú trọng phát triển, chỉ có rất ít cơ sở sản xuất với số lượng nhỏ. - Vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp dệt may trong hoạt động xuất khẩu chưa phát huy hiệu quả. Cục Xúc tiến thương mại và các tham tán thương mại tại EU còn chậm trong việc phản hồi thông tin trị trường tới các doanh nghiêp. - Pháp luật, chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước vẫn chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ. Cơ chế nhiều cửa đã ảnh hưởng nhiều tới môi trường đầu tư, thủ tục hải quan đối với xuất nhập khẩu hàng hoá còn quá phức tạp. * Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: - Doanh nghiệp chưa có khả năng đổi mới công nghệ, công nghệ còn quá lạc hậu, các thiết bị máy móc chủ yếu là các máy móc “truyền thống”. - Doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức cho đội ngũ thiết kế mẫu mã sản phẩm, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều thiếu và yếu trong khâu này, dẫn đến các sản phẩm của ta chưa đáp ứng kịp thời thị hiếu thay đổi của thị trường EU. - Các doanh nghiệp chưa chú trọng đến xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm của mình. - Công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp còn chưa hiệu quả, chưa cập nhật được những quy định, chính sách ở thị trường EU. - Chất lượng lao động chưa cao, năng suất lao động còn thấp. Công tác quản lý kỹ thuật của ngành còn thấp ảnh hưởng tới năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 3.1.1. Mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 Dệt may là một mặt hàng chiến lược có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Những mục tiêu và phương hướng chung của ngành dệt may cũng xuất phát từ đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Chính phủ đã vạch ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010. Trong chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2020 Chính phủ đã đưa ra một số chỉ tiêu cụ thể như sau: * Đối với ngành dệt bao gồm sản xuất nguyên liệu dệt sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất. - Đầu tư phát triển gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị. - Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao, chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới. - Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tuân tiêu chuẩn quốc tế tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. * Đối với ngành may. - Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu mã thời trang, kiểu dáng sản phẩm. Tập trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên trường quốc tế. - Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, bao gồm cả đầu tư nước ngoài để phát triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp thiết bị dệt may trong nước đáp ứng thiết bị đối với ngành dệt. 3.1.2. Phương hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 * Cần xác định rõ EU là thị trường trọng điểm bên cạnh thị trường Hoa Kỳ. Việt Nam được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may khi xuất khẩu sang EU từ ngày 1/1/2005. Do đó chúng ta có điều kiện thuận lợi hơn để tăng KNXK hàng dệt may sang thị trường EU. Năm 2008 là năm thành công đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Đối với thị trường Hoa Kỳ - thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam hiện nay, KNXK dệt may sang Hoa Kỳ luôn dẫn đầu ngành và liên tục tăng, đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết với những điều khoản về dệt may đã được thoả thuận. Do đó phương hướng của dệt may Việt Nam trong thời gian tới là coi thị trường EU là thị trường trọng điểm cùng với thị trường Hoa Kỳ. Đây là điều rất quan trọng trong việc xác định hướng đi của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may, của các cơ quan, Bộ ngành có liên quan. * Tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua trung gian. Trong thời gian này, đây là một hướng đi đúng đắn cho ngành dệt may Việt Nam, nhằm tạo dựng thế chủ động cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tạo điều kiện để hàng dệt may Việt Nam tiếp cận sâu hơn với khách hàng EU. Thời gian qua là thời gian học hỏi đúc rút kinh nghiệm sản xuất, đã đến lúc doanh nghiệp phải tự mình tìm kiếm những hợp đồng xuất khẩu trực tiếp, tìm cách tiếp cận thị trường EU nhằm làm tăng giá trị sản xuất của ngành dệt may. * Từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tê. Vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam là vấn đề cấp thiết hiện nay. Để thực hiện được mục tiêu này, trong thời gian tới cần có sự cố gắng nỗ lực từ phía doanh nghiệp, tăng cường củng cố đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó cần có những chính sách hỗ trợ một các hợp lý từ phía Chính phủ đối với sự phát triển của ngành. 3.2. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 3.2.1. Dự báo thị trường dệt may EU đến năm 2020 * Về khả năng tiêu thụ: Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang dần phục hồi sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua. EU với tốc độ phát triển kinh tế khá ổn định, nhu cầu tiêu dùng, ăn mặc của người dân sẽ ngày càng tăng lên, dẫn tới nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của các nước EU trong thời gian tới có xu hướng tăng cao. EU tiêu thụ rất nhiều sản phẩm dệt may, khoảng 6,8 triệu tấn vải/năm, tương đương với 17kg vải/người/năm. Khả năng tiêu thụ mặt hàng này của EU đến năm 2020 sẽ tăng lên. Dự báo, tiêu thụ mặt hàng này của EU là 8,1 triệu tấn váo năm 2020. * Về khả năng nhập khẩu: Khả năng nhập khẩu hàng dệt may của EU sẽ tăng mạnh so với 15 năm trước, một mặt do nhu cầu tiêu thụ của dân cư tăng lên, mặt khác do sự cạnh tranh hàng dệt may của các nước đang phát triển. Nhập khẩu mặt hàng dệt may hằng năm của EU vẫn chiếm cao, 40-45% KNXK của toàn thế giới. Kinh tế khu vực này không có nhiều thay dổi, vẫn là nền kinh tế thứ hai thế giới, do đó trong tương lai khả năng nhập khẩu hàng dệt may của EU là rất lớn, xuất khẩu dệt may sang EU vẫn còn nhiều cơ hội đối với Việt Nam. 3.2.2. Những cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU 3.2.2.1. Những cơ hội EU là một thị trường thống nhất, việc xem xét và đánh giá nguồn gốc xuất xứ hàng dệt may vào EU dựa trên quy tắc xuất xứ gộp là một điều kiện thuận lợi cho hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang EU. Bởi lẽ Việt Nam là thành viên trong ASEAN, những nguyên liệu mà Việt Nam nhập khẩu từ các nước ASEAN vẫn được coi là có xuất xứ từ Việt Nam. Việc EU kết nạp thêm nhiều thành viên mới từ các nước Trung và Đông Âu và các nước vùng Ban Tích đã đưa EU trở thành một thị trường lớn nhất thế giới với số dân trên 500 triệu người. Hầu hết các quốc gia mới gia nhập EU đều có quan hệ truyền thống lâu đời với Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm cơ hội để thâm nhập, mở rộng thị trường đối với các thành viên mới này. EU đã tăng cường áp dụng các biện pháp hạn chế đối với một số mặt hàng dệt may xuất khẩu của Trung Quốc, những biện pháp này mang tính dài hạn. Đây là một cơ hội lớn cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trên thị trường EU. EU vẫn dành cho Việt Nam mức thuế quan ưu dãi phổ cập GSP. Nếu biết cách khai thác tốt lợi thế này thì khả năng cạnh tranh sẽ tăng lên. Giá cả sản phẩm giảm xuống nhờ được hưởng mức thuế nhập khẩu thấp hơn. Trong những năm tới ngành dệt may Việt Nam có thể khai thác, nắm bắt tốt những thuận lợi này trong việc cạnh tranh, đẩy mạnh hơn nữa khả năng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Khi gia nhập WTO, cơ chế chính sách thông thoáng, đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may tăng đáng kể, nhất là đầu tư vào hạ tầng ngành dệt, điều này đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất chủ động hạ giá thành, đẩy mạnh xuất khẩu. Mặt khác, sau khi gia nhập WTO, dệt may Việt Nam từ chỗ bị khống chế về hạn ngạch thì nay đã được phép xuất khẩu theo năng lực và nhu cầu thị trường. Với quy chế của một thành viên WTO, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam được hưởng điều kiện kinh doanh bình đẳng, thuế nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vào các thị trường đều giảm xuống, trong đó có thị trường EU. 3.2.2.2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội khá thuận lợi trên, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU phải đối mặt một số thách thức sau: Ngày 1/1/2005, hạn ngạch dệt may hoàn toàn bị bãi bỏ theo Hiệp định ATC cho các nước thành viên của WTO, tạo điều kiện cho việc bùng nổ của quá trình cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới. Ngành dệt may Việt Nam do đó cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, nhất là trên thị trường EU. Việc EU kết nạp thêm các thành viên mới thành EU27, một mặt tạo những thuận lợi cho ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam, mặt khác cũng tạo ra nhiều thách thức đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. Các nước thành viên mới cũng có ngành dệt may khá phát triển. Nếu như trước kia các nước này xuất khẩu hàng dệt may sang EU vẫn phải chịu những mức thuế như những nước ngoài khối EU, thì nay đã được tự do vận chuyển trong nội khối mà không phải chịu bất kỳ ràng buộc nào. Điều này gây khó khăn trong việc cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam do Việt Nam chịu đối xử là nước ngoài khối EU. EU có những ưu đãi riêng và chính sách giảm thuế nhập khẩu đối với một số nước xuất khẩu dệt may chịu ảnh hưởng của thảm hoạ sóng thần như Bangladesh, Srilanka, Indonesia… Một số mặt hàng được hưởng mức thuế ưu đãi là 0%, điều này tạo điều kiện giảm giá bán sản phẩm dệt may của các nước này trên thị trường EU, gây khó khăn cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU. Cam kết đối với ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO, đó là Việt Nam phải bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên các thị trường, trong đó có thị trường EU. Bên cạnh đó, cam kết hàng rào bảo hộ tại thị trường nội địa không còn, toàn bộ thuế nhập khẩu hiện nay sẽ giảm xuống từ mức 10 - 15% là mức chung cho các thành viên WTO. Vì vậy sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh cả với những hàng dệt may nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa. Một mặt phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế, một mặt phải cạnh tranh với chính thị trường nội địa sẽ gây khó khăn trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia… 3.3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU là vấn đề rất quan trọng trong tiến trình phát triển ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam. Để dệt may Việt Nam có thể sánh vai ngang tầm với các đối thủ trong khu vực cũng như trên thế giới và có thể đứng vững phát triển hơn trên thị trường EU, cần phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ và nhất quán giữa Nhà nước và các doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may. 3.3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 3.3.1.1. Nâng cao vai trò của Cục xúc tiến Thương mại Việt Nam Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến xuất khẩu, tổ chức xúc tiến thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, các Thương vụ tại EU thường xuyên tổ chức các đoàn tìm hiểu cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về những đặc điểm kinh tế - xã hội, quy định về pháp luật, những thay đổi trong chính sách ngoại thương của EU để các doanh nghiệp có những chiến lược thích ứng kịp thời. Các Hiệp hội, Cục xúc tiến Thương mại là nơi cung cấp thông tin một cách nhanh chóng và chi phí thấp nhất cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay thì các tổ chức này cần linh hoạt hơn nữa trong hoạt động của mình nhằm giúp doanh nghiệp giải quyết những vướng mắc trong quá trình tìm hiểu thị trường, sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Bên cạnh việc nâng cao vai trò của các tổ chức xúc tiến Thương mại, thì Nhà nước cũng thường xuyên củng cố mối quan hệ thương mại với EU, bằng cách ký kết các Hiệp định liên quan tới hàng dệt may, nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Bên cạnh vai trò của Cục xúc tiến Thương mại, cần nâng cao hơn nữa vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam, Tập đoàn dệt may Việt Nam trong việc hỗ trợ, cung cấp thông tin, trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp. 3.3.1.2. Hoàn thiện chính sách tín dụng cho ngành dệt may Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng thiếu vốn để thực hiện đổi mới trang thiết bị, xây dựng quảng bá thương hiệu, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Việt Nam đã là thành viên của WTO, việc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp cũng phần nào bị hạn chế. Vậy để giúp các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may, Chính phủ cần hỗ trợ tài chính theo hướng: - Khai thác một cách tối đa những ưu đãi dành cho các quốc gia đang phát triển trong quá trình hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp dệt may mà WTO cho phép. - Chính phủ nên thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng. Qũy này với chức năng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng lại không có vốn hoặc tài sản để thế chấp vay vốn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may đổi mới thiết bị, tiếp cận mở rộng thị trường EU. 3.3.1.3. Hoàn thiện chính sách về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành dệt may Chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng tới hiệu quả năng suất lao động. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành dệt may đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Chính phủ cần có chương trình đào tạo lao động cho ngành dệt may, khuyến khích và thu hút các học sinh theo học ngành công nghệ dệt may bằng cách mở thêm các trường, các cơ sở đào tạo có chất lượng. Khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt trầm trọng, có chính sách đầu tư cho các trường dạy nghề, chuyển giao những chương trình dạy nghề sao cho phù hợp với học viên. Cần có sự thống nhất phối hợp giữa Nhà nước và các doanh nghiệp chủ động tổ chức các lớp đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân. Tạo nên sự kết hợp giữa các trường đại học, cao đẳng có liên quan, đào tạo theo yêu cầu của các doanh nghiệp. Có sự liên thông mật thiết giữa các trường, lớp dạy nghề với các doanh nghiệp. 3.3.1.4. Hoàn thiện công tác quản lý hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đối với hàng dệt may Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng là căn cứ để đánh giá chất lượng hàng dệt may, những tiêu chuẩn mà thị trường EU sủ dụng dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, thậm chí còn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là các tiêu chuẩn về môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Vì vậy hoàn thiện hệ thống chất lượng đối với các doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thứ nhất: Hướng các tiêu chuẩn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gắn liền với các tiêu chuẩn quốc tế. Chính phủ, Bộ ngành liên quan và Tổng cục đo lường chất lượng Việt Nam cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn của Việt Nam phù hợp với quy định của quốc tế cũng như của thị trường EU. Thứ hai: Cần tăng cường thực hiện các hoạt động giám sát, kiểm tra chất lượng của Chính phủ, cơ quan Nhà nước đối với những sản phẩm dệt may xuất khẩu. Giám sát việc sử dụng những hoá chất trong sản xuất các nguyên liệu, sản phẩm gây ảnh hưởng tới môi trường và sức khoẻ người tiêu dùng. Kiểm tra kỹ lưỡng chất lượng hàng xuất khẩu trước khi cho xuất khẩu để tránh tình trạng hàng xuất khẩu bị trả lại vì chất lượng không đảm bảo, gây tổn thất cho doanh nghiệp, làm mất uy tín của doanh nghiệp. 3.3.1.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hải quan - Đẩy mạnh cải cách thủ tục hải quan theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, thuận tiện cho các doanh nghiệp trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá. - Thống nhất sử dụng các mã thuế theo tiêu chuẩn của WTO, thống nhất trong cách tính thuế, đưa các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng hội nhập vào sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. - Cần tăng cường đầu tư, sử dụng những trang thiết bị tiên tiến hiện đại, chuyên ngành trong việc kiểm tra hàng dệt may, nhằm giảm tình trạng kiểm tra trực tiếp do đó rút ngắn thời gian thông quan. - Nhanh chóng thực hiện khai báo hải quan điện tử, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp giảm thời gian và chi phí trong thủ tục xuất nhập khẩu hàng dệt may. 3.3.1.6. Các giải pháp khác Ngoài những giải pháp trên, Nhà nước cũng cần tiến hành một số giải pháp khác như: * Tập trung phát triển vùng nguyên liệu, tăng tỷ lệ nội địa hoá. - Đẩy mạnh công tác đầu tư cho các vùng chuyên canh nguyên liệu với các giống cây cho năng suất cao, chất lượng ổn định. Hỗ trợ việc nghiên cứu khoa học để tạo ra các giống bông, giống dâu cho năng suất cũng như chất lượng cao. - Đặt cơ sở cho sự hình thành và sản xuất sợi hoá học, tăng cường kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các hoá chất khác cho ngành dệt. * Tái cấu trúc sản xuất ngành may, di dời các xưởng sản xuất về các thị tứ và vùng nông thôn tiện đường giao thông, cơ sở tại thành phố chỉ tập trung sản xuất hàng cao cấp và phát triển kinh doanh nhằm giải quyết bài toán thiếu hụt lao động và chi phí tăng nhanh. * Chính phủ, Quốc hội nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động cho phù hợp hơn đối với ngành dệt may. So với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới thì mức giờ làm thêm của nước ta còn thấp. Chính vì vậy trong Bộ luật lao động cần có các quy định riêng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may. Đây là mong muốn thiết thực, xuất phát từ thực tế hiện nay đối với việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may trong các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đảm bảo đúng thời hạn giao hàng. 3.3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.3.2.1. Nghiên cứu đánh giá thực trạng thị trường hàng dệt may EU Đây là phương pháp quan trọng mà các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam cần chủ động tiến hành trong quá trình kinh doanh. Đối với việc nghiên cứu này, khi gặp bất kỳ khó khăn trở ngại nào, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ của các Hiệp hội dệt may Việt Nam, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, các tham tán Thương mại tại các nước EU. Việc đánh giá lại thị trường dệt may EU là điều cần thiết đối với các doanh nghiệp bởi lẽ: Thứ nhất: Thị trường EU đã bỏ hạn ngạch dệt may nhập khẩu đối với các nước thành viên WTO, điều này sẽ tạo ra sự thay đổi trong chính sách thương mại của EU cũng như hệ thống thuế, yêu cầu về chất lượng, xu hướng tiêu dùng… Doanh nghiệp cần tìm hiểu lại kỹ lưỡng những yếu tố này để có được chiến lược trong kinh doanh. Thứ hai: Việc nghiên cứu lại thị trường EU là tiền đề cho các doanh nghiệp phân đoạn thị trường khách hàng khác nhau, giúp cho doanh nghiệp Việt Nam xác định đúng khách hàng mục tiêu của mình trên thị trường EU. Thứ ba: Việc nghiên cứu lại thị trường EU giúp các doanh nghiệp nhận biết rõ nét các đối thủ cạnh tranh và chiến lược kinh doanh của họ. Từ đó, doanh nghiệp đưa ra những biện pháp, chiến lược phù hợp để cạnh tranh trên thị trường EU. 3.3.2.2. Doanh nghiệp cần lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh phân phối của thị trường EU Thứ nhất: Để thâm nhập vào thị trường EU một cách có hiệu quả các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm kiếm các nhà nhập khẩu EU để xuất khẩu trực tiếp. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần thiết lập mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với các trung tâm phân phối, các siêu thị lớn trong thị trường EU thông qua các thương vụ Việt Nam tại EU, phái đoàn EC tại Việt Nam, các đại sứ quán của các nước EU tại Việt Nam, nhằm giảm thiểu tình trạng xuất khẩu qua trung gian. Thứ hai: Các doanh nghiệp liên doanh dưới hình thức: sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá. Theo hình thức này các nhà xuất khẩu Việt Nam nên áp dụng chiêu thức mua nhãn hiệu hàng hoá của các nhà sản xuất nổi tiếng châu Âu để gắn vào sản phẩm của mình rồi mới tung vào thị trường EU. Sau một thời gian khi người tiêu dùng EU đã quen thì chúng ta bắt đầu tiến hành gắn nhãn hiệu của nhà sản xuất Việt Nam bên cạnh nhãn hiệu nhà sản xuất châu Âu. Khi nhu cầu của người tiêu dùng đối với loại sản phẩm có gắn hai nhãn hiệu bắt đầu có dấu hiệu tăng nhanh thì các nhà sản xuất Việt Nam có thể bóc bỏ nhãn hiệu của nhà sản xuất châu Âu. Các doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế có thể liên doanh liên kết để trở thành công ty con của các công ty xuyên quốc gia có thương hiệu nổi tiếng của EU. Bên cạnh việc xuất khẩu trực tiếp hay hình thức liên doanh xuất khẩu để thâm nhập thị trường EU, các doanh nghiệp cần nghiên cứu tăng cường thâm nhập bằng hình thức đầu tư trực tiếp nhằm giảm bới các rào cản phi thuế quan. Thứ ba: Xây dựng và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm may mặc của Việt Nam trên thị trường EU. Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần đẩy mạnh quảng bá thương hiệu hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU thông qua việc tích cực chủ động tham gia các gian hàng, hội chợ, triển lãm tại nước ngoài, xây dựng các gian trưng bày trên thị trường nước ngoài… Việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá sẽ là một thuận lợi to lớn đem lại cho doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường EU. Trong kinh doanh việc đăng ký nhãn mác chính là cách doanh nghiệp tự bảo vệ mình nhằm tránh tình trạng ăn cắp bản quyền, tránh những vụ tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Hiên nay, đây là vấn đề cấp bách mà các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức quan tâm vì chúng ta đã tham gia vào sân chơi chung của toàn cầu. Ngoài ra cũng có thể sử dụng hiệu quả đội ngũ việt kiều tại các quốc gia thành viên của EU làm cầu nối đưa sản phẩm may mặc Việt Nam vào các hội chợ triển lãm, các trung tâm thương mại ở nước ngoài. Dù lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường nào thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ các yếu tố sau: dung lượng thị trường, thị hiếu tiêu dùng, kênh phân phối, đối thủ cạnh tranh, giá cả... và cần phải nắm vững 4 nguyên tắc khi thâm nhập thị trường EU: Nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo thời gian giao hàng, duy trì chất lượng sản phẩm. 3.3.2.3. Giải pháp về nâng cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của doanh nghiệp Doanh nghiệp cần tiến hành kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu tránh xuống phẩm cấp. Bên cạnh đó cũng cần tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ cũng như quy trình sản xuất. Nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt Nam bằng việc các doanh nghiệp cần đạt được những chứng chỉ về quản lý chất lượng ISO 9000, chứng chỉ về môi trường ISO 14000… Đây là biện pháp hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng EU. Những doanh nghiệp chưa đạt các chứng chỉ trên cần cố gắng hơn nữa để có được. Khách hàng EU rất quan tâm và quen sử dụng những hàng hoá có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cho nên hàng dệt may của các doanh nghiệp có được các tiêu chuẩn trên thì sẽ dễ dàng thâm nhập và đuợc khách hàng chấp nhận. Ngoài những tiêu chuẩn mang tính chất quốc tế, để đánh giá chất lượng hàng dệt may EU còn có những tiêu chuẩn riêng có của EU. Như tiêu chuẩn về nhãn mác hàng may mặc dựa vào tiêu chuẩn ISO 3758, tiêu chuẩn về giặt dựa vào ISO 3759, 5077 và 6330, độ hút ẩm của hàng dệt may có tiêu chuẩn của Đức DIN 5411, giặt khô có tiêu chuẩn ISO 3175, tiêu chuẩn về đánh giá mức độ vải bị xù sợi của Anh (BS 5811)… Đây là những tiêu chuẩn mà khách hàng EU rất quan tâm, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần hết sức chú ý để có thể đáp ứng tốt những yêu cầu này. Đối với các doanh nghiệp có điều kiện về tài chính có thể nghiên cứu và thực hiện thêm các tiêu chuẩn về nhãn hiệu sinh thái đối với sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường EU. Các loại hàng dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ đang có những chiến lược để thực hiện điều này, nên doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần sớm thực hiện để không gặp khó khăn hơn trước những đối thủ cạnh tranh này. 3.3.2.4. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh đổi mới mẫu mã, đa dạng hoá hàng dệt may xuất khẩu Như trên đã trình bày về hạn chế của xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU, mặc dù đã có những thay đổi đáng kể trong quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong thời gian qua, tuy nhiên xét về mặt hàng, chủng loại hàng thì hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn rất đơn điệu. Để tăng KNXK hàng dệt may sang EU các doanh nghiệp cần chủ động mạnh dạn trong việc thay đổi mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm với một số vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm. Trước hết doanh nghiệp cần có những ý tưởng thiết kế. Đây là điều rất quan trọng đối với mặt hàng dệt may - một mặt hàng mang tính thời vụ cao. Doanh nghiệp phải có chính sách đào tạo đội ngũ nhà thiết kế, nhà tạo mẫu riêng của doanh nghiệp, cần bồi dưỡng nâng cao tay nghề, trình độ của đội ngũ này để có thể sáng tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường người tiêu dùng. Các doanh nghiệp cũng nên tham gia hợp tác với các viện mốt, hoặc các chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình thâm nhập vào thị trường EU. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng nên xuất khẩu nhiều loại mặt hàng. Hiện nay hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang EU chủ yếu là những hàng trung bình, do đó cần phải đầu tư vào sản xuất để có thể xuất khẩu được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao nhằm tăng nhanh giá trị xuất khẩu. 3.3.2.5. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường EU Dệt may là mặt hàng gắn liền với những nét truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang cho nên công tác nghiên cứu thị trường là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hoạt động nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp cần đảm bảo có được đầy đủ các thông tin sau: - Các thay đổi về giá cả, tỷ giá, các quy định hải quan cũng như những chính sách thương mại của nước nhập khẩu. - Nghiên cứu, triển khai sản xuất, phát triển những mặt hàng mới mà doanh nghiệp có khả năng sản xuất và có lợi thế. - Đánh giá đúng khả năng cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường để có những đối sách phù hợp. Bên cạnh những giải pháp trên, doanh nghiệp cần chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên kinh doanh có trình độ chuyên môn, thông thạo ngoại ngữ. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực sản xuất cũng như tăng quy mô xuất khẩu sang thị trường EU. 3.3.2.6. Liên kết các doanh nghiệp trong nước trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang EU Các doanh nghiệp cần liên kết với nhau trong quá trình kinh doanh, sản xuất cũng như xuất khẩu hàng dệt may. Việt Nam đã thành lập Hiệp hội dệt may Việt Nam, thành lập Tổng công ty dệt may Việt Nam và sau nữa là Tập đoàn dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần liên kết lại với nhau nhằm giảm bớt sức ép cạnh tranh nội bộ giữa các ngành và nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh những giải pháp kể trên, doanh nghiệp cần chú trọng khâu tổ chức sản xuất, tìm mọi cách tiết giảm chi phí sản xuất, nghiên cứu áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, phần mềm quản lý để nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh. Tận dụng cơ hội thu hút đơn hàng, duy trì được và khai thác hiệu quả các khách hàng truyền thống và phát triển thêm được khách hàng mới, góp phần ổn định sản xuất, bảo đảm việc làm cho người lao động. Chú trọng đến việc xây dựng liên kết chiến lược với các khách hàng là những nhà bán lẻ, nhập khẩu lớn trên thế giới, tham gia vào các chuỗi liên kết của họ nhằm ổn định đơn hàng, khách hàng, tiếp cận kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của họ. * Trước yêu cầu cấp thiết đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU, các giải pháp trên vừa mang tính khả thi vừa mang tính hiệu quả cao và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy cần có sự thực hiện đồng bộ giữa các giải pháp, giữa các doanh nghiệp với các Cơ quan Bộ ngành liên quan để nâng cao hơn nữa vị thế của ngành dệt may trên trường quốc tế. KẾT LUẬN Xuất phát từ thực tiễn tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua. Chuyên đề đã giải quyết cơ bản những mục đích nghiên cứu để ra, thể hiện ở những nội dung sau: Việc nghiên cứu thị trường EU về những đặc trưng cơ bản như: dung lượng thị trường, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, kênh phân phối, để thấy được cơ hội và tiềm năng to lớn của thị trường EU đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Từ đó chỉ ra sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong điều kiện hiện nay. Bên cạnh đó, chuyên đề cũng đề cập đến những quy định đối với hàng dệt may nhập khẩu vào EU. Tiếp đến chuyên đề đi sâu phân tích thực trạng tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam và cụ thể hơn về thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2000 -2009. Từ đó đánh giá những thành công cũng như tồn tại của hoạt động này, và chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những tồn tại đó. Trên cơ sở định hướng và mục tiêu xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam, chuyên đề đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong thời gian tới. Những giải pháp từ phía Nhà nước và giải pháp từ các doanh nghiệp có tính thiết thực, có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hiện nay. Cần có sự kết hợp đồng bộ, hiệu quả các giải pháp này để từng bước khẳng định hơn nữa vị thế của ngành dệt may Việt Nam trên trường quốc tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách Vũ Hữu Tỷ (2007), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục. Nguyễn Thị Hường, TS.Tạ Lợi (2007), Giáo trình Nghiệp vụ ngoại thương (tập 1), Nhà xuất bản Đại hoc kinh tế quốc dân. Nguyễn Thị Hường (2001,2003), Giáo trình Kinh doanh quốc tế (tập 1 – tập 2), Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội. Nguyễn Cao Văn (1997), Giáo trình Marketing quốc tế, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội. Vũ Chí Lộc, Tài liệu Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường châu Âu, Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Đoàn Thị Hồng Vân (2004), Thâm nhập thị trường EU những điều cần biết, Nhà xuất bản Thống kê. Trần Chí Thành (2002), Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. Văn bản Báo cáo KNXK hàng may mặc Việt Nam 2005-2009 của Bộ Công thương. Chỉ thị số 18/CT-BCT yêu cầu các đơn vị trực thuộc triển khai thực hiện một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu. Luật Thương mại Việt Nam 2005. Toạ đàm xúc tiến xuất khẩu Việt Nam 2009 – Cục xúc tiến Thương mại – Bộ Công thương – tháng 4 năm 2009. Tạp chí Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 71 – Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU – Nguyễn Thị Ngọc Điệp tháng 5 năm 2006. Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 67 – Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU – Nguyễn Hoàng Khiên tháng 1 năm 2006. Website Website Tập đoàn dệt may Việt Nam: www.vinatex.com Website Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.vn Website Cộng đồng chung châu Âu: Website Cục xúc tiến Thương mại Việt Nam: www.vietrade.gov.vn Website Bộ Công thương: www.moit.gov.vn/web/guest/home. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU- Thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan