Đề tài Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu

MỤC LỤC CHƯƠNG I : LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ CỦA VIỆC LIÊN MINH VÀ THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC. 3 1. Lợi ích từ việc thống nhất tiền tệ 3 1.1.Kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối : 3 1.2.Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả. 3 1.3.Tiết kiệm dự trữ ngoại hối và lợi ích từ việc phát hành tiền: 4 1.4. Tiết kiệm chi phí hành chính trong kinh doanh: 4 1.5. Tăng cường thanh khoản và hợp lý hóa thị trường tài chính: 4 1.6.Giá cả trở nên trung thực rõ ràng và ổn định hơn: 5 1.7. Lợi ích riêng nếu thực hiện liên minh tiền tệ Đông Nam Á: 5 2.Chi phí của việc thống nhất tiền tệ: 6 2.1. Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ 6 2.2.Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô 7 2.3.Bất bình đẳng khu vực 7 2.4.Chi phí thời kỳ quá độ 7 CHƯƠNG II:THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU ÂU. 8 1. Tổng quan về sự ra đời và quá trình thành lập của liên minh tiền tệ Châu Âu. 8 1.1. Tiến trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 8 1.1.1.Ý tưởng về một đồng tiền chung 8 1.1.2.Các giai đoạn thực hiện 9 1.2. Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 11 1.2.1.Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động: 11 1.2.2. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất 12 1.2.3. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá 14 1.2.4.Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất. 15 1.3. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ Châu Âu 15 1.3.1. Bộ máy hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ châu Âu 15 1.3.2. Các quy định cơ bản trong thời kỳ chuyển đổi. 20 1.3.2.1 Tỷ giá chuyển đổi: 20 1.3.2.2. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II) 22 1.3.2.3. Hệ thống thanh toán. 23 3. Thực trạng hoạt động của đồng Euro. 23 3.1Những thành tựu đạt được : 24 3.1.1. Đối với các nước thành viên: 24 3.1.1.1.Nền kinh tế được kích thích tăng trưởng: 24 3.1.1.2.Ổn định các yếu tố kinh tế đặc biệt là tỷ lệ lạm phát và lãi suất. 27 3.1.1.3.Mức sống của người dân khu vực đồng EURO được nâng lên : 29 3.1.2. Trên phương diện quốc tế : đồng Euro dần trở thành 1 ngoại tệ mạnh. 31 3.2. Những mặt hạn chế của đồng EURO: 32 3.2.1.Sự tăng trưởng thiếu bền vững và vấn đề suy giảm năng lực cạnh tranh của các nước kém phát triển hơn : 32 3.2.2. Gia tăng chi tiêu chính phủ và nợ công - cuộc khủng hoảng nợ : 34 CHƯƠNG III: KHẢ NĂNG THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 43 3.1 Quá trình tự do hóa thương mại: 43 3.1.1.Tiến trình cắt giảm hàng rào thuế quan 44 3.1.2.Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan 46 3.2. Quá trình tự do lưu chuyển các yếu tố khác và hợp tác giữa các ngành lĩnh vực trong khối ASEAN và ngoại khối: 47 3.2.1 Sự tự do lưu chuyển vốn và lao động: 47 3.2.2 Một số hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế trong khối: 49 3.2.3 Một số hợp tác kinh tế ngoại khối: 50 3.3 Khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối 51 3.4. Khả năng thiết lập một cơ chế ổn định và liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối. 59 3.4.1. Cơ chế ổn đinh tỷ giá- sáng kiến Chiang Mai 59 3.4.2. Tiến trình đa phương hoá sáng kiến Chiang Mai 60 3.5. Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương (NHTW) độc lập với một chính sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất. 64 KẾT LUẬN 69

doc71 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2466 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sự xuất hiện 1 đồng tiền chung đã đưa đến nhiều vấn đề tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước. 3.2.1.Sự tăng trưởng thiếu bền vững và vấn đề suy giảm năng lực cạnh tranh của các nước kém phát triển hơn : Trước khi có liên minh tiền tệ, lãi suất ở các quốc gia Nam Âu phần lớn ở mức 2 chữ số và trung bình gấp đôi lãi suất của Đức. Điều đó phản ánh cả tỷ lệ lạm phát cũng như rủi ro lớn khi cho các doanh nghiệp cũng như chính phủ các nước này vay tiền. Tuy nhiên, sau khi gia nhập đồng Euro, do quy định gia nhập và dưới sự điều hành của Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB, lãi suất giảm xuống gần bằng lãi suất của Đức và được duy trì ở mức thấp cùng với sự tự do di chuyển vốn khiến cho chi phí vay vốn trở nên rẻ hơn. Hơn nữa, các nguồn tín dụng cũng gia tăng rất phong phú; các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn trong khu vực có cơ hội dễ dàng tiếp cận vốn từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó làm cho các nhà đầu tư tin tưởng vào sự tăng trưởng cao trong tương lai của các quốc gia như Tây Ban Nha, Ý hay Bồ Đào Nha, sẽ đưa các nước này tiến gần hơn với sự phát triển của Đức, Pháp. Và trên thực tế, niềm tin này ngày càng có vẻ củng cố hơn bởi trong giai đoạn 2002-2007, đã có một vài quốc gia đột nhiên đạt được mức tăng trưởng đáng nể. Tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp và Tây Ban Nha dao động trong khoảng 3,5% – 4,3% trong khi Ailen vươn lên một cách mạnh mẽ nhất với tỷ lệ 6,5% mỗi năm, cao hơn so với mức tăng trưởng trung bình của cả Châu Âu là khoảng 2% /năm. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, sự tăng trưởng đó không bắt nguồn từ sản xuất và xuất khẩu hàng hóa, mà trên thực tế là sự bùng nổ về tiêu dùng trong nước về các dịch vụ. Các nhà hàng, khách sạn mọc lên như nấm, ngành bất động sản phất lên nhanh chóng… Sự tăng lên của cầu tiêu dùng nội địa làm cho giá cả tăng cao, lao động bị thiếu hụt trong khi tính linh hoạt của lực lượng châu Âu vốn là 1 điểm yếu đã đẩy tiền lương nhân công tăng lên nhanh chóng. Nền kinh tế tăng trưởng nhưng mất cân đối về cơ cấu và không bền vững, chỉ dựa vào khu vực dịch vụ và bất động sản, còn hàng hóa xuất khẩu thì ngày càng kém cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực vì có chi phí tiền lương bị đẩy lên cao. Trước hoàn cảnh đó, nếu như các nước sử dụng đồng tiền riêng có thể đưa ra những biện pháp để cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa như điều chỉnh tỷ giá hay phá giá đồng tiền để hàng hóa xuất khẩu của mình trở nên rẻ hơn, dễ tiêu thụ hơn, nhưng do sử dụng chung một đồng tiền nên việc này là không thể. Hơn nữa, chi phí bị đẩy lên cao dẫn đến nguy cơ lạm phát lại không thể tự động khắc phục do việc tăng lãi suất bị kìm hãm, điều này làm cho giá cả ngày càng leo thang. Kết quả là sức cạnh tranh thương mại của các quốc gia này ngày càng giảm so với các quốc gia khác trong khu vực như Đức, Anh, hay Pháp. 3.2.2. Gia tăng chi tiêu chính phủ và nợ công - cuộc khủng hoảng nợ : Giao dịch bất động sản sôi động, tiền lương tăng cao làm nguồn thu thuế tăng lên đáng kể, khiến cho chính phủ các nước chi tiêu phung phí mà không quan tâm rằng sự tăng lên đó chỉ là nhất thời. Đồng thời, chính sách duy trì mức lãi suất thấp (2% /năm) của Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB vô tình trở thành cám dỗ khuyến khích chính phủ các nước tăng cường vay vốn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Cho tới khi ECB nhận ra nguy cơ lạm phát, lãi suất liên tục bị đẩy lên cao (giai đoạn 2006-2008, lãi suất từ 2% tăng lên 4%) làm cho bong bóng nhà đất vỡ tung, các nguồn thu từ thuế sụt giảm nhanh chóng, hậu quả là ngân sách chính phủ các nước kém phát triển hơn bị thâm hụt. Thêm vào nữa, vì là một liên minh tiền tê, sử dụng 1 đồng tiền chung nên chính sách tiền tệ do ECB đưa ra là độc lập và không vì lợi ích riêng của bất kỳ 1 quốc gia nào. Do đó, các nước không thể có sự phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để điều tiết sự mất cân bằng trong nền kinh tế, đối phó với lạm phát và suy thoái. Đồng thời sự nhất thể hóa chính trị không theo kịp sự nhất thể hóa tiền tệ, Chính phủ các nước luôn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, cao hơn lợi ích của khu vực cho nên mặc dù có chính sách tiền tệ là như nhau, nhưng mỗi chính phủ lại có chính sách tài khóa riêng. Ngân sách thâm hụt không thể bù đắp bằng cách in tiền mà phải sử dụng các công cụ như vay vốn từ nước ngoài, từ dân cư thông qua phát hành trái phiếu chính phủ… Tất cả những hành động đó đã đẩy thâm hụt ngân sách và nợ công lên mức đáng báo động. Nhưng do quy định của khu vực đồng Euro: mức thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP và tỷ lệ nợ không quá 60% GDP, trong khi họ lại không tìm ra được cách khác để làm giảm thâm hụt như cắt giảm chi tiêu công…, điều này dẫn đến tình trạng các nước cố tình hay tìm mọi cách che giấu đi những con số thật để tiếp tục được vay vốn với mức lãi suất cao hơn làm cho nợ công thực tế ngày càng gia tăng. Cuộc khủng hoảng Hy Lạp vừa qua là một ví dụ điển hình khi mà các số liệu thống kê, nghiên cứu, báo cáo gần đây về tỷ lệ nợ và thâm hụt ngân sách thực tế của quốc gia này khác xa so với những báo cáo mà họ đã đưa ra vào những năm trước. Nguyên nhân của việc này 1 phần cũng do vấn đề minh bạch về tài chính còn chưa có những cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả, chặt chẽ. Đến khi các nhà đầu tư, các chủ nợ mất lòng tin vào tình hình tài chính cũng như khả năng thanh toán nợ của nước này, điều tồi tệ đã xảy ra: trái phiếu chính phủ bị bán tháo trên thị trường, lãi suất của trái phiếu bị đẩy lên cao, khó khăn hơn trong việc vay vốn, thu hút đầu tư … gây ra khủng hoảng nợ, quốc gia mất khả năng thanh toán, làm giảm sự tăng trưởng của nền kinh tế, và gây ra hậu quả không tốt đến toàn khu vực. Để khắc phục tình trạng này, Hy Lạp đã phải nhờ đến sự cứu viện từ các nước khác trong khu vực (Ngân hàng trung ương Châu Âu đã phải đưa ra gói cứu trợ khẩn cấp trị giá 110 tỷ Euro nhằm giải nguy cho Hy Lạp, cũng để tránh cho việc khủng hoảng ở Hy Lạp sẽ lan rộng ra các quốc gia khác trong khu vực). Điều này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước phát triển đặc biệt là Đức, Pháp hay Hà Lan do vi phạm hiệp ước về điều kiện gia nhập liên minh kinh tế gây ra mâu thuẫn không nhỏ trong khối. Tuy nhiên, sự trợ giúp từ bên ngoài cũng là phương án trước mắt còn chủ yếu vẫn phải dựa vào Hy Lạp trong việc có đưa ra được các biện pháp như thế nào để phát triển cân đối nền kinh tế, vượt qua khủng hoảng, thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng, giảm tiền lương, tăng thuế cho dù điều đó gặp phải sự phản đối kịch liệt từ phía nhân dân, hay là từ bỏ đồng Euro để có thể tự điều hành chính sách tiền tệ ? Đây quả thực là 1 bài toán khó và Hi Lạp trở thành 1 ví dụ điển hình cảnh báo cho các nước khác trong khu vực đang tiềm ẩn nguy cơ tương tự. Nợ công và thâm hụt ngân sách của hầu hết các nước trong khu vực đồng Euro khác cũng đang trong tình trạng đáng lo ngại và có những nước đang ở mức cao. Năm 1998, tỷ lệ nợ/GDP của Hy Lạp là 98%, nhưng IMF dự báo tỷ lệ này sẽ lên đến 133% trong năm nay. Các con số tương tự với Bồ Đào Nha là 52% và 87%, của Ailen là 54% và 79%, ở Ý tỷ lệ nợ bằng đồng EURO đã lên mức 119% GDP. Mặc dù nợ của Tây Ban Nha bây giờ chỉ vào khoảng 67% nhưng đã tăng gấp đôi trong 2 năm qua và có nguy cơ cao do khu vực tư nhân vay nợ quá nhiều. Biểu đồ 8 : Thâm hụt NS và cân đối NS của KV sử dụng euro Đơn vị : Nguồn : Biểu đồ 9:Biều đồ thâm hụt ngân sách (cột dưới) và nợ công (cột trên) của 2 số nước Châu Âu năm 2009 Tình trạng nợ nần cao cũng có ảnh hưởng rất xấu tới đồng EURO, bằng chứng là đồng EURO thời gian qua liên tục mất giá so với đồng USD : Biểu đồ 10 : Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010 : Đơn vị : USD/EUR Nguồn : Nhưng những người lạc quan và tin tưởng vào khu vực này thì lại cho rằng việc tỷ giá EURO/USD thấp là điều tốt cho nền kinh tế Châu Âu hiện nay, vì tỷ giá thấp đồng nghĩa với hàng hóa của Châu Âu cũng trở nên rẻ hơn trên thị trường, làm tăng khả năng cạnh tranh với hàng hóa những khu vực khác trên thế giới, kích thích xuất khẩu hàng hóa. Chính phủ các nước cũng đã thực hiện nhiều biện pháp thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu trong nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách, tuy nhiên những hành động này lại đưa đến nhiều dự đoán đưa ra về việc châu Âu khó có thể tránh được một cuộc khủng hoảng suy thoái vào năm 2011 và tình hình trì trệ nhiều năm sau đó do cách ngăn chặn khủng khoảng nợ liên quan đến việc giảm chi tiêu công, đồng nghĩa với các công ty cắt giảm nhân công, thất nghiệp gia tăng và tiêu dùng nội địa sụt giảm nhanh chóng. Tất cả những điều đó sẽ có thể dẫn đến 1 mức tăng trưởng chậm trong tương lai. 3.2.3. Hạn chế trong việc thúc đẩy được sự hợp nhất kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực : Có thể thấy liên minh kinh tế và tiền tệ EMU chưa thúc đẩy được sự hợp nhất giữa các nền kinh tế chính trong khối, nếu không muốn nói là ngược lại. Ban đầu, mức độ phát triển của các nước Eurozone khá đồng đều và là điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập khu vực. Tuy nhiên sau một thời gian hội nhập thì sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước trong Eurozone lại có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong khi Đức, Pháp nhanh chóng vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của Châu Âu thì sau khủng hoảng tài chính thế giới, thì những nền kinh tế nhỏ hơn đang phải vật lộn tìm chỗ đứng trên thị trường do sự suy giảm năng lực cạnh tranh và hơn nữa còn tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng nợ cao. Biểu đồ 11 : Biểu đồ về giá trị GDP của một vài nước châu Âu. Đơn vị : tỷ USD Nguồn : Việc ECB đưa ra được một chính sách tiền tệ có lợi cho tất cả các nước trong khối để đi đến hợp nhất về kinh tế là điều không dễ dàng và khó có thể trông đợi vào điều đó. Cách duy nhất để thực hiện việc hợp nhất như mong muốn là tạo ra một ngân sách chung thật lớn của các nước sử dụng đồng Euro, sau đó phân bổ tiền giữa các nước, giúp giảm bớt khoảng cách giữa họ. Tuy nhiên, muốn làm vậy, thì cần phải tăng thuế trên toàn Châu Âu, điều này khó mà khả thi được. Như vậy, sau hơn 10 năm hoạt động, đồng Euro hiện nay đang phải vất vả chống đỡ lại những khó khăn và thử thách lớn nhất từ khi được hình thành. Thời gian này như một liều thuốc thử đối với sức mạnh của đồng Euro: nếu có thể vượt qua khủng hoảng và lấy lại đà phát triển, trong tương lai, Euro sẽ trở thành một đồng tiền mạnh thực sự, đối trọng với đồng USD của Mỹ và điều đó sẽ là cơ sở vững chắc để liên minh kinh tế ở các khu vực khác, trong đó có khu vực Đông Nam Á học tập và làm theo mô hình đồng tiền chung. CHƯƠNG III KHẢ NĂNG THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á Quá trình tự do hóa thương mại: Ngày 8/8/1967, hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( tên viết tắt ASEAN) được thành lập với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapo, Philipin. Đây là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc gia trong khu vực. Sau hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình hợp tác kinh tế. Một số chương trình hợp tác về thương mại và công nghiệp quan trọng như Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Dự án công nghiệp ASEAN (AIP), Chương trình bổ trợ công nghiệp ASEAN (AIC), Chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) đã được ký kết và đưa vào thực hiện trong những năm 1970-1980. Tuy nhiên, kết quả của các chương trình hợp tác này rất hạn chế. Hợp tác kinh tế chỉ thành công khi Thái Lan đưa ra đề nghị khu vực thương mại tự do vào năm 1991. Đến nay, ASEAN đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực năng động và gắn kết của toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á (5 thành viên sáng lập, Brunei,Việt Nam, Lào, Myanmar, Campuchia ) với vai trò ngày càng quan trọng vì hòa bình, ổn định, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Sau khi Thái Lan đưa ra sáng kiến thành lập khu vực thương mại tự do Asean ( viết tắt là AFTA ) năm 1992, hiệp định AFTA được kí kết tại Singapo. Ban đầu chỉ có 6 nước ( 5 nước sáng lập và Brunei- gọi chung là ASEAN6), các nước gia nhập sau cũng được yêu cầu tham gia vào AFTA (gọi chung là các nước CLMV ). AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới. 3.1.1.Tiến trình cắt giảm hàng rào thuế quan Chính phủ các nước thành viên đã có những nỗ lực to lớn để giảm dần những rào cản thương mại, giảm dần hạn mức thuế quan nhằm thúc đẩy thương mại nội khối. Cho tới nay khu vực mậu dịch tự do (AFTA) đang từng bước được hình thành. Sáu nước thành viên cũ đã thực hiện kế hoạch giảm thuế xuống dưới 5% đối với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên khác (trừ một số mặt hàng trong danh mục loại trừ). Bốn nước thành viên mới cũng thực hiện kế hoạch tương tự vào năm 2006 (Việt Nam), 2008 (Lào và Myanmar) và 2010 (Campuchia). Biểu đồ 12: Tỉ lệ các mặt hàng nhóm IL được cắt giảm thuế theo CEPT Đơn vị : % Nguồn: Tổng hợp Bước ngoặt đến vào 2010, theo đó từ 1/1/2010, các nước ASEAN 6 đã xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan. Đến năm 2015, cơ chế cắt giảm thuế quan chung sẽ được mở rộng đến 4 nước thành viên còn lại là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar. Đây là một bước tiến quan trọng trong lộ trình tự do hóa thương mại trong khu vực, tạo điều kiện cho tự do lưu thông hàng hóa nội khối. Và cũng là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước ASEAN. Một vấn đề rất cơ bản để hưởng được thuế suất theo chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT) cho Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) là hàng xuất khẩu cần phải có giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN mà ta thường gọi là Form D. Nhưng hai năm qua việc nghiên cứu và khai thác cơ hội này của các doanh nghiệp còn thấp. Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN dùng Form D chiếm 0,57% tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Năm 2002, số lượng Form D đã cấp là 3.983 bộ, đạt kim ngạch 94,7 triệu USD, tăng 59% so với năm 2001. Đây cũng là cơ hội để thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các thành viên mới với các thành viên cũ. Sáu nước thành viên cũ sẽ dành hệ thống ưu đãi hội nhập ASEAN (AISP) cho các nước mới gia nhập Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam. Theo đó, Brunei sẽ dành một mặt hàng, Indonesia 50 mặt hàng, Malaysia 173 mặt hàng và Thái Lan 17 mặt hàng cho Việt Nam hưởng AISP. Các mặt hàng này sẽ được hưởng ngay mức thuế ưu đãi không phải chờ đến khi chuyển vào danh mục cắt giảm thuế ngay. 3.1.2.Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan Tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 42 (AEM 42) và Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN lần thứ 4 (AEC 4), các Bộ trưởng cũng cam kết xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan ( tiêu chuẩn chất lượng, hạn chế về định lượng, hạn chế về số lượng hàng hóa…) dưới mọi hình thức nhằm tận dụng triệt để lợi ích từ việc cắt giảm thuế. Theo hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) vừa được thông qua vào 17/5/2010, hàng rào phi thuế quan được xác định phải được xóa bỏ theo ba giai đoạn như sau: (a) Brunei, Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan phải loại bỏ theo ba giai đoạn bắt đầu từ 1 tháng 1 năm 2008, 2009 và 2010; (b) Philippines phải loại bỏ theo 3 giai đoạn bắt đầu từ 1/01/2010, 2011 và 2012; (c) Cambodia, Lao PDR, Myanmar and Viet Nam phải loại bỏ trong ba (3) giai đoạn vào ngày 1 tháng 1 năm 2013, 2014 và 2015 với linh hoạt tới năm 2018 3.2. Quá trình tự do lưu chuyển các yếu tố khác và hợp tác giữa các ngành lĩnh vực trong khối ASEAN và ngoại khối: Sự tự do lưu chuyển vốn và lao động: Cùng với khu vực mậu dịch tự do ASEAN, sự ra đời của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình hợp nhất kinh tế giữa các quốc gia thành viên bằng cách đẩy mạnh đầu tư trực tiếp, tạo thuận lợi cho luồng vốn đầu tư, công nghệ và chuyên gia trong khu vực. Hơn nữa sự hình thành khu vực đầu tư ASEAN còn có vai trò giúp các nước trong khu vực trong việc tăng cường cạnh tranh thu hút FDI với các nền kinh tế mới nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. Bởi mục tiêu chủ yếu của Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) là hợp tác để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN từ các nguồn trong và ngoài khu vực. Vì vậy mà việc tăng tốc xây dựng khu vực đầu tư ASEAN cũng như việc đẩy nhanh thời gian thực hiện AIA là một điều hết sức cần thiết và quan trọng đối với các nước ASEAN trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Mục tiêu của Hiệp định AIA này là xây dựng một Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) có môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn giữa các quốc gia thành viên, nhằm: Đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ các nguồn cả trong và ngoài ASEAN; Cùng thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất; Củng cố và tăng cường tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế của ASEAN; Giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN; Đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới tự do luân chuyển đầu tư vào năm 2020. Năm 2008-2009, do tình hình kinh tế thế giới bất ổn định, khủng hoảng tài chính lan rộng trên toàn thế giới đã gây ảnh hưởng đến luông vồn đầu tư vào các nước Asean. Biểu đồ 13: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN Đơn vị : tỷ USD Country 2007 2008 2009 Intra-ASEAN Extra-ASEAN Total net inflow Intra-ASEAN Extra-ASEAN Total net inflow Intra-ASEAN Extra-ASEAN Total net inflow Brunei Darussalam 62.1 198.0 260.2 0.9 238.3 239.2 0.1 176.7 176.8 Cambodia 271.2 596.1 867.3 240.9 574.3 815.2 170.8 359.3 530.2 Indonesia 1,108.2 5,820.1 6,928.3 3,398.0 5,920.1 9,318.1 1,380.1 3,496.7 4,876.8 Lao PDR 100.4 223.1 323.5 47.7 180.1 227.8 57.3 261.3 318.6 Malaysia 3,780.1 4,758.3 8,538.4 1,607.6 5,710.7 7,318.4 (269.7) 1,650.7 1,381.0 Myanmar 93.5 621.3 714.8 103.5 872.1 975.6 19.5 559.1 578.6 The Philippines 5.9 2,910.1 2,916.0 139.9 1,404.1 1,544.0 18.7 1,929.3 1,948.0 Singapore 1,224.8 34,552.7 35,777.5 816.4 10,095.8 10,912.2 2,037.6 14,218.6 16,256.2 Thailand 2,489.4 8,840.8 11,330.2 1,401.6 7,168.9 8,570.5 585.8 5,371.1 5,956.9 Viet Nam 546.3 6,192.7 6,739.0 2,705.0 6,874.0 9,579.0 428.7 7,171.3 7,600.0 Total 9,682.0 64,713.3 74,395.3 10,461.5 39,038.3 49,499.8 4,428.9 35,194.1 39,623.0 ASEAN 51/ 8,608.4 56,882.1 65,490.5 7,363.5 30,299.6 37,663.1 3,752.4 26,666.5 30,418.9 BLCMV1/ 1,073.6 7,831.2 8,904.8 3,098.0 8,738.7 11,836.7 676.5 8,527.6 9,204.1 Nguồn: www.aseansec.org Kinh tế tăng trưởng cao, thị trường tiêu dùng trong nước sáng sủa của các nước ASEAN đang là lực hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN cũng đang gia tăng. Indonesia - thị trường tiêu dùng lớn nhất khu vực với 240 triệu dân đã tiếp nhận lượng vốn đầu tư trong nước và FDI quý II/2010 tăng 40% so với cùng kỳ năm 2009. Lượng vốn đầu tư đăng ký mới rót vào các dự án tại Thái Lan đã tăng 7,4% lên 5,9 tỷ USD nửa đầu năm nay. FDI vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm đã tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước lên 5,4 tỷ USD, trong khi đó, quý I, Malaysia nhận 1,65 tỷ USD, nhiều hơn lượng FDI đổ vào nước này cả năm 2009 (1,39 tỷ USD). Bên cạnh 2 lý do trên, các nhà đầu tư nước ngoài đang trở lại khu vực ASEAN còn do việc thực hiện AFTA từ đầu tháng 1/2010 đã đưa biểu thuế quan đối với hàng hóa buôn bán nội vùng giảm xuống chỉ còn 0 - 5%. Không ít nước ASEAN có thể hưởng lợi từ vấn đề chi phí lao động ở Trung Quốc gia tăng. Hiện có các dấu hiệu rằng, ngành công nghiệp sản xuất giày dép đang hồi sinh ở Indonesia, nơi chi phí lao động đang thấp hơn so với ở vùng bờ biển miền Đông Trung Quốc. Việt Nam, Campuchia, Lào và Myanmar - nơi có mức lương tối thiểu dao động từ 30 USD - 54 USD/tháng - có thể tận dụng tốt hoạt động đưa chuyển các ngành sử dụng nhiều lao động . Năm 2010,khi nền kinh tế thế giới bất đầu ổn định trở lại, dòng vốn đầu tư vào Asean tăng lên đáng kể. Tính đến tháng 7/2010, 10 nước ASEAN đã thu hút được 60 tỷ USD đầu tư. Như vậy, các nước Asean đang tiến tới thực hiện một khu vực thị trường tự do di chuyển các yếu tố sản xuất nhằm bước đầu tiến tới thống nhất tiền tệ. Một số hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế trong khối: Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thúc đẩy hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực công nghiệp, được coi là một biện pháp để thực hiện AFTA sớm trong công nghiệp. Hợp tác dịch vụ trong ASEAN cũng được đẩy mạnh với việc các nước thành viên đã ký Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS) và hai nghị định thư cam kết giảm hàng rào thương mại trong 7 lĩnh vực dịch vụ: tài chính, vận tải biển, du lịch, xây dựng, hàng không, bưu chính viễn thông, … Hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin - viễn thông là một lĩnh vực hợp tác mới nhưng hết sức quan trọng đối với ASEAN để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên của nền kinh tế số. Các nước ASEAN đã ký kết Hiệp định khung e-ASEAN tại Hội nghị cấp cao không chính thức năm 2000 tại Xinh-ga-po nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thông tin để thu hẹp khoảng cách về công nghệ số trong ASEAN và giữa ASEAN và các nước ngoài khu vực. Các nước ASEAN cũng tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực khác như tài chính, ngân hàng, hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, nông, lâm nghiệp và nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác. Bên cạnh đó, việc thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN cũng được chú trọng. Một số hợp tác kinh tế ngoại khối: Rất nhiều chính phủ các quốc gia gần đây đã thúc đẩy quá trình tham gia vào các thoả thuận thương mại song phương và đa phương trong khu vực. Trung quốc cũng đã bắt đầu các cuộc đàm phán chính thức với khu vực ASEAN để hoàn thiện thoả thuận về khu vực thương mại tự do (FTA) vào năm 2010 (đối với 6 nước thành viên cũ của ASEAN) và vào năm 2015 (đối với 4 nước thành viên mới của ASEAN), nhiều mặt hàng chủ yếu là nông, lâm thủ sản sẽ được giảm thuế trước khi FTA chính thức thực hiện (chương trình thu hoạch sớm –early harvest). Nhật bản và ASEAN bắt đầu đàm phán Thoả thuận đối tác kinh tế thương mại vào tháng 4/2005 nhằm hướng tới việc thiết lập FTA giữa ASEAN-Nhật bản vào năm 2012 (đối với 6 nước thành viên cũ) và 2017 (đối với 4 nước thành viên mới của ASEAN). Hàn quốc cũng bắt đầu đàm phán với ASEAN và sẽ hoàn thành vào năm 2009. Bên cạnh đó, cả Nhật bản, Hàn quốc và Trung quốc đều đang nỗ lực đàm phán, tham gia vào các EPA/FTA với các nước ASEAN. Như vậy trong 20 năm đầu của thế kỷ này, ASEAN một mặt sẽ thắt chặt quan hệ hợp tác với nhau hơn nữa, mặt khác sẽ liên kết với các nền kinh tế lớn ở Đông Bắc Á, trước hết là thể chế ASEAN +1 (với từng nuớc Nhật bản, Trung quốc, Hàn quốc), sau đó tiến dần đến thể chế ASEAN+3. Hiện nay, ASEAN đã hợp tác trên các lĩnh vực với AUS, New Zealand, Ấn Độ, Nga, Mỹ, EU… Khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối Ổn định kinh tế vĩ mô là 1 trong những điều kiện quan trọng để hình thành một liên minh tiền tệ. Môi trường kinh tế vĩ mô tương lai của các nước thành viên càng ổn định thì các nước càng ít sử dụng đến các chính sách tiền tệ của riêng nước mình để đối phó với các cú sốc. vì thế các nước chỉ cần sử dụng một chính sách tiền tệ chung và như vậy sẽ dễ dàng tham gia vào một khu vực đồng tiền chung hơn. Cuối năm 2009, 3 quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã cùng với các nước ASEAN ký thỏa thuận xây dựng quỹ tiền tệ Châu Á (AMF) theo mô hình quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) với mục đích hỗ trợ lần nhau về khả năng thanh toán bằng USD trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hoặc thị trường biến động bất thường. trong trường hợp 1 thành viên đề nghị được hỗ trợ, ngân hàng trung ương của các nước thành viên khác sẽ cung cấp USD để đổi lấy tiền nội tệ của quốc gia được hỗ trợ. Tới ngày 23/3/2010, AMF đã chính thức được thành lập với tổng số vốn trị giá 120 tỷ USD.Dường như chúng ta đã thấy được ngày mà các nước Châu Á này cùng sử dụng một đồng tiền. Nhưng liệu có quá sớm để có thể đạt được khi tình hình kinh tế vĩ mô của khu vực đang tiềm ẩn rất nhiều khó khăn và phức tạp. Như ta đã biết các nước ASEAN hầu hết là các nước đang phát triển nhưng lại không có sự đồng đều. Trong khi GDP/người của Singapore năm 2009 là 37,293 USD thì của Myanmar lại chỉ có 465 USD. Rõ ràng sự chênh lệch này sẽ tạo ra nhiều khó khăn nếu các nước thống nhất tiền tệ. Giả sử có sự thống nhất tiền tệ thì liệu các nước như Myanmar, Laos, Cambodia,Vietnam có thể sự dụng 1 đồng tiền mạnh để theo kịp các nước như Singapore, Myanmar,Japan,…Rõ ràng nếu như vậy thì lợi thế cạnh tranh của một đồng tiền yếu của các nước đang phát triển sẽ bị giảm đi rất nhiều. Biểu đồ14 : GDP bình quân đầu người của Asean + 3 Đơn vị : USD Tên nước GDP/người ( danh nghĩa ) GDP/người ( P.P.P ) 2009 Dự báo 2010 2009 Dự báo 2010 Brunei 26.325 $ 29.247 $ 49.110 $ 49.714 $ Singapore 37.293 $ 40.336 $ 50.523 $ 52.840 $ Indonesia 2.329 $ 2.858 $ 4.157 $ 4.380 $ Malaysia 6.897 $ 7.547 $ 13.769 $ 14.247 $ Myanmar 465 $ 469 $ 1.214 $ 1.244 $ Laos 878 $ 964 $ 2.266 $ 2.401 $ Cambodia 775 $ 805 $ 2.015 $ 2.184 $ Viet Nam 1.060 $ 1.168 $ 2.942 $ 3.104 $ Thailand 3.940 $ 4.403 $ 8.060 $ 8.479 $ Philippines 1.746 $ 1.931 $ 3.521 $ 3.804 $ China 3.678 $ 3.999 $ 6.567 $ 7.240 $ Japan 39.731 $ 41.366 $ 32.608 $ 33.478 $ Korea South 17.074 $ 20.265 $ 27.978 $ 29.351 $ Nguồn : imf ( www.imf.org ),global Finance ( www.gfmag.com ) Theo các chuyên gia tài chính phải mất 50 năm Châu Âu mới xây dựng được thị trường chung và đồng tiền chung, nhưng hiện nay tại những cơ chế này đang đứng trước những thách thức rất lớn. Trong khi đó, dân số Châu Á gấp nhiều lần Châu Âu, nội tình Châu Á cũng phức tạp hơn nhiều so với Châu Âu. Giữa các nước các khu vực của Châu Á có sự khác biệt rất lớn về phương thức, trình độ và quan niệm phát triển. Biểu đồ 15: Bình quân GDP theo đầu người của các nước thành viên ASEAN năm 2008 Đơn vị : USD Nguồn : Tổng hợp Nhìn vào các bảng số liệu trên ta có thể thấy rất rõ thu nhập bình quân đầu người trên GDP của các nước Châu Á có sự chênh lệch rất lớn từ vài trăm USD/năm đến vài chục nghìn USD/năm. Nếu nói rằng sự phát triển kinh tế của các nước Châu Âu tới nay vẫn chưa đồng bộ thì hậu quả của việc để Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Myanmar, Campuchia, Lào sử dụng chung một đồng tiền là có thể nhìn thấy rõ. Bên cạnh đó những xung đột lịch sử giữa các nước như Trung Quốc và nhật Bản, sự tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, hay sự khác biệt lợi ích giữa những nước phát triển và đang phát triển khiến việc hợp tác trở nên rất khó khăn. Biểu đồ 16: Tốc độ tăng trưởng GDP của các nước ASEAN+3 Đơn vị : % 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Dự báo 2010 Brunei 2,7% 3,9% 2,9% 0,5% 0,4% 4,4% 0,2% (1,9%) (0,5%) 0,5% Singapore (2,4%) 4,2% 3,8% 9,2% 7,6% 8,7% 8,2% 1,4% (2%) 5,7% Indonesia 3,6% 4,5% 4,8% 5,0% 5,7% 5,5% 6,3% 6,0% 4,5% 6,0% Malaysia 0,5% 5,4% 5,8% 6,8% 5,3% 5,8% 6,2% 4,6% (1,7%) 4,7% Myanmar 11,3% 12% 13,8% 13,6% 13,6% 13,1% 11,9% 3,6% 4,8% 5,3% Laos 4,6% 6,9% 6,2% 7,0% 6,8% 8,6% 7,8% 7,8% 7,6% 7,2% Cambodia 8,1% 6,6% 8,5% 10,3% 13,3% 10,8% 10,2% 6,7% (2,5%) 4,8% Viet Nam 6,9% 7,1% 7,3% 7,8% 8,4% 8,2% 8,5% 6,2% 5,3% 6,7% Thailand 2,2% 5,3% 7,1% 6,3% 4,6% 5,1% 4,9% 2,5% (2,3%) 5,5% Philippines 1,8% 4,4% 4,9% 6,4% 5,0% 5,3% 7,1% 3,8% 0,9% 3,6% China 8,3% 9,1% 10,0% 10,1% 10,4% 11,6% 13,0% 9,6% 8,7% 10,0% Japan 0,2% 0,3% 1,4% 2,7% 1,9% 2,0% 2,4% (1,2%) (5,2%) 1,9% Korea South 4,0% 7,2% 2,8% 4,6% 4,0% 5,2% 5,1% 2,3% 0,2% 4,5% Nguồn: Global Finance (www.gfmag.com) Thế nhưng điều đó không có nghĩa là khả năng thống nhất tiền tệ ở Châu Á đã hoàn toàn vô vọng. Thực tế về tốc độ tăng trưởng trong 1 thập kỷ vừa qua đã làm cho sự phân hóa ở khu vực này ngày càng thu hẹp. Nếu như 10 năm trước Nhật Bản là quốc gia tiên tiến duy nhất ở Châu Á, thì nay vị thế thứ 2 thế giới của Nhật bản đã bị người Trung Quốc năm giữ. Tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển ngày càng lớn, đi kèm theo nó là sự sụt giảm của nền kinh tế Nhật và sự tăng trưởng chậm của Hàn Quốc. Có thể nói khoảng cách phân hóa giữa các nước trong khu vực đang thu hẹp dần dần. tốc đọ tăng trưởng của các nước ASEAN cũng khá là đồng đều. Qua các số liệu cũng cho ta thấy được tốc độ phát triển quá nóng của nền kinh tế Trung Quốc, và sự sụt giảm của các nền kinh tế trong năm 2009 do khủng hoảng tài chính toàn cầu. Còn về một số chỉ tiêu khác như tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, cán cân thương mại và nợ công của chính phủ. Biểu đồ 17: Tỷ lệ lạm phát các nước ASEAN+3 Đơn vị : % Tên nước 2008 2009 Dự báo 2010 Brunei 2,7% 1,8% 1,8% Singapore 6,5% 0,2% 2,1% Indonesia 9,8% 4,8% 4,7% Malaysia 5,4% 0,6% 2,0% Myanmar 22,5% 7,9% 7,8% Laos 7,6% 0,0% 6,9% Cambodia 25% (0,7%) 5,2% Viet Nam 23,1% 6,7% 12% Thailand 5,5% (0,8%) 3,2% Philippines 9,3% 3,2% 5% China 5,9% (0,7%) 3,1% Japan 1,4% (1,4%) (1,4%) Korea South 4,7% 2,8% 2,9% Nguồn: www.cia.gov Biểu đồ 18: Tỷ lệ thất nghiệp các nước ASEAN Đơn vị : % Tên nước 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Brunei 4,7% 5,6% 3,5% 4,4% 3,5% 4,1% 4,0% 3,4% 3,7% Singapore 6,0% 3,8% 5,6% 5,9% 5,8% 5,6% 4,5% 4,0% 3,2% Indonesia 6,1% 8,1% 9,1% 9,6% 9,9% 10,3% 10,3% 9,1% 8,4% Malaysia 3,1% 3,6% 3,5% 3,6% 3,5% 3,5% 3,3% 3,2% 3,6% Myanmar - - - - - - - - 4,0% Laos 7,0% 7,0% 5,1% 5,7% 5,7% 5,7% 2,4% 2,4% 2,5% Cambodia 2,5% 1,8% 1,1% 2,8% 2,5% 2,5% 2,5% 2,5% 3,5% Viet Nam 6,4% 6,3% 6,0% 5,8% 5,6% 5,3% 4,8% 4,6% 4,7% Thailand 3,6% 3,3% 2,4% 2,2% 2,1% 1,8% 1,5% 1,4% 1,4% Philippines 10,1% 9,8% 10,2% 10,2% 11,0% 7,5% 7,4% 6,2% 6,8% Nguồn: www.indexmundi.com Biểu đồ 19: Cán cân thương mại các nước ASEAN+3 Đơn vị : triệu USD Tên nước 2008 2009 6 tháng đầu năm 2010 Exports Imports Balance Exports Imports Balance Exports Imports Balance Brunei 111.5 114.3 (2.7) 100.2 41.6 58.6 72.0 7.0 65.0 Singapore 27,853.6 15,884.9 11,968.7 22,231.8 15,704.9 6,526.9 16,918.3 9,512.0 7,406.3 Indonesia 5,644.5 15,799.1 (10,154.7) 5,107.0 12,938.6 (7,831.6) 3,862.6 9,164.2 (5,301.6) Malaysia 12,949.5 30,736.1 (17,786.6) 10,403.3 23,282.6 (12,879.3) 7,913.8 14,856.2 (6,942.4) Myanmar 10.8 0.0 10.8 6.9 0.1 6.8 4.4 0.0 4.4 Laos 18.3 42.4 (24.1) 20.3 43.4 (23.1) 6.9 30.5 (23.6) Cambodia 154.2 2,411.5 (2,257.3) 127.1 1,924.2 (1,797.1) 91.7 1,207.8 (1,116.2) Viet Nam 2,789.4 12,901.1 (10,111.6) 3,097.2 12,287.8 (9,190.6) 2,024.4 7,972.6 (5,948.2) Thailand 9,066.6 23,538.3 (14,471.7) 6,918.4 19,082.5 (12,164.1) 4,985.9 12,336.4 (7,350.5) Philippines 8,294.9 8,713.3 (418.5) 5,766.4 6,794.1 (1,027.7) 4,157.6 4,413.4 (255.8) China 69,732.8 337,772.6 (268,039.8) 69,496.7 296,373.9 (226,877.2) 48,551.1 193,918.2 (145,367.1) Japan 65,141.8 139,262.2 (74,120.4) 51,134.2 95,803.7 (44,669.5) 34,400.6 65,980.6 (31,580.0) Korea 34,668.7 48,069.1 (13,400.4) 28,611.9 39,215.6 (10,603.7) 22,679.5 26,806.4 (4,126.9) Nguồn :www.census.gov Qua đây ta lại càng thấy thêm được sự khó khăn của việc thống nhất tiền tệ. Năm 2008 lạm phát ở Việt Nam lên tới 23,1% trong khi đó Nhật Bản cao nhất chỉ là 1,4%. Liệu có thể có một lãi suất cho vay chung giữa các ngân hàng các nước khi đã thống nhất tiền tệ. Trong khi các nước đang phát triển lạm phát ở mức cao Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei mức độ lạm phát chỉ tầm 1-3% thì Việt Nam, Myanmar chỉ số CPI thường xấp xỉ 10%. Tình trang nợ công của Nhật Bản cũng đang lên tới mức báo động lên tới 190% GDP trong khi nợ công ở Hy Lạp mới chỉ đạt 120% GDP đã làm chao đảo cả nền kinh tees Châu Âu. Vậy khi thiết lập 1 đồng tiền chung, Nhật Bản không thể phá giá đồng tiền của mình thì tình trạng nợ công của Nhật liệu có tiếp tục gia tăng. Giả sử Châu Á cũng có một hiệp ước như hiệp ước Mastricht ở Châu Âu, đó là tỷ lệ lạm phát không quá 1,5%, ngân sách chính phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt quá 60% thì thử hỏi sẽ có bao nhiêu nước ở Châu Á đủ điều kiện thỏa mãn. Thế nhưng đưa ra một tiêu chuẩn chung cho các nước đủ điều kiện tham gia thống nhát tiền tệ thì còn phải bàn tính nhiều khi mà sự chênh lệch các chỉ số vĩ mô giữa các nước còn nhiều chênh lệch. Qua các bảng & biểu đồ trên, ta có thể thấy tình hình kinh tế xã hội của các nước trong khối ASEAN còn chưa đồng đều. Mặt khác, sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN đều chỉ ở mức trung bình trên thế giới. Vì thế, nếu các nước trong khối ASEAN xây dựng được một liên minh tiền tệ sẽ góp phần làm tăng sự ổn định kinh tế vĩ mô & thúc đẩy kinh tế các nước này tiến nhanh và tiến xa hơn. Như vậy, có thể thấy khả năng hình thành một môi trường kinh tế vĩ mô ổn đinh, thống nhất của khu vực ASEAN là một điều tất yếu sẽ đến trong tương lai nhưng sẽ rất khó khăn. Đặc biệt, trong CC14, ASEAN tuyên bố cam kết đến năm 2015 sẽ trở thành 1 cộng đồng với 3 trụ cột. Đó là hợp tác chính trị & an ninh, hợp tác kinh tế, hợp tác văn hóa xã hội. 3.4. Khả năng thiết lập một cơ chế ổn định và liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối. Để hoàn thành việc thống nhất tiền tệ thì một bước quan trọng là phải tạo được một cơ chế tỷ giá ổn định và tạo được sự liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối. ASEAN đã có những bước khởi đầu để xây dựng một cơ chế tỷ giá như trên: đó chính là “sáng kiến Chiang Mai” với những lộ trình của nó. 3.4.1. Cơ chế ổn đinh tỷ giá- sáng kiến Chiang Mai Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN+3 (bao gồm 10 nước thành viên ASEAN, và 3 đối tác là Trung quốc, Nhật bản và Hàn quốc), tháng 5/2000 Bộ trưởng Tài chính 13 nước châu Á đã hoàn tất chương trình mở rộng trao đổi khu vực tiền tệ song phương, gọi là Sáng kiến Chiang Mai (Chiang Mai Initiative _ CMI), nhằm tăng cường hợp tác và hỗ trợ trong khu vực để ngăn chặn và đối phó với các cuộc khủng hoảng trong tương lai, thông qua các cơ chế hỗ trợ những khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán của các nước trong khu vực. Nội dung hợp tác tiền tệ quan trọng này của khu vực gồm: Mở rộng quy mô vốn của hoán đổi tiền tệ ASEAN (ASA). Thiết lập một mạng lưới thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương giữa các nước ASEAN+3 (BSA). Tăng cường cơ chế giám sát và đối thoại chính sách kinh tế trong khu vực ASEAN+3 ở cấp: (i) Bộ trưởng Tài chính (AFMM+3); và (ii) Thứ trưởng Tài chính và Phó Thống đốc NHTW (AFDM+3). Như vậy trọng tâm của Sáng kiến Chiang Mai là thỏa thuận hỗ trợ tài chính giữa 13 nước, mục đích là tăng cường cơ chế hỗ trợ trong khu vực để đối phó với khủng hoảng tiền tệ. Thỏa thuận này được xây dựng dựa trên Thoả thuận Swap ASEAN trước đây (ASA), nhằm bổ sung cho cơ chế hợp tác tài chính quốc tế hiện nay và góp phần ổn định tỷ giá trong khu vực 3.4.2. Tiến trình đa phương hoá sáng kiến Chiang Mai Từ bài học kinh nghiệm khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á năm 1997-1998, tiến trình hợp tác tài chính ASEAN+3 đã thống nhất quan điểm các nước trong khu vực cần một có một quỹ ngoại tệ lớn để hỗ trợ cán cân thanh toán và duy trì dự trữ ngoại hối của từng quốc gia để đối phó với các trường hợp xảy ra khủng hoảng cùng với sự phối hợp chặt chẽ về chính sách và cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô. Trong thời kỳ đầu, nếu một quốc gia đề nghị được hỗ trợ do khủng hoảng tài chính thì quốc gia đó phải yêu cầu sự hỗ trợ riêng từ từng nước đã ký kết thỏa thuận hoán đổi tiền tệ. Chính sự phức tạp này đã làm mất đi tính hiệu quả của Sáng kiến. Vì vậy ý tưởng về hỗ trợ tài chính đa phương trong ASEAN+3 đã được đề xuất và bắt đầu nghiên cứu từ năm 2006 trên cơ sở đa phương hóa các BSA trong khuôn khổ CMI (nghĩa là nếu 1 nước thành viên đề nghị được hỗ trợ thì tất cả các nước sẽ nhóm họp khẩn cấp trong hai ngày và đưa ra quyết định hỗ trợ trong 1-2 tuần.) và được gọi là tiến trình Đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai (CMIM). Trải qua quá trình đàm phán, phê duyệt và ký kết từ đó đến nay, Thỏa thuận CMIM đã được các nước ký kết vào cuối năm 2009 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 24/3/2010 do các Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc Ngân hàng trung ương các nước thành viên ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Cơ quan quản lý tiền tệ Hồng Kông (Trung Quốc) tuyên bố. Thoả thuận CMIM là một thể thức cho vay hỗ trợ tài chính ngắn hạn cho các nước thành viên khi gặp khó khăn về cán cân thanh toán, bổ sung một cách có hiệu quả cho các cơ chế hỗ trợ cán cân thanh toán hiện hành của các định chế tài chính quốc tế như chương trình cho vay của Tổ chức Tiền tệ thế giới (IMF). Thực hiện CMIM sẽ góp phần tăng cường giám sát kinh tế và hỗ trợ thanh khoản bằng USD trong khu vực dưới hình thức Quỹ Dự trữ tự quản (SRPA) của khu vực ASEAN+3 thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ giữa các Ngân hàng Trung ương để giải quyết khó khăn khẩn cấp trong cán cân thanh toán và thanh khoản USD trong ngắn hạn để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ và kinh tế vĩ mô Việc ký kết Thoả thuận CMIM mang ý nghĩa kinh tế và quyết tâm chính trị của các nhà Lãnh đạo Cấp cao ASEAN+3, là biểu trưng cho sự thành công của hợp tác tài chính khu vực, thể hiện cam kết hợp tác ở mức độ cao và tinh thần hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước thành viên. CMIM được xem là hành động kịp thời và hiệu quả của ASEAN+3 trong các nỗ lực giải quyết các tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các nội dung cơ bản của Thoả thuận CMIM cụ thể như sau: Vốn góp: Tổng quy mô vốn của CMIM là 120 tỷ USD. Mức đóng góp của các nước trong CMIM được phân bổ theo tỷ lệ đã thống nhất dựa trên quy mô dự trữ ngoại hối của từng nước. Theo đó, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ đóng góp mỗi nước 38,4 tỷ USD để mở rộng nguồn quỹ, trong khi Hàn Quốc đóng góp 19,2 tỷ USD; phần còn lại (20%) do các nước ASEAN đóng góp Cam kết đóng góp về tài chính Hệ số USD (tỷ) (%)  Trung Quốc 38.40 Trung Quốc (Không bao gồm Hồng Kông) 34.20  32.00 28.50 0.5 Hong Kong, China 4.20 3.50 2.5 Nhật Bản 38.40 32.00 0.5 Hàn Quốc 19.20 16.00 1 Nhóm +3 96.00 80.00 - Indonesia 4.77 3.97 2.5 Thái Lan 4.77 3.97 2.5 Malaysia 4.77 3.97 2.5 Singapore 4.77 3.97 2.5 Philippines 3.68 3.07 2.5 Việt Nam  1.00  0.83  5 Cam-pu-chia 0.12 0.10 5 Myanmar 0.06 0.05 5 Brunei 0.03 0.02 5 CHDCND Lào 0.03 0.02 5 ASEAN 24.00 20.00 -  Tổng  120.00  100.00  - Hình thức đóng góp và cơ chế vay: được thực hiện dưới hình thức Giấy nhận nợ (P/N) để đảm bảo phù hợp với tính chất dự phòng của cơ chế hỗ trợ tài chính đa phương. Trong điều kiện bình thường, các nước thành viên vẫn nắm giữ số tiền cam kết đóng góp của mình. Trong trường hợp khủng hoảng và phát sinh yêu cầu vay, số tiền đóng góp mới thực sự phát sinh thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ giữa đồng bản tệ và đồng đô la Mỹ giữa Ngân hàng Trung ương nước đi vay và nước cho vay. Quy trình ra quyết định cho vay: Khi một nước thành viên đề nghị vay, trong vòng 1 tuần, nước điều phối sẽ phải triệu tập cuộc họp để đánh giá tình trạng khó khăn của nước đi vay, bỏ phiếu ra quyết định cho vay đối với đề nghị của nước đi vay. Toàn bộ quy trình từ khi nhận đề nghị vay tới khi ra quyết định tối đa là 2 tuần. Các vấn đề Các nguyên tắc ra quyết định Các vấn đề cơ bản Kiểm điểm (quy mô Quỹ, mức vốn góp, hệ số vay), Tái chấp nhận thành viên, xem xét tư cách thành viên, các điều khoản cho vay. Đồng thuận Các vấn đề cho vay Quyết định cho vay Biểu quyết theo đa số Gia hạn khoản vay, đánh giá trường hợp mất khả năng thanh toán Quyền lợi và nghĩa vụ của nước thành viên tham gia: Các nước tham gia CMIM phải cam kết đóng góp vốn từ nguồn dự trữ ngoại hối của mình và có nghĩa vụ cho vay khi một nước thành viên gặp khó khăn về cán cân thanh toán theo tỷ lệ phân bổ tương ứng. Mỗi nước thành viên sẽ được vay tối đa hạn mức tương ứng với số vốn góp của mình nhân với tỷ lệ vay. Tỷ lệ vay đối với các nước nhỏ bao gồm Brunei, Lào, Campuchia, Myanma và Việt Nam là 5 (mức cao nhất); các nước ASEAN-5 là 2,5; Hàn Quốc là 1; Trung Quốc và Nhật Bản là 0,5 và riêng Hồng Kông là 2,5. Trong trường hợp không có Chương trình với IMF, nước đi vay chỉ được vay tối đa 20% tổng hạn mức vay. Cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô: được thực hiện định kỳ nhằm đảm bảo sự vận hành hiệu quả của CMIM. Trong điều kiện bình thường, các nước thành viên sẽ phải tham gia các Chương trình kiểm điểm kinh tế và đối thoại chính sách từ 2-3 lần/ năm. Trong điều kiện khủng hoảng, các nước đi vay phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện vay tiên quyết và cơ bản, trong đó có các cam kết về cung cấp Báo cáo giám sát kinh tế vĩ mô theo yêu cầu của nước cho vay, tuân thủ Chương trình IMF đang triển khai, đảm bảo duy trì hạn mức dự trữ ngoại hối tối thiểu bằng 3 tháng nhập khẩu và các nghĩa vụ tiền tệ khác. Các nước đã thống nhất thành lập Cơ quan Giám sát Kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) để thực hiện nhiệm vụ phân tích và giám sát kinh tế khu vực, hỗ trợ cho quá trình vận hành của CMIM. Các vấn đề liên quan đến việc thành lập AMRO hiện đang được tiếp tục thảo luận với mục tiêu ký kết Thỏa thuận thành lập AMRO vào tháng 12/2010. Như vậy có thể thấy những sáng kiến và tiến bộ trên của ASEAN dù còn khiêm tốn nhưng đã có những đóng góp quan trọng trong nỗ lực ổn định hợp tác của khu vực để ổn định tài chính, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của khủng hoảng, là tiền đề quan trọng trong việc tiến tới việc kết tỷ giá chặt chẽ hơn trong tương lai. 3.5. Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương (NHTW) độc lập với một chính sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất. Khi hợp nhất tiền tệ, các nước sẽ cùng nhau thành lập NHTW chung, Ngân hàng này chịu trách nhiệm đưa ra các biện pháp ổn định tiền tệ chung cũng như chính sách tiền tệ cho các nước thành viên (như NHTW Châu Âu ECB). Tuy nhiên trên thực tế, khả năng hình thành một NHTW độc lập và một đồng tiền thống nhất ở ASEAN chưa có dấu hiệu trở thành hiện thực trong tương lai gần. Tuy nhiên về khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập, ở châu á cũng đã xuất hiện đề xuất thiết lập một Viện tiền tệ châu Á (các năm 1997, 2000, rồi đến Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 12 (AFMM12) 3 - 4/4/2008 cũng họp về vấn đề này), tương tự như Viện tiền tệ châu Âu của EU trước đây. Viện này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp các chương trình cải cách và phát triển lĩnh vực tài chính tiền tệ giữa các nước thành viên. Đây sẽ là nơi cung cấp sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các nước thành viên, tổ chức các chương trình đào tạo, là nơi để các nước thành viên đàm phán các hiệp định chung, đề ra các tiêu chuẩn trong lĩnh vực tài chính. Viện này cũng có thể sẽ tham gia vào việc thanh toán giữa các ngân hàng trung ương các nước thành viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một đề xuất của các nhà nghiên cứu mà chưa hề có một biện pháp cụ thể để đưa đề xuất đó thành hiện thực. Về đồng tiền chung, hiện các nước ASEAN đang cân nhắc hai khả năng: sử dụng một đồng tiền bản tệ hoặc hình thành một đồng tiền mới. Về khả năng lấy một đồng bản tệ trong khu vực làm đồng tiền chung thì đồng đôla Singapore được xem là ứng cử viên sáng giá nhất, với lý do nền kinh tế Singapore có khả năng cạnh tranh cao, dịch vụ và công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, chính sách kinh tế vĩ mô thông thoáng và hiệu quả, cơ chế quản lý ngoại hối linh hoạt, dự trữ ngoại tệ và thặng dư thương mại lớn. Nhưng một số ý kiến khác cho rằng quy mô kinh tế và thị trường tài chính tiền tệ của Singapore quá nhỏ, đồng đôla Singapore chưa hoàn toàn chuyển đổi tự do nên khó có thể đảm nhận vai trò đồng tiền chung khu vực. Mặt khác, việc khu vực hoá đồng đôla Singapore sẽ làm cho quy mô lưu thông của đồng tiền này lớn hơn, gây khó khăn cho chính phủ nước này trong việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ nên chính phủ Singapore ngần ngại trong việc chấp thuận đồng tiền nước mình trở thành đồng tiền chung khu vực. Khả năng thứ hai là hình thành một đồng tiền mới cho ASEAN như kiểu đồng Euro. Tuy nhiên, hiện nay chưa xuất hiện hình thái chuẩn bị nào cho một đồng tiền như vậy và các nước ASEAN mới chỉ tích cực nghiên cứu tìm ra giải pháp cho việc triển khai ý tưởng này dựa trên kinh nghiệm phát hành đồng Euro. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, nền kinh tế Trung Quốc đang dần khẳng định được vị thế của mình và đóng góp rất quan trọng cho nền kinh tế toàn cầu. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua năm 2008, đồng USD đã mất đi niềm tin và đồng Nhân Dân Tệ (NDT) được mọi người nhắc đến nhiều và sử dụng rộng rãi. Xét trên phương diện toàn cầu thì đồng NDT đã có được vị thế rất đáng tin cậy. Cùng với đó Trung Quốc đang có những động thái tích cực nhằm quốc tế hóa đồng NDT, biến đồng nội tệ thành đồng tiền mạnh trên thế giới, trong tương lai có thể cùng với USD và EURO tạo nên thế chân vạc. Vì vậy, sẽ rất khó khăn khi muốn Trung Quốc từ bỏ ý định biến đồng Nhân dân tệ trở thành đồng tiền mạnh ở châu Á để tiếp nhận đồng tiền chung châu Á. Hơn nữa, Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc-ASEAN chính thức có hiệu lực từ 1-2010, đã giúp NDT mở rộng được phạm vi lưu thông của nó, NDT ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong thanh toán quốc tế. Tuy vậy NDT chưa thể tự do quy đổi nhưng ở một số nước như Lào, Campuchia, người dân đã bắt đầu dùng đồng NDT làm công cụ trao đổi và xu thế tích trữ đồng NDT cũng bắt đầu xuất hiện. Mậu dịch tự do mở cửa sẽ là yếu tố tất nhiên đưa NDT đi lên và củng cố vị thế của nó trên thế giới. Dù chưa phải là dòng chủ lưu, nhưng với những lợi ích mà các nước châu Á có được khi đồng NDT tăng giá, vô hình trung nó đã “đi vào lòng” người dân ở các nước trong khu vực.Những phân tích thông thường đều cho rằng không có khả năng xây dựng đồng tiền chung châu Á. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, khi các nước Âu, Mỹ chịu tác động nghiêm trọng, thì Trung Quốc lại tương đối “thoát khỏi đại nạn.”.Nền kinh tế Trung Quốc ngày càng mạnh lên, đồng Nhân dân tệ được dự đoán tăng giá và xu thế tích trữ rộng rãi đồng tiền này sẽ là xu thế tất yếu. Đối diện với các vấn đề như vậy, thái độ của các nước châu Á về tính thực tế một đồng tiền chung châu Á cần có chuyển biến. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp vừa qua lại khiến cho quyết định thành lập đồng tiền chung châu Á cần thận trọng và xem xét kỹ hơn. Sự thất bại về hàng loạt nguy cơ khủng hoảng nợ ở châu Âu cũng minh chứng cho những mặt yếu kém và bất cập của nó. Do đó nếu muốn đồng tiền chung châu Á ra đời thì không nên vội vã mà hãy thu góp kinh nghiệm từ châu Âu. Bởi vì một đồng tiền chung lớn như vậy ra đời là một quyết định rất quan trọng và ảnh hưởng rất sâu rộng đến nền kinh tế không chỉ một quốc gia mà là của rất nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam). Tóm lại, ASEAN đã có những tiền đề đầu tiên để hình thành một liên minh tiền tệ. Nếu đứng trên phương diện lý thuyết, nghiên cứu của các nhà kinh tế sử dụng các chỉ số tổng hợp của một khu vực tiền tệ tối ưu về mức độ tự do di chuyển các yếu tố sản xuất, mức độ linh hoạt của giá cả và tiền lương, mức độ trùng hợp của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng, và mức độ thương mại nội bộ đã cho thấy rằng các chỉ số trên của ASEAN hiện nay tương đương với EU trước khi ký Hiệp ước Masstricht. ASEAN thậm chí còn có mức độ linh hoạt về giá cả và tiền lương cao hơn EU, và do đó khả năng điều chỉnh khi xảy ra khủng hoảng cũng nhanh hơn. Cụ thể là các nước ASEAN thường chỉ mất khoảng 2 năm để điều chỉnh và phục hồi trong khi chỉ một nửa số các cú sốc xảy ra với các nước EU được điều chỉnh trong vòng 2 năm, còn lại phải mất nhiều thời gian hơn. Các nước ASEAN cũng cho thấy có mức độ trùng hợp về chu kỳ kinh tế cao hơn các nước EU. Còn đứng trên phương diện thực tế, một sự so sánh giữa các giai đoạn phát triển của EU và ASEAN, như trên đã phân tích, cũng cho thấy rằng các nước ASEAN hoàn toàn có những điều kiện cần thiết để tạo dựng một liên minh tiền tệ. Tuy nhiên, con đường để đi đến một liên minh tiền tệ sẽ rất nhiều khó khăn, trở ngại, đòi hỏi các nước trong khu vực phải có những chính sách, biện pháp phù hợp và những bước đi cụ thể. KẾT LUẬN Trong vài thập kỉ trở lại đây, xu hướng khu vực hóa toàn cầu hóa đang nổi lên như là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Cùng với đó, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi lớn nếu các quốc gia biết tranh thủ tận dụng và phát huy. Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng gia tăng mạnh mẽ cũng đã và đang khuyến khích sự ra đời của các liên minh tiền tệ. Sau sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu, lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy rằng ở ASEAN có thể và có đủ khả năng hình thành một liên minh tiền tệ của khu vực. Nhận thức được điều đó, các nước trong khu vực Đông Nam Á đã và đang từng bước thực hiện những bước đi vững chắc tạo tiền đề cho sự hình thành một liên minh tiền tệ của khu vực mà ban đầu là các hiệp định về lộ trình cắt giảm tiến tới xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan (hiệp định CEPT), hiệp định khung về khu vực đầu tư AIA, tiếp đến là hội nghị cấp cao ASEAN 14 cam kết thúc đẩy hợp tác và tăng cường phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, sự ra đời của “ sáng kiến Chieng mai” đã tạo nền tảng vững chắc cho việc thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá, một trong những điều kiện tiên quyết cho việc hình thành một liên minh tiền tệ. Mặc dù còn tồn tại những khó khăn, đặc biệt là sự biến động của nền kinh tế thế giới mà đặc biệt là khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 tuy nhiên sự nỗ lực trong việc thực hiện lộ trình được đề ra của các nước khu vực Đông Nam Á là không thể phủ nhận. chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào một tương lai không xa, Đông Nam Á sẽ thành lập được liên minh tiền tệ của khu vực, phát triển kinh tế xã hội ngang hàng với các khu vực phát triển khác trên thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu.doc
Luận văn liên quan