Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam

Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của môi trường kinh tế. Nền kinh tế ảnh hưởng đến hệ thống chính trị nhưng ngược lại hệ thống chính trị cũng tác động trở lại các hoạt động kinh tế. Pháp luật và chính trị ổn định sẽ tạo ra một cơ chế chính sách trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể có được lợi thế cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hoá của thế giới.

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3187 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra được khối lượng nông sản không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu cao mang về hàng tỉ đô la. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao và ổn định, hình thành những vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá với quy mô lớn. Sự phát triển nhanh của ngành nông nghiệp đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Là một trong những mặt hàng nông sản chủ lực, cà phê Việt Nam có tốc độ phát triển rất cao, hàng năm thu về hàng trăm triệu đô la từ việc xuất khẩu, mang lại nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh của mình, ngành cà phê vẫn tồn tại những hạn chế ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Do đó, làm sao phát huy hết nội lực, hết lợi thế để cà phê Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp. Đề tài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của nghành cà phê Việt Nam” mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải quyết câu hỏi đó. Tuy đây là lần đầu tiên tiếp cận với cách thức viết đề án môn chuyên ngành, nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của Ths.Ngô Thị Việt Nga, em đã hoàn thành đề án này. Em xin chân thành cảm ơn cô! Sinh viên thực hiện Đào Đại Sơn Phần 1. Cơ sỏ lí luận về khả năng cạnh tranh Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh Khái niệm về cạnh tranh Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua nhau giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể. Quan điểm đầy đủ về cạnh tranh có thể được nhìn nhận như sau: “cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển.” Trong bất kì lĩnh vực nào cũng có cạnh tranh, không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó là quy luật của tự nhiên. Cạnh tranh có thể đem lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Darwin thấy được rằng: “quy luật cạnh tranh là thải loại những thành viên yếu kém trong môi trường duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất qua đó hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của toàn xã hội.” Khái niệm về khả năng cạnh tranh Hiện nay, một doanh nghiệp muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và thị trường ngày càng được mở rộng thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Cái đó chính là khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là việc có được các lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp đối thủ. Cạnh tranh để duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là : khả năng doanh nghiệp đó tạo ra, duy trì và phát triển được những lợi thế của mình về hàng hóa dịch vụ so với trung bình của nghành hoặc có khả năng cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh nhờ việc sử dụng hợp lí và có hiệu quả tất cả các nguồn lực của doanh nghiệp đó để giúp cho doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận hoặc thị phần cao hay sự tin tưởng trung thành của khách hàng đối với doanh nghiệp cũng như sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp một cách lâu dài, bền vững. Phân loại khả năng cạnh tranh Cạnh tranh quốc gia Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Cạnh tranh ngành Xét theo phạm vi nghành kinh tế, cạnh tranh được chia thành 2 loại : Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quản lý...nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh giữa các ngành : là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Cạnh tranh sản phẩm Trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp, vấn đề sản phẩm bán tới tay khách hàng được coi trọng hàng đầu. Bởi sản phẩm là đại diện cho thương hiệu của doanh nghiệp, cho sự lớn mạnh hoặc yếu kém trong lĩnh vực cung cấp mặt hàng cùng công cụ sử dụng. Cạnh tranh về sản phẩm thường được thể hiện qua các mặt: Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: tuỳ theo những sản phẩm khác nhau để chúng ta lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định trình độ của sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh nếu như lựa chọn trình độ sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Cạnh tranh về chất lượng: Tùy theo từng sản phẩm với đặc điểm khác nhau để lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng khác nhau. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm phù hợp, lựa chọn cơ cấu hàng hóa và cơ cấu chủng loại hợp lý. Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng công cụ này để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng. Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm. Sử dụng biện pháp này, doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một sản phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời. Tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh ngành Để đánh giá được năng lực cạnh tranh của các Quốc gia, doanh nghiệp cũng như một sản phẩm nào đó ta phải có đựơc hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chí hệ thống đó phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu… Thị phần, chất lượng và chủng loại, giá thành sản phẩm Thị phần sản phẩm của ngành trên thị trường Đây là tiêu chí quan trọng đánh giá triển vọng tăng trưởng, phát triển của ngành. Những số liệu về tổng thị phần trong và ngoài nước nói lên kết quả của hoạt động thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường, xúc tiến thương mại, múc độ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và tính năng động của ngành. Ngoài ra, thị phần cũng phản ánh mức độ tập trung trong sản xuất kinh doanh đối với loại sản phẩm hàng hóa của ngành trên thị trường. Bên cạnh đó, thị phần còn phản ánh độ liên kết giữa vị thế của ngành với vị thế của người mua đối với một loại sản phẩm hay hàng hóa nhất định, biểu hiện uy tín của ngành, sự tin cậy của người mua trong việc cung ứng, thanh toán, giá cả, chất lượng và dịch vụ sau bán hàng của hàng hóa đó trên thị trường. MS = (%) Trong đó: MS: thị phần của ngành trên thị trường trong nước P : sản lượng của ngành được tính bằng hiện vật hoặc doanh thu M : số lượng nhập khẩu mặt hàng đang xét hoặc giá trị hàng nhập khẩu Chỉ tiêu về chất lượng và chủng loại sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng của sản phẩm là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu cùng một loại sản phẩm có công dụng sử dụng và giá cả như nhau thì sản phẩm có chất lượng tốt hơn sẽ được thị trường chấp nhận. Yếu tố chất lượng của sản phẩm phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật, trình độ lao động của từng ngành, từng vùng, từng quốc gia nhưng nâng cao chất lượng sản phẩm của ngành là mục tiêu của mọi ngành ở bất kì quốc gia nào. Bên cạnh đó, kinh tế thế giới và kinh tế các quốc gia đều tăng trưởng mạnh mẽ, mức sống của mọi tầng lớp dân cư đều được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng tăng lên, người tiêu dùng sẵn sàng tiêu thụ sản phẩm có chất lượng tốt với giá cả cao hơn nhưng đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của họ. Đa dạng hóa sản phẩm để đáp úng những nhu cầu sử dụng khác nhau là công cụ hữu ích trong cạnh tranh. Để sản phẩn được duy trì và chiếm thị phần lớn trong quá trình tiêu thụ, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến đưa ra thị trường các loại sản phẩm khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. Và đây chính là cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Chỉ tiêu về giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là một trong các yếu tố quan trọng để doanh nghiệp có thể xác định giá bán của sản phẩm trên thị trường. Giá bán sản phẩm sẽ tác động đến quyết định của ngưởi mua và là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay giữa các nghành với nhau. Với sản phẩm cùng loại, có chất lượng tương đương nhau và dịch vụ khách hàng được cung cấp như nhau, người mua sẽ chọn sản phẩm có giá bán rẻ hơn. Cùng mức chi phí sản xuất như nhau, doanh nghiệp nào tiêu thụ được nhiều hàng hơn, chiếm được thị phần lớn hơn sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Như vậy doanh nghiệp hay ngành có năng lực cạnh tranh cao hơn đối thủ. Năng lực tài chính. Năng lực tài chính thể hiện sức mạnh của một doanh nghiệp, Quốc gia. Nó được thể hiện qua các chỉ tiêu: Qui mô và tốc độ an toàn vốn: tiềm lực về vốn thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như: qui mô vốn chủ sở hữu, hệ số an toàn vốn (Capital Adequacy Ratio- CRA). Vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn điều lệ, tài sản hữu hình, thặng dư vốn, vốn khác như hàng tồn kho, bán thành phẩm, nợ phải thu ...nó phản ánh sức mạnh tài chính của ngân hàng, khả năng chống đỡ những điều kiện kinh doanh bất lợi. Hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các ngân hàng. Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành. Chất lượng tài sản hiện có: phản ánh sức khoẻ của một doanh nghiệp, nó được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: tỉ lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, (Nợ xấu-Bad debt- là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Nợ xấu được coi là chi phí khác của doanh nghiệp cho vay, chính vậy nên làm giảm thu nhập dòng. Nhìn chung, một doanh nghiệp luôn phải ước tính trước những khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa vào những số liệu nợ xấu ở kì trước. Đa số các công ty đều cho phép một tỉ lệ nợ xấu nhất định trên tổng nợ vì chắc chắn một điều là không thể thu hồi được mọi khoản nợ một cách đầy đủ nhất), mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu. Mức độ tập trung và đa dạng hoá của danh mục tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩm… Mức sinh lời: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của doanh, nó có thể được phân tích qua những chỉ tiêu: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào?), tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE tính bằng % của thu nhập sau thuế/ vốn chủ sở hữu) tỉ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có (ROA tính bằng % của thu nhập sau thuế/ tổng tài sản có), các chỉ tiêu về mức simh lời trong mối tương quan với chi phí… Khả năng thanh toán (solvency): khả năng bảo đảm trả được các khoản nợ đến hạn bất cứ lúc nào. Khả năng thanh toán là kết quả của sự cân bằng giữa các luồng thu và chi hay giữa nguồn vốn kinh tế (capital) và nguồn lực sẵn có (resource). Investopedia định nghĩa khả năng thanh toán “là khả năng đáp ứng các chi tiêu cố định trong dài hạn và có đủ lượng tiền cần thiết để mở rộng và phát triển”. Công nghệ Trong nền kinh tế thị trường với xu thế hội nhập toàn cầu, việc tham gia vào sân chơi quốc tế đặt ra một thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam về tiềm lực công nghệ bởi vì khi các nhà đầu tư nhảy vào Việt Nam họ sẽ mang vốn lớn và công nghệ cao hai yếu tố đựơc coi là quan trọng nhất giúp các doanh nghiệp có khả năng tạo lợi thế trong kinh doanh. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là 1 trong 4M: Money (vốn), Machine (máy móc trang thiết bị và công nghệ), Man (nguồn nhân lực), Materials (nguyên vật liệu). Không phải vô cớ mà có câu: “ Nhân tài là nguyên khí của quốc gia” chỉ với câu nói đó đã làm nổi bật được tầm quan trọng của con người (nguồn nhân lực) đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ cao. Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kì doanh nghiệp nào, bất cứ tổ chức nào cũng được tạo thành bởi các thành viên là con người hay nguồn nhân lực của tổ chức đó nó bao gồm tất cả những người lao động làm việc trong tổ chức đó nó là nhân tố mang tính kết nối các nguồn lực khác của tổ chức: chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua các chỉ tiêu: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động lực làm việc, sự gắn bó với doanh nghiệp. Nguồn nhân lực được coi là có chất lượng chỉ khi nó được phát triển trên cả ba phương diện thể lực, trí lực và cả phẩm chất tâm lý xã hội.Về mặt thể lực đòi hỏi sức khỏe và thể lực cường tráng của người lao động, sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng cường độ làm việc những áp lực từ phía khách hàng…Về mặt trí lực đòi hỏi người lao động phải có trình độ văn hóa, chuyên môn sâu, thành thạo các nghiệp vụ…Về phẩm chất tâm lý xã hội đòi hỏi người lao động phải có ý thức kỷ luật tự giác cao niềm say mê nghề nghiệp chuyên môn, sáng tạo, năng động trong công việc, gắn bó với doanh nghiệp. Nhận thức rõ vai trò quyết định của nguồn lực con người Việt Nam so với các nguồn lực khác, Đảng ta đã khẳng định: “Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”. Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, khoa học - kỹ thuật, công nghệ,... dù có nhiều bao nhiêu cũng vẫn là hữu hạn, chúng không có sức mạnh tự thân và sẽ cạn kiệt dần trong quá trình khai thác. Hơn thế nữa, các nguồn lực này chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi chúng được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Năng lực quả lí và cơ cấu tổ chức Năng lực quản lí phản ánh năng lực điều hành của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc doanh nghiệp nó thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội đồng quản trị đối với ban giám đốc: mục tiêu, động cơ, mức cam kết của ban giám đốc, hội đồng quản trị trong công tác duy tri, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực quản lí quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Ban giám đốc luôn phải đưa ra những chính sách, chiến lược nhằm đảm bảo sử dụng hợp lí các nguồn lực tạo ra năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức một phần phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của doanh nghiệp có phù hợp với qui mô, trình độ quản lí, đặc trưng cạnh tranh cũng như nhu cầu thị trường hay không? Nó thể hiện sự phân chia các phòng ban chức năng, bộ phận tác nghiệp, đơn vị trực thuộc…Một cơ cấu tổ chức được xem là có hiệu quả khi nó thể hiện sự phân công phân cấp giữa các phòng ban một cách hợp lí đồng thời với sự phối kết hợp một cách hài hoà giữa các phòng ban, các đơn vị trong việc triển khai thực hiện các chiến lược kinh doanh cũng như khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu tổ chức đó trước những biến đổi của môi trường kinh doanh đầy biến động. Năng lực quản lí và cơ cấu tổ chức cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Hệ thống kênh phân phối và các dịch vụ cung cấp Hệ thống kênh phân phối: "Mạng lưới nhà phân phối hoặc tổng đại lý chính là cánh tay chính là cánh tay nối dài, giúp sản phẩm được bao trùm rộng khắp các địa bàn,...Tuy nhiên đây lại là mô hình phức tạp nhất trong việc phân phối hàng hoá và dịch vụ.” đối với các doanh nghiệp Việt Nam hệ thống kênh phân phối đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thành bại của mỗi doanh nghiệp. Trong một số ngành đặc thù, ngành có yêu cầu kỹ thuật cao (thiết bị bưu chính viễn thông, ngân hàng,...) hay đòi hỏi nhiều công nợ (công trình xây dựng),... khi đó nhà phân phối có tiếng nói quyết định trong việc cung cấpsản phẩm và dịch vụ. Có thể nói, sức mạnh của nhà phân phối, cộng với sức mạnh thương hiệu đã trở thành sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp thường mất nhiều thời gian để có một chỗ đứng trong thi trường. Điều này còn ngày một nguy hiểm hơn nữa, trong thời đại “Time is money-thời gian là tiền”. Nhiều khi, vì quá chậm, quá chắc rất nhiều doanh nghiệp đã mất thị trường, mất cơ hội làm ăn. Bên cạnh đó, sự thành công khi chỉ đến với những doanh nghiệp có sản phẩm với chất lượng tốt và ổn định- “Hữu xạ tự nhiên hương” Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh ngành trong nền kinh tế toàn cầu Thị trường cạnh tranh quốc tế Theo xu hướng hiện nay, nền kinh tế tiến tới hội nhập toàn cầu mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiêp. Các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường ra thế giới tuy nhiên bên cạnh những cơ hội là rất nhiều khó khăn thách thức. sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ gay gắt hơn khi có các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường. Luật pháp và chính sách Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của môi trường kinh tế. Nền kinh tế ảnh hưởng đến hệ thống chính trị nhưng ngược lại hệ thống chính trị cũng tác động trở lại các hoạt động kinh tế. Pháp luật và chính trị ổn định sẽ tạo ra một cơ chế chính sách trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể có được lợi thế cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hoá của thế giới. Nhân tố con người Con người ở đây phản ánh đến đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố như trình độ lao động, năng suất lao động, thái độ phục vụ khách hàng, sự sáng tạo trong sản xuất... Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất ra sản phẩm hàng hóa. Khả năng về tài chính Bất cứ hoạt động đầu tư, sản xuất phân phối nào cũng đều phải xem xét tính toán đến tiềm lực, khả năng tài chính của doanh nghiệp. một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, bảo đảm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị thế của mình trên thương trường. Trình độ công nghệ Tình trạng trình độ công nghệ máy móc thiết bị có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp. Đó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất. Ngoài ra, công nghệ sản xuất cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán của sản phẩm. Một doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi thế cạnh tranh rất lớn do chi phí sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao. Ngược lại doanh nghiệp sẽ có bất lợi cạnh tranh khi họ chỉ có công nghệ lạc hậu. Phần 2. Thực trạng và định hướng nâng cao khả năng cạnh tranh ngành cà phê Việt Nam Thực trạng thị trường cà phê thế giới. Nhìn lại sự phát triển thị trường tiêu thụ cà phê thế giới cho thấy sau chiến tranh thế giới II, nhu cầu cà phê ở nhiều quốc gia tăng lên nhanh chóng. Bắt đầu từ Mỹ ở thập niên 1950-1960 khi các cựu chiến binh mang sở thích uống cà phê về truyền bá trong quân đội và dân chúng, rồi dần dần phát triển sang châu âu ở những năm 1960-1970. vào cuối thập niên 1970 khi thị trường Mỹ và châu âu gần như chững lại thì những thị trường mới lai mở ra ở vùng viễn đông như nhật bản và gần đây là thị trường đông âu, Trung Quốc có dấu hiệu tăng. Cùng với sự mở rộng thị trường ở khắp nơi, sản lượng cà phê thế giới không ngừng tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2008-2009 đạt 138.4 triệu bao. Brazil là nước có sản lượng lớn nhất đạt 51.1 triệu bao tăng 36% tiếp theo đó là việt nam và colombia có sản lượng lần lượt là 19.5 và 12.2 triệu bao, tăng 12% và giảm 2.7%. Bảng 1.1: Sản lượng cà phê của những nước sản xuất chính (đơn vị: triệu bao) 2006/07 2007/08 2008/09 Brazil 46.7 37.6 51.1 Việt nam 16.3 17.5 19.5 Colombia 12.2 12.4 12.2 Indonesia 6.7 6.6 6.6 Mexico 4.2 4.5 4.5 Thế giới 128.4 122.4 138.4 Theo www.ico.org Mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người trên phạm vi toàn cầu ít thay đổi trong những năm qua, dao động trong khoảng 4.5-4.7 kg/người/năm. Bảng 1.2: Tổng mức tiêu thụ cà phê toàn cầu (đơn vị : triệu bao) 2006/07 2007/08 2008/09 Nước nhập khẩu 33.040 34.736 35.791 Nước xuất khẩu 94.241 94.626 94.316 Tổng 127.281 129.362 130.107 Theo www.ico.org Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên, triển vọng tăng tiêu thụ cà phê trong những năm tới là rất khả quan. Tuy nhiên, nếu không có hành động tích nào để đẩy mạnh, tốc độ tăng sẽ không có tiến triển gì khá hơn những năm vừa qua. Tổng sản lượng tiêu thụ năm 2008-2009 khoảng 140.107 triệu bao tăng 5% so với niên vụ 2007-2008. Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 26.68% tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu, chủ yếu là cà phê Arabica. Côlômbia đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê Arabica toàn cầu, chiếm khoảng 11.07%, chủ yếu là loại cà phê Arabica dịu. Đứng thứ ba về xuất khẩu cà phê Arabica là Guatêmala, chiếm khoảng 3.3% tổng sản lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu. Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới 21.7 triệu bao chiếm khoảng 25.11% tổng sản lượng cà phê nhập khẩu. thị trường EU nhập khẩu khoảng 44.4 triệu bao chiếm khoảng 51.4%. Giá cà phê thế giới biến động liên tục nhưng không đồng nhất giữa các thị trường trong năm qua.Tại Luân Đôn, hoạt động đầu cơ làm lũng đoạn thị trường cùng với sản lượng cà phê robusta cao là nguyên nhân chính khiến giá giảm 24,5% trong năm 2009, trong đó phiên giao dịch ngày 26/6 giá đứng ở mức thấp nhất trong năm, chỉ 1.288 USD/tấn. Do giá giảm sâu ở thị trường này, giá cà phê xuất khẩu của nước ta cũng giảm trong năm qua, đặc biệt phiên 26/6, giá chỉ đạt 1.195 USD/tấn, FOB – mức thấp nhất trong vòng 3 năm trở về trước. Trên thị trường New York, nguồn cung hạn hẹp và các yếu tố kỹ thuật cùng với sự suy yếu của đồng USD lại khiến giá cà phê arabica tăng 21,3%. Phiên giao dịch cuối cùng của năm 2009, giá cà phê robusta đứng ở 1.332 USD/tấn còn giá cà phê arabica đạt 135,95 US cent/lb. Cách đó đúng một năm, giá hai loại cà phê này lần lượt ở 1.765 USD/tấn và 112,05 US cent/lb. Thực trạng ngành cà phê Việt Nam Thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỷ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt Nam có 5900 ha. Trong thời kì những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới 13000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý. Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của các nước có khoảng trên 13000 ha, cho sản lượng 6000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên nhờ có vốn từ các hiệp định hợp tác liên chính phủ với các nước : Liên Xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, đến năm 1990 đã có 119300 ha. Trên cơ sở này, từ 1986, phong trào trồng cà phê phát triển mạnh trong nhân dân. Đến nay đã có trên 390000 ha, đạt sản lượng gần 700000 tấn. Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. Diện tích trồng cà phê hiên nay khoảng 537.000 ha. Sản lượng cà phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. Hiện nay, cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất sang 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với khối lượng lớn đứng hàng thứ 2 trên thế giới. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn. Chỉ tính trong 7 tháng đầu năm 2008, chũng ta dã xuất khẩu khoảng 662.000 tấn mang về cho đất nước khoảng 1.4 tỷ USD Ngoài cà phê Robusta hiện đang chiếm gần hết diện tích và sản lượng ra, Việt Nam đang thực hiện một chương trình mở rộng diện tích cà phê arabica, trong đó có cả một chương trình chuyển dịch cơ cấu giống đưa một số diện tích cà phê từ Robusta sang Arabica. Bảng 2.1 : Sản xuất và xuất khẩu cà phê của việt nam giai đoạn 2006-2009 (Đơn vị :Triệu bao) Sản lượng Xuất khẩu 2006-2007 16.3 14.7 2007-2008 17.5 16.7 2008-2009 19.5 17.9 Theo www.ico.org Cà phê hiện đang là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Ngay cả những thị trường khó tính như Mỹ, Đức, Bỉ... cũng dần bị cà phê Việt Nam chinh phục. Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh ngành cà phê Việt Nam qua một số chỉ tiêu: Thị phần cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới Việt nam là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất châu á và đứng thứ 2 thế giới sau brazil. Sản lượng xuất khẩu năm 2008-2009 khoảng 17.9 triệu bao chiếm 17.8% thị trường thế giới. Cà phê Việt Nam được xuất khẩu đi khoảng 60 nước trên thế giới. Các thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam là các nước EU (Đức, Thuỵ Sĩ, Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Italia…), Mỹ và Châu á (Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Philipin, Malaixia và Indonesia), chiếm lần lượt 49%, 15% và 17% tổng lượng xuất khẩu trong năm 2005. Các nước trong khu vực như Trung Quốc cũng là khách hàng tiêu thụ lớn cà phê Việt Nam. Ấn Độ và Indonesia là hai nước sản xuất cà phê lớn ở Châu á nhưng hàng năm vẫn nhập khẩu cà phê Việt Nam. Riêng thị trường Nga - một thị trường có triển vọng tiêu thụ mạnh và Việt Nam có quan hệ hợp tác lâu dài nhưng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường này chưa đáng kể. Về tiêu thụ cà phê trong nước, nghiên cứu gần đây của Ngân hàng thế giới (WB) cho thấy tiềm năng thị trường nội địa của Việt Nam có thể tới 70.000 tấn/năm, chiếm gần 10% tổng sản lượng. Theo số liệu thống kê của cuộc điều tra mức sống dân cư ở trên thì nếu mức tiêu thụ bình quân đầu người cà phê của Việt Nam đạt 1,25 kg/người/năm thì năm 2002, mức tổng tiêu thụ cả nước phải đạt khoảng 95,000 tấn. Theo số liệu điều tra tiêu thụ cà phê nội địa của Viện Chính sách Chiến lược PT NN-NT, tiêu thụ cà phê đầu người ở Hà Nội là khoảng hơn 700 gr/người và số liệu này của TP HCM là khoảng 1,3 kg/người. Như vậy, nếu tính trung bình, tổng mức tiêu thụ trong nước của Việt Nam theo điều tra này là khoảng 10% tổng sản lượng. Trong khi đó theo Hiệp hội Cà phê thế giới, tiêu dùng nội địa của cà phê Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 5%, thấp nhất trong số các nước sản xuất cà phê. Mức chênh lệch này càng "khập khiễng" nếu so với sản lượng tiêu dùng cà phê nội địa của các nước thành viên Hiệp hội Cà phê thế giới là 25,16%. Tập trung quá nhiều vào cà phê Robusta là loại cà phê phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh nghiệm và thị trường xuất khẩu ổn định như Brazil, Achentina, Indonesia Chất lượng cà phê Việt Nam Chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và khí hậu Việt Nam, còn khoảng cách xa so với yêu cầu của thị trường thế giới. Ông Daniele Giovannucci, cố vấn cao cấp của Ngân hàng Thế giới, lấy hình ảnh Brazil, một đất nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới và so sánh: “ Chất lượng ổn định là điều dễ nhận thấy nhất đối với cà phê Brazil, trong khi đó vấn đề này đối với cà phê Việt Nam thì ngược lại”. Cà phê loại I chiếm từ 16-18%, loại II A chiếm tới trên 70%, còn lại là loại thấp hơn... Giá cà phê Robusta II 5% của Việt Nam thấp hơn giá cà phê cùng loại của Indonesia khoảng 90USD/ tấn, giá cà phê Robusta I (trên sàng 16) thấp hơn giá cà phê Uganda (trên sàng 15) đến 200 USD/ tấn. Các chuyên gia về lĩnh vực này từ Bộ NN và PTNT đánh giá, tình trạng giảm sút chất lượng cà phê xuất khẩu nước ta thời gian qua là từ nhiều yếu tố. Ngay từ khâu chọn giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở nước ta từ trước đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ươm giống và trồng nên không đảm bảo chất lượng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ, đen, tỷ lệ đồng đều giữa các hạt thấp. Đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi để tưới tiêu cho cà phê đạt thấp (22.4% tổng diện tích). Nhiều vùng vào mùa khô hạn không đủ nước tưới, ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của cây.Thêm nữa, cà phê nước ta vẫn thu hái theo kiểu tuốt cành là phổ biến, quả xanh chín lẫn lộn, dẫn đến chất lượng cà phê chế biến thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cũng cao (thu hái xanh 50% có tỷ lệ tổn thất lên đến 8%). Ngoài ra, khâu chế biến cũng còn nhiều bất cập, góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cà phê. Trong khâu chế biến nước ta hiện nay vẫn sử dụng hai phương pháp, chế biến khô và chế biến ướt. Trong đó phương pháp chế biến khô vẫn được dùng phổ biến (khoảng 80% sản lượng). Phương pháp này cho hương vị cà phê không bằng phương pháp ướt. Mặt khác lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện tích kho và sân phơi lớn. Hiện nay, ở nước ta chế biến cà phê vẫn chủ yếu ở quy mô gia đình (80% sản lượng cà phê). Vì thế, tính đồng bộ kém, thiết bị chế biến đơn giản, chủ yếu là các máy xát nhỏ. Hiện tại, cả nước mới có 50 dây chuyền chế biến công nghiệp, trong đó có 14 dây chuyền nhập ngoại (một của Anh và 3 của Brazil), số còn lại được chế tạo trong nước với tổng công suất 100000 tấn nhân/ năm (công suất mỗi dây chuyền từ 1-4 tấn/ giờ). Từ những thực tế trên đây, mặc dù chất lượng vốn có của cà phê vối (Robusta) trồng ở nước ta được đánh giá cao: chất lượng thử nếm có 35% rất tốt; 50% tốt; 10% ở mức trung bình và chỉ có 5% là loại trung bình kém. Song trên thực tế, chất lượng cà phê nhân suất khẩu của Việt Nam lại không thể hiện những chỉ tiêu trên. Mấy năm gần đây, tỷ lệ cà phê xuất khẩu loại I ở nước ta chỉ đạt mức dưới 20%. Ngoài các nguyên nhân trên, chất lượng cà phê xuất khẩu của ta bị giảm sút do sự đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch chưa tương xứng với tốc độ tăng nhanh của sản lượng. Theo ý kiến của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, vấn đề đánh giá chất lượng cà phê của nước ta cũng có nhiều bất cập với các tiêu chuẩn quốc tế, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả xuất khẩu. Cách tính lỗi của tiêu chuẩn Việt Nam quy định theo %, trong khi tiêu chuẩn thị trường kỳ hạn Luân Đôn tính lỗi theo cách đếm. Tiêu chuẩn Việt Nam quy định kích cỡ hạt trên sàng số 16 (6.3 mm), trong khi nhiều khách nước ngoài lại yêu cầu cà phê loại kích thước trên sàng là số 18 (tức 7.15 mm). Những bất đồng trong cách xác định tiêu chuẩn trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng xuất khẩu của cà phê Việt Nam. Vì vậy, thống nhất tiêu chuẩn trong đánh giá chất lượng là việc làm cần thiết, tránh những bất lợi cho ngành cà phê nước ta. Chi phí sản xuất và chế biến cà phê Việt Nam Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng mưa phân bố đều các tháng trong năm , nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố ấy đều có ở Việt Nam. Hơn nữa với nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công lại rẻ và năng xuất lao động cao đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Nhận xét về năng lực cạnh tranh cà phê Việt Nam Các điểm mạnh Qua đánh giá tổng quan về ngành cà phê việt nam trên có thể cho thấy, trong những năm năm gần đây việt nam đã trở thành một trong những nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới, chiếm lĩnh một thị phần đáng kể, có mặt trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng sau gạo. có được những thành tựu đấy là do ngành cà phê đã có lợi thế to lớn giúp nghành phát triển. Lợi thế khách quan. Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng mưa phân bố đều các tháng trong năm , nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố ấy đều có ở Việt Nam. Hơn nữa với nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công lại rẻ và năng xuất lao động cao đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Nhờ đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, do nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới tăng nhanh nên sản phẩm cà phê cũng ngày càng được tiêu thụ mạnh. Lợi thế chủ quan. Với môi trường chính trị ổn định được cả thế giới công nhận, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm khi làm ăn với Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê. Như chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất, vườn cây cho người lao động đã nâng ý thức làm chủ lên cao, nhờ đó vườn cây được chăm sóc tốt, đầu tư thâm canh tăng cao, đất đai được sử dụng triệt để. Ngoài ra ngay từ năm 1994, thủ tướng chính phủ đã chỉ đạo thành lập quỹ hỗ trợ hay bảo hiểm ngành cà phê. (Văn bản số 140/TB ngày 1/11/1994 của văn phòng chính phủ). Các năm sau chính phủ liên tiếp chỉ đạo và yêu cầu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Ban vật giá chính phủ, Bộ Thương mại xây dựng quỹ hỗ trợ hay quỹ bảo hiểm cho ngành cà phê. Chính phủ chủ trương “ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ ban đầu một lần khi thành lập quỹ” (Văn bản số 589/KTTH ngày 3/2/1997 của chính phủ). Ngoài ra còn huy động ngân sách Nhà nước để giúp đỡ nông dân qua khỏi những giai đoạn khó khăn như mua cà phê tạm trữ để nâng cao giá cho nông dân, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục cho nông dân vay tiền chăm sóc vườn cây... Bên cạnh đó, những sửa đổi các chính sách hành chính cho nhanh và đơn giản thuận tiện, cùng với các chính sách mở cửa thu hút đầu tư, kêu gọi đầu tư cũng góp phần phát triển ngành. Đây chính là những thế mạnh, lợi thế của cà phê Việt Nam trên con đường cạnh tranh quốc tế. Các điểm yếu và nguyên nhân Tuy có nhiều lợi thế và thu được những thành quả đáng khích lệ nhưng trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngành cà phê Việt Nam đã và đang bộc lộ những nhược điểm và hạn chế từ sản xuất đến xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Vấn đề đặt ra lớn nhất trong xuất khẩu cà phê Việt Nam hiện nay là tính bền vững chưa cao. Những năm gần đây, tuy sản lượng xuất khẩu nhanh nhưng giá cả không ổn định, trong đó một số năm giảm sút lớn nên kim ngạch xuất khẩu tăng chậm hoặc sút giảm. Vấn đề này có liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu, dẫn đến cung vượt cầu, công nghệ chế biến bảo quản sau thu hoạch không đáp ứng được yêu cầu tăng sản lượng và chất lượng, thị trường xuất khẩu chưa ổn định. Biểu hiện cụ thể là: Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao. Thật thế, thị trường quy gom cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế. Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt động thu mua, quy gom nhộn nhịp, việc tiêu thụ cà phê ở các hộ sản xuất thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp, cà phê tụt giá, thị trường thu mua nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng hàng tồn nhiều gây nên ứ đọng vốn. Cơ cấu cây trồng thiếu hợp lý. Cơ cấu cây trồng không hợp lí, tập trung quá nhiều vào cà phê Robusta là loại cà phê phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh nghiệm và thị trường xuất khẩu ổn định như Brazil,Achentina, Indonesia...Chưa quan tâm đến mở rộng diện tích cà phê Arabica, loại cà phê có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, được thị trường ưa chuộng hơn, giá lại cao và có tiềm năng phát triển lớn. Những năm gần đây tuy có một số doanh nghiệp có quan tâm chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng diện tích cà phê Arabica, nhưng giải pháp chưa đồng bộ nên kết quả thấp. Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu mua, xuất khẩu. Thực trạng hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn các khâu sơ chế, chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh nghiệp, tư thương lo liệu. Tình hình trên đã dẫn đến hậu quả là sản lượng cà phê dư thừa, ứ đọng lớn, chất lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước phải bù lỗ lãi suất ngân hàng để mua cà phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng cà phê luôn trong cảnh thiếu thông tin và thông tin không được cập nhật làm họ không nắm được giá cả diễn biến trong năm để có phương hướng điều chỉnh mức cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa vụ tới. Thiếu thông tin người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản phẩm, khi nào thì nên bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị ép giá. Người trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự giúp đỡ nào khi bán sản phẩm cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà phê. Hơn nữa, việc sản xuất phân tán tạo ra những khó khăn lớn trong việc tập trung nguồn hàng và giao hàng đúng hạn theo hợp đồng đã kí kết. Với trên 150 đơn vị xuất khẩu và gần chục công ty nước ngoài đặt cơ quan đại diện tại Việt Nam để kinh doanh, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong kinh doanh, tranh mua, tranh bán, làm giảm giá cà phê xuất khẩu và mất uy tín đối với khách hàng. Việc chưa hình thành tập đoàn xuất khẩu cà phê Việt Nam cho đến nay là nhược điểm về tổ chức và quản lý, cần phải được xem xét. Ở Brazil, ủy ban các nhà xuất khẩu cà phê Brazil (Cecafe) đã được thành lập từ lâu, đang chỉ đạo có hiệu qủa mọi hoạt động xuất khẩu cà phê nước này, đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường cà phê thế giới. Thiếu vốn Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của sự yếu kém về chất lượng, sự bất cập trong sản xuất và chế biến cũng là do nguồn kinh phí, nguồn vốn đầu tư. Thật thế, người trồng cà phê ở Việt Nam đa phần là các hộ nông dân nghèo và vốn họ đầu tư chủ yếu là vốn vay ngân hàng, phải trả lãi suất. Do đó việc đầu tư cho sản xuất có phần hạn chế, ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng cà phê. Cho dù có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia vào kinh doanh cà phê thì khả năng tài chính vẫn chưa đủ mạnh để có thể trang bị máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất. Thế nên, vốn đầu tư luôn là vấn đề đáng quan tâm, có ảnh hưởng rất lớn. Chưa trú trọng đến thị trường nội địa. Tuy chưa có một thống kê chính thức nào về lượng cà phê tiêu thụ trong nước, song theo một số nghiên cứu độc lập thì con số này có thể dao động từ 30 ngàn đến 70 ngàn tấn một năm, một con số chưa thể gọi là lớn đối với một nước 86 triệu dân. Trong khi tập trung lớn cho thị trường xuất khẩu, ngành cà phê Việt Nam đã bỏ ngỏ thị trường nội địa, một bãi phù sa màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các đại gia thế giới đang tràn vào với những thương hiệu như Nestle, King, American Eagle... Vì vậy bỏ qua thị trường trong nước, quá trú trọng đến thị trường xuất khẩu là hướng đi chưa đúng đắn, cần được nhìn nhận lại và sửa đổi trong thời gian tới. Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cà phê Việt Nam Qua những phân tích ở trên ta đã nhận thấy được những điểm mạnh và điểm yếu của nghành cà phê việt nam từ đó chúng ta đề ra những phương hướng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam : Tạo nguồn vốn đầu tư Với những thực tế đã được dẫn chứng ở trên, có thể khẳng định lại rằng vốn đầu tư có tầm quan trọng to lớn đến mọi mặt hoạt động của ngành cà phê Việt Nam và chất lượng sản phẩm. Do đó, tìm và tạo nguồn vốn luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Đối với Nhà nước, bên cạnh các hình thức trực tiếp, thì cần có sự hỗ trợ gián tiếp cho nông nghiệp. Đối với các doanh nghiệp, cần tăng cường huy động vốn và vay ngân hàng, nhanh chóng cổ phần hoá các doanh nghiệp cà phê để huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Về phía ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp ổn định được chân hàng xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng cũng quan tâm giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Và cuối cùng việc khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, hỗ trợ vốn là việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả to lớn. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất theo hai hướng. Thứ nhất là giảm bớt diện tích cà phê Robusta, chuyển các diện tích cà phê kém phát triển, không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su, hạt điều, hồ tiêu...Thứ hai là mở rộng diện tích cà phê Arabica ở nơi có điều kiện khí hậu, đất đai thật thích hợp. Nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam, hạ giá thành sản phẩm cà phê Nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cần nghiên cứu và triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO. Chỉ có áp dụng tốt hệ tiêu chuẩn này thì mới đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm vào thị trường khu vực và thế giới. Cần có chính sách khuyến khích nghiên cứu các giống mới có năng suất và chất lượng cao, đồng thời nâng việc quản lý cây trồng và quy hoạch. Ngoài ra, đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cà phê phải có kế hoạch tuyển dụng và thường xuyên bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ này được phát triển. Đây là một việc làm quan trọng có tính chiến lược cao. Bởi chỉ có được một đội ngũ cán bộ lao động cao mới biết sử dụng tốt các thiết bị máy móc, biết tạo ra sản phẩm chất lượng với năng suất cao, giá thành hạ. Để tăng độ hấp dẫn của sản phẩm các doanh nghiệp cần chú ý đến bao bì đóng gói cà phê phù hợp từng loại sản phẩm, thị trường, tập quán. Cà phê xuất khẩu chủ yếu vận chuyển bằng đường biển do đó bao bì phải có độ bền tốt, bảo vệ được hàng hoá trong quá trình bốc xếp, bảo quản, vận chuyển. Bao bì của những sản phẩm cà phê chế biến phải gọn, hợp vệ sinh, dễ trưng bày, giữ được màu sắc, hương vị, hình dáng của sản phẩm và phản ánh đủ các thông tin chủ yếu về sản phẩm như thành phần, thời hạn sử dụng, trọng lượng, giá cả...Việc thiết kế nhãn hiệu sản phẩm nên theo hướng đơn giản, dễ gợi nhớ và mang ý nghĩa. Đổi mới công nghệ Đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho ngành cà phê là điều hết sức cần thiết. Để tạo đà cho các doanh nghiệp cà phê phát triển và ứng phó kịp thời với những thay đổi về chất lượng, giá cả ...cần tập trung máy móc thiết bị chế biến cà phê thô ngay từ khi mới thu hoạch, nhằm đảm bảo chất lượng ổn định, đồng đều. Đồng thời phải có dự án lựa chọn thiết bị hiện đại, đồng bộ và có hiệu quả cao kết hợp việc nghiên cứu áp dụng các thiết bị chế biến nhỏ, gọn ở khu vực cà phê tư nhân. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh cà phê tập trung đầu tư trang thiết bị để chuyển từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu cà phê chế biến. Phải sử dụng thêm nhiều cụm chế biến công nghiệp bao gồm công nghệ chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát, đánh bóng, sân phơi, nhà kho... Thu thập thông tin thị trường, thiết lập hệ thống thu mua hợp lí Kinh doanh cà phê của các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu bằng hình thức mua bán hợp đồng kỳ hạn, giá cả được xác định dựa vào giá giao dịch cà phê trong ngày của thị trường cà phê London (đối với cà phê Robusta) và thị trường New York (đối với cà phê Arabica). Yếu tố quan trọng nhất của hình thức kinh doanh này là thông tin và dữ liệu chính xác, kịp thời về thị trường thế giới để làm cơ sở phân tích dự đoán thị trường, ra quyết định mua bán. Đây là điều quan trọng nhất và cũng chính là điều chúng ta đang thiếu. Để cải thiện hệ thống thu mua phân phối cà phê, các doanh nghiệp cà phê cần tập trung cải tiến cách thức tổ chức thu mua cho phù hợp với từng vùng, từng loại cà phê, trước khi thu hoạch nên có những đầu tư cho nông dân một cách hợp lý, khi thu hoạch cần tập trung cao độ về vốn thu mua cà phê để thanh toán ngay cho nông dân. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng một hệ thống kho tàng phục vụ cho công tác chế biến bảo quản cà phê ngay từ đầu nhằm giữ cho chất lượng cà phê ngày càng cao, đảm bảo đủ chân hàng phục vụ tốt cho xuất khẩu. Quan tâm thị trường trong nước và tìm hiểu mở rộng thị trường quốc tế Trong khi tập trung lớn cho thị trường xuất khẩu, ngành cà phê Việt Nam đã bỏ ngỏ thị trường nội địa, một bãi phù sa màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các đại gia thế giới đang tràn vào với những thương hiệu như Nestle, King, American Eagle... Vì vậy bỏ qua thị trường trong nước, quá trú trọng đến thị trường xuất khẩu là hướng đi chưa đúng đắn, cần được nhìn nhận lại và sửa đổi trong thời gian tới. Chúng ta cần đầu tư nghiên cứu nhằm chiếm lĩnh thị trường trong nước. Trên cơ sở đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, mở rộng thị trường toàn cầu, tăng uy tín và vị thế cà phê Việt Nam là công việc không dễ dàng cần phải thực hiện. Khối lượng cà phê xuất khẩu ngày một lớn không thể thụ động ngồi chờ ai đến mua thì bán mà cần chủ động tạo thị trường, mở rộng thị trường. Đây là một trong những quốc sách lớn của Nhà nước và nhiệm vụ chung của các ngành các cấp. Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp ngành cà phê tiếp cận với thị trường nước ngoài thông qua hệ thống tham tán thương mại, qua hội chợ triển lãm thương mại quốc tế. Ngoài ra còn mở cơ quan đại diện và sử dụng các phương thức thương mại khác như đổi hàng, các Hiệp định Chính phủ, Bộ Thương mại. Cơ quan thường vụ ở các nước cần mở rộng hoạt động xúc tiến thương mại bằng nhiều hình thức để quảng bá cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Việt Nam đã gia nhập ICO, sẽ tham gia ACPC và những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh tế thương mại, khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. Lời kết luận Có thể nói, trong những năm gần đây, Việt Nam nhanh chóng trở thành một trong những nước sản xuất cà phê hàng đầu. Với lợi thế so sánh về điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nhân lực dồi dào giá rẻ, năng suất lao động thuộc loại cao nhất nhì thế giới nên trong vòng 5 năm qua ngành cà phê Việt Nam đã chiếm được một thị phần đáng kể, có mặt trên 70 quốc gia, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng sau gạo. Tuy nhiên, trước bối cảnh thị trường thế giới ngày càng cạnh tranh gay gắt và những lợi thế so sánh đang “ hao mòn” dần, đòi hỏi ngành cà phê phải có những chiến lược cạnh tranh thích hợp bảo đảm hiệu quả bền vững. Nếu không nguy cơ tụt hậu và phá sản có thể ập đến bất cứ lúc nào. Vậy nên, tìm kiếm và tiến hành các giải pháp để hạn chế, khắc phục những mặt còn kém yếu là công việc phải sớm thực hiện nếu muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành. Bên cạnh đó, sự ủng hộ, giúp đỡ, hỗ trợ từ phía nhà nước không bao giờ là thừa mà luôn luôn cần thiết. Tự bản thân mình cộng với sự hỗ trợ đó, trong tương lai không xa chắc chắn rằng cà phê Việt Nam sẽ tồn tại và phát triển nhanh chóng. Đây cũng là mong muốn chung cho các ngành, các mặt hàng tiềm năng và có triển vọng phát triển của Việt Nam. Tài liệu tham khảo Giáo trình Quản trị kinh doanh Giáo trình Quản trị chiến lược Trang web : Trang web :

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam.doc
Luận văn liên quan