Đề tài Nâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động tại Technoimport

Chương I: Cơ Sở Lí Thuyết. 1.1. Vốn lưu động 1.1.1. Khái niệm: Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động, các doanh nghiệp còn cần có các đối tượng lao động. Khác với các tư liệu lao động, các đối tượng lao động (như nguyên, nhiên, vật liệu, bán thành phẩm .) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Như vậy có thể hiểu: - Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về các đối tượng lao động của doanh nghiệp. - Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản lưu động được được thể hiện ở bộ phận tiền mặt, các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ tồn kho. Vốn lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển. Ngoài ra theo lí thuyết tài chính vốn lưu động còn được xác định bằng phần trội của tổng nguồn vốn dài hạn so với tổng tài sản cố định hay bằng phần chênh lệch của tài sản lưu động so với nợ ngắn hạn. 1.1.2. Phân loại - Căn cứ vào vai trò vốn lưu động được chia thành 3 loại: + Vốn lưu động trong khâu dự trữ bao gồm giá trị của vật tư, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động + Vốn lưu động trong khâu sản xuất: bao gồm giá trị của sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, chi phí chờ kết chuyển. + Vốn lưu động trong khâu lưu thông bao gồm: giá trị của thành phẩm, vốn bằng tiền( kể cả vàng bạc đá quí ); các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản ký cược, ký quĩ ngắn hạn; các khoản phải thu. Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của từng loại vốn trong trong từng khâu của quá trình kinh doanh. Từ đó doanh nghiệp có thể điều chỉnh cơ cấu sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất. - Phân loại theo hình thái biểu hiện. vốn lưu động chia làm 2 loại: + Vốn vật tư hàng hoá: gồm vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động, bao gồm giá trị của sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm Đối với loại vốn này cần xác định vốn dự trữ hợp lí để từ đó xác định nhu cầu vốn lưu động đảm bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thụ được liên tục. + Vốn bằng tiền bao gồm vốn bằng tiền (kể cả vàng bạc đá quí ); các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản ký cược, ký quĩ ngắn hạn; các khoản vốn trong thanh toán - Phân loại theo mối quan hệ sở hữu về vốn Theo cách phân loại này vốn lưu động được phân thành vốn chủ sở hữu và vốn vay. Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành từ vốn của bản thân doanh nghiệp hay từ các khoản nợ. Từ đó có các quyết định trong việc huy động và quản lý, sử dụng vốn hợp lý hơn. - Phân loại theo nguồn hình thành. Xét về nguồn hình thành, vốn lưu động có thể hình thành từ các nguồn: vốn điều lệ, vốn tự bổ sung, vốn liên doanh, liên kết, vốn đi vay. Cách phân loại này cho thấy cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Mỗi một nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó. Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm chi phí sử dụng vốn. - Căn cứ vào khả năng chuyển hoá thành tiền, vốn lưu động gồm: + Vốn bằng tiền. + Khoản phải thu

doc41 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3160 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động tại Technoimport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ và kỹ thuật 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. 2.1.1.1. Cơ sở pháp lí. - Tên công ty: Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật - Tên giao dịch: The Vietnam National Complete Equipment and Technics Import- Export Corporation. - Loại hình doanh nghiệp: công ty Nhà nước - Địa chỉ: 16- 18 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. - Quyết định thành lập công ty Nhà nước số: 105TM/TCCB ngày 22/02/1995 của Bộ Trưởng Thương Mại. - Giấy ĐKKD số : 0106000662 do Sở Kế Hoạch và Đầu tư TP.Hà Nội cấp ngày 01/ 06/ 2006 - Người đại diện: ông Vũ Chu Hiền chức vụ: Tổng giám đốc - Vốn điều lệ: 18.851.000.000 đồng Việt Nam. - Ngành nghề kinh doanh chính: + Tư vấn và dịch vụ hợp đồng xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật. + Xuất nhập khẩu và kinh doanh thiết bị phụ tùng, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng và hàng tiêu dùng: mặt hàng kinh doanh cụ thể theo điều lệ bộ đã duyệt. + Kinh doanh thiết bị toàn bộ và kỹ thuật các loại công trình, máy móc, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ sản xuất, khoáng sản, sản phẩm hoá hoc, nông sản, cao su, sản phẩm bằng cao su, tơ tằm, sợi, nông sản, lâm sản, hàng thủ công mỹ nghệ. + Kinh doanh nguyên liệu phục vụ nuôi trồng thuỷ sản + Xuất khẩu than, kinh doanh trang thiết bị y tế + Kinh doanh dịch vụ vận tải hàng trong và ngoài nước + Xuất khẩu lao động( trong đó tổ chức đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng nghề nghiệp cho người lao động đi nước ngoài). + Đại lí làm thủ tục hải quan + Tư vấn dịch vụ du học tự túc 2.1.1.2. Các giai đoạn phát triển. Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật( Technoimport) được thành lập ngày 28/01/1959, trực thuộc Bộ Ngoại Thương trước đây nay là Bộ Thương Mại. Thời kì 1959- 1989 công ty Technoimport là doanh nghiệp Nhà nước duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ cho tất cả các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh và quốc phòng.Công việc chủ yếu của công ty là tổ chức ký kết hợp đồng và tiếp nhận sự giúp đỡ, viện trợ về trang thiết bị kỹ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa theo các Hiệp định thương mại hoặc vay nợ hoặc viện trợ chứ hầu như không có hoạt động xuất khẩu. Các hiệp định này đã quy định rõ số vốn cụ thể cấp cho từng công trình cũng như quy định công ty đứng ra nhận xuất nhập khẩu của cả hai bên. Chính vì vậy bạn hàng của công ty trong thời kì này hoàn toàn do Nhà nước quy định. Công ty không có quỳên lựa chọn. Những bạn hàng lúc này là các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu của các nước Đông Âu và phần lớn là của Liên Xô cũ. Mối quan hệ vói các nước Tây Âu và Bắc Âu rất hạn chế. Từ năm 1989 đến nay, trong sự chuyển hướng chung của nền kinh tế, công ty Technoimport đã đi vào hạch toán và hoạt động có hiệu quả trong cơ chế thị trường với chức năng nhiệm vụ mở rộng hơn và đa dạng hơn. Do các yếu tố kinh tế khách quan buộc Nhà nước phải có những thay đổi trong chính sách kinh tế để thực hiện mục tiêu chiến lược là hội nhập kinh tế toàn khu vực và trên toàn thế giới, đi kèm với nó là chủ trương mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp cho các cơ sở sản xuất thuộc thành phần kinh tế . Sự độc quyền ngoại thương như trước đây không còn nữa. Tình hình này đã đặt Công ty đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn, trong đó phải kể đến sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường mà Công ty chưa từng gặp phải trong 30 năm trước đó.Nhận biết rõ được điều này nên công ty đã đặt ra chiến lược cụ thể là chuyển từ đơn vị chuyên kinh doanh nhập khẩu sang kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp lấy thiết bị toàn bộ và thiết bị kỹ thuật làm mặt hàng chủ lực. Ngoài ra, Công ty còn kinh doanh thêm một số mặt hàng mới để giảm bớt rủi ro trong kinh doanh như các loại thiết bị lẻ, nguyên liệu sản xuất và cả hàng tiêu dùng. Hiện nay là đơn vị chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu, với đội ngũ cán bộ năng động, được đào tạo có hệ thống và nhiều kinh nghiệm, công ty Technoimport đã và đang phục vụ có hiệu quả nhiều khách hàng trong và ngoài nước trên lĩnh vực thương mại và đầu tư theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Công ty Technoimport có quan hệ hợp đồng thương mại với hàng trăm công ty, tập đoàn và nhà sản xuất ở 68 quốc gia trên khắp các châu lục. Tính đến nay đã có hàng trăm còng trình thiết bị toàn bộ do Technoimport nhập khẩu đã và đang hoạt động có hiệu quả phục vụ cho việc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Với những thành tích đóng góp đáng kể trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, công ty Technoimport đã được Nhà nước trao tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba năm 1963, Huân chương lao động hạng nhì năm 1984 và hai lần được nhận Huân chương lao động hạng nhất năm 1989 và 1997. Ngoài ra công ty Technoimport được chính phủ tặng cờ thi đua “ là đơn vị dẫn đầu ngành Thương mại” liên tục trong những năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, cờ thi đua của Bộ Thương Mại về thành tích 10 năm đổi mới, bằng khen của tổng cục an ninh, bằng khen của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. 2.1.2. Hoạt động kinh doanh chính của công ty. 2.1.2.1. Lĩnh vực kinh doanh. - Xuất khẩu: + Máy móc thiết bị + Khoáng sản + Lâm sản được nhà nước cho phép + Than đá, rau quả, hàng thủ công mỹ nghê, vật liệu xây dựng, hàng công nghiệp tiêu dùng. + Cao su, sản phẩm bằng cao su và chứa cao su. + Nông sản và nông sản chế biến. + Tơ tằm, sợi các loại. - Nhập khẩu: + Thiết bị toàn bộ + Dây chuyền công nghệ + Máy móc, thiết bị lẻ, phương tiện vận tải. + Thiết bị y tế, thiết bị thí nghiệm. + Vật nuôi trồng thuỷ sản. + Sản phẩm hoá, phân bón + Vật liệu xây dựng 2.1.2.2.Phương thức kinh doanh. - Xuất nhập khẩu uỷ thác: Đây là hình thức xuất nhập khẩu trong đó Công ty đóng vai trò làm trung gian để tiến hành các nghiệp vụ xuất nhập các mặt hàng theo yêu cầu của các chủ đầu tư trong và ngoài nước- những tổ chức, doanh nghiệp không có đủ khả năng, điều kiện cũng như kinh nghiệm để thực hiện công việc này.Trong hình thức này, Công ty không cần phải sử dụng vốn của mình và được hưởng một khoản gọi là phí uỷ thác ( thường từ 0.5%- 1% trị giá hợp đồng). Đây là hoạt động kinh doanh mang tính chất truyền thống của Công ty , Công ty Technoimport đã ra đời và hoạt động với ngành chuyên doanh và được Nhà nước giao nhiệm vụ là đơn vị duy nhất được phép xuất nhập khẩu các mặt hàng thiết bị toàn bộ và kỹ thuật, với bề dày kinh nghiệm Công ty đã được các Bộ, Ngành, các Công ty y trong nước tin cậy uỷ thác xuất nhập khẩu các mặt hàng truyền thống của Công ty , trong suốt quá trình phát triển của mình Technoimport đã nhập khẩu uỷ thác hàng trăm công trình thiết bị toàn bộ phục vụ nhu cầu phát triển của các ngành sản xuất trong nước. Hiện nay, do nhu cầu phát triển của thị trường trong nước, Technoimport đã tiến hành mở rộng loại hình dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác, tăng cường quan hệ với các khách hàng trong và ngoài nước với mục tiêu nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, hợp tác hai bên cùng có lợi. - Xuất nhập khẩu trực tiếp: Hiện nay xu hướng xuất nhập khẩu trực tiếp trong các doanh nghiệp đang tăng lên nhưng ở Technoimport thì nó chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, căn cứ nhu cầu của thị trường Công ty Technoimport tiến hành xuất nhập khẩu trực tiếp nhằm đáp ứng nhu cầu trực tiếp của các khách hàng trong nước và ngoài nước, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho các đơn vị. Hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp ra đời và bắt nguồn từ nhu cầu thị trường trong nước trong những năm gần đây. Công ty sẵn có quan hệ khách hàng nước ngoài từ nhiều năm nên có thế nhập khẩu các mặt hàng có chất lượng, giá nhập khẩu thấp để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại thị trường trong nước. Đồng thời, công ty tiến hành mua bán hàng hoá trong nước xuất khẩu cho các đối tượng nước ngoài để nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước. Do mặt hàng chủ đạo của Công ty lại là thiết bị toàn bộ nên hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp cũng phần nào còn là một vấn đề khó khăn và mạo hiểm đối với Công ty khi nó đòi hỏi một lượng vốn lớn mà thời gian lại dài trong khi vốn kinh doanh của Công ty là có hạn. Tuy vậy, xuất nhập khẩu trực tiếp lại là hình thức kinh doanh mang lại hiệu quả cao vì lợi nhuận thường cao hơn phí uỷ thác rất nhiều, đồng thời Công ty còn chủ động được về nguồn hàng và bạn hàng trong kinh doanh. Trong thời gian gần đây, Công ty đã xây dựng một số ngành hàng chủ đạo đáp ứng nhu cầu của thị trường và hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp đã và đang trở thành lĩnh vực đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho các đơn vị trong Công ty. - Tư vấn thương mại: Đây là lĩnh vực phát triển theo những công trình xây dựng cơ bản nhập khẩu thiết bị toàn bộ có giá trị lớn theo yêu cầu chung của thị trường, chủ đầu tư không thể tự thực hiện các công việc liên quan đến nhập khẩu, xây lắp thiết bị toàn bộ để đi vào sản xuất, Technoimport dựa vào bề dày truyền thống và kinh nghiệm thực tiễn tư vấn, hỗ trợ chủ đầu tư trong việc triển khai xây dựng các công trình trên. Trong những năm gần đây hàng loạt các công trình thiết bị toàn bộ trên cả nước đã được Technoimport tư vấn nhập khẩu đã và đang đi vào hoạt động với hiệu quả cao, các chi phí chủ đầu tư bỏ ra không đáng kể. Ngay cả khi chủ đầu tư có điều kiện nhập khẩu thiết bị toàn bộ thì vai trò của Technoimport cũng đã đóng góp mức độ đáng kể. Trong cơ chế hiện nay, với loại hình Công ty kinh doanh thương mại như Technoimport việc mở rộng các ngành kinh doanh trong đó có lĩnh vực tư vấn thương mại là bước đi theo đúng xu thế của thị trường trong bối cảnh Công ty không đủ điều kiện tài chính cho phép thực hiện các công trình trên và Nhà nước xoá bỏ cơ chế độc quyền ngoại thương như trước kia. 2.1.2.3. Thị trường. - Thị trường đầu vào Với kinh nghiệm gần 50năm hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật, Công ty Technoimport có hệ thống các bạn hàng cung cấp rộng khắp trong và ngoài nước. Hiện nay, Công ty có quan hệ với các bạn hàng ở gần 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, ngoài ra Công ty còn có các chi nhánh, các văn phòng đại diện ở nước ngoài như tại CH Liên bang Nga, Pháp, Mỹ, Australia, Thuỵ Điển, Hungary, Cuba, Sìngapore và Italia. Do vậy việc lựa chọn nhà cung cấp, thu thập thông tin về bạn hàng nước ngoài, lựa chọn quy cách phẩm chất, chất lượng công trình ngay tại nước bản địa được Công ty tiến hành rất dễ dàng và đã tạo lợi thế cạnh tranh của Công ty so với các đơn vị khác. Xu thế tự do hoá thương mại trong đó có lĩnh vực xuất nhập khẩu, Technoimport vẫn tạo được cho mình một lợi thế nhất định so với các công ty khác trong ngành và nâng cao uy tín của Công ty trong hoạt động xuất nhập khẩu. - Thị trường đầu ra Trước kia, khách hàng đầu ra của Technoimport là những Bộ, Tổng cục, Cục thuộc các mảng quản lí hành chính Nhà nước do công ty luôn luôn được tin tưởng giao phó công việc xuất nhập khẩu cho các Bộ, Ban, Ngành liên quan. Hiện nay, theo cơ chế mở cửa của thị trường và cơ chế quản lí ngân sách bằng hình thức đấu thầu sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, công ty vẫn giữ cho mình mối quan hệ mật thiết với các Bộ, Ban, Ngành ngay cả khi phải đấu thầu cạnh tranh quốc tế thì khả năng cạnh tranh của Technoimport vẫn cao. Tuy nhiên, trong xu thế mở cửa của thị trường, khách hàng đầu ra của Technoimport cũng hướng sang lĩnh vực khác, Công ty mở rộng quan hệ với khách hàng mới trong nhiều lĩnh vực hợp tác trên cơ sở an toàn, hạn chế rủi ro đảm bảo các bên cùng có lợi. Do vậy, khách hàng đầu ra của Công ty hiện nay trải khắp trên nhiều lĩnh vực. Điều này tạo thêm đà phát triển cho Technoimport trong cơ chế quản lí mới. 2.2. Thực trạng quản trị Vốn lưu động tại Technoimport. 2.2.1. Phân tích tình hình kinh doanh của Technoimport trong giai đoạn 2005- 2007 Bảng 1: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2005- 2007 Chỉ tiêu Mã số 2005 2006 2007 1. Doanh thu thuần về giá vốn hàng bán và cung cấp dịch vụ(10= 01-02) 10 152,711,768,773 156,234,460,616 263,522,142,234 2. Giá vốn hàng bán 11 145,157,882,946 149,559,536,842 255,096,509,106 3. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ(20= 10-11) 20 7,553,885,827 6,674,923,774 8,425,633,128 6. Doanh thu hoạt động tài chính 21 3,624,092,958 2,185,050,729 1,471,655,728 7. Chi phí tài chính 22 2,066,694,770 239,916,493 1,815,015,892 - trong đó chi phí lãi vay 23 265,189,387 202,714,550 1,219,912,538 8. Chi phí bán hàng 24 3,041,750,683 2,302,354,160 3,906,586,629 9. Chi phí quản lí doanh nghiệp 25 7,146,382,979 5,799,624,592 7,925,959,931 10. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh{30= 20+(21-22)-(24+25)} 30 (1,076,849,620) 518,079,258 (3,750,273,596) 11. Thu nhập khác 31 5,137,996,915 314,774,625 355,803,638 12. Chi phí khác 32 2,425,742,913 372,576,046 1,697,638 13. Lợi nhuận khác(40= 31-32) 40 2,712,254,002 (57,801,421) 354,106,000 14. Tổng lợi nhuận trước thuế(50= 30+40) 50 1,635,404,382 460,277,837 (3,396,167,596) 15. Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành 51 470,262,798 128,877,794 0 16 Lợi nhuận sau thuế(60= 50-51-52) 60 1,165,141,584 331,400,043 (3,396,167,596) ( Nguồn: trích báo cáo tài chính của Technoimport trong giai đoạn 2005-2007) Nhận xét: - Các khoản mục chi phí: Bảng 2 : Bảng phân tích tình hình biến động của giá vốn hàng bán, và các khoản mục chi phí của Technoimport Chỉ tiêu Chênh lệch tuyệt đối % theo quy mô 06/05 07/06 07/05 06/05 07/06 07/05 Giá vốn hàng bán 4,401,653,896 105,536,972,264 109,938,626,160 103.032% 170.565% 175.737% Chi phí tài chính (1,826,778,277) 1,575,099,399 (251,678,878) 11.609% 756.520% 87.822% Chi phí bán hàng (739,396,523) 1,604,232,469 864,835,946 75.692% 169.678% 128.432% Chi phí quản lí (1,346,758,387) 2,126,335,339 779,576,952 81.155% 136.663% 110.909% Chi phí khác (2,053,166,867) (370,878,408) (2,424,045,275) 15.359% 0.456% 0.070% ( Nguồn: trích báo cáo KQKD của Technoimport trong giai đoạn 2005- 2007) - Giá vốn hàng bán có xu hướng tăng mạnh trong 3 năm qua thể hiện trong việc tăng nhẹ ở năm 2006 so với năm 2005 và tăng đột biến ở năm 2007 với mức tăng 170,565%, điều này có thể giải thích bằng việc đa dạng hoá các loại hàng của Công ty cùng với sự thay đổi lớn tromg cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu trong đó các loại thiết bị y tế, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất đều tăng mạnh, những thay đổi này đều bắt nguồn từ những biến đổi trong nền kinh tế vĩ mô giai đoạn gần đây như: sự gia tăng đầu tư, việc sản xuất, xuất khẩu hàng hóa trong nước không ngừng mở rộng trong khi nhập khẩu vẫn đóng vai trò quan trọng không thể thiếu của nền kinh tế từ đó dẫn đến nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá không ngừng tăng lên làm hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty cũng phát triển theo. - Các khoản mục chi phí trong năm 2006 đã được điều chỉnh và giảm đáng kể so với năm 2005: mức tiết kiệm đối với chi phí tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp và chi phí khác lần lượt là: 1,826,778,277 ; 739,396,523; 1,346,758,387 ; 2,053,166,867 VNĐ. Sự giảm mạnh trong chi phí quản lí doanh nghiệp có thể được giải thích bằng sự thay đổi trong cơ cấu các phòng xuất nhập khẩu của Công ty, phòng xuất nhập khẩu số 2 được sát nhập với phòng xuất nhập khẩu số 1, phòng số 4 sát nhập vào phòng số 3, như vậy từ 7 phòng xuất nhập khẩu hiện nay chỉ còn lại 5. Bên cạnh đó là những chính sách quản lí chặt chẽ các chi phí trong Công ty để tránh lãng phí như sự cắt giảm trong chi phí công tác của nhân viện, chi phí chung , chi phí cho hoạt động công đoàn của Công ty … Sang năm 2007 các chi phí này lại tăng trở lại xấp xỉ với mức tại năm 2005, đây dường như là hệ quả tât yếu của sự mở rộng quy mô hoạt động của Công ty. - Phân tích lợi nhuận: Bảng 3: Phân tích kết cấu của lợi nhuận. Chỉ tiêu Chênh lệch tuyệt đối 06/05 07/06 07/05 LN từ HĐ bán hàng và cung cấp DVụ (878,962,053) 1,750,709,354 871,747,301 LN từ HĐKD 1,594,928,878 (4,268,352,854) (2,673,423,976) LN từ HD khác (2,770,055,423) 411,907,421 (2,358,148,002) LN trước thuế (1,175,126,545) (3,856,445,433) (5,031,571,978) LN sau thuế (833,741,541) (3,727,567,639) (4,561,309,180) ( Nguồn: trích báo cáo KQKD của Technoimport giai đoạn 2005- 2007) - Qua bảng trên ta dễ dàng thấy: lợi nhuận của Công ty có xu hướng giảm trong 3 năm vừa qua. Năm 2006 lợi nhuận từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ giảm đáng kể so với năm 2005 với số chênh lệch tuyệt đối là 878,962,053 VNĐ, hầu hết lợi nhuận từ các hoạt động khác cũng đều giảm mạnh xuống đến lỗ. Chính vì vậy dù lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh có tăng ở mức 1,594,928,878 VNĐ do có sự tiết kiệm chi phí ở hầu hết tất cả các khâu trong quá trình hoạt động của Công ty , nhưng điều này không có khả năng mang lại một khoản lợi nhuận lớn từ hoạt động kinh doanh mà nó chỉ có đủ khả năng trang trải cho các khoản lợi nhuận âm khác và tạo ra mức lợi nhuận tuy cao hơn mức lỗ của năm 2005 nhưng vẫn còn nhỏ so với quy mô hoạt động của Công ty từ trước đến nay. Năm 2007 Công ty có một bảng báo cáo kết quả kinh doanh với những số liệu không được cải thiện hơn so với năm 2006 là bao nhiêu, thêm vào đó nếu xét ở khía cạnh tạo ra lợi nhuận thì tình hình còn có phần xấu đi. Cụ thể với sự tăng trở lại của lợi nhuận từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ lại kèm theo đó sự gia tăng mạnh các khoản mục chi phí, điều này làm cho lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh không những giảm 4,268,352,854 VNĐ mà còn ở múc lỗ gấp hơn 3 lần mức lỗ trong năm 2005. Tình trạng này có thể giải thích bằng rất nhiều nguyên nhân vĩ mô cũng như vi mô, tuy nhiên trong giới hạn bài báo cáo này chúng ta sẽ chỉ tìm hiều về một nguyên nhân quan trọng. Nó không chỉ là nhược điẻm của Technoimport mà còn là vấn đề khó khăn với rất nhiều Công ty đang gặp khó khăn trong giai đoạn hội nhập hiện nay, đó chính là vấn đề quản trị vốn lưu động. 2.2.2. Thực trạng quản trị vốn lưu động tại Technoimport. 2.2.2.1. Phân tích các chỉ số phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Technoimport. Dựa trên cơ sở lí thuyết trình bày ở chương I ta có bảng sau: Bảng 4: các chỉ số đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số vòng quay vốn lưu động 0.01123 0.0003 - Kỳ luân chuyển vốn lưu động 32067 1210018 - Hệ số thanh toán nhanh 1.1551 1.0484 1.1025 Hệ số thanh toán tức thời 1.2462 1.2321 1.2067 - Số vòng luân quay vốn lưu động của Technoimport liên tục giảm trong giai đoạn 2005- 2007 ở mức rất thấp, xấp xỉ 0. Như vậy sự luân chuyển vốn lưu động trong một kỳ kinh doanh ( tính là một năm) hầu như không có. Hệ số thanh toán nhanh cũng như hệ số thanh toán tức thời thể hiện khả năng thanh khoản thực sự của Công ty dao động rất ít, hầu như 1VNĐ nợ ngắn hạn được đảm bảo chi trả bằng 1VNĐ giá trị tài sản lưu động. Mặc dù Công ty có một lượng hàng tốn kho tương đối lớn, tuy nhiên giá trị hàng tồn kho này lại chiếm phần nhỏ trong tổng tài sản lưu động của Công ty, nên sự chênh lệch về giá trị giữa hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán tức thời không đáng kể. Điều này khẳng định tình hình tài chính của Technoimport vẫn được duy trì một cách khá ổn định và có thể chấp nhận được. 2.2.2.2. Thực trạng quản trị tiền mặt. Khởi điểm của việc kiểm soát đầu tư vào tài sản ngắn hạn là sự kiểm soát một cách hữu hiệu tiền mặt hay những khoản tương đương tiền mặt. Tương đương tiền mặt là các chứng khoán khả nhượng . Tiền mặt của Công ty thường được giữ dưới hình thức tiền mặt tồn tại quỹ, tiền gửi ngân hàng trong tài khoản Tổng công ty và dạng ngân phiếu. Phân tích sự luân chuyển tiền mặt thuần của Technoimport trong giai đoạn qua ta có Bảng 5: Bảng tóm tắt lưu chuyển tiền tệ thuần Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động SX- KD (1,550,177,695.04) (16,614,205,531) (26,229,804,120) Lưu chuyển tiền thuận từ hoạt động đầu tư 219,516,787 385,236,336 (497,623,835) Lưu chuyển tiền thuận từ hoạt động tài chính 582,734,985 9,241,420,112 18,902,778,551 Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ (747,925,923.04) (6,987,549,073) (7,824,649,404) Tiền và tương đương tiền đầu kỳ 34,272,190,935.04 33,524,265,012 26,536,715,939 Tiền và tương đương tiền cuối kỳ 33,524,265,012 26,536,715,939 19,584,716,956 ( Nguồn: trích bản báo cáo lưu chuyển tiền tệ giai doạn2005- 2007) Bảng 6: tỷ lệ % theo quy mô của tiền mặt: Năm So với 2005 2006 2007 Tổng tài sản 22.341% 16.710% 12.333% Tài sản lưu động 23.013% 17.153% 13.583% ( Nguồn: dựa trên bảng cân đối kế toán của Technoimport giai đoạn 2005- 2007) - Tỷ lệ % theo quy mô của tiền mặt so với tổng tài sản và tài sản lưu động có xu hướng giảm liên tục trong 3 năm qua. Điều đó thể hiện việc sử dụng tiền mặt một cách hiệu quả của Công ty, tránh tình trạng tiền nhàn rỗi quá nhiều. Tuy nhiên bản thân Công ty cần phải hạch toán nhu cầu tiền mặt dự trữ cần thiết một cách chính xác nhất có thể đủ để trang trải cho các hoạt động kinh doanh thường nhật của Công ty và sử dụng trong những trường hợp cấp bách. Dựa vào lí thuyết đã được trình bày ở chương I ta có vòng quay tiền mặt qua các năm 2005- 2007 như sau Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Vòng quay tiền mặt 4.7635 5,286 11.54 - Như vậy trong 3 năm vừa qua vòng quay tiền mặt của Technoimport liên tục tăng cao, với mức tăng mạnh ở năm 2007. Đây là một tín hiệu không tốt cho hiệu quả kinh doanh của Công ty. Thực tế, cùng với sự phát triển của kinh tế cả nước, Technoimport đứng trước một sự cạnh tranh gay gắt chưa từng có trong lịch sử của Công ty, chế độ ưu đãi, bảo hộ của Nhà nước đối với Technoimport không còn được như trước đây, Công ty phải tự mình chèo chống tất cả các khoản tài chính để đảm bảo hoạt động tốt, chính vì điều đó Công ty phải linh hoạt trong chính sách bán hàng, mở rộng quan hệ để thu hút khách hàng nhằm nâng cao doanh thu cũng như lợi nhuận của mình. Trước đây hầu hết các khách hàng của Công ty là các Bộ, Ban, Ngành, khi có đơn đặt hàng từ các tổ chức này, bản thân Công ty cũng được họ giúp đỡ cấp cho một khoản tiền ban đầu để tiến hành xuất nhập khẩu mặt hàng theo yêu cầu, nhưng hiện nay, khách hàng của Công ty không chỉ dừng lại ở những khách hàng truyền thống mà còn mở rộng ra các đối tượng doanh nghiệp khác nữa, mà đâu phải doanh nghiệp nào cũng có đủ vốn xuất nhập khẩu hàng hoá ngay tại thời điểm hoạt động đó bắt đầu, vì vậy chính sách cấp một khoản tín dụng cho các doanh nghiệp để họ yên tâm tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu của mình là một chính sách thu hút khách hàng hiệu quả, kết hợp với uy tín sẵn có của mình, đây quả thực là một thế mạnh của Technoimport trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, chính sách bán hàng này lại cũng là một nguyên nhân quan trọng trong việc làm giảm mức độ dự trữ tiền mặt của Technoimport, đây sẽ là một trở ngại lớn đối với Công ty nếu Công ty không đủ tiền mặt trang trải cho các khoản đầu tư ngắn hạn, vốn bị chiếm dụng không phải là điều mà các doanh nghiệp dễ dàng chấp nhận đánh đổi trong hoạt động kinh doanh của mình. Nó sẽ tạo ra một chi phí cơ hội khá lớn trong việc sử dụng tiền mặt. Nhưng có thể nói, khách hàng của Technoimport hầu hết là những khách hàng đã quen thuộc và làm ăn lâu dài với Công ty, nên việc bán hàng theo phương thức trả chậm này không quá rủi ro đối với Technoimport. - Cùng với biện pháp đẩy mạnh doanh số bán hàng và mở rộng đối tượng khách hàng như trên thì Technoimport cũng đã biết vận dụng một số các biện pháp nhằm tăng tốc độ thu hồi tiền mặt cụ thể như sau: + Việc giải quyết các thủ tục giấy tờ hành chính đã được tinh giảm một cách tối thiểu, mỗi phòng xuất nhập khẩu tự quản lí hoạt động của mình và báo cáo lại giám đốc vào cuối mỗi tháng, hết một quý lại có cuộc họp báo cáo kết quả kinh doanh của toàn Công ty. Cơ chế này giúp các phòng xuất nhập khẩu tự chủ động điều chỉnh hoạt động của mình, tránh tình trạng toàn quyền của ban giám đốc làm quy trình thủ tục hành chính trở nên phức tạp hơn. Ngoài ra, trong hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ thì hầu hết các giao dịch, giấy tờ, hoá đơn đều được giải quyết qua điện thoại, email và fax… Chỉ có các hợp đồng có giá trị lớn hơn 0,3 tỷ mới cần đến sự gặp mặt để kí kết, tuy nhiên trường hợp này là rất hãn hữu vì trên thực tế khách hàng của Technoimport hầu hết là các khách hàng đã làm ăn lâu dài với Công ty nên các hợp đồng được thực hiện trên cơ sở tin tưởng nhau là chính, chỉ trừ những trường hợp quan trọng bắt buộc mà thôi. + Về phương thức thanh toán thì sử dụng hình thức chuyển tiền thông qua hệ thống Ngân hàng. Lợi ích của phương thức này là doanh nghiệp có thể fax báo cáo về Công ty và chuyển tiền vào tài khoản Công ty mở tại ngân hàng hay rút tiền tại Ngân hàng đáp ứng kịp thời các nhu cầu cấp thiết, đảm bảo thông suốt trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hình thức này đã được Technoimport sự dụng từ rất lâu qua các hệ thống ngân hàng như: Eximbank, VIBank, ACB bank. Phương thức này không chỉ giúp cho việc thanh toán được thực hiện dễ dàng mà còn giúp tạo mối quan hệ tốt với ngân hàng thuận lợi cho việc vay vốn để phát triển kinh doanh và Công ty thu được một khoản lợi nhuận từ tiền gửi này. + Về việc chi trả lương cho công nhân viên được thực hiện thông qua phòng tổ chức hành chính, phòng này có vai trò nhận lương cho tất cả các nhân viên trong Công ty và nhân viên phải tự xuống lấy phần lương của mình bằng cách kí vào giấy xác nhận. Với biện pháp này nên Công ty không thể kéo dài thời gian chi trả lương cho công nhân viên, trong khi đó tiền được chuyển đến phòng tổ chức hành chính phải nằm đợi một khoản thời gian thì tất cả các nhân viên mới nhận đủ khoản lương của mình. Với xu thế quản lí lương hiện nay, Công ty còn khá lạc hậu khi chưa vận dụng được biện pháp trả lương cho nhân viên thông qua tài khoản ở Ngân hàng, vừa nhanh gọn lại vừa thuận tiện, với quan hệ sẵn có với các hệ thống Ngân hàng thì điều này không phải là khó, tuy nhiên nó chưa thực sự phổ biến và còn khó làm quen với toàn bộ công, nhân viên Công ty, đòi hỏi một khoảng thời gian dài để thích nghi. + Thông thường việc thanh toán tiền với các nhà cung cấp cũng thực hiện bằng việc trả chậm, cũng như quan hệ với các khách hàng, thì đối tác của Technoimport hầu hết là đối tác lâu đời. Công ty có gắng thuyết phục nhà cung cấp bán hàng theo phương thức trả chậm để tranh thủ sử dụng các khoản tiền vào các hoạt động đầu tư ngắn hạn khác. Ngoài ra, Công ty không có một phòng ban hay có người cụ thể chịu trách nhiệm về quản lí tiền mặt, mà hầu hết trách nhiệm này thuộc vào bản thân các phòng thực hiện kinh doanh. Vì vậy, các phòng xuất nhập khẩu phải tự cân đối thời gian cho khách hàng nợ với thời gian nợ tiền của nhà cung cấp sao cho hoạt động được hiệu quả nhất, không bị ứ đọng hay chiếm dụng vốn quá dài hạn. 2.2.2.3. Thực trạng quản trị khoản phải thu Bảng 7: tỉ lệ % theo quy mô của khoản phải thu. Năm So với 2005 2006 2007 Tổng tài sản 52.956% 51.067% 66.291% Tài sản lưu động 54.549% 52.42% 73.011% ( Nguồn: dựa trên bảng cân đối kế toán của Technoimport giai đoạn 2005- 2007) - Giá trị khoản phải thu luôn ở mức rất lớn và liên tục tăng trong giai đoạn 2005- 2007. Năm 2006 tỷ lệ % theo quy mô của khoản phải thu so với tổng tài sản và tài sản lưu động đều có xu hướng giảm, nhưng giảm rất ít ở mức bằng 51.067% tổng tài sản và 52.42% tổng tài sản lưu động. Sang năm 2007 con số này lại tiếp tục tăng lên rất cao. Điều này được giải thích khá rõ nét qua chính sách bán hàng vừa phân tích ở trên. Việc cấp tín dụng và đồng ý bán chịu cho khách hàng làm khoản phải thu của Công ty tăng lên mạnh mẽ, nhất là đối với Technoimport mặt hàng chủ yếu lại là các thiết bị, máy móc, sắt thép, nguyên vật liêu có giá trị cao. Việc cấp tín dụng cho các khách hàng của Technoimport thực sự chưa được kiểm soát một cách chặt chẽ. Hầu như không có nhiều điều kiện ràng buộc về việc khách hàng được phép mua hàng thanh toán chậm. Các khách hàng này hầu hết là các khách hàng quen thuộc nên việc cấp tín dụng cho họ chỉ hoàn toàn dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, trên mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa hai bên. Chỉ trừ một số trường hợp khách hàng mới lần đầu làm ăn với Công ty hay những khách hàng mà Công ty hoàn toàn không biết gì về họ thì Công ty mới tiến hành việc đánh giá vị thế của các khách hàng nhằm cung cấp tín dụng cho họ và đảm bảo rủi ro là nhỏ nhất. Việc đánh giá này được thực hiện theo các nguyên tắc: + Tư cách tín dụng: chính là thái độ tự nguyện có nghĩa vụ trả nợ của khách hàng qua những lần trao đổi mua bán khởi đầu với Công ty áp dụng đối với các khách hàng mới. + Năng lực trả nợ: dựa vào những lần thanh toán tiền hàng nhanh, đúng hạn thì uy tín khách hàng được đánh giá cao và ngược lại, thanh toán quá hạn uy tín của họ ngày một giảm sút. + Vốn: nhân viên của Technoimport có thể đánh giá vốn của khách hàng qua tài sản vật chất của doanh nghiệp họ. Đôi khi việc đánh giá này không chính xác do tài sản này có thể được đầu tư bằng các khoản vay. + Điều kiện: Sự biến động của thị trường tác động đến tình hình doanh thu và lợi nhuận của khách hàng đang hoạt động trong ngành hàng chịu biến động. Dựa trên tất cả các yếu tố này, Công ty sẽ xem xét để cấp cho khách hàng một khoản tín dụng hợp lí. Tuy nhiên, đây là quá trình hãn hữu xảy ra trong hoạt động bán hàng của Technoimport vì thực tế việc thực hiện quy trình đánh giá vị thế khách hàng này còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khó khăn về chủ quan cũng như khách quan như: bản thân Công ty không có đủ năng lực về mặt tài chính cũng như nhân lực để thực hiện quá trình này hiệu quả, bên cạnh đó việc tìm hiểu về tình hình kinh doanh của các khách hàng là vô cùng khó khăn, nếu không có sự minh bạch về các báo cáo tài chính thì dường như việc này có hệ số chính xác rất thấp… Chính vì các nguyên nhân trên nên việc bán hàng chịu của Công ty hầu như không được đảm bảo. Mặc dù hầu hết đều là các khách hàng có uy tín, nhưng bên cạnh đó còn có những doanh nghiệp chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán đến hạn quy định với Technoimport, chính điều này là phương thức bán hàng thu tiền theo kiểu gối đầu của Technoimport tưởng rằng đã rất hiệu quả nhưng trên thực tế đã để lại khá nhiều hợp đồng chưa quyết toán được. Một khoản vốn lớn bị chiếm dụng trong khoảng thời gian dài đã gây rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Technoimport và dẫn đến lợi nhuận liên tục giảm và âm với giá trị khá lớn trong năm 2007. Để việc thu hồi tiền có thể diễn ra một cách hiệu quả thì Công ty đã đưa ra biện pháp như: nếu khách hàng không thực hiện đúng theo quy định về thời hạn thanh toán và số tiền phải thanh toán hết thì Công ty sẽ cưỡng chế việc thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá tiếp theo và nếu kéo dài liên tục thì ngưng việc thực hiện việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên biện pháp này chỉ mang tính chất cứu vãn tình thế mà thôi, nó chưa đủ mạnh để giúp Công ty có thể thu hồi được khoản nợ ngay.. Chính vì vậy đưa ra một chính sách tín dụng khả quan là một điều cần thiết trong nhu cầu hiện nay của Technoimport. 2.2.2.4. Thực trạng quản trị hàng tồn kho Bảng 8: tỷ lệ % theo quy mô của hàng tồn kho: Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng tài sản 7.1% 14.522% 7.841% Tài sản lưu động 7.313% 14.906% 8.636% ( Nguồn: dựa trên bảng cân đối kế toán của Technoimport giai đoạn 2005- 2007) Dựa vào cơ sở lí thuyết chương I ta tính được các số liệu sau: Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số vòng quay hàng tồn kho 15.1565 6.88323 2.5279 Số ngày luân chuyển hàng tồn kho 23.7522 52.301 142.411 - Số vòng quay hàng tồn kho càng ngảy càng giảm và số ngày luân chuyển hàng tồn kho càng ngày càng cao chứng tỏ sự quản lí hàng tồn kho rất kém. Ở năm 2005 các hệ số này cón khá ổn định so với một Công ty kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn như Technoimport, tuy nhiên sang năm 2006 co số này bắt đầu trở nên đáng lo ngại và nhất là ở năm 2007 trung bình mất gần nửa năm Công ty mới bán được hết hàng tồn kho, điều này cũng là một nguyên nhân khiến cho vòng quay tiền mặt của Công ty tăng cao đến vậy. Vốn không những bị ứ đọng trong các khoản cho khách hàng nợ mà còn nằm trong hàng tồn kho với tỷ lệ cao. Điều này có thể được giải thích bằng một khó khăn khá lớn của Công ty gặp phải năm 2005, đó chính là sự mâu thuẫn với cơ quan Hải Quan về mức thuế nhập khẩu phải nộp. Cụ thể: trong năm 2005 Công ty đã nhập khẩu 45 chiếc ô tô về Việt Nam theo phương thức tự doanh. Sau khi hàng về đến cửa khẩu, Công ty đã làm thủ tục hải quan, kê khai trị giá tính thuế đúng theo quy định của Bộ Thương Mại. Đồng thời xuất trình đầy đủ các giấy tờ cần thiết để thông quan hàng hoá, sau khi nộp thuế đầy đủ, Công ty đã mang lô hàng vào nội địa và tiêu thụ hết trong năm 2005. Tuy nhiên, sau đó Hải Quan nghi ngờ Technoimport có sự gian lận trong việc kê khai trị giá tính thuế của lô hàng nhập khẩu và đòi kiểm tra lại hàng hoá. Nhưng do hàng hóa đã được bán hết trong thị trường nội địa nên việc kiểm tra lại chỉ có thể tiến hành trên những giấy tờ. Cơ quan Hải quan yêu cầu Technoimport bị truy thu thêm một khoản thuế trên 20 tỷ VNĐ, nhưng Technoimport có đầy đủ giấy tờ như: hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận xuất xứ, hợp đồng mua bán ngoại thương và các giấy tờ liên quan đến thủ tục mở L/C Công ty thanh toán cho nhà cung cấp thông qua hệ thống ngân hàng Eximbank, vì vậy Technoimport không thực hiện việc truy thu thuế của cơ quan Hải Quan. Mà hơn thế nữa theo Luật Hải Quan: cơ quan Hải Quan có quyền cưỡng chế thuế, và họ đã áp dụng điều này đối với Technoimport, gây rất nhiều khó khăn trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty những năm tiếp theo. Các cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền tuy đã bắt tay và giải quyết sự mâu thuẫn này, nhưng đến nay chưa có một kết quả cụ thể nào. Cứ như vậy, Technoimport đứng trước một rào cản lớn trong việc thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu, vì khi xuất nhập khẩu hàng luôn bị cơ quan Hải Quan làm khó không cho thông quan hàng hoá. Đặc biệt là đối với các mặt hàng nhập khẩu, với xu hướng xuất nhập khẩu tự doanh hơn là uỷ thác như hiện nay, khi hàng hoá nhập khẩu được đưa về cửa khẩu tại Việt Nam, cơ quan Hải Quan làm khó, không cho thông quan hàng hoá, Technoimport muốn mang hàng hoá vào trong nội địa bắt buộc phải gửi giấy xin phép Bộ, chờ Bộ trình Thủ Tướng kí duyệt rồi mới đem giấy tờ ra cửa khẩu nhập hàng về. Trong khi thủ tục hành chính của Việt Nam vẫn vô cùng rườm rà và phức tạp, đòi hỏi một thời gian dài mới có thể giải quyết đầy đủ các giấy tờ. Trong thời gian đó, thì hàng phải nằm lại cửa khẩu, tình trạng hàng tồn đọng càng ngày càng lớn, giá trị hàng tồn kho cũng do đó mà ngày một gia tăng nhưng vẫn chưa được giải quyết hợp lí. - Vì Technoimport không phải là doanh nghiệp sản xuất nên việc quản lí hàng tồn kho không quá phức tạp. Thực tế Technoimport thường chỉ xuất nhập khẩu các loại hàng hoá bắt nguồn từ yêu cầu của khách hàng hay nắm được nhu cầu lớn của thị trường, chính vì vậy trên nguyên tắc là lượng hàng tồn kho của Công ty phải rất ít. Tuy con số này đã tăng mạnh so với ngành nghề kinh doanh của Công ty trong 2 năm gần đây nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ nhất trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty. Chính vì vậy có thể nói rằng, dấu hiệu không tốt về hàng tồn kho của Công ty trong giai đoạn hiện nay là xấu nhưng không quá đáng lo ngại như vấn đề về khoản phải thu. Nếu có những biện pháp giải quyết triệt để nguyên nhân đã nêu trên của tình trạng này thì chắc hẳn các hệ số đánh giá hàng tồn kho sẽ nhanh chóng được cải thiện. Chương III. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động tại Technoimport: 3.1. Thực trạng kinh tế Việt Nam- những thuận lợi, khó khăn và thách thức đối với Technoimport. 3.1.2. Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. Giai đoạn 2005- 2007 là giai đoạn đánh dấu những bước ngoặt đáng kể trong quá trình phát triển của kinh tế Việt Nam với nhiều sự kiện kinh tế nổi bật: Sau một lộ trình vất vả cuối cùng thì Việt Nam cũng đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt Nam cũng đã đăng cai tổ chức thành công một sự kiện quan trọng có tầm cỡ quốc tế là hội nghị lãnh đạo các nền kinh tế APEC. Hệ quả tất yếu kéo theo là Việt Nam phải đối mặt với hàng loạt những cơ hội cũng như thách thức lớn trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Cụ thể: - Trong giai đoạn vừa qua Việt Nam đã thu hút một lượng vốn FDI kỷ lục lên đến 20,3 tỉ USD với 1.500 dự án trong năm 2007 (tăng 68,8% so với năm 2006, chiếm tới 25% số vốn trong 20 năm qua), vốn đầu tư gián tiếp lên tới 5,3 tỷ USD, kiều hối gần 8 tỷ USD và ODA khoảng 5,4 tỷ USD. Những con số trên cho thấy Việt Nam đang là một trong những quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư nước ngoài với tiềm năng rất hấp dẫn. - Tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,44%, mức cao nhất trong 11 năm qua. Mức tăng trưởng này giúp cho nước ta có thể vươn lên thoát khỏi tình trạng nước nghèo trong năm 2008 khi thu nhập bình quân đầu người có khả năng đạt 960USD/người/năm. - Xuất khẩu đạt mức tăng trưởng kỷ lục trong năm đầu tiên nước ta trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), năm 2007 đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt 3,1% so với kế hoạch Chính phủ đề ra là 17,4%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 56,9% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch nhập khẩu năm 2007 vọt lên 60,83 tỷ USD (tăng 33,1%), nâng mức nhập siêu lên 12,4 tỷ USD, điều đáng nói là tình trạng nhập siêu còn diễn ra với ngay cả những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được với sức cạnh tranh không hề kém. Đây là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng trong nước. - Chính phủ đã có biện pháp cải thiện hệ thống pháp luật mở đường cho hoạt động đầu tư, xúc tiến kinh doanh, phát triển kinh tế trong nước với sự ưu đãi về thuế cũng như thủ tục hành chính, với tiềm năng sẵn có của mình, xu hướng đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư trong và ngoài nước tại Việt Nam liên tục tăng cao, khiến cho hầu hết các doanh nghiệp đang hoạt động đứng trước một sân chơi cạnh tranh gay gắt chưa từng có. Dù đã được đổi mới, tuy nhiên hành lang pháp lý trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh vẫn chưa thực sự hoàn thiện, các nhà đầu tư trong nước sẽ phải đối mặt với không ít rủi ro khi tham gia vào hoạt động kinh doanh với các đối tác nước ngoài... Nếu không thực sự nỗ lực, các doanh nghiệp cũng như người dân sẽ phải chịu rất nhiều thiệt thòi.  - Hoạt động đầu tư kinh doanh phát triển làm nảy sinh nhu cầu tiêu thụ nguyên vật liệu xây dựng lớn, tình trạng nhập siêu cùng với sự khủng hoảng tài chính diễn ra ở một số nước tư bản khiến cho Việt Nam liên tục phải đối mặt với những cơn bão giá, chỉ số tiêu dùng CPI tăng mạnh trở thành một vấn đề đáng lo ngại của cả nền kinh tế. Tỷ giá ngoại tệ liên tục biến đổi khó lường trong khi giá vàng liên tục tăng cao gây ra nhiều khó khăn trong việc kiềm chế lạm phát của chính phủ cũng như trong việc chèo lái hoạt động kinh doanh hiệu quả của tất cả các doanh nghiệp đang tồn tại. Sự thiếu hụt trong việc dự trữ tiền tại các Ngân hàng đã đẩy lãi suất Ngân hàng cao ở ngưỡng lớn nhất từ trước đến nay. - Sự phát triên mạnh mẽ và thành công của khối ngân hàng thương mại bối cảnh lãi suất tăng cao, lợi nhuận của các ngân hàng đã không thể tiếp tục phụ thuộc vào nguồn tín dụng, mà mở rộng sang các loại hình dịch vụ, đặc biệt là các hoạt động đầu tư. Đây là sự dịch chuyển, đa dạng của mô hình ngân hàng hiện đại và phù hợp với xu thế tất yếu của thị trường.  - Việc hình thành các tập đoàn độc quyền nhà nước xuất phát từ nhu cầu thực tế đầu những năm 1990 nay đã trở nên lỗ thời, sức sản xuất đã có những thay đổi lớn lao, và sức sản xuất thì quyết định quan hệ sản xuất. Cần phải có những cải tổ mạnh mẽ thiết lập lại quan hệ sở hữu và cạnh tranh. Từ bỏ sự nhập nhèm về tiền "công" quyền "tư", từ bỏ quan hệ "sản xuất" kiểu "phong bì". Xây dựng một không gian kinh tế lành mạnh lấy sự phát triển sản xuất làm tiêu chí đánh giá, lấy nguyên lý thị trường làm động lực vận hành. Xét về dài hạn, kinh tế Việt Nam hiện vẫn đang trên đà phát triển mạnh. Và việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước lâu đời đáp ứng nhu cầu vận động mới của nền kinh tế là bước đi hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong giai đoạn hiện nay để xây dựng những tập đoàn doanh nghiệp nhà nước lạc hậu trước đây trở nên hợp thời và thực sự hùng mạnh để chúng có thể trở thành trụ cột cho nền kinh tế. 3.1.3. Lợi thế và cơ hội, khó khăn và thách thức trên con đường phát triển của Technoimport. 3.1.3.1. Lợi thế và cơ hội của Technoimport. - Technoimport là một doanh nghiệp lớn và tồn tại lâu đời, đã có thâm niên hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nên có được lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp cùng ngành. Kinh tế nước ta thì không ngừng gia tăng xuất nhập khẩu hàng hoá, doanh nghiệp trong nước phải làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài mà chưa nắm được hết tất cả các luật lệ quốc tế, hàng lang pháp lí thì còn rườc rà phức tạp, chính vì thế với vai trò trung gian xuất nhập khẩu hàng hoá như Technoimport hiện nay, Công ty sẽ có nhều cơ hội để mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của mình nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. - Vốn đã có sự hiểu biết sâu sắc về thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu, Technoimport có lợi thế trong việc mở rộng lĩnh vực hoạt động, phương thức kinh doanh cũng như đa dạng hoá các mặt hàng xuất nhập khẩu mà không mất thời gian khởi đầu vốn là giai đoạn khó khăn nhất đối với các doanh nghiệp non trẻ. - Technoimport có đội ngũ cán bộ nhân viêc làm việc lâu năm, có kinh nghiệm, có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu với các đối tác và khách hàng. - Là công ty nhà nước dù đang trên đường cổ phần hoá nhưng vẫn được các Bộ, Ban, Ngành ưu tiên thực hiện các hợp đồng có giá trị lớn, tạo nguồn thu lợi nhuận đáng kể cho Công ty, điều này không phải doanh nghiệp xuất nhập khẩu nào cũng có được. 3.1.3.2. Khó khăn và thách thức của Technoimport. - Chính sách của Nhà nước cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu làm cho Technoimport mất đi vị trí độc quyền về xuất nhập khẩu thiệt bị toàn bộ như trước đây và đứng trước sự cạnh tranh gay gắt. - Technoimport chưa thực sự chủ động trong hoạt động kinh doanh. Hầu hết trong hoạt động của mình khách hàng thường tìm đến với Technoimport và việc tìm kiếm thị trường của Công ty cũng rất hạn chế, chủ yếu dựa vào việc các nhà cung cấp chủ động gửi giấy mời tham gia buôn bán hay thông qua sự giới thiệu của các Bộ, Ban, Ngành… - Sự bảo hộ giảm và dần mất hẳn từ phía Nhà nước khiến Technoimport phải tự tìm cho mình một cách thức kinh doanh phù hợp để tồn tại. Hiện nay Công ty không còn được hưởng nhiều ưu đãi như trước đây mà phải trực tiếp tham gia vào các quá trình đấu thầu để cung cấp thiết bị toàn bộ, máy móc, công trình…. nhưng do sự hạn chế về tài chính nên còn kém cạnh tranh. - Sự biến động của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty, cụ thể: sự biến động của giá cả, của đồng ngoại tệ mạnh đã khiến cho việc thực hiện bước thanh tóan trong các hợp đồng mua bán của Technoimport gặp nhiều khó khăn, lúc thì Công ty phải chịu một khoản lỗ do chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, nhưng cũng có lúc Công ty lại được hưởng một khoản lợi nhuận tăng thêm do chính hiện tượng kinh tế này. Do Công ty chưa thực sự có một phòng ban, hay những nhân viên có đủ trình độ để đánh giá mức độ rủi ro của hiện tượng khách quan này. - Gia tăng đầu tư cùng sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các ngân hàng thương mại trong hoàn cảnh kinh tế ở mức lạm phát lớn đẩy lãi suất ngân hàng liên tục tăng cao, mà hiện nay Technoimport chủ yếu kinh doanh dựa trên các khoản vay vốn ngắn hạn để thực hiện những hợp đồng kinh tế của mình vì vốn chủ sở hữu không đủ trang trải hết. Nếu Công ty không có những chính sách tín dụng phù hợp để quản lí tiền mặt và khoản phải thu hiệu quả thì Technoimport sớm suy yếu trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay. - Bản thân Công ty có đội ngũ cán bộ dày dặn kinh nghiệm, tuy nhiên họ khá lớn tuổi và vẫn giữ phong cách làm việc kiểu “bao cấp” như xưa nên dường như chưa bắt kịp với tốc độ phát triển và nhu cầu hoạt động của Công ty trong giai đoạn mới. - Khó khăn của Technoimport xuất hiện gần đây do sự mâu thuẫn với Hải Quan cũng là rào cản lớn trong bước đường phát triển của Công ty. 3.2. Kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động. Trong điều kiện hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả, kinh doanh có lãi. Muốn vậy thì một trong những vấn đề mà Công ty phải chú trọng đó là quản trị tốt vốn lưu động. - Cần tăng cường thực hiện dự báo tình hình biến động của tỷ giá ngoại tệ trên thị trường để có những chính sách điều chỉnh phù hợp, ổn định kịp thời những tình huống xấu xảy ra, nhanh chóng đưa ra những quyết định dự trữ ngoại tệ có hiệu quả. - Cần hoạch định ngân sách tiền mặt để dự báo nhu cầu chi tiêu và nguồn thu tiền mặt trong ngắn hạn, tìm ra phương án kinh doanh nhằm tối đa hóa tốc độ vòng quay tiền nhất là khi Technoimport đang trên đường thực hiện lộ trình cổ phần hóa của Nhà nước đặt ra để trở thành doanh nghiệp hoạt động độc lập và hoàn toàn tự chủ trong hoạt động của mình từ việc huy động vốn đến đầu tư vốn vào phương án kinh doanh nào. - Doanh nghiệp hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán, nên trì hoãn việc thanh toán, nên chi trong phạm vi thời gian mà các chi phí tài chính, tiền phạt hay sự xói mòn vị thế tín dụng thấp hơn những lợi nhuận do việc chậm thanh toán mang lại. Bên cạnh đó Technoimport nên tiếp tục phát huy lợi thế của việc thực hiện thanh toán bằng chuyển khoản, ngoại trừ một số khoản chi giá trị thanh toán thấp. Ngoài ra nên xây dựng hệ thống sec được đánh số thứ tự liên tục trước khi sử dụng. Để thuận tiện cho việc theo dõi tiền gửi ngân hàng Công ty nên mở tài khoản chuyên thu và chuyên chi. - Phải xây dựng chính sách bán chịu và chính sách tín dụng đúng đắn đối với từng khách hàng. Khi bán chịu cho khách hàng phải xem xét kỹ khả năng thanh toán trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết. Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng bán hàng, nếu vượt quá thời hạn thanh toán theo hợp đồng thì doanh nghiệp được thu lãi suất. Tăng cường việc tìm hiểu khả năng tài chính của khách hàng để đưa ra giới hạn giá trị tín dụng hợp lí, tránh rủi ro lớn nhất có thể. Bên cạnh đó cần phải kết hợp với các chính sách tín dụng khác như áp dụng (tăng) chiết khấu thanh toán nhanh, tăng lãi suất nợ quá hạn, chiết khấu thanh toán theo khối lượng,..sao cho phù hợp với hoạt động của Công ty.Ngoài ra Công ty nên thực hiện suất chiết khấu. Tức là một hoá đơn bán hàng có mệnh giá là T đồng, tỉ lệ chiết khấu tại thời điểm là K/tháng. Nếu khách hàng thanh toán trước thời hạn sẽ chỉ phải trả theo tỉ lệ chiết khấu thanh toán nhanh Ko(thường bằng lãi suất Ngân hàng) với Ko < K - Công ty cần phải sớm có biện pháp phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết “món nợ” do bị truy thu thuế với cơ quan Hải Quan triệt để, xoá bỏ rào cản trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá vốn là vấn đề quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như Technoimport. - Xúc tiến thực tiện lộ trình cổ phần hoá do Nhà Nước đặt ra cùng với sự cải thiện về cơ cấu tổ chức, Công ty nên tuyển thêm những nhân viên mới, trẻ trung, có nhiệt huyết và bắt kịp với tốc độ phát triển của nhu cầu thị trường, đồng thời lập thêm các phòng ban có khả năng dự báo dài hạn, phòng tránh rủi ro cho Công ty như việc dự báo sự thay đổi tỷ giá ngoại tê, dự báo về ngân sách tiền mặt cho những kỳ kinh doanh tiếp theo đảm bảo trang trải những chi phí chung, trả lương cho nhân viên hay sử dụng khi cần thiết, và dự báo nhu cầu về hàng hoá, khách hàng để đẩy mạnh đường lối xuất nhập khẩu tự doanh vốn tạo ra một khoản lợi nhuận lớn hơn rất nhiều so với đảm nhận vai trò xuất nhập khẩu uỷ thác, đồng thời cũng là xu thế phát triển chung của hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong giai đoạn nay… - Có những chính sách thu hút, không ngừng xây dựng các mối quan hệ với các khách hàng mới khẳng định thế mạnh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Công ty cũng phải có biện pháp tiếp cận các thị trường mới, tìm hiểu tiềm năng của các nhà cung cấp để kí kết những hợp đồng mua bán cần thiết với giá cả phải chăng mà vẫn có chất lượng cao - Đa dạng hoá các mặt hàng, mở rộng quy mô hoạt động và phương thức kinh doanh, không nên chỉ gò bó trong hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ truyền thống. Một điểm yếu của Technoimport là Công ty chỉ xuất nhập khẩu hàng hoá từ các doanh nghiệp sản xuất khác mà không có sản phẩm hàng hoá của riêng mình, chính vì vậy Công ty nên đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp sản xuất có tiềm năng xuất khẩu lớn để dành được độc quyền xuất khẩu hàng hóa thu lợi nhuận qua việc thực hiện quá trình xuất khẩu hàng cộng với khoản lợi tức có được tính trên trên lượng vốn góp. Việc này chi nhánh trong Thành Phố Hồ Chí Minh đã thực hiện liên kết với Công ty cao su Thống Nhất, mà kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này ra thị trường quốc tế lại liên tục tăng cao trong các năm qua, hoạt động này đã đóng góp một khoản lợi nhuận rất lớn trong tổng lợi nhuận của Technoimport chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bảng cân đối kế toán của Công ty Technoimport giai đoạn 2005- 2007 Bảng báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty Technoimport giai đoạn 2005- 2007 Bảng lưu chuyển tiền tệ của Công ty Technoimport giai đoạn 2005- 2007. Báo cáo tình hình kinh doanh giai đoạn 2005- 2007 của giám đốc Công ty Technoimport . Bảng tổng kết tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của các phòng xuất nhập khẩu của Công ty Technoimport giai đoạn 2005- 2007. Tài liệu giới thiệu khái quát về Công ty Technoimport ( lưu hành nội bộ) Giáo trình phân tích hoạt động doanh nghiệp- Nguyễn Tấn Bình- NXB Thống Kê- Tháng 06-2005. Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp- Nguyễn Hải Sản- NXB Thống Kê. Bài giảng lí thuyết tài chính tiền tệ- Ths. Phan Anh Tuấn- Trường ĐH Kinh Tế TP.HCM ( lưu hành nội bộ) Giáo trình Quản trị tài chính- Ths Vũ Quang Kết và TS Nguyễn Văn Tấn- Trường Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông ( lưu hành nội bộ) Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Phạm Thị Đức Hạnh- Trường ĐH An Giang. www.saga.vn www.chungta.com www.webketoan.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động tại Technoimport.doc
Luận văn liên quan