Đề tài Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thương mại

LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng - Một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế. Thực tiễn thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến bước phát triển vượt bậc của các NHTM. Các NHTM không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng, mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động nỗ lực cải thiện tình hình hoạt động của bản thân để có thể đứng vững trước yêu cầu cấp bách của đời sống kinh tế xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường trong nước và quốc tế. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, đặt ra cho các NHTM là phải xây dựng các chiến lược tìm kiếm , huy động vốn đồng thời phải quản lý chặt chẽ tình hình nguồn vốn nhằm tiếp tục duy trì củng cố và mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh và tiềm năng của ngân hàng. Trong khuôn khổ đề tài “Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thương mại ” xin giải quyết 3 vấn đề cơ bản. Chương thứ nhất trình bày lý luận về Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn trong hệ thống NHTM trên phương diện chung. Chương thứ hai xem xét tình hình nguồn vốn của NHTM Việt Nam trong những năm gần đây và chương thứ ba dựa trên cơ sở thực trạng đã phân tích, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tạo lập vốn và quản lý vốn cho NHTM một cách hiệu quả. Trong quá trình viết, chắc chắn em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn nhằm giúp cho đề án của em được hoàn thiện hơn.

doc53 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6574 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mbank 166.9 196.1 11.12 12.98 6.66 6.62 155.78 183.1 7.14 7.09 BIDV 161.2 204.5 7.55 11.63 4.68 5.69 153.65 192.8 4.91 6.03 Vietinbank 135.4 175 5.61 10.2 4.14 5.83 129.8 164.8 4.32 6.19 ACB 44.6 85.4 1.69 6.25 3.79 7.32 42.91 79.15 3.93 7.89 Sacombank 24.8 64.6 2.8 5.6 11.29 8.67 22 59 12.72 9.49 Eximbank 18.3 33.7 1.95 6.3 10.66 18.69 16.35 27.4 11.92 23 Techcombank 17.32 39.56 1.76 3.57 10.16 9.02 15.56 36 11.31 9.92 VIB 16.5 39.3 1.19 2.18 7.21 5.55 15.31 37.12 7.77 5.87 Bảng 2 Từ bảng số liệu trên ta có các biểu đồ sau: Hình 3 Từ biểu đồ trên, ta thấy trong số 9 ngân hàng thì trong năm 2006 mới chỉ có ngân hàng Vietcombank có số vốn tự có trên 10 nghìn tỷ đồng (11.12 nghìn tỷ) nhưng đến năm 2007 thì đã có 4 ngân hàng có số vốn tự có trên 10 nghìn tỷ đồng đó là: Agribank (10.45 nghìn tỷ), Vietcombank (12.98 nghìn tỷ), BIDV(11.63 nghìn tỷ) và Vietinbank(10.2 nghìn tỷ). Trong 9 ngân hàng trên thì Agribank dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng vốn (trên 300% từ 2.56 nghìn tỷ lên 10.45 nghìn tỷ), tiếp đó là ACB( 270%), Eximbank(223%), Techcombank(102.8%), Sacombank (100%)... Hình 4 Hình 5 Qua hai biểu đồ trên ta thấy tỷ trọng vốn tự có/ tổng tài sản và vốn tự có /nợ phải trả của các ngân hàng là khá đồng đều khoảng từ 6%-12%. Cá biệt có Agribank, hai tỷ lệ này là khá thấp chưa đạt đến 5%, và ngân hàng Eximbank có tỷ lệ khá cao(vốn tự có/tổng tài sản 2007 là trên 18%;vốn tự có/ nợ phải trả 2007 khoảng 23%). Năm 2008 Từ giữa tháng 2/2008 đến nay, do diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô và hoạt động ngân hàng có nhiều khó khăn hơn trước, lạm phát tăng cao, thanh khoản của nhiều NHTM bị ảnh hưởng, lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay tăng gấp khoảng 2 lần so với trước đó, giá cổ phiếu giảm mạnh, thị trường chứng khoán điều chỉnh sâu và kéo dài, nên nhiều NHTMCP gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên vẫn có nhiều ngân hàng do lịch sử phát triển, có thương hiệu, năng lực quản trị điều hành tốt, chiến lược kinh doanh rõ ràng và phù hợp, biết tận dụng các điều kiện thuận lợi đã đạt mức vốn gấp 3 – 5 lần vốn quy định cho năm 2008 và công bố kế hoạch sẽ đạt mức vốn cũng gấp 3-4 lần quy định cho năm 2010. Đứng trước thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam đang bội thực nguồn cung, là một định chế tài chính chuyên nghiệp, các ngân hàng chắc chắn không thể không lường trước được những khó khăn và rủi ro có thể gặp khi quyết định tăng vốn trong giai đoạn này. Thế nhưng, chúng ta có thể thấy, hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay tăng trưởng rất nhanh về số lượng, song các ngân hàng có vốn điều lệ trên 2.000 chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Trong khi đó vốn điều lệ là một trong những yếu tố rất quan trọng cho thấy sức mạnh về vốn của một ngân hàng. Hội nhập và cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tất yếu dẫn tới nhu cầu tăng vốn điều lệ bên cạnh các biện pháp nâng cao chất lượng dịch vụ và nguồn nhân lực. Bên cạnh đó việc Ngân hàng Nhà nước quy định mức vốn pháp định của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần ở  mức 1.000 tỷ đồng và sắp tới sẽ tăng lên 3.000 tỷ đồng cũng khiến cho các Ngân hàng Thương mại phải tự xây dựng cho mình một kế hoạch tăng dần mức vốn điều lệ một cách hợp lý. Mới đây NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã tăng vốn điều lệ từ 2.524 tỷ đồng lên 3.165 tỷ đồng. Đây là đợt tăng vốn lần thứ 2 của Techcombank trong năm 2008. Việc tăng vốn đợt 2 này là kết quả của việc phát hành thêm 5% cổ phần bán cho cổ đông chiến lược Tập đoàn ngân hàng HSBC, tương đương 20.895.550 cổ phần, đã nâng tỷ tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của đối tác này lên 20%. Tính đến hết tháng 8/2008, Techcombank đạt tổng tài sản hơn 53.000 tỷ đồng. Hay cũng gần đây là kế hoạch tăng vốn từ 2.800 tỷ đồng lên 7.400 tỷ đồng của Eximbank trình Đại hội cổ đông thông qua. Trước đó, NHTM cổ phần Sài Gòn Thương tín (Sacombank) cũng đã  hoàn thành đợt tăng vốn điều lệ từ 4.449 tỷ đồng lên 5.116 tỷ đồng, bằng việc chia cổ tức năm 2007 bằng cổ phiếu cho cổ đông với tỷ lệ 15%. Số cổ phiếu tăng thêm này đã được đăng ký giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 8/2008. Tuy nhiên tính đến thời điểm này, quy mô vốn điều lệ lớn nhất có lẽ thuộc về NHTM cổ phần Á châu (ACB). Giữa tháng 9/2008, ACB đã thông báo chốt danh sách để tăng vốn điều lệ từ 2.630 tỷ đồng lên 5.805 tỷ đồng bằng việc chia cổ tức năm 2007 cho cổ đông với tỷ lệ 55%. Tiếp đó, từ ngày 17/9/2008, ACB cũng chính thức chuyển đổi số trái phiếu được phát hành ngày 16/10/2006 thời hạn 5 năm sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu với tỷ lệ 1:100, tức là 1 trái phiếu mệnh giá 1 triệu đồng được chuyển đổi thành 100 cổ phiếu phổ thông mệnh giá 10.000 đồng. Số lượng trái phiếu chuyển đổi đợt này là 550.023 trái phiếu thành 55 triệu cổ phiếu, tương đương 550,023 tỷ đồng. Theo đó vốn điều lệ của ACB sẽ tăng tiếp từ 5.805 tỷ đồng lên 6.355 tỷ đồng. Từ nay đến ngày 31/12/2008 còn không xa nữa, trong khi một số NHTM cổ phần đã dễ dàng vượt mức vốn quy định cho năm 2010, nhưng không ít NHTM cổ phần mới đạt khoảng 50% mức vốn pháp định quy định vào năm 2008. Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ, NHTM cổ phần mới ra khỏi tình hình khó khăn cách đây không lâu và NHTM cổ phần mới chuyển từ mô hình NHTM cổ phần nông thôn lên NHTM cổ phần đô thị cho đến giữa tháng 9/2008, số vốn công bố vẫn còn thấp hơn quy định. NHTM cổ phần Đại Á có nguồn thặng dư vốn là 130 tỷ đồng, đang làm thủ tục phát hành chia cho cổ đông hiện hữu, cùng với kênh phát hành khác, vốn của ngân hàng này sẽ sớm đạt được 1.000 tỷ đồng trong thời gian ngắn. NHTM cổ phần Kiên Long có 2 cổ đông chiến lược trong nước là ACB và Saigon Tourist, cùng với các cổ đông khác đang làm thủ tục tăng vốn với dự kiến sẽ hoàn thành trong tháng 11/2008. Các NHTM cổ phần khác, như: Gia Định, Thái Bình Dương, Đệ Nhất,... cũng đã có kế hoặch cụ thể về phát hành cổ phiếu cho các cổ đông để hoàn thành mức vốn 1.000 tỷ đồng trước 31/12/2008. Xét chi tiết kế hoạch tăng vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại, có thể nhận thấy rằng các ngân hàng đều tăng vốn có lộ trình nhất định và sử dụng cả hai phương thức tăng vốn là phát hành thêm cổ phiếu kết hợp với việc sử dụng nguồn thặng dư phát hành cổ phần của năm trước, giảm khối lượng cung hàng ra thị trường trong thời điểm này. Điển hình như Eximbank, với kế hoạch tăng vốn rất lớn: từ 2.800 tỷ lên 7.400 tỷ đồng, nhưng lộ trình được chia thành 2 giai đoạn : giai đoạn đầu tăng lên 4.425 tỷ đồng trong đó 386.7 tỷ đồng chia cổ tức bằng cổ phiếu, 1.106 tỷ đồng nhận vốn góp từ Tập đoàn Sumitomo và các quỹ đầu tư nước ngoài khác; giai đoạn sau dự tính là tháng 11/2008 sẽ tăng thêm 2.975 tỷ đồng lấy từ nguồn vốn thặng dư. Tại TP.HCM, trung tâm kinh tế, tài chính - tiền tệ lớn nhất và sôi động nhất cả nước tính đến đầu năm 2008, nguồn vốn tự có của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố đạt gần 28.230 tỷ đồng, tăng hơn 90% so với cùng kỳ năm trước. Riêng vốn điều lệ của các ngân hàng chiếm trên 23.000 tỷ đồng, tăng gần 77% so với năm trước. Về tỷ lệ an toàn vốn, trước năm 2006, hệ số an toàn vốn của các NHTM nhà nước đều không đạt mức yêu cầu 8%, tuy nhiên đến nay đều đã đạt trên mức quy định. Đối với các NHTM cổ phần, hệ thống an toàn vốn đều vượt tỷ lệ quy định, thậm chí có nhiều ngân hàng có hệ thống an toàn vốn lên đến trên 20%. Ngoài việc tăng quy mô vốn, nhiều ngân hàng còn đẩy mạnh việc thực hiện cơ cấu lại tài chính như tăng vốn tự có, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động. Việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cùng với việc tăng vốn chủ sở hữu đã giúp các NHTM giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu phát sinh từ nhiều năm trước, chất lượng tài sản được cải thiện đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu / tổng dư nợ của khối NHTM cổ phần dưới 1%, của các NHTM nhà nước dưới 5%. Như vậy trong những năm gần đây, cùng với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ, các NHTM Việt Nam đang cố gắng tăng nguồn vốn tự có để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường song đến nay hệ thống ngân hàng vẫn được đánh giá là đang ở giai đoạn đầu, năng lực tài chính của nhiều NHTM Việt Nam còn yếu, nợ quá hạn cao và nhiều rủi ro. Nhóm 5 NHTM quốc doanh hiện chiếm thị phần lớn trong hệ thống ngân hàng với khoảng gần 70% tổng nguồn vốn huy động và thị phần tín dụng, nhưng tổng số vốn tự có chỉ khoảng 2,5 tỷ USD (tương đương với một ngân hàng nhỏ trong khu vực). Với tỷ lệ vốn tự có thấp, rõ ràng khả năng cạnh tranh của các NHTM quốc doanh - vốn được coi là xương sống của hệ thống NHTM Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi hội nhập theo lộ trình đã cam kết. Hơn nữa, theo cam kết khi gia nhập WTO, về hình thức hiện diện của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, kể từ ngày 1.4.2007, ngoài các hình thức văn phòng đại diện, chi nhánh, ngân hàng liên doanh, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Việc tham gia thị trường của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài có thể làm thay đổi bức tranh về thị phần hoạt động ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới, bởi ngân hàng 100% vốn nước ngoài được hưởng đối xử quốc gia đầy đủ như các NHTM Việt Nam. Điều này có nghĩa là, ngân hàng 100% vốn nước ngoài có điều kiện để phát triển cả dịch vụ ngân hàng bán buôn, bán lẻ, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ tài chính, tham gia vào quá trình mua/bán, sáp nhập ngân hàng. Hiện tại, hình thức ngân hàng 100% vốn nước ngoài có 2 ngân hàng đã được chấp thuận thành lập về mặt nguyên tắc và đang chờ giấy phép hoạt động là HSBC và Standard Chartered Bank. Đây thực sự sẽ là những nhân tố mới trên thị trường ngân hàng tài chính Việt Nam, hứa hẹn một cuộc cạnh tranh gay gắt với các NHTM trong nước. Về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân nước ngoài tại mỗi NHTM cổ phần của Việt Nam hiện tại không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng (trừ khi có những quy định khác của cơ quan có thẩm quyền). Trên thực tế, các ngân hàng nước ngoài đã mua cổ phần tại một số NHTM cổ phần Việt Nam và trở thành đối tác chiến lược của các ngân hàng này. Như vậy, các ngân hàng nước ngoài có thể lựa chọn các cách thức tiếp cận thị trường khác nhau, qua đó tạo sức ép cạnh tranh với các NHTM Việt Nam tuỳ theo loại hình hoạt động. Có thể thấy rằng, sức ép cạnh tranh lên hệ thống NHTM Việt Nam là rất lớn. Nhất là khi các ngân hàng nước ngoài với sức mạnh tài chính, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm hoạt động trên thế giới đang tích cực chuẩn bị cho cuộc đua giành thị phần tại Việt Nam. Tuy nhiên, ưu thế của các ngân hàng Việt Nam so với các ngân hàng nước ngoài là có được mạng lưới chi nhánh rộng khắp các tỉnh/thành phố trong cả nước, có được mối quan hệ truyền thống với khách hàng qua nhiều năm và sự hiểu biết một cách cụ thể khả năng, yêu cầu của khách hàng và những vấn đề văn hoá, phong tục mà các ngân hàng nước ngoài chưa thể có được trong quan hệ với khách hàng bản địa. Ngoài ra, hiện nay các NHTM Việt Nam đang tích cực triển khai đề án tái cơ cấu lại và cổ phần hoá 5 NHTM nhà nước. Nếu thực hiện thành công chương trình tái cơ cấu và cổ phần hoá này thì năng lực cạnh tranh của các NHTM  trong nước sẽ được tăng lên đáng kể. 2.2.Tình hình vốn huy động của NHTM Việt Nam trong những năm gần đây Nhìn chung, vốn huy động của NHTM Việt Nam trong một số năm gần đây có xu hướng tăng mạnh cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm. Tuy nhiên trong từng thời kì tốc độ tăng trưởng vốn huy động lại khác nhau, phụ thuộc nhiều vào nguồn lực cũng như tình hình thực tế của thị trường Việt Nam. *Xét trong 5 năm từ năm 2000-2005 tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%. *Tính đến hết tháng 8/2006, ở cả hai thành phố lớn nhất cả nước là Hà Nội và Tp.HCM, vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều tăng cao so với cùng kỳ nhiều năm và có tốc độ tăng trước sự ngỡ ngàng của chính giới kinh doanh tiền tệ. Tại Tp.HCM, đến hết tháng 8, tổng số dư vốn huy động của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đạt 238.916 tỷ đồng, tăng 26,5%. Tại Hà Nội, cũng tính đến hết tháng 8, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn có số dư vốn huy động đạt 214.224 tỷ đồng, tăng gần 22,3% so với thời điểm 31/12/2005. Tại nhiều tỉnh và thành phố khác trong 8 tháng năm 2006 cũng diễn ra tình trạng tương tự, vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tăng trưởng nhanh và vượt xa dự đoán từ đầu năm 2006. * Năm 2007 : phân tích các dòng vốn chu chuyển qua hệ thống ngân hàng cả năm cho thấy, tốc độ tăng trưởng của các dòng vốn này đạt mức cao nhất từ trước tới nay và vượt xa dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng. Đây là những diễn biến tích cực và rất đáng mừng của nền kinh tế - dấu hiệu nền kinh tế tiếp tục trong xu hướng đi lên ở thời điểm hiện tại cũng như trung và dài hạn. Đồng thời, cũng cho thấy hiệu quả đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng trong cả nước sau hơn 1 năm gia nhập WTO. Vốn huy động trong xã hội có tốc độ tăng trưởng rất lớn. Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 tăng tới 36,5%, một số ước gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng trưởng lớn nhất từ gần 20 năm đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay. Tốc độ tăng trưởng đó cũng cho thấy tiềm lực về vốn trong dân, trong xã hội rất lớn, hoạt động NH đổi mới mạnh mẽ tạo lòng tin cho khách hàng, cho người gửi tiền, dịch vụ phát triển đa dạng. Đồng thời cũng cho thấy, người dân ngày càng có thói quen gửi tiền vào NH vừa hưởng lãi, vừa an toàn. Tại TP.HCM, trung tâm kinh tế, tài chính - tiền tệ lớn nhất và sôi động nhất cả nước, đến hết tháng 12/2007, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn đạt 442.530 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 2006. Đây cũng là mức tăng lớn nhất từ trước tới nay. Trong đó, vốn huy động bằng nội tệ đạt 327.792 tỷ đồng, vốn huy động ngoại tệ quy đổi đạt 114.738 tỷ đồng, chiếm gần 26,0%.Tại thời điểm này, do tỷ giá ổn định, người gửi tiền thích gửi bằng nội tệ hơn vì lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ. Phân theo đối tượng khách hàng và hình thức huy động thì tiền gửi tiết kiệm của dân cư đạt 169.298 tỷ đồng, tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và cá nhân đạt 245.965 tỷ đồng, phát hành giấy tờ có giá đạt 27.267 tỷ đồng. Diễn biến đó cho thấy tiềm năng vốn trong dân, trong xã hội ở khu vực TP HCM có thể huy động được lớn tới mức độ nào. Tại Hà Nội, nơi tập trung hội sở và đầu mối của 4 NHTM Nhà nước, 8 NHTM cổ phần và có số đông các NH khác, quy mô vốn huy động và dư nợ cho vay cũng diễn ra tương tự. Tính đến hết 31/12/2007, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội tăng 36,12% so với cuối năm 2006. Còn số liệu thống kê cụ thể ở thời điểm sớm hơn cho hay, tính đến hết tháng 10/2007, đạt 326.624 tỷ đồng, tăng 34,54% so với cuối năm 2006, đây là mức tăng lớn nhất trong nhiều năm. Tính đến hết năm 2007, nhiều NHTM cổ phần có tốc độ tăng trưởng vốn huy động tới 70% đến hơn 100% so với cuối năm trước. Đây là mức độ tăng trưởng cao hết sức “ngoạn mục” ngoài dự kiến từ đầu năm của hầu hết các nhà quản trị NH và cổ đông của các NH. Nếu phân tích theo đối tượng khách hàng gửi tiền tại các NH trên địa bàn Hà Nội, thì đến hết tháng 10/2007, tiền gửi dân cư đạt 140.310 tỷ đồng, tăng 31,01% và tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 186.314 tỷ đồng, tăng 37,33% so với cuối năm trước. Phân theo tiền tệ, vốn huy động nội tệ đạt 236.180 tỷ đồng, tăng 39,05% và vốn huy động ngoại tệ đạt 90.444 tỷ đồng, tăng 24,05% so với cuối năm trước. Nguyên nhân vốn huy động nội tệ tăng cao hơn vốn huy động ngoại tệ ở Hà Nội cũng giống như ở TP Hồ Chí Minh. Vốn huy động tăng nhanh một mặt phản ánh nền kinh tế Việt Nam đang rất sôi động, hiệu quả kinh doanh của nền kinh tế ngày càng nâng cao một cách bền vững. Mặt khác cũng phản ánh thu nhập của người dân, của các DN cũng nâng cao. Trong số nguồn thu nhập đó có khối lượng đáng kể là kiều hối, tiền của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về. Tại Đà Nẵng, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM cũng gia tăng mạnh mẽ. Dưới đây là bảng số liệu cho thấy rõ sự gia tăng đó Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng nguồn vốn huy động (tỷ đồng) 6.290 7.770 9.405 11.768 17.974 Tăng so với kỳ trước (tỷ đồng) -- 1.480 1.635 2.363 6.206 Tốc độ tăng (%) -- 23,53 21,04 25,12 52,74 Bảng 3 Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2003 - 2007 ĐVT: tỷ đồng, % * Năm 2008 Quý I/2008, kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng khá (GDP đạt 7,4%) và được đánh giá là nền kinh tế có triển vọng cao, có sức hút đối với nhà đầu tư nước ngoài với 5 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên ở một số lĩnh vực như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản đang có dấu hiệu bất ổn, bởi vì từ đầu năm 2008 đến nay, diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước có rất nhiều bất lợi cho hoạt động ngân hàng. Đặc biệt là lạm phát tăng cao nhất trong khoảng 15 năm qua. Chỉ số giá tiêu dùng – CPI ở nước ta trong 6 tháng đầu năm 2008 tăng lên 18,44%. Chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất huy động vốn Đồng Việt Nam lên tới 18% - 19%/năm, USD lên tới 7,0 – 8,0%/năm và lãi suất cho vay tăng cao tới 21%/năm, tín dụng bị kiềm chế. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ biến động mạnh và diễn biến phức tạp. Giá vàng thế giới và trong nước tăng cao nhất từ trước tới nay, lên 19,35 triệu đồng/lượng. Thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh. Đặc biệt trong một số thời điểm thanh khoản của một số NHTM cổ phần căng thẳng, vốn khả dụng thiếu, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bình quân trên 20%/năm, cá biệt có một số thời điểm lên tới 30% thậm chí hơn 40%/năm. Hoạt động trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã gặp không ít khó khăn do sự tác động từ nhiều phía như: môi trường kinh tế vĩ mô, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp v.v. Trong đó sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong huy động vốn diễn ra khá gay gắt. Có thời gian, tỷ lệ dư nợ cho vay của một số NHTM cổ phần bằng 1,4% nguồn vốn huy động. Trước áp lực phải huy động đủ vốn cho kinh doanh nhiều ngân hàng (chủ yếu là ngân hàng cổ phần) đua tranh tăng lãi suất huy động vốn, đồng thời áp dụng nhiều hình thức khuyến mại, tặng quà,… để thu hút khách hàng. Theo nhận định của các NH, để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát ngay từ đầu năm 2008, NHNN đã buộc phải mạnh tay siết chặt tiền tệ bằng cách tăng dự trữ bắt buộc, phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu lãi suất 7,8%/năm với hình thức bắt buộc phải mua đối với các TCTD theo mức phân bổ cụ thể mà thời điểm mua là ngày 17-3-2008. Tuy nhiên, các biện pháp này đã khiến nhiều NH rơi vào cảnh thiếu vốn, để có đủ vốn mua tín phiếu của NHNN phát hành, một số NH buộc phải vay lại trên thị trường liên NH, nhân cơ hội này một số NH còn vốn đã đẩy LS vay trên thị trường liên NH có lúc lên trên 30%/năm. Do không chịu nổi mức LS vay quá cao cùng với yếu tố thời gian phải mua tính phiếu cận kề, các NH đành phải tăng LS để huy động tiền gửi (ngoài ra các NH còn vay ở các NH khác còn ở mức LS thấp) và lập tức cuộc đua tăng LS giữa các NH diễn ra. Vào thời điểm đó có NHTM cổ phần đã áp dụng mức lãi suất 12%/năm đối với loại kỳ hạn 3 tháng; 12,6%/năm đối với loại kỳ hạn 6 tháng và 13,8%/năm đối với loại kỳ hạn 12 tháng. Nguyên nhân của cú sốc này còn là do một số ngân hàng thương mại (NHTM) thiếu thanh khoản, do không điều chỉnh kịp thời kế hoạch kinh doanh trước dấu hiệu thắt chặt chính sách tiền tệ của NHNN từ giữa năm 2007 nên vẫn tiếp tục mở rộng tín dụng, vượt khả năng huy động vốn của mình. Theo thống kê sơ bộ của các NHTM CP, trong vòng chưa tròn 1 tháng kể từ khi các NH “phát pháo” tăng LS, đến nay vốn huy động của các NH này đã tăng lên đáng kể. Cụ thể, trong vòng 15 ngày (từ ngày 12 đến 27-2-2008), NHTM CP Đông Á đã huy động được trên 100 tỷ đồng tiền gửi tiết kiệm, đây là con số mà NH này cần trung bình từ 3 - 5 tháng mới huy động được. Cùng lúc đó, NHTM CP SHB đã huy động được trên 73 tỷ đồng chỉ trong vòng 6 ngày (từ ngày 21 đến 27-2-2008) sau khi tung ra chương trình LS siêu hấp dẫn và trong vòng chưa đầy 3 giờ đồng hồ sáng ngày 28-2, SHB đã huy động được trên 2 tỷ đồng. Dù không công bố cụ thể với báo chí về mức vốn huy động được, song một cán bộ NHTM CP Sacombank cũng thừa nhận, NH này đã huy động một số vốn rất cao so với trước đó. Tuy nhiên, đến tháng 3/2008 Ông Bùi Tín Nghị, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB), cho hay, lượng vốn huy động từ dân cư tại hầu hết nhà băng đều rất hạn chế, do người dân nhìn vào tỷ lệ lạm phát cao và nguy cơ lãi suất thực âm. Vì thế, theo ông Nghị, với lãi suất 12%/năm, gửi tiền vào ngân hàng không còn là một kênh hấp dẫn đối với người có tiền nhàn rỗi. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) tính đến 31/3/2008 có tổng nguồn vốn đạt 195.587 tỷ đồng (kể cả ngoại tệ quy đổi), giảm 0,3% so với cuối năm 2007. Vietcombank là ngân hàng thương mại Nhà nước rất có uy tín và thương hiệu hàng đầu trên thị trường, đặc biệt là thế mạnh về huy động vốn ngoại tệ, đã kịp thời tăng lãi suất huy động vốn VND lên 12%/năm ngang bằng với các ngân hàng thương mại khác khi thị trường tiền tệ nóng lên và cũng nghiêm túc thực hiện cam kết trần lãi suất tối đa 11%/năm theo cam kết của các ngân hàng thương mại thành viên do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì. Thế nhưng vốn huy động của Vietcombank lại giảm gần 600 tỷ đồng trong 3 tháng đầu năm 2008 đã thực sự cho thấy diễn biến đáng lo ngại. Tình cảnh của một ngân hàng thương mại Nhà nước khác có quy mô nguồn vốn và cho vay dẫn đầu toàn ngành ngân hàng, chiếm 27% - 30% thị phần hai mảng này của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong cả nước cũng diễn ra tương tự. Trước sức ép lạm phát lên cao và tình trạng thiếu vốn trầm trọng, ngày 16/5/2008, NHNN công bố bỏ quy định khống chế mức trần lãi suất huy động 12%/năm, thay vào đó là cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 12%/năm tại thời điểm đó; đến ngày 11/6/2008, mức lãi suất cơ bản được nâng lên là 14%/năm. Việc thay đổi cơ chế lãi suất như vậy, cùng với một số giải pháp khác như tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM nhằm nâng cao ý thức tuân thủ phát luật và giảm rủi ro đạo đức của các NHTM; thực hiện điều tiết linh hoạt vốn khả dụng qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản cho các NHTM; điều chỉnh tỷ giá chính thức và nâng biên độ tỷ giá; hạn chế đối tượng vay ngoại tệ… Sau những động thái chính sách đó, đến nay thị trường đã có những phản ứng theo chiều hướng tích cực, lãi suất thực dương dần được cải thiện; chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá không chính thức dần được thu hẹp; tốc độ tăng của lạm phát và thâm hụt thương mại tháng 6 giảm hơn tháng 5... Cụ thể, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ở mức tương đối ổn định từ những ngày cuối tháng 5 đến nay xoay quanh mức 18 - 19%/năm đối với kỳ hạn 7 - 14 ngày; Lãi suất huy động vốn bằng VND của các NHTM cũng có sự gia tăng mạnh. Đối với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất huy động phổ biến trên thị trường tăng từ mức 7,5 - 8%/năm cuối năm 2007 lên đến mức 17,5%/năm trong tháng 6/2008 (chỉ có một vài ngân hàng nhỏ nâng mức lãi suất lên 19%/năm).Tháng 4 và 5/2008 do nhu cầu các ngân hàng đã đẩy lãi suất huy động USD lên mức rất cao (từ 6,2%-8,5%/năm). Vốn khả dụng của các NHTM xét trên toàn hệ thống luôn ở trạng thái cân bằng, số ngày dự trữ vượt đã tăng dần lên trong tháng; tín dụng cho vay giảm mạnh so với 4 tháng đầu năm, đặc biệt là trong tháng 6. Các NHTM đã có những động thái thắt chặt các điều kiện vay vốn để đảm bảo chất lượng tín dụng khi lãi suất tăng cao, đồng thời quan tâm đến quản lý thanh khoản.   Kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm: NHTM cổ phần Á Châu – ACB tiếp tục dẫn đầu toàn khối. Đến hết tháng 6/2008 đạt tổng tài sản 102.639 tỷ đồng, số dư vốn huy động đạt 90.345 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt 41.897 tỷ đồng, tỷ lệ an toàn vốn đạt 14% so với mức tối thiểu quy định của NHNN là 8%, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 0,4%, tỷ lệ nợ xấu dưới 0,1% và lợi nhuận trước thuế đạt hơn 1.000 tỷ đồng. Mức lợi nhuận này của ACB thật ấn tượng, bởi vì so với Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam quy mô kinh doanh gấp hơn 2 lần ACB, nhưng lợi nhuận 6 tháng đầu năm 2008 chỉ đạt 604 tỷ đồng. Đứng thứ hai trong khối phải kể đến NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín. Trong 6 tháng đầu năm 2008, lợi nhuận của Sacombank đạt hơn 754 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ này năm 2007. Hiện nay Sacombank đang là NHTM cổ phần có mạng lưới hoạt động rộng nhất nước, với 225 điểm giao dịch. Sacombank cũng là NHTM Việt Nam đầu tiên  được Ngân hàng Nhà nước cấp phép mở chi nhánh tại Campuchia và Lào. Tiếp đến là Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á, NHTM cổ phần quân đội, NHTM cổ phần quốc tế, NHTM cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam, NHTM cổ phần Đông Nam Á....Các ngân hàng này đều có kết quả kinh doanh bằng hoặc vượt so với kế hoạch năm.  Tốc độ huy động vốn  của các NHTM  tương  đối tốt trong tháng 9 đầu tháng 10. Huy động vốn của các TCTD đến ngày 30/9/2008 tăng 10,71% so với cuối năm 2007. Cũng tính đến ngày 30/9/2008, tổng huy động vốn của 16 NHTM trên địa bàn Tp.HCM đạt gần 272.000 tỷ đồng, tăng 23% so với đầu năm; cho vay đạt trên 192.000 tỷ đồng, tăng 9,7%. Thông tin trên được đưa ra tại cuộc họp giao ban mới đây giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với các ngân hàng thương mại (NHTM) trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. Ông Hồ Hữu Hạnh-Giám đốc NHNN Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh cho biết, sau khi có quyết định mới liên quan đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam (giữ nguyên lãi suất cơ bản, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc) thì lãi suất huy động bình quân của các NHTM trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh đã giảm xuống còn 17,4-18,7%/năm, trước đó là 17,8-19%/năm. Tính đến ngày 30/9/2008, tổng huy động vốn của 16 NHTM đạt gần 272.000 tỷ đồng, tăng 23% so với đầu năm; cho vay đạt trên 192.000 tỷ đồng, tăng 9,7%. Từ tháng 5/2008 đến nay, các NHTM liên tục điều chỉnh giảm sử dụng vốn trên thị trường liên ngân hàng. Đặc biệt, từ khi NHNN quy định lãi suất tối đa trên thị trường liên ngân hàng không quá 21%/năm thì lãi suất trên thị trường này đã giảm mạnh. Đến 30/9/2008, lãi suất VND kỳ hạn qua đêm là 11,97%/năm, 1 tuần là 13,34%/năm, 2 tuần là 14,72%/năm, 1 tháng 16,68%/năm, 3 tháng 18,33%/năm, 6 tháng là 17,05%/năm và 1 năm là 14,18%/năm.   Cũng trong thời gian này, tại các tổ chức tín dụng,  vốn huy động USD đang tăng nhanh hơn vốn huy động tiền Việt Nam bởi lãi suất USD vẫn hấp dẫn và tâm lý lo ngại lạm phát vẫn còn. Tính đến hết tháng 8/2008, ước tính tổng số dư vốn huy động trên địa bàn Hà Nội của các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng (TCTD) đạt 388.000 tỷ đồng, tăng 2,1% so với cuối năm 2007. Đây có thể là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ trong nhiều năm gần đây. Xét về cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền tệ, thì vốn huy động ngoại tệ tăng rất mạnh, tới 26,57% so với cuối năm 2007, trong khi đó số dư tiền gửi nội tệ lại giảm 6% so với cuối năm 2007. Xét về cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng khách hàng thì số dư tiền gửi của các tổ chức tại các NHTM lại giảm 3% so với cuối năm 2007. Tại nhiều thành phố lớn khác cũng có tình trạng diễn ra tương tự, vốn huy động bằng ngoại tệ tăng nhanh hơn vốn huy động nội tệ của NHTM. Tại một số NHTM quy mô lớn, việc huy động vốn cũng nằm trong xu hướng chung nói trên. Cũng do diễn biến nói trên nên trong một số thời điểm thanh khoản vốn nội tệ  tại các NHTM trở nên khan hiếm, thậm chí cá biệt có thời điểm căng thẳng, mặc dù thời gian gần đây tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Hiện nay nhiều NHTM đang điều chỉnh giảm nhẹ lãi suất huy động vốn nội tệ và USD, nhưng nhìn chung lãi suất USD vẫn hấp dẫn và tâm lý lo ngại lạm phát vẫn còn, do đó xu hướng tiền gửi USD vẫn tăng cao hơn so với VNĐ tiếp tục diễn ra. Vào những tháng cuối năm 2008, lạm phát đang có xu hướng giảm. Cung - cầu  vốn hiện nay  đảo chiều có biểu hiện  dư cung. Thể hiện vốn khả dụng của các NHTM tương đối dồi dào tại tất cả các ngân hàng. Khoảng hai tháng 9,10 lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại bắt đầu có dấu hiệu dư thừa, từ 30.000 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng và gần đây là khoảng 50.000 tỷ đồng. Con số này cũng đã được Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) khẳng định vào cuối tháng 10 vừa qua. Ngoài 50.000 tỷ đồng nói trên, lượng vốn khả dụng của các ngân hàng còn được tiếp thêm từ 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc giải phóng trước hạn. Lãi suất huy động bắt đầu giảm dần. Ngày 10/10/2008, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) điều chỉnh giảm lãi suất huy động đối với VND và USD. Lãi suất huy động vốn tối đa chính thức áp dụng từ ngày 10/10/2008 của BIDV là từ 3,6%/năm đến 17,3%/năm đối với tiền VND và 1,25% đến 4,9%/năm đối với USD áp dụng cho từ không kỳ hạn đến dưới 2 năm. Cũng trong ngày 10/10, lãi suất huy động VND của NHTMCP Ngoài Quốc doanh (VPBank) giảm khá mạnh như: 1 tháng tiết kiệm rút gốc linh hoạt VND từ 16,7%/năm xuống còn 15,7%/năm; 3 tháng rút gốc linh hoạt  từ 16,9%/năm xuống còn 16,10%/năm; kỳ hạn 12 tháng rút gốc linh hoạt từ 16,8%/năm xuống còn 15,5%/năm. Tại NHTMCP An Bình ngày 9/10 cũng điều chỉnh hạ lãi suất huy động VND với các mức: 1 tháng: 17,6%/năm; 2 tháng: 17,8%/năm; 12 tháng: 17,5%/năm; 60 tháng còn: 14%/năm…  Có nhiều nguyên nhân khiến các NHTM liên tục hạ LS huy động tiền đồng trong thời gian qua,  nhưng có nguyên nhân là sự dè dặt  tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn hiện nay. Rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường… do lạm phát trong nước cao, ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Trong tháng 12 tới, mặc dù nhu cầu vốn cuối năm theo quy luật bao giờ cũng tăng cao,  nhưng nếu tình hình chứng khoán và bất động sản vẫn ảm đạm như hiện nay, thì dòng tiền vẫn vào ngân hàng mà không còn kênh đầu tư khác. Vì vậy, LS huy động có thể vẫn tiếp tục giảm. 2.3.Tình hình vốn vay của NHTM Việt Nam trong năm 2008 Như đã đề cập ở phần tình hình vốn huy động, vào đầu năm 2008 để có đủ vốn mua tín phiếu của NHNN phát hành, một số NH buộc phải vay lại trên thị trường liên NH, nhân cơ hội này một số NH còn vốn đã đẩy LS vay trên thị trường liên NH có lúc lên trên 30%/năm. Nguồn vốn vay trên thị trường liên ngân hàng của các NHTM trong giai đoạn này gia tăng khá mạnh. Điển hình như trong tổng nguồn vốn huy động và đi vay của SHB là 9.177 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên thị trường liên ngân hàng đã chiếm tới 77,3%. Mặc dù tại thời điểm này SHB có số dư tiền gửi tại Tổ chức tín dụng khác là 5.383 tỷ đồng, tính bù trừ đi thì SHB vẫn có số chênh lệch đi vay trên thị trường liên ngân hàng tới gần 1.700 tỷ đồng. Tuy nhiên nhiều NHTM CP đã chủ quan khi theo đuổi mục tiêu lợi nhuận trong ngắn hạn thông qua nguồn vốn liên ngân hàng để cho vay dài hạn, trong khi chưa chú trọng đến việc phát hành trái phiếu. Điều này đã dẫn đến khó khăn thanh khoản trong toàn hệ thống NHTM trong 6 tháng đầu năm 2008 khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông để kiềm chế lạm phát như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% từ ngày 1/2/2008; yêu cầu các NHTM phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, với lãi suất cố định 7,8%, kỳ hạn 1 năm trước ngày 17/3/2008 và không được sử dụng trong giao dịch tái cấp vốn trên thị trường liên ngân hàng (lãi suất tín phiếu này được điều chỉnh tăng lên 13% kể từ ngày 1/7/2008). Trong khi đó, các nhà băng thiếu vốn cũng không thể trông chờ vào nguồn vốn vay trên thị trường liên ngân hàng, bởi lãi luôn ở mức cao. Một nguồn tin cho hay, hiện chỉ còn Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) có vốn khả dụng để cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Những ngân hàng trước đây cung cấp vốn nay cũng hết nguồn, bởi Ngân hàng Nhà nước đang rút 52.000 tỷ đồng tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại các nhà băng về. Ngày 13-5-2008 Ngân hàng Nhà nước vừa yêu cầu các ngân hàng thương mại cần chủ động cân đối nguồn vốn, tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng Nhà nước và các hình thức huy động vốn khác để đảm bảo khả năng thanh khoản. Đây là nội dung quan trọng trong văn bản mới nhất mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước gửi các ngân hàng thương mại, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Theo Ngân hàng Nhà nước, trong trường hợp ngân hàng thực sự khó khăn về vốn khả dụng nhưng không có đủ giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn tham gia nghiệp vụ thị trường mở hoặc tham gia nhưng không trúng thầu thì cần có văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét cho vay tái cấp vốn. Ngoài ra, nhằm tiếp tục hỗ trợ thanh toán cho các ngân hàng thương mại và ổn định thị trường, Ngân hàng Nhà nước thực hiện thêm các phiên chào mua giấy tờ có giá trên thị trường mở với khối lượng 7.000-10.000 tỷ đồng/phiên (kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 15%/năm). Ngoài nguồn vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và vay NHNN, các NHTM đang tích cực tìm kiếm các nguồn vốn ngoại. Cụ thể, Ngày 2/7/2008, tại Hà Nội, NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) đã ký hợp đồng vay vốn trị giá 100 triệu USD với Ngân hàng Intesa Sanpaolo (Italia). Chủ tịch Hội đồng quản trị VCB Nguyễn Hòa Bình cho biết, khoản vay trong 3 năm này sẽ góp phần bổ sung nguồn vốn ngoại tệ trung hạn đáng kể, phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và tăng trưởng của VCB. Đại diện của Intesa Sanpaolo nhấn mạnh, hợp đồng này còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ thương mại giữa Italia và Việt Nam thông qua việc tài trợ cho các doanh nghiệp Italia thâm nhập thị trường Việt Nam. Như vậy, tính trong năm 2008, quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn vay ở các NHTM đã tăng lên đáng kể so với những năm trước. Nó góp phần ổn định nguồn vốn chung, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động một cách hiệu quả trước tình trạng khó khăn ngày nay. 2.3.Tình hình các nguồn vốn khác của NHTM Việt Nam Khi nhu cầu vốn của nền kinh tế đang tăng lên, các ngân hàng (NH) phải nỗ lực tìm kiếm nguồn cung vốn để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu này. Bên cạnh các kênh huy động vốn truyền thống, kênh cung ứng vốn từ các dự án ủy thác với các tổ chức nước ngoài cũng đang được các NH để ý và chú trọng phát triển. Theo đánh giá của các NH thì nguồn vốn từ các dự án ủy thác đều là các nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất thấp và ưu đãi. Mỗi dự án nhằm hỗ trợ các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, với mục đích chung là phục vụ các lĩnh vực trọng điểm nhằm phát triển nền kinh tế.Việc năng động tham gia các dự án này sẽ giúp các NH tiếp cận được nguồn cung vốn với lãi suất ưu đãi để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng và nền kinh tế. Mặt khác, việc được một định chế tài chính nước ngoài lựa chọn giải ngân chocác dự án thể hiện sự tín nhiệm của các tổ chức quốc tế đối với các NH trong nước, qua đó có thể giúp họ nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng uy tín của mình đối với xã hội. Đồng thời, thông qua các dự án ủy thác này, các NH cũng có thể tận dụng để bán chéo các sản phẩm, dịch vụ tín dụng cho NH khác.Vì vậy trong một số năm gần đây, các NHTM Việt Nam đang đẩy mạnh huy động nguồn vốn này. Theo bà Lưu Thị Ánh Xuân- Phó Tổng giám đốc- NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank), hiện nay, các dự án ủy thác với các tổ chức nước ngoài là một trong những kênh cung ứng vốn quan trọng và cần thiết để ngân hàng đẩy mạnh hỗ trợ các khách hàng là khối DN vừa và nhỏ. Bà Xuân cũng cho biết, từ năm 2002, Techcombank đã được NH Phát triển Châu Á (ADB) chọn là NH giải ngân trong các chương trình tài trợ xuất nhập khẩu. Techcombank cũng là NH năng động trong dự án RDF2 với WB về phát triển nông thôn với hạn mức 70 tỷ đồng cho DN vừa và nhỏ. Sau thành công của các dự án này, Techcombank đã được dự án SMDF – Quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ do Chính phủ Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu tài trợ - lựa chọn là một trong 4 ngân hàng Việt Nam làm trung gian cho vay có kỳ hạn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổng giá trị tín dụng cấp cho các NH trong suốt thời gian hoạt động của dự án lên đến 320 tỷ đồng. Đặc biệt, NH này đã được ADB và NH Nhà nước VN lựa chọn tham gia dự án tài chính nhà ở cho người có thu nhập thấp (dự án HFF) với hạn mức 15 tỷ đồng từ năm 2006 và hiện nay ngân hàng đang nỗ lực đẩy mạnh giải ngân theo dự án này. Năm 2007, Techcombank cũng bắt đầu tham gia vào các dự án “thân thiện với môi trường” thông qua các dự án nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư cho công nghệ sạch như dự án SECO và dự án PECSME. Các dự án ủy thác là một kênh dẫn vốn mới mà các NH sẽ tiếp tục quan tâm và đẩy mạnh trong bối cảnh hiện nay. Sự tham gia tích cực của NH trong các dự án này sẽ tạo thành một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, đồng thời, nhờ các dự án này, các ngân hàng sẽ có thể khẳng định nỗ lực của mình vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và nỗ lực phục vụ khách hàng nói riêng. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG NGUỒN VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM Có thể nhận thấy rằng, để hội nhập thành công thì cải cách hệ thống ngân hàng là vấn đề then chốt. Chỉ có đổi mới toàn diện theo các chuẩn mực hoạt động của ngân hàng quốc tế mới đảm bảo hệ thống các ngân hàng Việt Nam cạnh tranh thành công với các ngân hàng nước ngoài. Việt Nam cần phải xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, khả năng cạnh tranh cao, hoạt động có hiệu quả và an toàn để huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội, mở rộng đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.Trong đó, vấn đề tăng trưởng nguồn vốn ổn định, bền vững là yêu cầu bức thiết đối với các NHTM Việt Nam trong hiện tại và cả lâu dài. Bởi lẽ, dù sự điều hòa vốn rất nhanh nhạy, hiệu quả trong hệ thống NHTM, nhưng hiện tốc độ tăng trưởng nguồn vốn chưa tương ứng với mức tăng trưởng dư nợ cho vay đã tạo nên áp lực đối với các NHTM Việt Nam. Hơn thế nữa theo dự đoán của các nhà chức trách trong thời gian sắp tới, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn phải tiếp tục vượt qua nhiều thách thức, khó khăn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, kinh tế suy giảm, khó khăn tác động còn lớn hơn. Do đó, các NHTM Việt Nam cần phải xây dựng cho mình một lộ trình tăng vốn hợp lý để đảm bảo cung ứng đủ vốn cho thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh với nhau. Dưới đây là một số giải pháp tăng trưởng nguồn vốn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam : 3.1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn trong đó lấy chính sách khách hàng làm trọng tâm. Để tăng trưởng nguồn vốn, đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp huy động vốn như: đa dạng hóa sản phẩm, lãi suất huy động; cung cấp sản phẩm trọn gói; tăng cường công tác tiếp thị, chăm sóc khách hàng v.v. Tuy nhiên trong điều kiện hiện tại, ngân hàng bị khống chế mức trần lãi suất, chi phí khuyến mại áp dụng trong huy động vốn phải tính đủ trong lãi suất, ngân hàng nào cũng có khuyến mại, nên chính sách lãi suất, khuyến mãi không còn là lợi thế cạnh tranh để thu hút khách hàng. Hơn nữa trong ngắn hạn, việc đưa ra một sản phẩm huy động vốn mới còn phải chịu độ trễ nhất định về thời gian. Nhưng nếu không huy động đủ vốn sẽ làm giảm khả năng mở rộng tín dụng và quan trọng hơn là khả năng cân đối nguồn vốn kinh doanh. Do đó, việc thực hiện tốt chính sách khách hàng là một trong những giải pháp hữu hiệu. Chiến lược khách hàng được xem như là quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện những hoạt động nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng trên cơ sở thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, mục tiêu duy trì phối hợp giữa khả năng của ngân hàng với điều kiện thị trường. Thực hiện tốt chính sách khách hàng không chỉ giữ chân và thu hút khách hàng mà còn tạo ưu thế cho ngân hàng trong cạnh tranh khi có được sự trung thành của khách hàng. Chính sách khách hàng cần phải vượt lên trên tập quán kiểu bán hàng là xong mà còn phải biết lắng nghe và chiếm lĩnh trái tim người tiêu dùng, để xây dựng mối quan hệ gắn bó có chiều sâu giữa ngân hàng và khách hàng. “Nghe” là để biết khách hàng cần gì và thái độ như thế nào để rút ngắn khoảng cách giữa nhu cầu và sản phẩm, dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Và bằng chính chất lượng của sản phẩm, dịch vụ và một thái độ phục vụ tốt, sẵn sàng đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu, ngân hàng sẽ nhận được sự ủng hộ và lòng trung thành của khách hàng. Để thực hiện chiến lược khách hàng thành công, trước hết, phải phân nhóm để xác định rõ đối tượng khách hàng và có giải pháp phù hợp. * Đối với khách hàng là doanh nghiệp (DN): ngoài số dư tiền gửi lớn, lãi suất phải trả thường thấp hơn các hình thức huy động khác, ngân hàng còn có thể tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong khâu thanh toán. Tuy nhiên, trong thời gian qua, ưu thế lãi suất thấp, lượng vốn lớn của DN trong cơ cấu nguồn vốn ngân hàng không còn phổ biến. Khi đa số DN chia nhỏ số dư tiền gửi ở nhiều ngân hàng, đề nghị được hưởng mức lãi suất như các hình thức huy động khác, thậm chí một số DN yêu cầu ngân hàng để được hưởng lãi suất cao hơn khi có số dư lớn. Chưa kể việc hàng loạt các tập đoàn kinh tế lớn, các tổng công ty cũng thành lập ngân hàng cổ phần và chuyển phần tiển gửi trước đây tại các NHTM về ngân hàng mình. Nên dù phải tiếp tục thực hiện tốt chính sách khách hàng đối với DN như chính sách về lãi suất, một số loại phí v.v cũng cần thấy rằng nguồn tiền gửi từ DN sẽ khó duy trì ở số dư lớn, lãi suất thấp và kỳ hạn dài. Điều này thể hiện rõ khi có sự dịch chuyển nguồn vốn DN từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trong thời gian qua nếu có sự khác nhau về mức lãi suất, một số chính sách khách hàng khác hay có một NHTM cổ phần ra đời từ một tập đoàn, tổng công ty. * Đối với nguồn tiền gửi từ dân cư: khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng lên, người dân có điều kiện tích lũy nhiều hơn nên ngân hàng cần đưa ra các sản phẩm phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi này. Thứ hai: duy trì mối quan hệ lâu bền với khách hàng. Điều này sẽ giúp ngân hàng rất nhiều. Vừa tiết kiệm chi phí thẩm định khi khách hàng có nhu cầu vay căn cứ vào số dư tài khoản tiền gửi; vừa nâng cao khả năng thu hút khách hàng mới thông qua mối quan hệ hay “lời giới thiệu” từ chính khách hàng của mình. Hơn nữa, do là khách hàng truyền thống của ngân hàng nên việc đàm phán về lãi suất, chính sách phí v.v sẽ dễ dàng hơn khi có sự thay đổi hoặc trong cạnh tranh. Kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu đầu tư ngày càng tăng, cùng với sự cạnh tranh từ các kênh đầu tư như chứng khoán, bất động sản, vàng …đã tác động không tốt đến nguồn vốn huy động của các MHTM. Để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế đòi hỏi ngân hàng phải khai thác và quản trị tốt nguồn vốn. Trong các giải pháp huy động vốn ngoài lãi suất, việc thực hiện tốt chính sách khách hàng kết hợp với mở rộng mạng lưới hoạt động; triển khai các đại lý chứng khoán, bảo hiểm nhằm thu hút nguồn tiền gửi thanh toán, tiền gửi giao dịch; Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền nhằm phát huy tối đa uy tín của một NHTM lớn v.v sẽ là giải pháp hữu hiệu, nhất là trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động, sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng trong huy động vốn như hiện nay 3.2. Tăng cường bổ sung thêm vốn chủ sở hữu và vốn khả dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam, tăng cường xử lý nợ quá hạn. Tăng cường bổ sung thêm vốn chủ sở hữu và vốn khả dụng cho các NHTM quốc doanh để mở rộng tín dụng, tạo điều kiện cơ cấu lại sở hữu vốn của các NHTM cổ phần để tăng vốn điều lệ. Giải pháp này giúp trực tiếp tăng khả năng tài chính cho các ngân hàng gặp khó khăn. Để thực hiện điều đó, các NHTM cần phối kết hợp các biện pháp tăng vốn (phát hành cổ phiếu, trái phiếu..) một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi ngân hàng trong từng giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn chế các nhược điểm của từng biện pháp. Ngoài ra, việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại trong nước (tối đa 30%) cũng góp phần tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN. Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ sung, kết hợp với việc cải cách ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho ngân hàng...làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng dẫn đến tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại cổ phần cũng giống như các chủ thế phát hành khác, việc nâng vốn điều lệ phải được kiểm soát  chặt chẽ, thậm chí còn chặt chẽ hơn những doanh nghiệp khác vì vai trò và ảnh hưởng to lớn của chủ thể này trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nguồn vốn nước ngoài trong NHTM Việt Nam cần có những biện pháp theo dõi cụ thể, rõ ràng để tránh tình trạng xấu có thể xảy ra. Bên cạnh đó, Ngân hàng muốn tăng vốn, phải giải trình được cụ thể về nhu cầu sử dụng vốn, nhu cầu mở rộng cho vay, nhu cầu mở rộng phạm vi kinh doanh, nhu cầu mở rộng địa bàn kinh doanh… Cần tăng cường xử lý nợ quá hạn của các NHTM để giải toả ngay nguồn vốn ngay trong bản thân ngân hàng. Phân loại nợ quá hạn của các NHTM, nếu do cơ chế để lại thì không để các NHTM phải gánh chịu, mà chuyển sang Bộ Tài chính. Nếu nợ quá hạn do bản thân NHTM gây ra thì đương nhiên ngân hàng phải chịu, song cần phải có sự hỗ trợ của các ngành ban để có thể thúc đẩy quá trình phát lại tài sản thế chấp để thu hồi nợ, mua bán nợ giữa các ngân hàng… Cần nghiên cứu sớm thành lập các công ty mua bán nợ để giải quyết các khoản nợ quá hạn cho NHTM 3.3. Không ngừng hoàn thiện các tiện ích về công nghệ ngân hàng để phục vụ người gửi tiền một cách tốt nhất trên cơ sở đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật tại ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng và mở rộng các dịch vụ mới. Hiện nay Ngân hàng thương maị Việt Nam nên tiếp tục duy trì, hoàn thiện và mở rộng các ứng dụng tin học như kế toán giao dịch, thanh toán quốc tế, thông tin quản lý để phục vụ hiệu quả hơn cho hoạt động kinh doanh. Từng bước nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ mới, các dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại. Mặt khác với các dịch vụ mới đưa vào áp dụng như thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động cần hoàn thiện hơn nữa chất lượng và khả năng quản lý các dịch vụ đó. Giảm thiểu tình trạng tắc nghẽn trong việc rút tiền ở các máy rút tiền tự động, sai lệch trong công nghệ chuyển tiền và thanh toán tìên như hiện nay. Từ đó tạo tâm lý an toàn cho người gửi tiền, góp phần nâng cao năng lực vốn cho các NHTM. 3.4. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ nhân viên ngân hàng. Để tăng truởng nguồn vốn có hiệu quả, một giải pháp không kém phần quan trọng đó là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, đảm bảo thực hiện tốt các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ thanh tra giám sát, cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới. Nếu làm được những điều đó, hệ thống NHTM Việt Nam sẽ vận hành một cách trơn tru hơn, nâng cao uy tín trong xã hội. 3.5. Hoàn thiện khung Pháp lý để các ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn. Đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn của NHNN với các TCTD khác để hệ thống ngân hàng hoạt động được trong sạch và lành mạnh hơn, đúng như những gì mà Đảng và Nhà nước đã kỳ vọng trong thời gian qua. 3.6. Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế để đổi mới và nâng cao năng lực vốn cũng như chất lượng hoạt động, năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. LỜI KẾT Những vấn đề liên quan đến quản lý nguồn vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam là một phạm trù rất rộng, ngân hàng có thể dùng nhiều biện pháp tùy theo điều kiện có thể thực hiện được. Tuy nhiên, mỗi ngân hàng là một tế bào của nền kinh tế – tài chính, do đó nó sẽ không thể tránh khỏi sự chi phối bởi môi trường xung quanh, cũng như sự chi phối của chính hiện trạng nền kinh tế đó. Một nền kinh tế phát triển, khoẻ mạnh, thì hệ thống ngân hàng cũng sẽ có những bước tiến mới để phù hợp với sự đi lên đó, thực sự là chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế. Còn ngược lại, không thể nào có được một hệ thống ngân hàng tiên tiến, vững mạnh khi nền kinh tế yếu kém, chậm phát triển, do đó hệ thống tài chính – tiền tệ sẽ không đáp ứng được cho nhu cầu của nền kinh tế, dẫn đến những kết quả tiêu cực trong tương lai. Do việc nghiên cứu về hệ thống ngân hàng thương mại là rất sâu rộng và phức tap, hơn nữa với giới hạn trong khuôn khổ một đề án và giới hạn trong kiến thức của em; nên em chỉ đề cập được tới một số vấn đề chính yếu của vấn đề này. Nếu có thể ở một số đề án sau em sẽ tiếp tục nghiên cứu. Em rất mong được các thầy cô góp ý phê bình để những bài viết sau đạt chất lượng tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ PGS.TS.Phan Thị Thu Hà (Chủ biên), 2006, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê. 2/ PGS. TS Nguyễn Thị Mùi (Chủ biên), 2006, Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. 3/ GS.TS. Lê Văn Tư (Chủ biên), 2000, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. 4/ TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), 2002, Giáo trình Lí thuyết Tài chính tiền tệ, NXB Thống kê. 5/ Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng 6/ Tài liệu từ Internet: Ngân hàng nhà nước Việt Nam- www.saga.com.vn Diễn đàn Doanh nghiệp điện tử - www.DDDN.com Báo điện tử - thời báo kinh tế Việt Nam – www.vneconomy.com Tin tức kiểm toán – www.kiemtoan.com.vn Tạp chí kế toán – www.tapchiketoan.info Đầu tư chứng khoán – www.vir.vom.vn Tài chính doanh nghiệp – www.businessedge.com.vn Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – www.Vietcombank.com.vn Ngân hàng Đầu tư và phát triển – www.BIDV.com.vn Công ty chứng khoán ngân hàng Đầu tư – www.bsc.com.vn Thị trường 24h – www.thitruong24h.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguồn vốn và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thương mại.doc
Luận văn liên quan