Đề tài Một số Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU 3 1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 3 1.1.1.Khái niệm và bản chất của tín dụng 3 1.1.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng 7 1.1.2.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay của người vay 7 1.1.2.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay của người vay 8 1.1.2.3. Theo điều kiện đảm bảo 9 1.1.2.4. Theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay 9 1.1.2.5. Theo đối tượng tín dụng 10 1.1.2.6. Ngoài ra tín dụng cò được phân chia theo các cách sau 10 1.1.3. Vai trò của hoạt động tín dụng đối với sự phát triển kinh tế 11 1.1.3.1. Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế 11 1.1.3.2. Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trongnền kinh tế tạo cơ chế phân phối vốn một cách có hiệu quả. 12 1.1.3.3.Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược kinh tế và các chính sách tiền tệ 12 1.1.3.4. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ gaio lưu kinh tế quốc tế 12 1.2. Tín dụng xuất nhập khẩu 13 1.2.1. Bản chất của tín dụng xuất nhập khẩu 13 1.2.2. Tín dụng xuất nhập khẩu trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại 15 1.2.3. Các loại hình tín dụng xuất nhập khẩu 17 1.2.3.1. Tín dụng xuất nhập khẩu dạng cổ điển 17 1.2.3.2. Tín dụng xuất nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu 18 1.2.3.3. Tín dụng xuất nhập khẩu trên phương thức thanh toán nhờ thu 21 1.2.3.4. Tín dụng xuất nhập khẩu trên phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 21 1.2.3.5. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu khác 24 1.2.4. Những rủi ro thưòng gặp trong tín dụng xuất nhập khẩu 27 1.2.4.1. Rủi ro do khách hàng mất khả năng thanh toán 28 1.2.4.2. Rủi ro liên quan đến môi trường pháp lý 28 1.2.4.3. Rủi ro do thay đổi bất lợi về tỷ giá 29 1.2.4.4. Rủi ro do thay đổi bất lợi về lãi suất 29 1.2.4.5. Rủi ro do gian lận thương mại 29 1.3. Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu 30 1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng XNK 30 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu 30 1.3.2.1. Các chỉ tiêu định lượng. 31 1.3.2.2. Các chỉ tiêu định tính 34 1.4. các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng XNK 35 1.4.1. Nhóm nhân tố từ phía ngân hàng 36 1.4.1.1. Chính sách tín dụng XNK của ngân hàng 36 1.4.1.2. Quy trình tín dụng XNK 37 1.4.1.3. Công tác tổ chức ngân hàng 38 1.4.1.4. Phẩm chất và trình độ cán bộ 38 1.4.1.5. Tình hình huy động vốn 39 1.4.1.6. Kiểm soát nội bộ 39 1.4.2. Nhóm nhân tố từ phía khách hàng 39 1.4.2.1. Năng lực của khách hàng 40 1.4.2.2. Sự trung thực của khách hàng 40 1.4.2.3. Rủi ro trong việc kinh doanh của khách hàng 40 1.4.2.4. Tài sản đảm bảo 41 1.4.2.5. Sự không theo kịp với quá trình đổi mới 41 1.4.3. Nhóm các nhân tố khác 42 1.4.3.1. Môi trường kinh tế 42 1.4.3.2. MôI trường xã hội 42 1.4.3.3. MôI trường tự nhiên 43 1.4.3.4. Những nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô của Nhà nước 43 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 44 2.1. Khái quát về ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 44 2.1.1. Lịch sử hình thành 44 2.1.2. Cơ cấu tổ chức 45 2.1.2.1. Hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 45 2.1.2.2. Mô hình tổ chức hội sở chính 45 2.1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của một số phòng ban 46 2.2. Các nhân tố kinh tế xã hội tác động tới hoạt động của NH ĐT&PTVN 58 2.2.1. Môi trường kinh tế 58 2.2.1.1.Vài nét về hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 58 2.2.1.2 . Môi trưòng kinh tế trong nước và thế giới ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư và phát tiển Việt Nam. 63 2.2.2. Môi trường xã hội 65 2.2.3. Môi trường tự nhiên 66 2.2.4. Những nhân tố thuộc về Nhà nước 66 2.3. Các kết quả kinh doanh chủ yêú của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 67 2.3.1. Về huy động vốn 67 2.3.2. Về hoạt động tín dụng 68 2.2.3. Về kinh doanh tiền tệ 69 2.2.4. Về hoạt động bảo lãnh 70 2.2.5. Về thanh toán quốc tế 70 2.2.6. Về hoạt động uỷ thác và ngân hàng bán buôn 71 2.3.7. Về dịch vụ ngân hàng 72 2.3.8. Về phát hành và thanh toán thẻ 72 2.3.9. Về hệ thống thanh toán điện tử 72 2.4. Thực trạng về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 73 2.4.1. Đánh giá chất lượng tín dụng XNK tại NHĐT&PTVN theo các chỉ tiêu định lượng 73 2.4.1.1. Theo chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu dư nợ xuất nhập khẩu 73 2.4.1.2. Theo chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn trong tín dụng xuất nhập khẩu 76 2.4.1.3. Theo chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng XNK 78 2.4.1.4. Theo chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng XNK 79 2.4.1.5. Theo hiệu suất sử dụng vốn tín dụng XNK 80 2.4.2. Đánh giá chất lượng tín dụng XNK tại NHĐT&PTVN theo các chỉ tiêu định tính 80 2.5. Các giải pháp mà NHĐT&PTVN đã đề ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng XNK 81 2.6. Đánh giá chất lượng tín dụng XNK tại NHĐT&PTVN 82 2.6.1. Những kết quả đạt được 82 2.6.2. Những hạn chế và nguyên nhân 84 2.6.2.1. Hạn chế 84 2.6.2. Nguyên nhân 86 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XNK TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 88 3.1. Những định hướng chung về tín dụng XNK của NH ĐT&PTVN 88 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tín dụng XNK tại NH ĐT&PTVN 89 3.2.1. Đẩy mạnh công tác huy động vốn 89 3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK 90 3.2.3. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố 92 3.2.4. Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK 93 3.2.5. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK 93 3.2.6. Xây dựng và phát triển quan hệ lâu dài với khách hàng 95 3.2.7. Nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng 97 3.2.8. Phát triển hệ thống công nghệ Ngân hàng 97 3.2.9. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu 98 3.3. Một số kiến nghị 99 3.3.1. Kiến nghị với cơ quan Nhà nước 99 3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước 101 3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 101 3.3.4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK 102 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106

doc122 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án kinh doanh khi cho vay. Vì vậy, có một số khách hàng đã không thực hiện được các phương án liên doanh một cách khả thi dẫn đến thua lỗ, mất khả năng trả nợ Ngân hàng. - Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thông thường khi cho vay đều có tài sản thế chấp hoặc ngân hàng kiểm soát chặt chẽ các khoản vay đối với các đối tượng này. Vì vậy, tình trạng nợ quá hạn hầu như không xảy ra đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Như vậy chỉ tiêu nợ quá hạn XNK của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong những năm qua là tương đối đạt yêu cầu. Nhưng xét về cơ cấu ta thấy nợ quá hạn chủ yếu tập trung vào cho vay quốc doanh, điều này đã làm giảm chất lượng tín dụng XNK. Do đó Ngân hàng cần xem xét nâng cao hiệu quả cho vay nhiều hơn nữa để nâng cao chất lượng tín dụng XNK. 2.4.1.3. Theo chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng XNK Vòng quay vốn tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng qua cac năm được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.6. Vòng quay vốn tín dụng xuất nhập khẩu Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 SS02/01 SS03/02 Doanh số thu nợ XNK Dư nợ bình quân XNK Vòng quay vốn tín dụng XNK 96.631,92 25.564 3,78 122.266,56 31.512 3,88 162.630 39.000 4,17 26,5 23,3 2,65 33 23,8 7,47 (Nguồn: Báo cáo thường niên - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam) Qua bảng số liệu trên ta thấy năm 2003 vòng quay vốn tín dụng XNK cao hơn so với năm 2000 và năm 2001 (năm 2002 là 3,88 tăng 2,65% so với năm 2001, năm 2003 là 4,17 tăng 7,47% so với năm 2002). Đó là do tốc độ tăng của doanh số thu nợ XNK lớn hơn tốc độ tăng của dư nợ bình quân XNK. Như vậy, vòng quay XNK vốn tăng dã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. 2.4.1.4. Theo chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng XNK Tình hình thu nhập từ hoạt động tín dụng XNK năm 2000, 2001, 2002 được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.7. Thu nhập từ hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu ĐVT: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 2001 2002 2003 ST ST 02/01 ST 03/02 Tổng thu nhập từ TDXNK 1.083.271 986.900 - 8,9 1.144.804 16 (Nguồn: Báo cáo thường niên - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam) Qua bảng số liệu trên ta thấy, thu nhập từ hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng thu nhập của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Mức tăng trưởng của thu nhập từ hoạt động tín dụng XNK không ổn đinh qua các năm (năm 2002 giảm 8,8% so với năm 2001, đến năm 2003 đã tăng 16%). Một mặt là do có sự biến động của tỷ giá và có những khó khăn đối với hoạt động XNK trong năm 2002. Mặt khác, là do Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã quá thận trọng trong việc xem xét cấp tín dụng XNK. Vấn đề đặt ra là ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cần phải mở rộng cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Lãi suất đặt ra cho các khoản vay là thu nhập của ngân hàng. Ở ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã có một chính sách lãi xuất rõ ràng cho các khách hàng loại I, khách hàng loại II, cho VND và cho ngoại tệ. Tuy nhiên, điều đáng bàn ở đây là việc phân loại khách hàng loại I, loại II còn phụ thuộc vào yếu tố cảm tính của người phân loại, điều này dễ dàng làm cho việc phân loại khách hàng không được mang tính khách quan. Việc khắc phục những tình trạng trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 2.4.1.5. Theo hiệu suất sử dụng vốn tín dụng XNK Bảng 2.8. Hiệu suất sử dụng vốn tín dụng xuất nhập khẩu ĐVT: Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Tổng dư nợ XNK Tổng vốn huy động Hiệu suất sử dụng vốn tín dụng XNK 25.564 43.329 59% 31.512 53.867 58,5% 39.000 67.241 58% (Nguồn: Báo cáo thường niên - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam) Qua bảng số liệu trên ta thấy, dư nợ XNK tăng dần qua các năm nhưng hiệu suất sử dụng vốn tín dụng xuất nhập khẩu lại bị giảm dần qua các năm (Năm 2001 hiệu suất sử dụng vốn tín dụng xuất nhập khẩu là 59%, năm 2002 giảm xuống còn 58,5% và đến năm 2003 chỉ còn 58%). Hiệu suất sử dụng vốn tín dụng xuất nhập khẩu giảm dẫn đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng bị giảm đi. Do đó, Ngân hàng cần phải nâng cao hiệu suất sử dụng vốn tín dụng xuất nhập khẩu để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng. Qua đánh giá trên ta thấy, số vốn tín dụng xuất nhập khẩu đã tăng dần qua các năm nhưng do ảnh hưởng của một vài nhân tố mà chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu chưa được nâng cao, do đó Ngân hàng cấn xem xét các yếu tố đó để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. 2.4.2. Đánh giá chất lượng tín dụng XNK tại NHĐT&PTVN theo các chỉ tiêu định tính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là một ngân hàng có uy tín rất lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong và ngoài nước, điều này ngày càng làm cho có nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khi đến với ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam để giao dịch, khách hàng sẽ cảm thấy yên tâm bởi vì ở đây tìa sản của khách hàng luôn được coi trọng cẩn thận (có ban bảo vệ, có bãi gửi xe và không thu lệ phí). Khách hàng mới sẽ không mất nhiều thời gian để tìm phòng tín dụng bởi ở ngay trước cửa của bất cứ điểm giao dịch nào đều có bảng chỉ dẫn các phòng ban. Hệ thống cửa tự động cùng với trang thiết bị ngân hàng hiện đại đã giúp khách hàng có ấn tượng tốt về ngân hàng ngay từ đầu. Có thể nói ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có phong cách phục vụ tót nhất trong các ngân hàng của Việt Nam. Trong phòng tín dụng, cách bài trí phòng rất đẹp. Đặc biệt là khả năng giao tiếp giao tiếp ngoại ngữ thành thạo và thái độ của các nhân viên, các cán bộ tín dụng ở đây rất lịch thiệp, cởi mở đã tạo ra một không khí thoải mái khách hàng và cán bộ ngân hàng. Tất cả các điều đó đã đóng góp rất nhiều vào việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 2.5. Các giải pháp mà NHĐT&PTVN đã đề ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng XNK Để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã đưa ra các giải pháp sau: - Thực hiện các văn bản chế độ của ngành và quy trình cho vay một cách nghiêm túc mà không coi nhẹ hay bỏ qua những thủ tục cần thiết và đi đúng hướng chỉ đạo của cấp trên. - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam coi trọng và đặt lên hàng đầu về đảm bảo chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu, tiến hành kiểm tra đánh giá khách hàng trước khi cho vay một cách chặt chẽ. Thường xuyên phân tích tình hình tài chính của khách hàng và phân loại khách hàng nhằm duy trì và phát triển quan hệ tín dụng xuất nhập khẩu đối với những đơn vị kinh tế lớn kinh doanh có hiệu quả và có uy tín từ nhiều năm. Mở rộng, thu hút đầu tư tín dụng xuất nhập khẩu đối với các đơn vị là công ty liên doanh trong và ngoài nước, đồng thời giảm dư nợ đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và cương quyêt không đầu tư đối với những dự án không có tính khả thi. - Kiểm tra sử dụng vốn vay thường xuyên để kịp thời phát hiện những sai phạm và xử ký kịp thời các khoản nợ quá hạn, đặc biệt là nợ khó đòi, ngân hàng đã xử lý dứt điểm những tài sản bắt nợ bằng các biện pháp như: phân loại nợ quá hạn, phân tích thực trang từng món nợ, nguyên nhân phát sinh và khả năng thu hồi, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để có biện pháp phù hợp đạt hiệu quả. - Tổ chức các lớp nghiệp vụ ngắn hạn: ngoại ngữ, tin học và nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu để nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu. Hiện nay, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã tiến hành phân loại khách hàng vay vốn, từ đó có chính sách ưu đãi đối với từng khách hàng. Khách hàng loại I, loại II được giảm lãi xuất tiền vay đồng Việt Nam và ngoại tệ. Các hợp đồng vay có giá trị lớn cũng được hưởng ưu đãi về lãi suất tuỳ theo giá trị hợp đồng. Đặc biệt hiện nay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đang thực hiện ưu lãi suất đối với cho vay ngắn hạn bằng USD để thu mua hàng xuất nhập khẩu và trả nợ bằng USD. 2.6. Đánh giá chất lượng tín dụng XNK tại NHĐT&PTVN 2.6.1. Những kết quả đạt được Cùng với sự đổi mới của toàn ngành, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cũng không ngừng đổi mới. Cán bộ tín dụng của ngân hàng ngày nay đã thực sự năng động thường xuyên đi xuống các đơn vị nắm bắt tình hình để chủ động tìm đến những khách hàng lớn, có uy tín. Nhiều doanh nghiệp lớn thuộc nhiều ngành như: dệt may, giầy da, chế biến nông, hải sản… đã đánh giá cao công tác tín dụng của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Không chỉ tập trung cho các dự án lớn, mà ngân hàng còn quan tâm đến các dự án vừa và chỏ nhưng có hiệu quả kinh tế - xã hội cao và vực dậy một số doanh nghiệp đang trên bờ phá sản. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nhiều khi không chỉ là bạn hàng, mà còn là người bảo trợ, đỡ đầu các dự án, góp phần quan trọng cho sự thành công của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Doanh số cho vay thu mua gạo, cà phê, cao su … xuất khẩu; cho vay nhập khẩu phân bón, nguyên vật liệu, trang thiết bị… cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không ngừng gia tăng. Vào đầu năm 2002 Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và Incombank Matxcơva đã ký kêt thoả thuận để tài trợ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Nga với mức vốn cung cấp là 30 triệu USD, thực hiện theo phương thức thư tín dụng trả chậm 180 ngày thông qua Incombank Matxcơva và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Đặc biệt nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nga từ 700 triệu USD lên 900 triệu USD trong năm 2003 và cao hơn nữa trong những năm tới, đã có phương án tài trợ cho doanh nghiệp Nga thanh toán tiền hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Có thể hình dung phương thức thanh toán đó như sau: Công ty mua nợ (của Mỹ) chấp nhận và phát hành thư cam kết thanh toán BIDV NHTM Nga mở L/C BIDV gửi cam kết cho NHTM Nga đồng thời báo cho Doanh nghiệp Việt Nam Doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng, lập bộ chứng từ hợp lệ gửi cho BIDV NHTM Nga kiểm tra bộ chứng từ: + Báo cho doanh nghiệp Nga đi nhận hàng + Thông báo lại cho BIDV hồ sơ cần thiết BIDV gửi bộ chứng từ giao hàng cho NHTM Nga Công ty mua nợ thanh toán trong vòng 3 ngày vào tài khoản của Doanh nghiệp Việt Nam tại BIDV BIDV gửi chứng từ cho công ty mua nợ 2.6.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.6.2.1. Hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu ở trên, chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thời gian qua tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế sau: Nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu còn đơn điệu, chủ yếu dưới các hình thức cổ điển, chưa tiếp cận được với các nghiệp vụ tín dụng mới khá phát triển trên thế giới và khắc phục được khó khăn không có tài sản thế chấp đó là nghiệp vụ thuê mua (Leasing) mới triển khai ở Việt Nam nhưng đã đem lại hiệu quả khá tốt Phương thức thanh toán hàng nhập khẩu bằng L/C trả chậm những năm qua đã gây ra nhiều rủi ro lớn cho ngân hàng. Hậu quả để lại là nợ quá hạn, nợ khó đòi đều tăng cao. Trước tình hình đó, thống đốc ngân hàng Nhà Nước đã ra chỉ thị 06/NHNN7-Công ty về tăng cường công tác vay và trả nợ nước ngoài, Quy chế mở L/C trả chậm ngày 1/7/1997 và quyết định 802/TTg ngày 24/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý tồn tại đối với mở L/C trả chậm để đưa công tác bảo lãnh L/C nhập khẩu hàng trả chậm của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng đi vào nền nếp. Đang có xu hướng chuyển dịch các nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu sang các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Nhiều dự án lớn, có hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, thuỷ hải sản, cà phê … đã rơi vào các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Việc thanh toán những mặt hàng chủ lực của Việt Nam đều được tiến hành gần như tối đa qua các chi nhánh ngân hàng nước ngoài: thanh toán xuất khẩu gạo với số lượng lớn được thực hiện qua BNP của pháp, xuất khẩu than chủ yếu qua Citybank của Mỹ và ING Bank của Hà Lan; thuỷ hải sản qua BFCE của Pháp; cà phê xuất khẩu qua chi nhánh ngân hàng Deutsche của Đức … Việc tạo được nguồn vốn tín dụng xuất nhập khẩu còn tiềm chứa rủi ro cao hơn nhiều so với bất kỳ loại tín dụng ngân hàng nào khác. Ngoài những nguyên nhân gây rủi ro như đối với tín dụng thông thường thì tín dụng xuất nhập khẩu còn nhiều nguyên nhân có thể gây rủi ro như: do bị cấm xuât nhập khẩu, cấm vận, bị cấm thanh toán, khó khăn chuyển đổi ngoại tệ, chiến tranh, chế độ chính trị thay đổi, chính sách phá giá đồng bản tệ …bởi vậy phải nói rằng tín dụng xuất nhập khẩu là loại hình tín dụng có cơ chế đặc thù, nói tóm lại là phải có chính sách thích hợp đối với hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Đối tượng cho vay chủ yếu là kinh tế quốc doanh, cơ cấu cho vay chủ yếu tập trung vào ngắn hạn. Lãi suất chưa thể hiện rõ tính ưu đãi Cơ chế cho vay chưa thuận lợi đối với doanh nghiệp Nguồn vốn chưa ổn định cả về nội tệ và ngoại tệ Việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng còn ở mức hạn chế, Ngân hàng chỉ tài trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở các doanh nghiệp này có hợp đồng xuất khẩu, có bạn hàng, có thị trường. Còn trong giai đoạn ban đầu: đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị, chi phí đào tạo công nhân,…thường không được ngân hàng cho vay vì ngân hàng thấy không chăc ăn sợ rủi ro. Nên doanh nghiệp vừa và nhỏ phải lo vốn tự có, vay ban bè, chiếm dụng vốn của người khác. Hoặc là ngân hàng chỉ cho vay đầu tư mở rộng sản xuất, trên cơ sở thị trường xuất khẩu đang mở rộng, chứ thường là ngân hàng không cho vay đầu tư ngay từ ban đầu. Đây là khó khăn lớn nhất đối với doanh nghiệp cừa và nhỏ trong việc mở rộng xuất khẩu. Ngân hàng thiếu vốn trung dài hạn để thực hiện tín dụng xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu 2.6.2. Nguyên nhân Nguyên nhân thì có nhiều, song có lẽ vấn đề xuất phát là Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chưa thể hình thành và áp dụng được cơ chế tín dụng xuất nhập khẩu có tính đặc thù. Nói gì thì nói, cũng không quên rằng, chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng là “vay để cho vay” trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường. Điều đó mặc nhiên ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cũng không thể huy động vốn với lãi suất thị trường để cho vay xuât nhập khẩu với lãi suât ưu đãi hoặc huy động nguồn vốn ngắn hạn để thực hiện tín dụng xuất nhập khẩu dài hạn hay cấp tín dụng cho các đối tượng có nhiều rủi ro mà không có chế tài bảo hiểm …Từ đó đã đặt ra vấn đề là không nên giao cho các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng cái gánh mà sức nó chưa đủ - đó là tâm tư của nhiều giám đốc ngân hàng thương mại. Công tác kiểm tra giám sát khi cấp tín dụng xuất nhập khẩu còn mang tính hình thức, không phát hiện kịp thời những sai phạm hoặc có phát hiện nhứng chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu. Nguên nhân của thực trạng này chủ yếu là do một số cán bộ của Ngân hàng chưa nắm bắt được nhu cầu và sự thay đổi của thị trường, chưa đủ khả năng kinh nghiệm đánh giá tính hiệu quả và mức độ rủi ro của khoản vay từ khi xét duyệt và cho vay. Khách hàng cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh,về tài chính không chính xác và đầy đủ. Điều này gây khó khăn cho công tác kiẻm tra, kiểm soát của Ngân hàng. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và các văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng bộ, hợp lý cũng như môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng chưa được hoàn thiện nên không đảm bảo được môi trường canh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế. Mặt khác sự thay đổi trong cơ chế, chính sách của Nhà nước đã khiến cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng cò gặp nhiều khó khăn. Qua phân tích về thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam những kết quả đạt được trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu và khẳng định được vai trò của Ngân hàng trong việc thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời cho ta thấy được những hạn chế và nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu.Từ đó, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cần có những giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XNK TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHUNG VỀ TÍN DỤNG XNK CỦA NH ĐT&PTVN Cùng với việc phát huy các thành tích đã đạt được, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng và phát triển hoạt đọng tín dụng xuất nhập khẩu theo những định hướng sau đây: - Định hướng về phát triển tín dụng xuất nhập khẩu phải bám sát định hướng phát triển chung của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cũng như định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. - Mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu đi đoi với nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu bằng nhiều biện pháp và luôn đảm ảo phương châm an toàn hiệu quả. Tăng thị phần tín dụng trong tổng sử dụng vốn sinh lời của Ngân hàng, đặc biệt là tín dụng xuất nhập khẩu thông qua các chính sách lãi suất hấp dẫn, chính sách khách hàng, tăng cường đội ngũ cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu để có điều kiện bám sát các đơn vị hiện có, đồng thời tìm kiếm các khách hàng và các dự án tiềm năng mới. Mở rộng công tác tín dụng xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp tục có các biện pháp hỗ trợ các đơn vị làm hàng xuất khẩu. - Đẩy mạnh đầu tư cho nhóm khách hàng chiến lược, mở rộng tìm kiếm các dự án có hiệu quả, phục vụ kinh doanh XNK và kinh tế đối ngoại của đất nước để đầu tư. Tiến tới đa dạng hoá các loại hình tính dụng XNK nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có. - Tiếp tục thực hiện chương trình cơ cấu lại bộ máy điều hanh hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu gọn nhẹ hơn và hiệu quả nhằm đáp ứng công tác kiểm tra giám sát trực tiếp và kiểm tra kiểm toán nội bộ. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tín dụng XNK tại NH ĐT&PTVN Từ những hạn chế, tồn tại trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng trong thời gian qua và những định hướng phát triển của Ngân hàng trong thời gian tới, đồng thời từ những hiểu biết của bản thân em xin đưa ra một số giải pháp sau đây nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: 3.2.1. Đẩy mạnh công tác huy động vốn Định hướng tín dụng XNK của Ngân hàng phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Điều kiện tiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử dụng vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy động. Chính vì vậy, Ngân hàng phải tiếp tục mở rộng khai thác các nguồn vốn theo các hướng: - Xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã có uy tín trong hệ thống Ngân hàng quốc tế và thị trường trong và ngoài nước. Đây là cơ sở quan trọng nhất để huy động vốn bằng kỳ phiếu và kinh doanh trên thị trường chứng khoán quốc tế. Vấn đề quyết định thành công trong nghiệp vụ này là đội ngũ nhân viên có đủ trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp. Trước hết nên phát hành kỳ phiếu trung gian với các Ngân hàng đại lý có uy tín. Mặc dù thực hiện mua môi giới hiệu quả chưa cao nhưng nghiệp vụ đảm bảo an toàn và làm tiền đề cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Sau khi thâm nhập vào thị trường tiền tệ, lựa chọn và thử nghiệm, Ngân hàng sẽ từng bước thành lập văn phòng đại diện và chi nhánh tại các thị trường này để nhanh chóng hoàn nhập với cộng đồng Ngân hàng quốc tế. - Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào Ngân hàng bằng các chính sách tăng lãi xuất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn lẫn trung và dài hạn. Đối với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng xứng đáng, có chính sách ưu đãi riêng. - Ngân hàng cần sử dụng thế mạnh uy tín của mình để tranh thủ nguồn vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước dành cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các hoạt động kinh doanh XNK.. và thông qua mối quan hệ đối ngoại của Ngân hàng nên đẩy mạnh vốn vay dài hạn ở các tổ chức quốc tế. 3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK Đây là khâu hết sức quan trọng trước khi quyết định cấp tín dụng xuất nhập khẩu. Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình thẩm định dự án tín dụng XNK được chia thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay. * Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay Đây là giai đoạn khởi đầu và quan trọng nhất thể hiện khả năng tiếp cận dự án và khách hàng của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp truyền thống có quan hệ uy tín được cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi thì chỉ cần tập trung thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng. Dù là phương án cho vay vốn lưu động hay cố định thì những nội dung cơ bản cần xem xét là: + Khẳng định thị trường tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trong phương án kinh doanh với các yếu tố khu vực thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng cạnh tranh, quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường, các đối tác bán hàng và mua hàng, thu thập thông tin của các ngân hàng và các doanh nghiệp khác, sử dụng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro bằng phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá sản phẩm trong mối quan hệ với chính sách Nhà nước có so sánh trên thị trường quốc tế. + Thẩm định lại toàn bộ số liệu, dữ liệu và các chỉ tiêu của dự án kinh doanh theo hệ thống các phương pháp và công thức có sẵn hoặc nạp dữ liệu cho máy tính theo chương trình được cài đặt sãn. * Giai đoạn phê duyệt và giải ngân Mặc dù hồ sơ vay được cácn bộ tín dụng thẩm định đầy đủ, nhưng khâu xem xét phê duyệt là không thể thiếu. Vì thực tế, không thể có một cán bộ tín dụng lý tưởng lại sự hiểu biết toàn diện được cả nghiệp vụ ngân hàng và kiến thức tổng hợp về thị trường, khoa học kỹ thuật, luật pháp,... nên khả năng đánh giá của họ không thể đầy đủ và hoàn toàn đúng. Kế toán là người kiểm soát cuối cùng trước khi giải ngân kiêm tra và lưu trữ tài sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và khê ước vay tiền, trước khi phát tiền vay hoặc chuyển tiền thanh toán và lưu hồ sơ giải ngân như các loại chứng từ có giá. * Giai đoạn kiểm tra sau Đây là giai đoạn kiểm nghiệm tính chính xác, khách quan của phương án kinh doanh đã được ngân hàng thẩm định: + Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: về nguyên tắc, vốn vay chỉ được sử dụng đúng mục đích trong phương án kinh doanh. Việc phát triển tiền vay bằng tiền mặt, ngân phiếu, sec, sẽ gây khó khăn cho khả năng kiểm soát của ngân hàng. Giải pháp tốt nhất là giải pháp vốn vay qua tài khoản cho khách hàng vay là bắt buộc đối với doanh nghiệp và khuyến khích cá nhân hộ sản xuất. + Thu hồi và xử lý nợ Đối với nợ quá hạn, số tiền thu nợ từ khách hàng bao gồm trị giá của phần vốn gốc và phần lãi. Nếu hạch toán thu gốc toàn bộ tiền thu thì ngân hàng sẽ giảm được dư nợ quá hạn nhưng không có thu nhập, còn nếu hạch toán thu lãi trước thì sẽ mất vốn. Bởi vậy, theo nguyên tắc bảo toàn vốn thì ngân hàng cần thu gốc trước, đơn vị ngân hàng nào còn có nợ quá hạn thì không có thu nhập. Hiện nay, một số ngân hàng hạch toán thu nợ quá hạn cả gốc và lãi theo tỷ lệ 50/50 là không hợp lý. 3.2.3. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố - Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tự, hàng hoá... dùng làm tài sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực hiện theo các chế độ khoán tài chính của công ty thu mua. Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân hàng có kho bãi đầy đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để làm hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người vay. - Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn,... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm. Ngân hàng có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm trong nước và ngoài nước buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm cố với ngân hàng. - Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả năng của công ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thoả thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế thủ tục pháp lý: có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại tài sản thế chấp cho doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh doanh mới, giúp doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp đồng uỷ quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung gian những tài sản thuộc diện xử lý của toà án. 3.2.4. Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng thông thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi suất và tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai nhân tố, nếu tạo thêm thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng XNK thì sẽ gây thiệt hại cho khách hàng và ngược lại. Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp dụng các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với các công cụ chủ yếu sau: + Hợp đồng mua bán kỳ hạn + Nghiệp vụ SWAP về lãi suất + Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá Với các điều kiện về con người và cơ sở vật chất, thông tin và các quan hệ uy tín trên thị trường quốc tế hiện nay. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có thể áp dụng các hình thức kinh doanh này nhằm tăng thu nhập về dịch vụ, đồng thời quản lý được các rủi ro về biến động của thị trường tiền tệ. Để triển khai được các nghiệp vụ này, ngân hàng cần có đủ các điều kiện chủ quan sau: - Đề án kinh doanh hiệu quả và các giải pháp bảo đảm an toàn phòng ngừa các rủi ro. - Có quy trình phù hợp với các quy chế của ngân hàng Nhà nước và thực tiễn kinh doanh của ngân hàng. Quan trọng nhất là đảm bảo quản lý chặt chẽ phán quyết, trạng thái hối đoái, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và thông tin tiếp thị. - Có đủ điều kiện về con người và trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng 3.2.5. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK Hiện nay, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chưa thực hiện tín dụng XNK dưới các hình thức như phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài, bao thanh toán, thuê mua tài chính.... Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam và giới hạn nguồn vốn kinh doanh của mình, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam không thể áp dụng ngay được các hình thức này. Song, trong những năm tới, Ngân hàng nên cố gắng áp dụng tốt hình thức tín dụng bảo lãnh và tín dụng trả góp. Về tín dụng trả góp: Đối với các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài, thời gian sử dụng khá lâu nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn lớn. Để giúp cho các doanh nghiệp này chi nhánh cấp tín dụng cho họ theo đó các doanh nghiệp này được phép trả dần theo số tiền vay theo định kỳ. Sở hữu không nhất thiết phải cùng vốn trung và dài hạn để cho các doanh nghiệp này vay mà có thể dùng vốn ngắn hạn (nguồn vốn mà chi nhánh có ưu thế nhất) để cho vay vì các doanh nghiệp sẽ trả định kỳ theo thoả thuận với chi nhánh. Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 196 QĐ-NH14 ngày 16/9/1994 về việc "Quy chế và nghiệp vụ bảo lãnh cho các ngân hàng". Quyết định số 196 QĐ-NH14 hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm bảo hoàn trả vốn vay. Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo lãnh theo quyết định 196, các ngân hàng thương mại đã bảo lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu thực hiện hợp đồng.... giúp cho việc triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Đây là hình thức tín dụng có tầm quan trọng trong việc giải quyết vấn đề vốn và đẩy mạnh tốc độ lưu thông hàng hoá, nhưng mặt trái của nó là gây ra hậu quả nghiêm trọng nêu không hiểu đúng bản chất và tính phức tạp của loại hình tín dụng này. Khi nghiên cứu về tư bản ngân hàng, C.Mác đã coi tín dụng bảo lãnh là loại đặc biệt - loại tín dụng chữ ký, mặc dù ngân hàng không xuất tiền vay nhưng lại chịu rủi ro như đối với số tiền vay cùng loại. Thật đáng tiếc là hiện nay vẫn nhiều ngân hàng quan niệm không đúng về bảo lãnh, coi đó chỉ là dịch vụ ngân hàng. Mức chi phí dịch vụ bảo lãnh hiện nay trung bình khoảng 1,2%/năm tưởng rằng đã cao vì ngân hàng không phải bỏ vốn, nhưng xét về mặt giá trị thì mức phí này thấp hơn so với lãi suất tín dụng, trong khi về mức rủi ro cho vay và bảo lãnh là như nhau. Chưa kể ngân hàng phải bỏ ra một tỷ lệ vốn nhất định từ nguồn vốn kinh doanh để trích lập quỹ bảo lãnh nhằm phòng ngừa rủi ro. Một số ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp nhập khẩu hàng từ nước ngoài, sau đó lại tiếp tục bảo lãnh cho doanh nghiệp mua hàng trong nước, trong khi việc kiểm soát hàng hoá không thể chặt chẽ vì quá nhiều con nợ từ bán buôn đến bán lẻ chịu. Có khi thư bảo lãnh phát hành đi rồi nhưng bị lãng quên khi đến hạn thanh toán mới hay tài sản mà ngân hàng chịu trách nhiệm trả thay không biết đang nằm ở những đâu. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại không biết hạch toán trả thay doanh nghiệp, hạch toán ký quỹ bảo lãnh và quỹ rủi ro bảo lãnh vào tài khoản nào. Do đó, khi Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam áp dụng hình thức bảo lãnh XNK thì cần lưu ý các điều trên và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho cho vay cùng loại: + Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng + Phân kỳ kế hoạch thu nợ + Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng + Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ. 3.2.6. Xây dựng và phát triển quan hệ lâu dài với khách hàng Khách hàng là cơ sở tồn tại và phát triển của NHTM. Nên khách hàng quyết định cơ cấu, quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, thể hiện uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện tốt chính sách khách hàng, ngân hàng có thể vận dụng các hình thức, biện pháp sau đây: Thứ nhất: Phân loại khách hàng Đánh giá đúng khách hàng trước hết dựa vào quan hệ tín dụng của họ với Ngân hàng. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính và kinh doanh. Cần phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn để phân loại khách hàng, nhưng quan trọng nhất vẫn là việc thực hiện của các chi nhánh ngân hàng cơ sở cho từng đối tượng phù hợp với thực tiễn sinh động. Sử dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho cả đối tượng khách hàng lớn, truyền thống cũng như khách hàng đang gặp khó khăn. Thứ hai: Tổ chức hội nghị khách hàng Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có điều kiện tiếp xúc và trao đổi thông tin với nhau, đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ. Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất lượng, trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng tậm, đồng thời tạo được không khí cởi mở để thông qua khách hàng mà đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ ngân hàng. Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của các ngân hàng nước ngoài là hội thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các bạn hàng là ngân hàng và doanh nghiệp với nhiều nội dung phú như: trao đổi kinh nghiệm, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và về biện pháp quản lý rủi ro. Thứ ba: Từ tư vấn tiếp thị đến hợp tác kinh doanh. Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính cho dự án kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tiếp thị của ngân hàng rất quan trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và sản phẩm mới. Tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng hàng hoá xuất khẩu. Trong các nước tư bản, từ lâu tư bản ngân hàng đã thâm nhập vào tư bản công nghiệp và thương nghiệp, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và lưu thông. Sự sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của tập đoàn về tài chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá. 3.2.7. Nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát là công việc rất quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. Do đó, khi Ngân hàng mở rộng đầu tư để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thì vai trò của công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải được nâng lên ở mức tương xứng. Thông qua quá trình kiểm tra, kiểm soát vốn cho vay, Ngân hàng phải thường xuyên đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng. Nếu phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm,… thì Ngân hàng phải thực hiện xử lý theo quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Điều này là rất cần thiết vì trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng còn có thể qua nhiều thời gian mới bộc lộ những khuyết điểm nhất định. Vì thế phải kiểm soát khách hàng vay vốn, theo dõi kịp thời khả năng có thể xảy ra để có biện pháp đối phó thích hợp nhằm giảm thiều rủi ro tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng. 3.2.8. Phát triển hệ thống công nghệ Ngân hàng Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng trong hệ thống Ngân hàng. Nó vừa là yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của một Ngân hàng, vừa là điều kiện để phát triển một mô hình Ngân hàng hiện đại. Hơn nữa, công nghệ của Ngân hàng có phát triển thì mới có thể nâng cao được chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng. Do đó, Ngân hàng có thể phát triển hệ thống công nghệ qua các giải pháp sau: Tiếp tục đầu tư nguồn nhân lực vào Trung tâm công nghệ thông tin của Ngân hàng để hỗ trợ cho toàn hệ thống phát triển công nghệ. Triển khai mạnh thanh toán trực tiếp với hệ thống SWIFT, đảm bảo luân chuyển vốn, chứng từ nhanh chóng, chính xác và quản lý vốn ngoại tệ tập trung, củng cố hệ thống thanh toán liên hoàn nội bộ qua mạng vi tính, đảm bảo thông tin cập nhật. Thực hiện thí điểm nối mạng với một số doanh nghiệp lớn và dần dần nhân rộng cho mạng lưới khách hàng có điều kiện. Từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán không dùng tiền. Sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ rút tiền tự động, đảm bảo cho khách hàng gửi tiền một nơi mà có thể rút tiền bất cứ chi nhánh nào trong cả nước. Tiếp tục thực hiện giai đoạn II của dự án Hiện đại hoá Ngân hàng và hệ thống thanh toán để xây dựng một mô hình Ngân hàng hiện đại theo chuẩn mực chung. 3.2.9. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu Trong cơ chế thị trường và trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay thì con người là nhân tố có tính chất quyết định đến sự thành bại của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng. Thực tế cho thấy, ngoài những rủi ro khác thường được giảm thiếu đến mức thấp nhất thì chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu phụ thuộc rất lớn vào trình đọ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là Ngân hàng có đại đa số đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng và trên đại học. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của nền kinh tế thị trường, sự phức tạp và đầy khó khăn trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu thì đội ngũ cán bộ như hiện nay thì chưa thể đáp ứng kịp thời. Thực tế đó đòi hỏi cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu phải luôn học hỏi, trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cả những kiến thức tổng hợp khác một cách thường xuyên. Do đó, để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu Ngân hàng cũng cần chăm lo việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu trong toàn hệ thống với một số biện pháp sau: - Chuyên môn hoá cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu: mỗi cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu sẽ được giao phụ trách một nhóm khách hàng nhất định, có những dặc điểm chung về ngành nghề kinh doanh hoặc loại hình doanh nghiệp. Việc phân nhóm tuỳ theo năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu. Qua đó, cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu có thể hiểu biết khách hàng một cách sâu sắc, tập trung vào một công việc của mình và giảm chi phí trong điều tra, tìm hiểu khách hàng, giảm sai sót tong quá trình thẩm định, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. - Ngân hàng cần đào tạo cho cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu các kỹ năng như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng điều tra, ký năng phân tích, kỹ năng đàm phán,… - Có cơ chế khen thưởng, đãi ngộ hợp lý đối với các cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu, thưởng phạt nghiêm minh: những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, làm thất thoát vốn, vi phạm cơ chế cần được xử lý nghiêm khắc, đặc biệt đối với những cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu có hành vi tiêu cực làm ảnh hưởng đến lợi ích của Ngân hàng. Tuỳ theo mức độ có thể áp dụgn các hình thức kỷ luật như: chuyển công tác khác, tạm đình chỉ hoặc sa thải. Ngoài việc nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu, Ngân hàng phải có chế độ khen thưởng đối với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu, đó là yếu tố toạ động lực trong côgn việc của cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với cơ quan Nhà nước - Để khuyến khích và mở rộng hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần có biện pháp cải tổ hơn nữa bộ máy ngoại thương, bao gồm cơ quan quản lý Nhà nước về ngoại thương, các đơn vị chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Cần phân chia lại lợi ích giữa các tổ chức ngoại thương và người trực tiếp làm hàng xuất khẩu. Tinh giảm bộ máy quản lý, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu, khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm giá thành sản xuất, tăng ănng suất lao động trong khu vực làm hàng xuất khẩu. Nhà nước cần áp dụng linh hoạt mức ưu đãi về thuế để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu phát triển đúng hướng. - Với mục đích hỗ trợ nguồn vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng tham gia tài trợ xuất nhập khẩu, hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu như: ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ, ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc, ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản,… Vì vậy, chính phủ cần nhanh chóng cần cho ra đời Quỹ tín dụng xuất nhập khẩu để cấp tín dụng xuất nhập khẩu ưu đãi, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, mở rông thị trường xuất khẩu. Để tín dụng xuất nhập khẩu nói chung và Quỹ xuất nhập khẩu nói riêng hoạt động có hiệu quả , về lâu dài Nhà nước cần thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu nhằm mục dích bồi thường, bù đắp những rủi ro khách quan dẫn đến tổn thât không thu được nợ. Trước hết chưa thể xuất hiện loại công ty bảo hiểm này, thực sự tín dụng xuất nhập khẩu còn nhiều bấp bênh rủi ro. Đặc biệt để đảm bảo ưu đãi thì các khoản cho vay từ Quỹ xuất nhập khẩu sẽ chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Điều này đã dặt ra vấn đề cần thiết có một cơ chế bảo lãnh đơn vị xuất nhập khẩu từ phía chính phủ hoặc ngân sách Nhà nước - Cần phải có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ trong việc tạo lập nguồn vốn bằng những khoản tín dụng ưu đãi, ngân sách Nhà nước bù đắp chênh lệch lãi suất huy động cao để cho vay lãi suất thấp - Nhà nước nên phát hành qua đấu thầu trái phiếu kho bạc hoặc trái phiếu ngân hàng bằng USD có kỳ hạn (từ 6 tháng đến 1 năm ) để giúp cho các ngân hàng thương mại sử dụng hợp lý nguồn vốn khả dụng, đồng thời giúp cho Nhà nước có được nguồn vốn ngoại tệ dự trữ quốc gia, hoặc có thể dùng bổ sung vốn bằng ngoại tệ trong việc lập quỹ tín dụng ưu đãi (bằng VND và USD) cho xuất khẩu nhằm cấp vốn hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi bằng ngoại tệ cho các đơn vị kinh tế quốc doanh làm hàng xuất khẩu. Vừa qua ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có phát hành trái phiếu ngân hàng bằng ngoại tệ, nhưng chỉ phát hành cho dân cư nên các ngân hàng thương mại không thể mua được loại trái phiếu này 3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Cùng với việc Nhà nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu, việc ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại có thể cho vay bằng USD đối với nhà xuất khẩu để sử dụng trong nước, cũng như Nhà nước cho phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ, bổ sung nguồn vốn ngoại tệ để lập quỹ tín dụng ưu đãi cho xuất khẩu nhằm cho vay đối với nhà xuất khẩu sẽ tạo thuận lợi cho việc gia tăng sản xuất để xuất khẩu của Việt Nam. - Ngân hàng Nhà nước cần phải xây dựng một cơ chế tín dụng tương thích đối với quỹ xuất nhập khẩu. Cơ chế tín dụng này phải thể hiện tính chính sách như ưu đãi lãi suất, hạn mức, thời hạn thanh toán,… Việc tổ chức Quỹ nên hợp về một đầu mối và uỷ thác cho một hệ thống ngân hàng thương mại quản lý và giải ngân. - Ngân hàng Nhà nước cần xem xét có một cơ chế điều hành lãi suất thông thoáng hơn, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng và các tổ chức tín dụng linh hoạt và năng động trong việc khai thác vốn và đầu tư đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu , cũng như tạo điều kiện để chon lựa chủ đầu tư tai trợ cho các doanh nghiệp làm kinh doanh xuất nhập khẩu. 3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - Ngân hàng cần đa dạng các nguồn vốn cho vay bằng nội tệ, ngoại tệ, nhất là nguông vốn dài hạn để mở rộng cho vay trung dài hạn các mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng của Việt Nam như chế biến hải sản xuất khẩu, dệt may, lương thực, cà phê, cao su, tu bổ các di tích văn hoá lịch sử để thu hút khách tham quan nước ngoài (xuất khẩu tại chỗ ). - Ngân hàng chủ động, tích cực nghiên cứu thị trường tín dụng trong và ngoài nước, tiếp cận tư vấn cho các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư, phương án kinh doanh xuất khẩu, cải tiến quy trình thẩm định các dự án, hỗ trợ vốn kịp thời. _ Ngân hàng nên đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng như cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu,… và áp dụng đa dạng các phương thức cho vay theo dự án, hạn mức tín dụng tuần hoàn, đồng tài trợ giữa các ngân hàng thương mại, bảo lãnh phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng khách hàng. -Do chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thể hiện ở chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng xuất nhập khẩu nên Ngân hàng phải kết hợp cho vay xuất khẩu với cho vay nhập khẩu để tăng cường vòng quay của vốn tín dụng xuất nhập khẩu, tạo vốn và nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu, đảm bảo việc tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao. - Ngân hàng cần phải xác định và dựa trên cơ sở thị phần của mình để thiết lập nguồn quỹ đáp ứng mục tiêu hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. - Để khơi tăng nguồn vốn, ngân hàng và các tổ chức tài chính cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trong nước và ngoài nước như mở thêm nhiều phòng giao dịch, các điểm tiếp nhận, thanh toán thẻ tín dụng, tăng cường huy động tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, thực hiện hình thức phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu không chỉ bị chi phối bởi các chính sách của các cơ quan quản lý vĩ mô, của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam mà nó còn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp XNK. 3.3.4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK Để nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng cho hoạt động XNK thì bên cạnh những kiến nghị đưa ra đối với cơ quan quản lý vĩ mô, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thì nhất thiết phải đưa ra những kiến nghị đối với những doanh nghiệp XNK - một tác nhân quan trọng trong mối quan hệ tín dụng đối với các ngân hàng thương mại. Do trình độ còn non kém trong lĩnh vực ngoại thương của các cán bộ tại doanh nghiệp XNK nên đã tạo những bất lợi cho chính doanh nghiệp và ngân hàng. Để khắc phục nhược điểm này không còn cách nào khác là các khách hàng phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình như: + Các nhà kinh doanh XNK phải có trình độ về ngoại thương và thanh toán quốc tế. + Đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cao, trình độ ngoại ngữ tốt để có thể tiếp cận với những phương tiện tín dụng quốc tế hiện đại. + Cử cán bộ đi dự các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại học hoặc tổ chức trong và ngoài nước đào tạo. Mời chuyên gia về giảng dạy, tư vấn trong lĩnh vực ngoại thương. + Cần có chế độ thưởng phạt và kích thích tinh thần làm việc của các thành viên trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp XNK cần đẩy mạnh hoạt động Marketing XNK để hạn chế rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán với ngân hàng. Những diễn biến trên thị trường thế giới phức tạp khó có thể lường trước, hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp chưa đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, có được một chiến lược marketing hiệu quả, hợp lý là cần thiết. Trên cơ sở nắm bắt thông tín, doanh nghiệp sẽ có phương thức, chiến lược thâm nhập vào thị trường XNK, sẽ có những quyết định về sản phẩm, giá cả đúng đắn góp phần mở rộng và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh XNK của mình. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng cho doanh nghiệp XNK sẽ có hiệu quả cao nếu các doanh nghiệp XNK chấp hành tuyệt đối các nguyên tắc điều kiện thoả thuận khi vay vốn ngân hàng. Cụ thể, là phải sử dụng vốn đúng mục đích như cam kết trong đơn xin vay vốn. Những tài sản mà doanh nghiệp đã mang thế chấp cầm cố tại chi nhánh thì không được quyền chuyển nhượng, cầm cố hay bán cho các cá nhân khác khi chưa trả đủ nợ cho Ngân hàng. Nếu doanh nghiệp còn dư nợ thì không được bằng cách này hay cách khác thiếu trung thực để được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng. Trên đây là một số giải pháp mang tính gợi mở mà em nêu lên để trao đổi nhằm góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng và các Ngân hàng thương mại nói chung. KẾT LUẬN Nói đến nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bền vững không thể không nói đến nền kinh tế đó đang hướng vào xuất khẩu và có chính sách nhập khẩu hợp lý. Có phát triển được xuất khẩu mới phát huy và khai thác được lợi thế so sánh từ nội lực. Những chính sách tác động trực tiếp, ảnh hưởng lớn đến xuất nhập khẩu đều liên quan đến quá trình cấp tín dụng cho các đơn vị tham gia xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại và không loại trừ sự liên quan đó do thay đổi các chính sách vĩ môi và vi mô khác nữa trong xuất nhập khẩu đối với hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong nhiều chính sách đối với xuất nhập khẩu thì chính sách cấp tín dụng để khuyến khích xuất khẩu, đảm bảo nhập khẩu là cực kỳ quan trọng, có thể nói rằng tín dụng xuất nhập khẩu là chất” bôi trơn” cho hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, tín dụng xuất nhập khẩu trong ngân hàng còn tiềm chứa nhiều rủi ro và phức tạp, đặc biệt việc nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu đang là vấn đề thời sự hiện nay trong các ngân hàng thương mại. Nhưng việc giải quyết vấn đề này trong thực tế thật không đẽ chút nào, bởi lẽ nó sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng và nếu vận dụng các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu một cách quá cứng nhắc có thể sẽ vô tình phá vỡ mối quan hệ truyền thống tôt đẹp giữa Ngân hàng với khách hàng. Do đó, vân dụng các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu một cách thích hợp là cả một nghệ thuật của các nhà hoạt động ngân hàng. Có như thế các ngân hàng mới nâng cao được chất lượng của tín dụng xuất nhập khẩu, hạn chế khả năng xảy ra rủi ro, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động mua bán với nước ngoài vì lợi ích của cả hai bên, tăng cường lòng tin của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trên tường quốc tế, góp phần đẩy nhanh hơn nữa quá trình hội nhập nền kinh tế nước ta với các nước trong khu vực. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách và giáo trình: PGS. Đinh Xuân Trình (2002), giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Đại học Ngoại thương, NXB Giáo dục. PGS. TS. Nguyễn Thị Hường (2003), giáo trình Kinh doanh quốc tế – Tập II, Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Lao động – xã hội. PGS. TS. Nguyễn Thị Hường (2004), giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – Tập II, Đại học kinh tế quốc dân, NXB Thống Kê. Edward Weed, Ph.D và Edward K. Gill, Ph.D, Sách Ngân hàng thương mại, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Ngọc Hùng, Sách Lý thuyết tài chính- tiền tệ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thống kê. Vũ Hữu Tửu (2002), Ký thuật nghiệp vụ ngoại thương, Đại học Ngoại thương, NXB Giáo dục. Báo cáo thường niên năm 2001, 2002, 2003 - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Báo và tạp chí: Trần Thanh Hải, “Tín dụng xuất khẩu – Hình thức áp dụng vào Việt Nam”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, số 7(22), trang 18-19. Th.s. Vũ Thị Nhài, “Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất khẩu”. Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, số 6/2001, trang 24. TS. Phạm Huy Hoàng, “Hình thành quỹ tài trợ xuất nhập khẩu trong các ngân hàng thương mại”, Tạp chí Ngân hàng, số 9/2002, trang 26. Nguyễn Thị Kim Nhung, “Về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng, số 2/2003, trang 40-42. Nguyễn Đắc Hưng, “Về tín dụng tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Tạp chí Ngân hàng, số 6/2002, trang 52-55. Internet: Thứ sáu, 21/11/2003, “Thực trạng tín dụng xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại”. “Một số vấn đề về tín dụng xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam” MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đàm Quang Vinh, người đã tận tình giúp đỡ em trong việc chọn đề tài, hướng dẫn phương hướng triển khai đề tài và tổng kết các kết quả nghiên cứu một cách có hệ thống. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, đặc biệt là phòng Thanh toán quốc tế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng như chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.doc
Luận văn liên quan