Đề tài Một số Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

MỤC LỤC ChươngI: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam với hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư 3 1. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 3 1.1 Ngân hàng thương mại qua hoạt động cho vay của Ngân hàng trách nhiệm 3 1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 4 2. Sự cần thiết thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 6 2.1 Dự án đầu tư 7 2.2 Sự cần thiết thẩm định Dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 8 3. Trình tự và nội dung thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 11 4. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng 24 4.1 Chất lượng thẩm định dự án đầu tư 24 4.2 Các nhân tố ảnh hưởng 25 Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 1. Giới thiệu chung về Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 2.1 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian qua 30 2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 33 3. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 37 3.1 Tổ chức hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 37 3.2 Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 39 4. Một số nhận xét đánh giá về hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 47 4.1 Những kết quả đạt được 47 4.2 Một số hạn chế 51 4.3 Nguyên nhân 56 Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 1. Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 60 2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự toán đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 62 2.1 Một số định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 62 2.2 Một số giải pháp 63 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư 72 Kết luận 74 Tài liệu tham khảo 76

doc79 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2401 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh độ Đại học và sau Đại học. Đây chính là nguồn lực vô cùng quan trọng cho sự phát triển ngày càng mạnh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng trong xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế. Thứ tư: về trang thiết bị. Hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng và thẩm định dự án nói chung đã được sự quan tâm đầu tư thích đáng. Ngân hàng đã trang bị nhiều loại máy tính hiện đại cho các cán bộ thẩm định, đảm bảo hai người/1 máy/1 phòng. Ngoài ra, mỗi các bộ thẩm định đều được trang bị một máy tính kỹ thuật tài chính cầm tay rất thuận tiện cho việc tính toán các vấn đề liên quan. Một số phần mềm ứng dụng cho soạn thảo, tính toán, lưu trữ đã được đưa vào sử dụng hỗ trợ cho các hoạt động thẩm định làm tăng đáng kể tốc độ và tính chính xác của các chỉ tiêu. Thông tin sử dụng trong hoạt động thẩm định tài chính dự án được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: từ nguồn nội bộ trong Ngân hàng, qua báo chí, các văn bản tài liệu của các bộ ngành liên quan, các báo giá thị trường, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước, … phục vụ kịp thời cho hoạt động thẩm định. Trên đây là một số đóng góp và thành tựu đáng khích lệ hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện thì bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đó, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại. 4.2. Một số hạn chế. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng đã không ngừng được đổi mới và nâng cao trong thời gian qua. Tuy nhiên, chất lượng thẩm định tài chính, phân tích đánh giá tài chính còn chưa cao, nhiều tờ trình thẩm định mới chỉ dừng lại ở hình thức, thủ tục mà chưa đi sâu đánh giá được các khía cạnh của dự án một cách khách quan, toàn diện và chính xác. Do vậy, các kết luận về hiệu quả tài chính dự án đầu tư còn thiếu căn cứ chưa mang tính thuyết phục cao, chưa phát hiện được những rủi ro tiểm ẩn. Chất lượng thẩm định tài chính còn thấp là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến một số dự án vay vốn hay bảo lãnh của Ngân hàng gặp khó khăn khi đi vào hoạt động, buộc phải kéo dài thời gian trả nợ. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư còn làm được quá ít so với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, chưa tương xứng với tiềm năng của một Ngân hàng thương mại hàng đầu đát nước. Vì thế, vai trò tư vấn đầu tư của Ngân hàng ngoại thương vân chưa được thực hiện triệt để, hoạt động cho vay còn mang tính thụ động, chưa đóng góp vao việc tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, .... Phần lớn các dự án đầu tư được thẩm định, cho vay, tài trợ sau khi đi vào hoạt động không được phân tích kết quả đầu tư để rút ra các chỉ tiêu, thông số kỹ thuật, các kinh nghiệm thực tiễn và quản lý các dự án sau này, nâng cao hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Thẩm định vốn đầu tư của dự án. Khi thẩm định tài chính dự án đầu tư, việc tính toán các chỉ tiêu đánh giá tài chính sẽ phục vụ rất nhiều vào tổng vốn đầu tư ban đầu của dự án. Nếu vốn đầu tư được tính quá cao sẽ gây lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả đầu tư của dự án. Ngược lại, tính toán vốn đầu tư quá thấp sẽ gây khó khăn trong quá trình thi công xây dựng vì thiếu vốn. Qua đó, việc thẩm định chính xác, đúng, đủ, hợp lý của vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong thẩm định tài chính. Tính doanh thu và chi phí hàng năm của dự án. Việc xác định sản lượng tiêu thụ để tính doanh thu hàng năm của dự án tuy đã xem xét tới yếu tố thị trường, so sánh với các doanh nghiệp cùng loại đang hoạt động nhưng vẫn chưa có một phương pháp phân tích định lượng hay một phương pháp toán học để xác định cung – cầu và phân tích cạnh tranh. Việc tính toán nhiều khi chỉ mới đảm bảo đủ khoản mục nhưng chưa đảm bảo tính chính xác, hợp lý, trung thực. Phương pháp đánh giá tài chính dự án. Vấn đề cơ bản nhất trong việc sử dụng các phương pháp đánh giá tài chính dự án đầu tư là giá trị thời gian của tiền chưa được Ngân hàng nhận thức một cách đầy đủ. Trong nhiều dự án, khi tiến hành công tác này, vấn đề này coi như đã bị bỏ qua. Vì thế việc tính toán các chỉ tiêu: NPV, IRR, B/C, PI, thời gian hoàn vốn và một số các Chỉ tiêu khác tuy đã được đề cập nhưng chỉ mang tính hình thức thủ tục, chưa được xem như những chỉ tiêu cơ bản cho việc phân tích đánh giá, lựa chọn dự án. Do vậy, các kết quả thẩm định tài chính dự án đầu tư còn hạn chế không đảm bảo được tính chính xác, toàn diện. Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, Ngân hàng đã quan niện không đúng về thẩm định tài chính, bản chất của công tác này hay do môi trường bên ngoài tác động. Ngân hàng đã quá tập chung vào việc xem xét khả năng trả nợ hàng năm của dự án và dừng lại ở việc tính nguồn trả nợ hàng năm từ lợi nhuận sau thuế và khấu hao. Trong khi đó, Ngân hàng lại ít quan tâm đến hiệu quả tài chính cuối cùng của toàn bộ dự án đầu tư. Điều này là chưa chính xác theo đúng bản chất, mục tiêu, nội dung của công tác thẩm định tài chính. Bởi vì khi cả dự án đàu tư có hiệu quả tài chính thì chắc chắn dự án xẽ trả dư nợ cho Ngân hàng, lúc đó vấn đề chỉ còn là thời gian trả nợ và trả nợ khi nào. Nhưng mặc dù vậy qua đây em thấy rằng liệu đây có phải là quan điểm “ăn chắc mặc bền” đã tồn tại bấy lâu nay trong đời sống xã hội Việt Nam. Hay do điều kiện chưa cho phép buộc Ngân hàng thương mại hay Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam hay không? Với quy mô chưa đủ lớn liệu Ngân hàng ngoại thương có dám làm những việc quá khả năng cho phép của mình hay không? Với quan điểm và cách thức như trên, đây vẫn là một quan điểm sai lầm. Chính vì vậy, trong nhiều dự án, Ngân hàng chỉ xem xét dự án trong thời gian Ngân hàng cho vay và áp đặt một số tính toán để dự án trả hết nợ trong thời gian vay vốn. Chẳng hạn như cách tính khấu hao, tỷ lệ lợi nhuận dùng để trả nợ, các biện pháp bù đắp. Do vậy, cách đánh giá nhiều khi không phản ánh được hết các kết quả toàn diện của dự án trong suốt quá trình hoạt động. Tỷ lệ chiết khấu không có sự đồng nhất trong quan điểm của các cán bộ tín dụng về việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu. Có cán bộ lấy giá trị trung bình của mức độ trượt giá trong 5 năm gần nhất để tính toán. Tuy nhiên, đối với những dự án và nguồn vốn cho vay bao gồm cả nguồn vốn nội tệ và ngoại tệ với lãi suất cho vay tách biệt nhau thì Ngân hàng lại lúng túng không biết sử lý thế nào. Như vậy, Ngân hàng chưa có một căn cứ khoa học rõ ràng trong việc lựa chọn mà chủ yếu dựa vào những kinh nghiệm của bản thân và sự suy luận cá nhân. Từ đó dẫn đến các chỉ tiêu tài chính tính toán không phản ánh được đúng bản chất của dự án. Khi tính thời gian thu hồi vốn đầu tư, Ngân hàng so sánh giá trị luỹ kế của lợi nhuận và các khấu hao hàng năm với tổng số vốn cho vay mà không tính đến yếu tố thời gian của tiền. Việc tính như vậy là không chính xác do thời điểm bỏ vốn và thời điểm thu tiền về thay đổi qua các năm, giá trị của tiền ở các thời điểm đó là không giống nhau. Vì vậy, thời gian thu hồi vốn tính toán được và thời gian trên thực tế sẽ có sự khác biệt nhất định. Điều này sẽ có ảnh hưởng tới kế hoạch thu hồi nợ của Ngân hàng. Phân tích độ nhạy: Việc đánh giá hiệu quả của nhiều dự án trong nhiều trường hợp chỉ dừng lại ở việc xem xét trạng thái tĩnh, chưa đi sâu phân tích tính chắc chắn, Những thay đổi có thể có của các chỉ tiêu hiệu quả củatìa chính dự án trong điều kiện biến động của thị trường, như lạm phát, tỷ giá lãi suất, tỷ lệ chiết khấu, cạnh tranh,. .. Vì vậy các kết quả của thẩm định chưa chỉ ra được những nhân tố chính ảnh hưỏng tiêu cực tới hoạt động của dự án để có những biện pháp hữu hiệu hỗ trợ hay hạn chế các rủi ro này. Xác định khả năng trả nợ của dự án. Đây là một tiêu chuẩn quan trọng được Ngân hàng đặc biệt quan tâm trong quá trình thẩm định tài chính. Theo Ngân hàng: Nguồn trả nợ = khấu hao cơ bản + lợi nhuận ròng dung để trả nợ + nguồn khác. Đối với những năm dự án bị lỗ thì: Nguồn trả nợ = khấu hao cơ bản + nguồn khác. Rõ ràng cách tính khả năng trả nợ của dự án trong những năm lọi nhuận âm là không chính xác. Bởi vì, một khi bị lỗ thì việc tính khấu hao chỉ là hình thức trong sổ sách kế toán, đồng tiền mà dự án thực sự thu được sẽ giảm đi so với tính toán như ở trên và dự án sẽ không đảm bảo được nguồn trả nợ, làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng. Việc xác định thời gian cho vay, kế hoạch thu hồi nợ, số nợ theo hàng năm chưa sát với thực tế hoạt động của dự án. Các dự án mới là những đề xuất trong giai đoạn xem xét cho vay còn khi thực hiện kế hoạch giải ngân thì lại hoàn toàn khác với tính toán, vì vậy nhiều dự án không dủ trả nợ theo đúng số tiền và lịch trả, có không ít dự án phải xin gia hạn trả nợ. Phân tích tài chính. Một nội dung quan trọng của thẩm định tài chính là việc phân tích tài chính dự án trong các năm hoạt động chưa đước thực hiện. Ngân hàng chưa lập được bảng dự trữ cân đối tài sản, bảng dự toán cân đối thu chi, kế hoạch ngân quỹ. Các tỷ lệ tài chính như khả năng thanh toán, năng lực hoạt động, khả năng cân đối vốn và khả năng sinh lợi của dự án đầu tư như chưa được đề cập trong thẩm định. Việc xác định tính chính xác nhu cầu về vốn lao động, kế hoạch ngân quỹ, chính sách tín dụng khách hàng cũng không được xem xét. Tính khấu hao và sử lý các khoản thu hồi. Về nguyên tắc, mọi khoản chi phí đầu tư cho dự án cần được thu hồi để hoàn vốn. Tuy nhiên, mỗi khoản thu hồi vốn có cách thức thu hồi riêng. Các chi phí tạo ra tài sản cố định của dự án được thu hồi dưới hình thức khấu hao tức là khoản tiền khấu trừ hàng năm theo mức độ hao mòn của tài sản. Khi tính phần khấu hao xây lắp của dự án đầu tư xây dựng doanh nghiệp sản xuất gạch ốp lát Ceramic của xí nghiệp sứ vệ sinh Long Hầu, tính trung bình, Ngân hàng đã tính gộp phần chi phí xây lắp (7.04 tỷ) và phần chi phí khác (2.905 tỷ) để tính chung cho xây lắp (9.945 tỷ) với tỷ lệ khấu hao là 5%. Cách tính như vậy là không chính xác mà phải tách riêng hai loại chi phí này vì chúng có tính chất khác nhau. Chi phí đầu tư cho một dự án ngoài phần thiết bị xây lắp còn có các chi phí trước vận hành. Phần chi phí này tuy không trực tiếp tạo ra tài sản phục vụ cho hoạt động đầu tư nhưng là các chi phí cần thiết liên quan đến việc tạo ra và vận hành, khai thác các tài sản đó để đạt được mục tiêu đầu tư. Đó là các chi phí như thiết kế, khảo sát, lập dự án… Ngoài ra, giá trị thanh lý tài sản cố định khi kết thúc dự án cũng chưa được đề cập cụ thể. Tính khoản thu hồi vốn lưu động: Đối với các dự án mở rộng sản xuất thường có sự gia tăng của tài sản lưu động và đi kèm theo đó là sự tăng thêm của các nguồn tài trợ tương ứng. Một số nguồn tài trợ cần thiết được cung cấp cho sự gia tăng của các khoản nợ ngắn hạn phát sinh như tín dụng thương mại hay nợ tích luỹ. Tuỳ theo quy mô của dự án sẽ có một khối lượng nguyên liệu thô được mua chịu và nhiều khoản nợ tích luỹ sẽ tăng lên. Nhưng trong hầu hết các trường hợp nợ ngắn hạn không đủ để tài trợ cho tài sản lưu động tăng thêm. Khi đó dự án sẽ phải có khoản đầu tư vào tài sản lưu động này và gọi là đầu tư vào vốn lưu động ròng. Đặc tính của vốn lưu động ròng là nó không được tính khấu hao và thường được thu hồi vào năm cuôí cùng của dự án. Khi thẩm định Ngân hàng đã bỏ sót khoản thu hồi này và sẽ làm cho luồng tiền năm cuối cùng của dự án giảm đi. Bảng tính toán và báo cáo: Bảng tính toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án trong tờ trình thẩm định chưa được phản ánh một cách rõ ràng dòng tiền thu được của dự án hàng năm cũng như lợi ích thu được của dự án. Các chỉ tiêu đưa ra trong bảng còn chưa rõ ràng, thuận tiện kiểm tra các tờ trình. Bên cạnh đó còn có một số các chỉ tiêu chưa chính xác như: + Thuế doanh thu: (5%) + Lãi gộp = TR – TC. 4.3 Nguyên nhân: 4.3.1. Nguyên nhân chủ quan: Sự thiếu hụt thông tin: Hiện nay nguồn thông tin mà Ngân hàng có được chủ yếu là từ hồ sơ dự án do chủ đầu tư cung cấp. Nguồn thông tin này thường không đầy đủ, kém trung thực, trong khi Ngân hàng lại chưa có một chương trình kế hoạch, biện pháp cụ thể nào thực sự có hiệu quả để giải quyết vấn đề cung cấp thông tin cho công tác thẩm định dự án đầu tư. Mặc dù các cán bộ thẩm định đã có nhiều cố gắng trong việc thu thập thông tin, qua cuộc gặp gỡ trực tiếp với khách hàng, từ các phương tiện thông tin đại chúng, từ các bộ ngành liên quan, nhưng chất lượng thông tin chưa cao và mang tính chắp vá. Mỗi cán bộ khi tiếp nhận dự án phải tự mình thu thập tất cả các thông tin liên quan mà không hề có sự trợ giúp của một hệ thống thông tin riêng. Như vậy sẽ rất tốn thời gian thậm chí nhiều khi không đạt được kết quả mong muốn. Các thông tin dữ liệu thu nhận được chủ yếu được lưu trữ theo phương pháp thủ công, nên việc tra cứu khai thác gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống thông tin nội bộ chưa đáp ứng nổi yêu cầu trao đổi thông tin giữa Trung ương và các chi nhánh, giữa phòng dự án và phòng tái thẩm định. Hệ thống cung cấp thông tin từ bên ngoài chưa được Ngân hàng quan tâm đầu tư đúng mức. Sự thiếu hụt thông tin là một nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư. Phương pháp thẩm định tài chính mà hiện nay Ngân hàng đang áp dụng vẫn còn nhiều bất cập. Tầm quan trọng, ý nghĩa của hoạt động thẩm định tài chính chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều khi cán bộ thẩm định quá chú trọng đến khía cạnh pháp lý, thị trường, kinh tế – xã hội mà có phần xem nhẹ vấn đề tài chính của dự án đầu tư. Vì thế vấn đề giá trị thời gian của tiền chưa được nhận thức đầy đủ, không có sự thống nhất giữa các cán bộ về các chỉ tiêu đánh giá dự án. Tổ chức điều hành: Cho tới nay, Ngân hàng ngoại thương đã ban hành văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ tín dụng và mẫu tờ trình thẩm định làm cơ sở cho hoạt động thẩm định của các cán bộ tín dụng. Tuy nhiên, việc ban hành văn bản hướng dẫn chỉ mang tính hình thức chưa được quán triệt đến từng các bộ thẩm định. Hơn nữa mẫu quy trình thẩm định lại quá chung chung nên gây khó khăn cho cán bộ khi áp dụng vào từng dự án cụ thể. Nội dung thẩm định tái chính trong quy trình chỉ đề cập đến việc tính doanh thu chi phí và khả naưng trả nợ. Mỗi cán bộ ở phòng dự án được giao nhiệm vụ thẩm định một số dự án nhất định, tuỳ thuộc vào thời điểm mà dự án được đưa đến Ngân hàng. Điều này dẫn đến tình trạng quy mô, tính chất của từng dự án không phù hợp với trình độ năng lực của từng người. Nhiều dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp lại do cán bộ trẻ mới vào nghề thẩm định, kiểm tra giám sát nên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thẩm định, ảnh hưởng đến chất lượng hiệu quả của các khoản vay. Việc đổi mới tỏ chức hoạt đọng thẩm định còn chậm được thực hiện. Ngân hàng chưa xây dựng được một chương trình công tác cụ thể, thiếu kiểm tra, chưa có kế hoạch đúc rút kinh nghiệm qua nhiều dự án đã thẩm định, hoạt động giám sát điều hành nhiều lúc còn bị xem nhẹ. Cán bộ: Chúng ta đã biết, Ngân hàng ngoại thương là một Ngân hàng chuyên doanh về thanh toán quốc tế và tín dụng xuất nhập khẩu, hoạt động cho vay theo dự án đầu tư vốn không phải là thế mạnh truyền thống của Ngân hàng. Tuy nhiên do yêu cầu cạnh tranh trong cơ chế thị trường nên Ngân hàng đã thành lập phòng dự án và phòng thẩm định và đầu tư chứng khoán để phục vụ trực tiếp cho hoạt động cho vay trung, dài hạn. Vì thế đội ngũ cán bộ thẩm định chưa được đào tạo một cách có hệ thống, cơ bản về lý luận của hoạt động thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Các cán bộ tiến hành thẩm định chủ yếu dưa trên những kiến thức tự nhiên nghiên cứu qua sách báo, tạp chí tham khảo hay dựa vào kinh nghiệm của bản thân. Cũng do Ngân hàng ngoại thương trong một vài năm trở lại đây mới tiến hành cho vay các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nên đã gặp khó khăn trong việc thẩm định khía cạnh kỹ thuật – công nghệ của dự án. Đội ngũ cán bộ thẩm định mặc dù chuyên sâu về lĩnh vực thị trường, tài chính, Ngân hàng nhưng lại có ít kiến thức về khía cạnh kỹ thuật, đầu tư xây dựng cơ bản. Vì vậy, nội dung thẩm định tính chính xác, đúng đắn của vốn đầu tư của dự án hầu như bị bỏ qua. 4.3.2. Nguyên nhân khách quan: Đây là những nguyên nhân về môi trường bên ngoài tác động đến công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng. Các cơ quan nhà nước: Hiện nay cơ chế vận hành của bộ máy hành chính là các Bộ, UBND các cấp không phải là cấp quản lý nhà nước về hành chính thuần tuý mà còn quản lý nhà nước cả về kinh tế, sản xuất kinh doanh. Hầu hết các dự án khi đến tay Ngân hàng đều được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, nếu Ngân hàng thẩm định theo quy trình chậm trễ, thậm chí không đầu tư là tạo thế đối lập ở mức độ nào đó về việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Các văn bản, chế độ quy định về quản lý đầu tư, về thẩm định còn chồng chéo, chưa rõ ràng, chưa dầy đủ, thiếu tính ổn định, thủ tục còn nặng nề, rườm rà. Năng lực thẩm định các dự án đầu tư của các Bộ, ngành, cơ quan chức năng trên một số mặt còn hạn chế, chất lượng thẩm định chưa cao nên đã gây ra những khó khăn nhất định cho Ngân hàng. Chúng ta còn thiếu các văn bản hướng dẫn có tính chất pháp lý về các định mức kinh tế, kỹ thuật của các cơ quan chức năng như định mức tiêu hao về nguyên, nhiên vật liệu, điện nước, … chưa có các tiêu chuẩn để làm cơ sở so sánh, đánh giá dự án từng ngành, từng lĩnh vực riêng biệt được quy định bằng văn bản mang tính thống nhất trong cả nước. Ngành Ngân hàng: Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua, ngành Ngân hàng vẫn còn những yếu kém trong việc thẩm định các dự án đầu tư. Trình độ chung của các Ngân hàng còn thấp, chưa đủ năng lực thẩm định các dự án lớn, phức tạp. Đặc biệt chưa có sự phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ giữa Ngân hàng nhà nước và các Ngân hàng thương mại cũng như giữa các Ngân hàng thương mại với nhau trong việc cung cấp thông tin, hoạt động thẩm định dự án ở từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Khách hàng vay vốn: Tình hình chung hiện nay là các chủ đầu tư chấp hành khong đầy đủ các quy định về lập và thẩm định dự án. Bộ kế hoạch và đầu tư đã ra thông tư hướng dẫn việc lập và thẩm định dự án đầu tư. Tuy nhiên trên thực tế phần nhiều các báo cáo khả thi (luận chứng kinh tế khả thi) đưa đến Ngân hàng đã không lập đầy đủ theo các nội dung hướng dẫn hoặc có lập nhưng nội dung còn sơ sài, thiếu căn cứ khoa học, xác đáng, chưa xây dựng được các dự án có tính khả thi cao. Điều này xuất phát từ nhận thức của việc đầu tư theo dự án của các doanh nghiệp còn hạn chế, trình độ năng lực lập và thẩm định dự án còn thấp. Các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, năng lực tài chính yếu kém, tích luỹ không đáng kể dẫn đến vốn tự có thấp, chủ yếu dựa vào vốn vay Ngân hàng. Một số daonh nghiệp nhà nước quýêt toán và duyệt quyết toán chậm, số liệu quyết toán chưa được kiểm toán nên việc phân tích các báo cáo tài chính thường chỉ có tính tương đối, độ tin cậy thấp. Như vậy qua xem xét các công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương trong thời gian qua, bên cạnh những thành tích đạt được và những đóng góp to lớn vào việc nâng cao chất lượng và mở roọng cho vay thì vẫn còn rất nhiều hạn chế cần sớm khắc phục để đáp ứng được những đòi hỏi mới trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng ngoại thương cần phải có những giải pháp kịp thời hữu hiệu để khắc phục những khó khăn giúp Ngân hàng ngày càng phát triển, hội nhập với các Ngân hàng khác trong khu vực và trên thế giới. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM: Trong thời gian qua, hoạt động của Ngân hàng nói chung, công tác tín dụng nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nguồn vố đầu tư giảm sút, thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh của doanh nghiệp còn thấp. Trong bối cảnh đó, hoạt động của Ngân hàng ngoại thương không tránh khỏi những khó khăn thử thách. Tuy nhiên do bám sát diễn biến tình hình thực tế, cùng với sự chỉ đạo tháo gỡ khó khăn kịp thời, có hiệu quả của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng ngoại thương đã khẩn trương khắc phục những tồn tại, sai sót, thực hiện những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt là công tác tín dụng nên đã hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng, khôi phục và giữ được chữ tín với khách hàng trong nước và quốc tế, mở rộng thị trường, giữ vững tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, nâng cao chất lượng và mở rộng tín dụng, chủ động tìm đến khách hàng lớn, các dự án khả thi, hiệu quả để đầu tư nên đã thu được những kết quả đáng tự hào. Để phát huy những thành quả đã đạt được và phát triển hơn nữa, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược đã đặt ra trong thời gian tới, hoạt động cho vay, đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương diễn ra theo hướng: "Với phương châm: An toàn – hiệu quả - phát triển”, Ngân hàng tận dụng thời cơ để mở rộng đầu tư tín dụng, bảo lãnh đạt mức tăng trưởng 25%, nâng dần tỷ trọng đầu tư trung và dài hạn lên 35% tổn dư nợ, nâng cao chất lượng tín dụng, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuóng dưới 4%, tích cực xử lý khai thác có hiệu quả tài sản nợ, tài sản thế chấp để giải phóng vốn kinh doanh. Bám sát các định hướng của nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế, sớm tiếp cận với các dự án, các chương trình kinh tế trọng điểm, chủ động bố trí vốn, trực tiếp tham gia hoặc tham gia theo phần, đồng tài trợ với các Ngân hàng thương mại khác để phát huy sức mạnh về vốn, kinh nghiệm cũng như hạn chế rủi ro. Tiếp tục mở rộng các đối tượng cho vay nhằm khai thác mọi tiềm năng trong ngành kinh tế, có cơ chế thoả đáng trong chính sách đầu tư, tín dụng cho mục tiêu xã hội. Tuy nhiên với thế mạnh về vốn, Ngân hàng ngoại thương sẽ tập trung một tỷ trọng vốn thích đáng đầu tư vào các dự án lớn thuộc các doanh nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (Các tổng công ty 90, 91). Tạo điều kiện thuận lợi cho người đi vay với chính sách lãi suất, phí dịch vụ hấp dẫn, có khả năng cạnh tranh được với các Ngân hàng khác, đổi mới phong cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, luôn coi lợi ích của khách hàng là lợi ích của chính mình, duy trì một cơ chế lãi suất linh hoạt để khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với những khoản vay lớn, các dự án có tính khả thi chắc chắn, độ an toàn cao. Mở rộng tín dụng đi liền với việc củng cố và nâng cao hiệu quả chất lượng tín dụng, đảm bảo khả năng thu hồi vốn, giảm dần tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tăng cường cơ chế thông tin tín dụng, nắm chắc tình hình biến động của thị trường. Dự đoán kịp thời, chính xác những yếu tố tác động đến sản xuất kinh doanh, tình hình thị trường tài chính trong và ngoài nước để chủ động tư vấn cho doanh nghiệp, thoá gỡ khó khăn, sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. Trong điều kiện chung của nền kinh tế và của Ngân hàng hiện nay, để tồn tại, phát triển và hội nhập đẩm bảo thực hiện được những mục tiêu về hoạt động cho vay đặt ra, Ngân hàng ngoại thương phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Một trong những giải pháp tiên quyết hữu hiệu nhất là hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt là nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xác định trong chiến lược, định hướng hoạt động và gắn bó chặt chẽ các nghiệp vụ khác tạo thành sức mạnh tổng hợp của Ngân hàng. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐÀU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TAỊ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM: Muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương nói riêng và của nền kinh tế nói chung thì điều đầu tiên và trước hết là phải có một nhận thức và định hướng đúng. 2.1. Một số định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương: Trong thời gian tới, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng cần dựa trên các định hướng sau: Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng ngoại thương phải đứng trên giác độ của người cho vay, người bỏ vốn để xem xét. Công tác thẩm định dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành và nhằm phục vụ hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương trong từng giai đoạn. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được phổ cập hoá trong toàn hệ thống với tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau, với những yêu cầu đòi hỏi khác nhau. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện, đối với tất cả các dự án xin vay, trong quá trình cho vay từ xem xét dự án cho đến giải ngân, thu nợ, thu lãi. Công tác thẩm định dự án tại Ngân hàng ngoại thương phải được tiến hành theo một quy trình khoa học, hiện đại sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ Ngân hàng. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xây dựng theo hướng đặc thù của hoạt động cho vay tại Ngân hàng, duy trì phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh trên thương trường. Công tác thẩm định phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức, chỉ đạo diều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản vay. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp và phải thường xuyên được tổng kết, rút ra kinh nghiệm, bài học để hoàn thiện và phát triển. 2.2. Một số giải pháp: Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư ngày càng được khuyến khích, mở rộng. Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư ngày càng trở nên quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng khoản vay của Ngân hàng. Từ thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương, chúng ta thấy rõ một vấn đề nổi lên là cần nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác này. Qua quá trình xem xét hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư thấy được những kết quả đạt được, những tồn tại, những hạn chế và các nguyên nhân đưa đến, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhắm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư như sau: Giải pháp về phương pháp thẩm định. Giải pháp về thông tin. Giải pháp về nhân tố con người. Giải pháp về tổ chức điều hành. Giải pháp về phương pháp thẩm định: Vấn đề giá trị thời gian của tiền: Đây là vấn đề mấu chốt của thẩm định tài chính dự án đầu tư nhưng chưa được Ngân hàng quan tâm đúng mức. Một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là lợi ích và chi phí phát sinh ở các giai đoạn khác nhau, nhưng giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau không giống nhau. Vì vậy cần phải có những phương pháp quy đổi giá trị của dòng tiền xuất hiện ở những thời điểm khác nhau về cùng một thời điểm để xem xét, đánh giá. Điều đó chẳng những cho phép xem xét, phân tích mà còn tạo điều kiện để so sánh, lựa chọn các dự án. Áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại: Ngân hàng cần phổ cập và tăng cường áp dụng những phương pháp, chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án đàu tư hiện đại trên cơ sở tham khảo, học hỏi của các Ngân hàng hiện đại trên thế giới và áp dụng một cách sáng tạo vào tình hình thực tế nước ta và hệ thống Ngân hàng. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất thiết thực trong việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính. Các phương pháp thẩm định hiện đại đều được trình bày rất phổ biến trong nhiều tài liệu khác nhau, nhưng vấn đề là lựa chọn chỉ tiêu, phương pháp nào để áp dụng cho phù hợp với thực tiễn từng dự án. Ngân hàng cần áp dụng nhiều hơn nữa các chỉ tiêu: giá trị hiện tại ròng NPV, tỷ suất sinh lời nội bộ IRR chỉ số doanh lợi PI, BIC, sử dụng các chỉ tiêu này làm tiêu chuẩn trong đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư. Ba chỉ tiêu này là cực kỳ quan trọng, phản ánh chính xác hiệu quả tài chính của dự án đầu tư và cần phải được áp dụng đồng thời để bổ xung hỗ trọ lẫn nhau, Ngân hàng nên xây dựng một quy trình tác nghiệp cụ thể để làm căn cứ cho việc thực hiện. + Tính dòng tiền: Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định. Các máy móc, thiết bị, nhà xưởng khi dự án kết thúc còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán sẽ xuất hiện một luồng tiền thu cuối dự án. Một điều cần lưu ý là dòng tiền này phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp vì nó là luồng tiền hoạt động trước thuế. Ngân hàng cũng cần tính đến khoản thu hồi vốn lưư động ròng, khoản thu hồi này sẽ được cộng vào dòng tiền ở năm cuối cùng của dự án. Đặc biệt Ngân hàng cần phải tính toán dòng tiền cho cả đời của dự án chứ không nên dừng lại ở năm dự án trả hết nợ. Khi xác định lợi nhuận ròng dùng để trả nợ, Ngân hàng nên chú ý đến phần sử dụng vốn ngân sách nhà nước mà doanh nghiệp phải nộp (nếu có). Đối với những dự án đầu tư đã được thẩm định có hiệu quả, trong một số năm đầu hoạt động dự án có dòng tiền âm, Ngân hàng có thể xem xét thu nợ vào những năm sau chứ không nhất thiết phải yêu cầu miễn thuế hoặc tỉnh hỗ trợ. + Tính doanh thu và chi phí: Doanh thu và chi phí là 2 yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới việc tính toán các chỉ tiêu còn lại trong thẩm định tài chính dự án đàu tư,. Đây là bước quan trọng nhưng cũng khó khăn nhất trong quá trình phân tích. Việc dự báo doanh thu bán hàng liên quan đến các nhân tố như khuynh hướng tăng trưởng kinh tế, khuynh hướng giá cả, phản ứng hay hành động của các đối thủ cạnh tranh, … Đánh giá những nhân tố này là rất khó chính xác. Theo tôi Ngân hàng nên lập bảng tính giá thành phẩm sản phẩm dịch vụ hoặc yêu cầu chủ dự án lập, sau đó Ngân hàng kiểm tra lại. Bởi vì giá thành là cơ sở để xác định giá bán có phản ánh một cách đầy đủ nhất các chi phí của dụ án. Dựa vào đây, Ngân hàng có thể chỉ ra các bất hợp lý của các chi phí kê khai trong dự án, đồng thời kết hợp với các kết quả nghiên cứu thị trường để xác định giá tiêu thụ một cách hợp lý nhất. + Tính khấu hao. Khí tính khấu hao, Ngân hàng cần chú ý tới cơ cấu của chi phí đầu tư cho dự án để áp dụng các tỷ lệ khấu hao phù hợp. Đối với phần chi phí trước vận hành, Ngân hàng cần tách ra để thu hồi trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động chứ không nên tính gộp cùng với chi phí xây lắp. + Tính lãi xuất chiết khấu: Ngân hàng có thể áp dụng hai cách tính lãi xuất chiết khấu - Tính chi phí bình quân gia quyền của vốn của vốn đầu tư làm lãi xuất chiết khấu. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, rất khó tính chi phí của vốn tự có của doanh nghiệp. Lấy lãi xuất trái phiếu kho bạc Nhà nước làm tỷ lệ chiết khấu cộng thêm một mức độ rủi ro tương ứng của lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh mà dự án hoạt động chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp do phải chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố rủi ro hơn như bão lụt, hạn hán, …so với các dự án trong lĩnh vực như công nghiệp, thương nghiệp… Thông thường, các dòng tiền của dự án trong suốt thời kỳ phân tích được chiết khấu với tỷ lệ không đổi. Tuy nhiên, Ngân hàng có thể sử dụng các tỷ lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh các tác động của môi trường kinh tế tới dự áNgân hàng, chảng hạNgân hàng như tác động của lạm phát, mức độ rủi ro…. Trong những năm mà nguồn vốn khan hiếm, Ngân hàng có thể tính tỷ lệ chiết khấu cao do chi phí vốn tăng và ngược lại, tỷ lệ chiết khấu thấp hơn trong nhiều năm nguồn vốn dồi dào. + Phân tích tài chính. Phân tích tài chính tập chung vào xem xét kế hoạch tài chính ngắn hạn và các chỉ tiêu phân tích tài chính ở từng năm. Đặc biệt, Ngân hàng cần chú trọng tới tình hình và khả năng thanh toán của dự án thông qua việc xem xét các nhu cầu về vốn lưu động, tính hợp lý của các chính sách quản lý tiền mặt, chính sách dự trữ, chính sách tín dụng thương mại. Những chính này phải đảm bảo cân đối được các luồng tiền mặt vào, ra của dự án trong kỳ. Điều này rất quan trọng vì có những dự án có hiệu quả tài chính nhưng thiếu một kế hoạch tài chính ngắn hạn tốt sẽ gây khó khăn và có thể đưa đến chỗ phá sản. Ngân hàng cần lập thê các bảng dự trù cân đối tài sản, bảng dự trù cân đối thu chi, bảng kế hoạch ngân quỹ để thuận tiện trong việc phân tích tài chính dự án. Ngân hàng cần đưa một só phương pháp phân tích tái chính sau vào phân tích tái chính dự án đầu tư. Phương pháp phân tích tỷ lệ: Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động – Hàng tồn kho Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn Tổng nợ phải trả Hệ số nợ = Tổng tài sản Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Tài sản cố định Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi tổng tài sản = Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi vốn tự có = Vốn tự có. Trong các chỉ tiêu trên, Ngân hàng nên đặc biệt chú ý tới các chỉ tiêu về khả năng thanh toán và hệ số nợ. Phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn. Phương pháp phân tích luồng tiền mặt thông qua báo cáo ngân quỹ. Đây là một phương pháp tương đối phức tạp những nếu áp dụng một cách thích hợp vào phân tích sẽ rất có ý nghĩa và đánh giá được một cách chính xác sự vận động của các luồng tiền của dự án đầu tư. Các bảng tính: Trong bảng tính toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án, Ngân hàng cần sửa đổi một số chỉ tiêu: thếu doanh thu không nằm trong kế hoạch chi phí vì thuế doanh thu không phải là chi phí của DH; lãi gộp đổi lại thành lợi nhuận trước thuế. Ngoài bảng tính toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án, Ngân hàng nên lập thêm bảng phân tích dòng tiền để thấy rõ các dòng tiền vào ra của dự án và thuận lợi cho việc tính toán 2 các chỉ tiêu: HPV, IRR (xem bảng). Phân tích độ nhạy: Một dự án thường tồn tại trong một thời gian dài, các dòng tiền đi vào và dòng tiền đi ra khỏi dự án diễn ra trong thời gian đố. Luồng tiền dòng của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà mỗi yếu tố đó ở mức độ khác nhau đều có tính chắc chắn không nhất định hay còn gọi là rủi ro. Bằng việc phân tích độ nhạy, Ngân hàng sẽ xác định được mức độ chắc chắn của các yếu tố xác định và kết quả hoạt động của dự án và vì vậy có thể loại bớt được các dự án có mức độ rủi ro cao. Điều Ngân hàng cần lưu ý khi phân tích độ nhạy của dự án là phải ước lượng xu thế và mức độ thay đổi của các nhân tố ảnh hưởng. Do mối quan hệ và sự tác động của các yếu tố đến trạng thái của dự án rất khác nhau nên có thể lựa chọn mức biến động của các nhân tố khác nhau. Chẳng hạn như nhân tố vốn đầu tư Ngân hàng có thể đưa vào mức biến động 5 – 10% so với mức tính toán nhưng đối với nhân tố giá tiêu thụ sản phẩm lại có thể lấy mức biến động tới 10 – 15%. Đối với các dự án xin vay tại Ngân hàng mà trong luận chứng kinh tế kỹ thuật đã tính hoặc chưa tính thì Ngân hàng cũng phải tính lại và dự tính. Đặc biệt, đối với các dự án có đầu tư có sử dụng vốn vay bằng ngoại tệ, có sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu hoặc xuất khẩu sản phẩm thì cần quan tâm đến sự biến động của tỷ giá đối với các chỉ tiêu NPV, IRR. Ngân hàng nên xem xét sự biến động của tỷ lệ triết khấu tới các chỉ tiêu NPV, PI đối với tất cả các dự án đầu tư vì những chỉ tiêu naỳ rất nhạy cảmvới tỷ lệ chiết khấu. Qua việc đánh giá độ nhạy cảm của dự án, Ngân hàng xác định được nhân tố nào có tác động lớn nhất tới các chỉ tiêu hiệu quả của dự án đầu tư, để từ đó có các biện pháp bảo đảm, hỗ trợ và hạn chế rủi ro. Bảng phân tích dòng tiền của dự án ( bảng 2G). Để các giải pháp trên có khả năng thực hiện một cách có hiệu quả cao nhất, Ngân hàng ngoại thương cần tiến hành đồng bộ các giải pháp bổ trợ sau: Các giải pháp về thông tin: Tăng cường hệ thống thông tin nội bộ: Để đảm bảo xây dựng được một hệ thống thông tin có hiệu quả, trước hết Ngân hàng cần ban hành quy chế thu thập thồng tin định kỳ cho các trung tâm, bộ phận thông tin ở các chi nhánh cũng như TW. Những thông tin càn thiết liên quan đến dự án, thẩm định dự án phải được cung cấp một cách nhanh chóng, đầy đủ và thông suốt trong toàn hệ thống. Một lợi thế rất lớn của Ngân hàng ngoại thương là mạng lưới các chi nhánh cũng như TW được trang bị lại một hệ thống mạng máy tính khâ hiện đại. Nếu Ngân hàng khai thácmột cách có hiệu quả mạng máy tính này thì đây chính là chìa khoá để quyết định vấn đề thông tin một cách nhanh chóng và thu được lợi ích to lớn. Các chi nhánh sẽ thu thập và lưu trữ những thông tin cụ thể về tình hình ở khu vực, địa bàn hoạt động của mình. Hàng tháng các chi nhánh sẽ gửi báo cáo thông tin nội bộ thu thập được về phòng dự án và thẩm định dự án đầu tư ở TW để lưu trữ và tổng hợp trên phạm vi toàn quỗc. Việc trao đổi thông tin giữa các phòng và chi nhánh được thực hiện thông qua mạng máy tính nội bộ. Một mặt thông tin sẽ được phân loại tổng hợp theo ngành, lĩnh vực khác nhau và nếu có khả năng Ngân hàng nên tổng hợp thông tin của một số tổng công ty lớn mà Ngân hàng có quan hệ thường xuyên lâu dài. Mặt khác, thông tin cũng được tổng hợp theo hướng gồm 3 nội dung chính: Thông tin về kinh té – xã hội chung: các thông tin về chủ trương chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước về tình hiènh đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong nước, các ngành công nghiệp nặng, năng lượng, … Các thông tin về tài chính Ngân hàng: các nghị định của Chính phủ, thông tư, quyết định, quy chế của Bộ tài chính. Thông tin về thị trường, giá cả. Để nâng cao tính khả thi của giải pháp này đòi hỏi Ngân hàng phải xây dựng được một chương trình phần mềm tin học chuyên dụng. Ngân hàng có thể giao cho phòng tinh học của Ngân hàng phụ trách lập trìnhmềm hoặc đặt mua của FPT. Các thông tin dạng văn bản sẽ được lưu trữ trong máy tính để thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng, quản lý, bảo quản. Với sự trợ giúp của công nghệ tin học, Ngân hàng sẽ xây dựng được những phương pháp lưu trữ, phân tích, xử lý và quản lý thông tin hiện đại, Ngân hàng sẽ có khả năng truy cập nhanh góp phần nâng cao số lượng và chất lượng thông tin thu thập được. Thu thập thông tin từ bên ngoài: Tiếp tục phát huy lợi thế chính sách vận chuyển sẵn có, Ngân hàng nên phát triển hệ thống thu thập thông tin từ bên ngoài thông qua việc kết nối mạng máy tính của Ngân hàng Nhà nước, của các Ngân hàng thương mại khác, của các trung tâm thông tin trong nước và quốc tế, đặc biệt là mạng Intenet, mạng thông tin toàn cầu. Intenet sẽ là kho dữ liệu vô tận mà Ngân hàng có thể khai thác. Bên cạnh đó Ngân hàng có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật để trợ giúp trong việc thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án, từ đó xây dựng một cách chính xác tổng nhu cầu vốn đầu tư. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể đa dạng hoá nguồn thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp để nắm được tình hình thanh toán, khả năng đảm bảo việc cung cấp đầu vào, và mức độ chắc chắn của việc tiêu thụ đầu ra của dự án, có thể thuê các công ty kiểm toán xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính. Giải pháp về nhân tố con người: Con người là nhân tố trung tâm chi phối ảnh hưởng và quyết định đến hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư thì điều đầu tiên và quan trọng nhất là phải xác định được 1 chiến lược dài hạn phát triển nguồn nhân lực, để từ đó biến những kế hoạch, mục tiêu thành hiện thực. Để đáp ứng nhu cầu này, Ngân hàng ngoại thương phải tập trung vào một số giải pháp sau: Tuyển dụng cán bộ: Cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý để thu hút được moọt đội ngũ lao động có trình độ, có kinh nghiệm, có năng khiếu nghiệp vụ tài chính Ngân hàng, … Sau khi tuyển dụng đội ngũ lao động trẻ cần được đào tạo, đưa đi thực tiễn, mở các khoá học chuyên sâu ở trong và ngoài nước về công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Bồi dưỡng cán bộ: Cán bộ thẩm định cần phải thường xuyên được bồi dưỡng nân g cao kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ. Hàng năm Ngân hàng nên tổ chức những lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn cho cán bộ thẩm định với sự tham gia giảng dạy của các chuyên gia. Vấn đề đãi ngộ: Ngân hàng nên có những chính sách ưu đãi cho cán bộ làm công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư và toàn bộ cán bộ trong Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Giải pháp về tổ chức điều hành: Các dự án đưa đến Ngân hàng ngoại thương có quy mô rất đa dạng, việc xem xét, sắp xếp phân công dự án cần phải căn cứ vào năng lực, sở trường của mỗi người để phát huy thế mạnh của cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên bố trí những dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp cho các cán bộ chủ chốt, kinh nghiệm, còn những dự án đơn giản thì cho cán bộ khác. Ngân hàng cần phải sửa đổi, bổ xung nội dung thẩm định tài chính, bổ xung các phương pháp đánh giá dự án bằng giá trị thời gian của tiền và độ nhạy của dự án. Ngân hàng cấn quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định. Ngân hàng cũng nên rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định chuyển sang làm nhiệm vụ khác đối với những cán bộ khồng đáp ứng được yêu cầu công việc. Tổ chức thẩm định trong toàn bộ hệ thống cần được hoàn thiện, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng dự án, phòng thẩm định với các phòng khác, giữa hoạt động tín dụng với hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng. Ngân hàng nên phát đông các phong trào nghiên cứu khoa học hàng năm, qua đó tập hợp được các đề xuất, sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến và áp dụng trong toàn hệ thống. 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ: Thẩm định dự án đầu tư có phạm vi xem xét, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính tại các Ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp, chỉ tiêu trên cơ sở có một giải pháp, kế hoạch tổng thể, thì những giải pháp đề ra mới có tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động cho vay. Xuất phát từ yêu cầu phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng, tôi xin đề xuất một số kiến nghị như sau: Về phía nhà nước và cán bộ ngành: Đề nghị cán bộ ngánhớm ban hành các quy định về đánh giá xây dựng tổng hợp, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, … cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng tổng vốn đầu tư và các chi phí hàng năm. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với bộ tài chính, bộ Kế Hoạch - Đầu Tư, bộ Thương Mại, ..... Xây dựng đề án, xác định các chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực, phù hợp với các yêu cầu thực tế trong và ngoài nước cùng với các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, làm cơ sở để đánh giá so sánh dự án. Các bộ ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, nâng cao trình độ chất lượng thẩm định dự án nhất là về các mặt kỹ thuật, công nghệ, đánh giá tác động môi trường để làm căn cứ cho Ngân hàng thẩm định tài chính. Các bộ chủ quản cần hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành đảm trách. Hàng năm, các thông tin này sẽ được công bố một cách công khai qua các tài liệu chuyên ngành hoặc tập hợp lại ở các trung tâm thông tin giúp các chủ đầu tư thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin thuận tiện cho việc thẩm định dự án. Nhà nước cần quy định rõ hơn nữa về trách nhiệm của chủ đầu tư, của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án đầu tư. Đã là chủ đầu tư thì không được nắm giữ chức năng quản lý nhà nước để tập trung vào công tác xây dựng, tổ chức hạch toán, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Đối với Ngân hàng nhà nước: Ngân hàng nhà nước cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án hỗ trợ cho các Ngân hàng thương mại nâng cao nghiệp vụ thẩm định. Mở rộng phạm vi hoạt động. Hàng năm, Ngân hàng nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. Đối với chủ đầu tư: Các chủ đầu tư nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định trong thông tư số 09 –BKH- VPTĐ của Bộ Kế hoạch và đầu tư về xây dựng và thẩm định dự án. Các chủ dự án cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiêụ quả. Các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu chi tiết trên các khía cạnh như thị trường, kỹ thuật. tài chính của dự án đầu tư và đảm bảo thực hiện đầu tư theo đúng nội dung luận chứng kinh tế kỹ thuật được phê duyệt. Các dự án phải được xác định đầu tư theo đúng tổng vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm nhiều khối lượng nhưng tính ít để dễ duyệt, khiến trong quá trình xây dựng xảy ra thiếu vốn phải bổ xung, ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và tiến độ xây dựng. KẾT LUẬN Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những vấn đề quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng, mở rộng các hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Tuy nhiên nội dung công tác này có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp trong và ngoài ngành Ngân hàng. Vì vậy, đòi hỏi phải nghiên cứu sau sắc cùng với những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm, nỗ lực từ nhiều phía. Trong phạm vi của bài viết này, em đã nêu ra, phân tích, tập trung nghiên cứu và xem xét được một số vấn đề cơ bản sau: Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về Ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại, nêu lên được sự cần thiết của thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại và đưa ra một số chỉ tiêu, phương pháp tài chính quan trọng sử dụng trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Xem xét công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, rút ra được một số vấn đề cốt lõi, tổng kết những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó. Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất, giải pháp của bản thân. Đây là những nội dung rất rộng mà trong bài viết này em chỉ xin đóng góp thêm một cách tiếp cận, đánh giá mới. Những giải pháp và kiến nghị chỉ là những đóng góp nhỏ cho việc hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Sau cùng, em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc cùng các cô, các chú – anh chị em cán bộ, nhân viên ngành Ngân hàng nói chung cũng như các cô chú, anh chị em cán bộ nhân viên thuộc Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng cùng với sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong khoa chủ quản (Khoa: Khoa Học Quản Lý), các thầy cô giáo trong Khoa Tài Chính Ngân hàng, trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, và nhất là sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo, giáo viên hướng dẫn, T. Mai Văn Bưu đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành tốt bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO: Giáo trình tài chính doanh nghiệp, trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại EDWARD.REED và EDWARD.K.GILL. Quản trị dự án, Nguyễn Xuân Thuỷ, giáo trình hiệu quả và quản lý nhà nước, Tiến sỹ Mai Văn Bưu. Phân tích và quản lý các dự án đầu tư Nguyễn Ngọc Mai. Tạp chí Ngân hàng tài chính, các số 2001, 2002. Quy chế mới về quản lý doanh nghiệp nhà nước, NXB tài chính 11/1999. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương VN, năm 2000, 2001. Các hồ sơ thẩm định tại phòng dự án và phòng thẩm định - đầu tư chứng khoán, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. MỤC LỤC Nội dung Trang ChươngI: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam với hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư 3 1. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 3 1.1 Ngân hàng thương mại qua hoạt động cho vay của Ngân hàng trách nhiệm 3 1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 4 2. Sự cần thiết thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 6 2.1 Dự án đầu tư 7 2.2 Sự cần thiết thẩm định Dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 8 3. Trình tự và nội dung thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 11 4. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng 24 4.1 Chất lượng thẩm định dự án đầu tư 24 4.2 Các nhân tố ảnh hưởng 25 Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 1. Giới thiệu chung về Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 2.1 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian qua 30 2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 33 3. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 37 3.1 Tổ chức hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 37 3.2 Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 39 4. Một số nhận xét đánh giá về hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 47 4.1 Những kết quả đạt được 47 4.2 Một số hạn chế 51 4.3 Nguyên nhân 56 Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 60 1. Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 60 2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự toán đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 62 2.1 Một số định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 62 2.2 Một số giải pháp 63 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư 72 Kết luận 74 Tài liệu tham khảo 76 Bảng tổng hợp chi phí xây lắp (bảng 1B ) Đơn vị tính: 1000 đ STT Hạng mục công trình Số tiền 1 Lấp trũng và xử lý nền 1.624.477,20 2 Xây dựng nhà sản xuất 4.481.347,20 3 Móng máng 212.674,1 4 Điện - nước 183.898,00 5 Hệ thống cấp khí 182.960,50 6 Tường dậu 47.716,00 7 Đường vận chuyển và kho chứa liệu ngoài trời 306.063,00 Tổng cộng 7.039.136,00

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại NHNN & PTNT Việt Nam.doc
Luận văn liên quan