Đề tài Nhập siêu Việt Nam - Thực trạng nguyên nhân và giải pháp

MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHẬP SIÊU 1.Nhập siêu và các khái niệm liên quan. 4 2.Các yếu tố tác động đến nhập siêu. 5 a)Tác động của tỷ giá hối đoái5 b)Tác động của việc thay đổi thu nhập ở nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. 7 c)Cơ cấu và chu kỳ kinh tế. 7 d)Sự mất cân đối giữa tổng đầu tư và tiết kiệm . 8 e)Các biện pháp bảo hộ mậu dịch. 9 3.Tác động của nhập siêu đến nền kinh tế. 9 a) Các tác động tích cực. 10 b) Những rủi ro do nhập siêu. 10 CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM 1.Đánh giá chung. 13 2.Tình hình xuất khẩu. 14 a.Quy mô, tốc độ. 14 b.Các mặt hàng và thị trường xuất khẩu chủ yếu. 14 3.Tình hình nhập khẩu:. 21 a.Quy mô, tốc độ. 21 b.Cơ cấu mặt hàng và thị trường nhập khẩu chủ yếu. 21 CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH NHẬP SIÊU VIỆT NAM 1.Thực trạng nhập siêu Việt Nam giai đoạn 1990- nay. 26 2.Mặt hàng nhập siêu. 28 3.Thị trường nhập siêu. 31 4.Các nhận định về nhập siêu. 33 a)Tình hình nhập siêu. 33 b)Mặt hàng nhập siêu. 34 c)Vấn nạn nhập siêu từ Trung Quốc. 35 5.Nguyên nhân nhập siêu. 38 a)Nhà nước. 38 b)Doanh nghiệp. 41 c)Người dân. 44 CHƯƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP 1.Giải pháp Nhà nước, Bộ, Ngành. 47 a)Giải pháp giai đoạn năm 2007- 2008. 47 b)Giải pháp giai đoạn năm 2009- 2010. 48 c)Giải pháp 2011. 52 2.Giải pháp, nhận định chuyên gia. 58 3.Các đề xuất giải pháp của nhóm . 68 A.Các giải pháp ngắn hạn. 68 a)Cơ quan nhà nước. 68 b)Doanh nghiệp. 69 B.Các giải pháp dài hạn. 69 a)Tái cơ cấu nền kinh tế. 69 b)Tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam . 71 c)Gia tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu. 72 d)Xuất khẩu bằng giá CIF, nhập khẩu bằng giá FOB72 e)Phát triển du lịch – ngành “xuất khẩu tại chỗ”:. 75 f)Thu hút kiều hối80 g)Đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO86 vTiếng Anh. 86 vTiếng Việt. 87

docx92 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3355 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhập siêu Việt Nam - Thực trạng nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đưa ra những hướng cải thiện như: Đối với hàng nông phẩm, không đòi hỏi công nghệ cao cấp và vốn lớn nhưng vẫn có thể cạnh tranh được trên thị trường trong nước và nước ngoài nếu có sự quan tâm, yểm trợ của chính quyền địa phương. Muốn sản xuất lớn và cao cấp hóa nông phẩm và thực phẩm thì cần đến nỗ lực của chính quyền trung ương và địa phương hơn nữa. Ngoài ra nhà nước cần đầu tư hạ tầng nông thôn (xây cơ sở tập trung nông phẩm, cơ sở bảo quản tồn kho, trung tâm giao dịch...), tổ chức kiểm tra nông dược tồn đọng trên sản phẩm thu hoạch, quản lý công nghệ và tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm, tổ chức hướng dẫn nông dân hoạt động sản xuất... Thêm vào đó, Chính phủ còn có vai trò tìm kiếm thị trường và tổ chức cho nông dân tiếp cận thị trường, hướng dẫn nông dân lập các khế ước dài hạn với các công ty thương mại quốc tế. Về công nghiệp, nếu lãnh đạo quan tâm thực sự đến nhập siêu và năng lực cạnh tranh của Việt Nam thì đã đưa ra các biện pháp thu hút các dự án FDI trực tiếp tăng năng lực cạnh tranh, và yểm trợ hoạt động của doanh nghiệp trong nước (nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu vốn đầu tư và ít thông tin về thị trường), và nhất là không ưu tiên vốn cho các tập đoàn đầu tư vào những lĩnh vực không hoặc ít liên quan đến hiệu quả tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên trong bài viết của mình ông cũng tỏ thái độ không đồng tình khi hiện nay tin tức thời sự không cho thấy các nỗ lực nói trên, ngược lại thấy những tin như Bộ Tài chính vừa đưa ra dự thảo nâng mức giá trị xe con cho cấp bộ trưởng và thứ trưởng (theo báo Sài Gòn Tiếp Thị. Trong lúc dân chúng đang khốn khổ vì cơn bão giá này, tại sao Bộ Tài chính lại có dự thảo này? Thái độ này mâu thuẫn với quyết định hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ và do đó quyết định, chính sách đó sẽ không thể có hiệu lực. àTrong nhận định của Tác giả Trần Văn Thọ, ông đã nêu lên một vấn đề tồn động của nền kinh tế Việt Nam đó là yếu kém về trách nhiệm và năng lực của quan chức nhà nước. Chính vì đây là một tác giả của một tổ chức nước ngoài nên về phương diện nào đó sẽ có cái nhìn khách quan hơn. Bản thân nhóm nhận định rằng, việc giải quyết những tồn động trong cơ chế quản lý, năng lực hay trách nhiệm của quan chức đòi hỏi phải có một sự quyết tâm nổ lực của cả hệ thống chính phủ, và để thực hiện được cần phải có một kế hoạch thực hiện dài hơi. Góp phần đưa ra các giải pháp cho nhập siêu, hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI) cũng đã đề nghị một số các biện pháp như sau: Bộ Tài chính nên làm công tác rà xoát toàn diện và tăng tối đa các loại thuế với những mặt hàng nằm trong danh mục không khuyến khích nhập khẩu. Ngoài thuế, cần bổ sung thêm các loại phí cao để ngăn chặn theo thông lệ quốc tế, chẳng hạn nghiên cứu ban hành loại phí mua xe mới ( theo giá trị của xe ô tô ). Dùng công cụ phí với mức từ (100% - 300%) giá trị xe có thể giảm 50% - 60% kim ngạch nhập khẩu xe ô tô. Ngân hàng nhà nước nên xem xét việc ban hành ban hành giấy phép mua ngoại tệ hoặc hình thức tương tự ( Căn cứ theo Luật Ngân hàng ), xem xét xem có thể vận dụng được không trong 1 giai đoạn ngắn : Doanh nghiệp nhập khẩu muốn nhập hàng tiêu dùng xa xỉ, hàng không thuộc Danh mục khuyến khích nhập khẩu cần phải xin giấy phép tại ngân hàng nhà nước. Hoặc hàng tháng ngân hàng nhà nước xét duyệt kế hoạch bán ngoại tệ cho việc nhập khẩu những mặt hàng nhạy cảm từ hệ thống các ngân hàng thương mại. Nếu tích cực vận dụng các biện pháp hành chính, hoặc các rào cản hợp pháp thì hàng năm có thể giảm nhập siêu với những nhóm hàng trên ở mức từ 3 tỷ - 5 tỷ USD. Hiệp hôi này tin rằng nếu thực hiện gần như tất cả các giải pháp trên, cộng với chính sách tài khóa hợp lý, chính sách tỷ giá và lãi suất thông minh thì VAFI tin rằng trong 10 năm tới VN sẽ trở thành quốc gia xuất siêu – Đó là mục tiêu cụ thể mà Chính phủ cần hướng tới. àNhận định: VAFI đã khá lạc quan trong việc dự báo về tình hình nhập siêu trong 10 năm tới. Thực tế khi áp dụng các biện pháp mà hiệp hội này kiến nghị sẽ có thể gặp nhiều trở ngại. Bởi vì như chúng ta đã biết, công cụ thuế và công cụ phí là những công cụ có tác dụng hai mặt, nhất là khi hiện nay chúng ta tham gia vào những tổ chức kinh tế toàn cầu thì việc áp dụng các mức thuế và phí đều phải được thưc hiện theo lộ trình đã cam kết. Vì vậy không thể vì một lý do nào đó mà muốn tăng lên bao nhiêu là có thể tăng lên, làm như thế không những vi phạm quy tắc cuộc chơi mà có thể làm cho tình hình trong nước càng trở nên khó khăn khi gặp phải sự trả đũa. “Thực tế để giải quyết triệt để vấn nạn nhập siêu hiện nay chúng ta không thể áp dụng từng biện pháp riêng lẻ mà cần có một hệ thống các giải pháp đồng bộ, hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện.” Đó là quan điểm đã được đưa ra tại hội thảo khoa học “Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu” do trường Đại học Kinh tế TPHCM tổ chức vừa qua. “Bài toán nhập siêu” được khẳng định là cần nhiều hơn một lời giải. Hội thảo này thực sự trở thành một diễn đàn đối thoại chính sách giữa cơ quan quản lý nhà nước và các nhà nghiên cứu. Lời giải đầu tiên là phá giá đồng tiền, nhưng liệu nó có cải thiện tình trạng nhập siêu? Các thành viên tham dự Hội thảo đã trình bày công trình nghiên cứu về nhiều chủ đề như mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực (REER) và cán cân thương mại; tìm lời giải cho bài toán tỷ giá; các giải pháp giảm nhập siêu thông qua tái cơ cấu ngành hàng xuất khẩu, thúc đầy năng lực cạnh tranh của các ngành hàng như đồ gỗ, thủy sản, … Trong hàng loạt các ý kiến trao đổi về tỷ giá, tham luận của PGS. TS. Nguyễn Trọng Hoài và ThS. Hồ Bá Tình chỉ ra rằng hiện nay, tỷ giá hối đoái thực đa phương (MRER) năm 2000 làm năm gốc của Việt Nam đang ở mức thấp. Nói cách khác, đồng VND đang được định giá cao khoảng 10% so với rổ tiền tệ của 12 đối tác thương mại lớn nhất, gồm Singapore, Malaysia, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Đức, Pháp, Anh và Mỹ. Điều đó góp phần làm cho hàng hóa Việt Nam kém cạnh tranh trên thị trường thế giới. Xem xét tương quan giữa VND với từng đồng tiền nói trên, tỷ giá hối đoái thực song phương cho thấy tiền đồng đang được định giá thấp so với 5 đồng tiền của các nước Trung Quốc, Pháp, Đức, Thái Lan, Autralia và được định giá cao so với đồng tiền của 7 đối tác thương mại lớn còn lại. Kết quả nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng giữa tỷ giá thực và cán cân thương mại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều này có nghĩa là việc phá giá đồng tiền sẽ đóng góp vào việc cải thiện tình trạng thâm hụt thương mại. Nhận định này đã được nhiều nhà khoa học và cả đại diện Ngân hàng Nhà nước tán đồng. Tuy nhiên, ThS Hồ Bá Tình cũng nhấn mạnh: “Mặc dù tỷ giá có quan hệ khá chặt chẽ với cán cân thương mại song cán cân thương mại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Do đó, không thể giải quyết vấn đề nhập siêu chỉ bằng cách phá giá đồng nội tệ. Thêm vào đó, quyết định phá giá còn cần phải cân nhắc đến sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác trong nền kinh tế. Để tỷ giá hỗ trợ tốt cho xuất khẩu, trong dài hạn cần lấy tỷ giá hối đoái thực như là tỷ giá tham chiếu trong điều hành tỷ giá trên thị trường”. Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ (NHNN) cũng bày tỏ sự tâm đắc với nhận định này. Bài giải thứ hai: Giảm nhập siêu từ Trung Quốc. Bên cạnh tỷ giá, một vấn đề thu hút đông đảo ý kiến thảo luận là hiện tượng nhập siêu từ Trung Quốc. GS. TS Võ Thanh Thu (ĐH Kinh tế TPHCM) tổng kết rằng qua 10 năm (1999 – 2009), trong khi kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ tăng 6.6 lần, từ 746 triệu USD lên 4.91 tỷ USD, thì kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc lại tăng từ 673 triệu USD đến 16.44 tỷ USD, tăng đột biến 24.4 lần. Từ vị thế xuất siêu sang Trung Quốc với giá trị 73 triệu USD năm 1999, những năm gần đây, Việt Nam liên tục nhập siêu từ nước này. Năm 2009, nhập siêu từ Trung Quốc lên đến 11.53 tỷ USD, chiếm hơn 90% tổng giá trị nhập siêu của Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ mới là con số thống kê chưa đầy đủ, tỷ trọng thực tế có thể cao hơn nhiều do khối lượng hàng hóa xuất - nhập qua đường tiểu ngạch ở các cửa khẩu dọc biên giới Việt – Trung, khối lượng hàng ở các chợ biên mậu, bộ phận “kinh tế ngầm” vẫn chưa được thống kê chính thức. Qua các số liệu nêu trên, GS.Thu nhận định rằng nếu giải quyết được vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc thì căn bản sẽ giải được bài toán nhập siêu hiện nay. Ý kiến này nhận được sự ủng hộ của một số nhà khoa học, nhưng cũng có nhiều ý kiến chưa đồng tình. TS. Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ chính sách Ngân hàng Nhà nước thừa nhận, dù Trung Quốc hiện là “công xưởng của thế giới”, song việc chúng ta nhập siêu mạnh từ nước này, mà chủ yếu là hàng hóa chất lượng thấp, là tín hiệu không tích cực đối với nền sản xuất nước ta. Ông Bảo cũng nhấn mạnh rằng, trong 6 tháng đầu năm 2010,  tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm không chỉ 90% mà đã lên đến 99% lượng nhập siêu của toàn bộ nền kinh tế. Dù vậy, các đại biểu nhận định việc nhập siêu từ Trung Quốc chưa hẳn là “vấn nạn”, và đối phó với vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc chưa chắc là lời giải cho bài toán nhập siêu. Theo đó, nhập khẩu nhiều là bản chất của nền kinh tế Việt Nam, bởi chúng ta đang trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu không nhập siêu từ Trung Quốc, liệu Việt Nam có thể đảm bảo sẽ không nhập siêu từ các quốc gia khác?.  Hàng hóa nhập khẩu vào theo luồng vốn FDI, ODA, và với các cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam không thể can thiệp để hạn chế nhập siêu bằng các biện pháp phi thị trường. àRõ ràng là để thu hẹp khoảng cách thâm hụt trong cán cân thương mại, việc thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa trong nước so với hàng hóa nhập khẩu mới là những giải pháp căn cơ và bải bản. Theo GS. TS Đoàn Thị Hồng Vân (ĐH Kinh tế TPHCM), việc xây dựng và tham gia vào các chuỗi cung ứng là một trong những giải pháp quan trọng giúp hoạt động xuất nhập khẩu nước ra phát triển bền vững, hiệu quả. Trung Quốc hiện là nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới, sẽ là điều không tưởng nếu Việt Nam ra sức “đối đầu” với làn sóng hàng hóa thâm nhập từ Trung Quốc. Kinh nghiệm từ các quốc gia Đông Nam Á láng giềng như Thái Lan, Malaysia, Phillipines, Indonesia cho thấy, nếu Việt Nam muốn xoay chuyển tình thế từ nhập siêu sang xuất siêu với Trung Quốc, thì giải pháp tối ưu là hợp tác với Trung Quốc trong các chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam có thể hợp tác, tham gia vào các chuỗi cung ứng này thông qua 2 cách: nhận “outsource” một số công đoạn/sản phẩm từ các công ty Trung Quốc, hoặc tiếp nhận các doanh nghiệp đang dần thoái vốn khỏi Trung Quốc do sự gia tăng chi phí đầu vào, điển hình như các doanh nghiệp trong ngành dệt may. àNhìn chung, các ý kiến đều đồng thuận rằng nhập siêu đang là một vấn đề gây ra nhiều rủi ro cho nền kinh tế nhưng tìm lời giải thỏa đáng cho bài toán này không phải là chuyện một sớm một chiều. Chính sách tỷ giá hay việc đối phó với luồng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đều không phải là những giải pháp căn cơ. Điều quan trọng nhất là các cơ quan quản lý nhà nước cần có biện pháp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là những ngành hàng không phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, chú trọng công tác xúc tiến thương mại để hàng xuất khẩu xâm nhập các thị trường mới cũng như tăng sự ưu tiên của người tiêu dùng đối với hàng sản xuất trong nước. Kiến nghị giải pháp hạn chế nhập siêu, các nhà khoa học cho rằng Bộ Công thương cần phát huy tốt hơn vai trò hỗ trợ và bảo vệ các nhà xuất khẩu nước ta trước những hàng rào phi thuế quan. Và hơn hết, bản thân mỗi doanh nghiệp – những người trực tiếp tham gia vào thị trường quốc tế cũng như nội địa – sẽ là biến số quan trọng nhất trong quá trình giải bài toán nhập siêu. Bởi vì chỉ có chất lượng hàng hóa và dịch vụ tốt, giá cả hợp lý mới thuyết phục được người tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế dành sự ưu tiên cho hàng “made in Vietnam. Bài học từ các nước ASEAN Ba quốc gia ASEAN gồm Malaysia, Thái Lan và Philippines đã nỗ lực vươn lên để thay thế các quốc gia ngoài châu Á trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất vào Trung Quốc những năm gần đây. Trong đó, Malaysia sớm thâm nhập thị trường Trung Quốc từ đầu thập kỷ 1990 với kim ngạch xuất khẩu 852 triệu Đô la Mỹ và liên tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này (thập kỷ 1990 tăng bình quân 20,46%/năm, trong khi xuất khẩu ra thị trường thế giới nói chung chỉ tăng 12,80%/năm), cho nên quy mô xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc năm 2008 đã đạt 34,644 tỉ Đô la Mỹ, chiếm 17,36% tổng kim ngạch xuất khẩu ra thị trường thế giới của Malaysia. Tương tự, Thái Lan tuy cũng thâm nhập thị trường Trung Quốc sớm và liên tục đẩy mạnh xuất khẩu nhưng với xuất phát điểm chỉ là 386 triệu Đô la Mỹ, cho nên quy mô xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của Thái Lan chỉ đứng thứ ba với 23,245 tỉ Đô la Mỹ, chiếm 13,07% trong tổng kim ngạch xuất khẩu ra thị trường thế giới của quốc gia này.  Khác với hai quốc gia nói trên, từ xuất phát điểm chỉ là 90 triệu Đô la Mỹ năm 1990, gần hai thập kỷ vừa qua Philippines đã dồn mọi sức lực để đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc. Nếu như nhịp độ tăng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong thập kỷ 1990 chỉ mới cao gấp đôi so với nhịp độ tăng xuất khẩu ra thị trường thế giới nói chung (33,98%/năm so với 16,65%/năm), thì tám năm gần đây các tỷ lệ này là 39%/năm và 3,6%/năm. Điều này giúp kim ngạch xuất khẩu của Philippines chỉ riêng sang thị trường Trung Quốc đã đạt 23,363 tỉ Đô la Mỹ, chiếm tới 47,66% tổng kim ngạch xuất khẩu ra thị trường thế giới của quốc gia này. àCó thể khẳng định, để tăng mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, cả ba quốc gia ASEAN nói trên không thể trông chờ vào nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn rất hạn chế của mình, thay vào đó là dựa trên cơ sở phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm cung cấp các nguyên phụ liệu, linh kiện, phụ tùng cho thị trường Trung Quốc. Đây cũng là giải pháp mà GS.TS Hồng Vân đã đưa ra trong hội thảo khoa học nói trên.  Nói cách khác, sự phát triển xuất khẩu bền vững sang thị trường Trung Quốc của Malaysia, Thái Lan, Philippines là do họ đã chiếm được những vị trí nhất định trong các chuỗi giá trị gia tăng của Trung Quốc và góp phần đáng kể trong các sản phẩm “made in China”. Có lẽ đây là bài học mà Việt Nam rất cần tham khảo trong việc “giải bài toán” nhập siêu vốn đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, trong đó chủ yếu là nhập siêu từ Trung Quốc. Qua những gì mà ba nước Thái Lan, Malaysia và Philippines đã làm được, chúng ta cần phải nhìn nhận lại thực trạng của nền kinh tế Việt Nam mình, phải chăng chúng ta đã quá dựa dẫm vào những gì mà thiên nhiên đã ban tặng, dẫn chứng là ngay từ bậc tiểu học chúng ta được tiêm nhiễm vào đầu Việt Nam là nước có “rừng vàng, biển bạc”, có vị trí địa lý nằm ở cửa ngõ của Đông Nam Á, có điều kiện khí hậu thuận lợi… Phải chăng những điều đó đã khiến chúng ta ngủ quên, không còn động lực cố gắng, không cần vượt qua khó khăn để tạo nên thành tích. Thiết nghĩ, bản thân nước Nhật Bản không hề có bất kỳ tài nguyên thiên nhiên, đã vậy thiên tai, lũ lụt, động đất, sóng thần thường xuyên xảy ra, hầu hết nguyên vật liệu phải nhập khầu từ nước ngoài. Nhưng tại sao họ vẫn có thể tạo nên một “Thần kỳ Nhật Bản”. Quan điểm chủ quan của bản thân tôi vẫn cho rằng mọi vấn đề xuất phát từ quan điểm ý thức, để giải quyết được triệt để mọi vấn đề chúng ta cần xây dựng một nền tản ý thức tốt, thiết lập những cơ sở, từ những điều tưởng chừng như nhỏ bé nhất đó là giáo dục mầm non. Các đề xuất giải pháp của nhóm Các giải pháp ngắn hạn: tăng cường công tác quản lí nhập khẩu nhằm tránh hiện tượng nhập khẩu tràn lan, nhập khẩu hàng kém chất lượng. Cơ quan nhà nước Trước tình hình nhập siêu ngày càng nghiêm trọng, việc kiểm soát hàng nhập khẩu ngày càng bức thiết. Ngoại trừ các mặt hàng cần thiết như các hàng phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu…các hàng nhập khẩu kém chất lượng, không cần thiết nên được xem xét. Công tác kiểm tra, xét nghiệm hàng nhập khẩu nên thực hiện một cách nghiêm túc nhằm tránh nhập hàng kém chất lượng, vừa gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng vừa gây lãng phí nguồn ngoại tệ quốc gia. Mặt khác, lượng nhập siêu có thể giảm nếu ta hạn chế được lượng hàng nhập dư thừa. Hàng nhập dư thừa xảy ra khi lượng hàng đó trong nước đã có hay đã dư nhưng vẫn nhập thêm. Lượng hàng nhập này rõ ràng không cần thiết. Điều này đòi hỏi nên có sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng về nhập khẩu và sản xuất trong nước. Cơ quan phụ trách sản xuất trong nước sẽ báo cho bên nhập khẩu về tình hình hàng hóa trong nước và lên danh sách các hàng trong nước dư thừa để bên nhập khẩu hạn chế. Nếu các bên làm việc ăn ý vả hiệu quả, lượng hàng nhập khẩu sẽ bớt đi và tình hình nhập siêu sẽ được cải thiện. Doanh nghiệp Nhập siêu không chỉ là vấn đề của Nhà nước mà còn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhà nước sẽ tăng cường các biện pháp giảm nhập siêu nên trước mắt sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nhập khẩu. Nhưng không vì thế các doanh nghiệp xuất khẩu không liên quan vì hầu hết các nguyên liệu, máy móc, phụ tùng, linh kiện ta đều phải nhập khẩu. Dù rằng các nguyên liệu đầu vào phục vụ cho xuất khẩu được hưởng các ưu đãi hơn nhưng nếu không cẩn thận, họ sẽ bị vướng vào những vấn đề không hay. Điều đầu tiên, các doanh nghiệp nên nắm vững các nghị quyết, quyết định, thông báo… mới của nhà nước để có phương án hoạt động thích hợp. Thứ hai, trong tình hình nhập khẩu bị siết chặt,các doanh nghiệp nên tìm hiểu, nắm rõ thông tin đối tác làm ăn, các quy định tại nước làm ăn, kiểm tra kĩ lưỡng chất lượng của hàng hóa nhằm tránh các vụ tranh chấp không cần thiết. Nếu không, có nguy cơ hàng hóa nhập khẩu không đủ chất lượng sẽ bị giữ lại, vừa tốn thời gian vừa mất tiền. Các giải pháp dài hạn Tái cơ cấu nền kinh tế Trong giai đoạn hiện nay, lượng nhập siêu nước ta đang duy trì ở mức “báo động đỏ” (GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân). Điều này cho thấy có “lỗ hổng” trong nền kinh tế nước ta khiến cho lượng nhập khẩu vượt xa lượng xuất khẩu. Nhiều chuyên gia cho rằng giải pháp lâu dài không những cho “vấn nạn” nhập siêu mà còn cho nền kinh tế chính là tái cơ cấu nền kinh tế. Tái cơ cấu nền kinh tế nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của đất nước, đem lại hiệu quả hoạt động và đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Theo nhóm, hướng tái cấu trức nền kinh tế bao gồm các bước sau: (1) chọn lựa một số ngành kinh tế chủ lực, (2) tập trung phát triển ngành chủ lực như xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ về mặt chính sách…, (3) đầu tư vào giáo dục con người. Do khả năng còn hạn hẹp về việc tái cơ cấu nền kinh tế nên nhóm xin trích ý kiến của PGS. TS Ngô Doãn Vịnh của Viện Chiến lược phát triển về tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, ông cho rằng việc tái cơ cấu nên kinh tế không nên làm tràn lan mà cần có sự chọn lọc. Một số ngành mà Việt Nam cần ưu tiên là dịch vụ, nông, lâm nghiệp, thủy sản và một số lĩnh vực Việt Nam có lợi thế như: sản xuất điện, phần mềm, luyện thép cao cấp, cơ khí chế tạo, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, sản xuất vật liệu, dược phẩm, chế biến nông lâm thủy sản. Trong lĩnh vực dịch vụ thì phát triển tài chính, du lịch, vận tải quốc tế. Trong lĩnh vực nông lâm thủy sản thì phát triển trồng lúa gạo, cà phê, cao su, chè, điều, cây ăn trái, chăn nuôi lợn, cá, gà vịt…trồng rừng và nuôi trồng thủy sản với công nghệ hiện đại. Mục đích của viêc chọn các ngành này theo ông là để các ngành dịch vụ, sản xuất công nghệ cao và sản phẩm có giá trị quốc gia chiếm tỉ trọng cao hơn và tăng cường mức quan trong các ngành tư vấn, thiết kế, thông tin, đào tạo, chữa bệnh chất lượng cao. Để thực hiện điều này, cần có sự tham gia của Nhà nước và doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa hai chủ thể này đòi hỏi cần có nguồn nhân lực giỏi và tận tụy. Nhà nước cần hoạt động hiệu quả, đội ngũ công chức, viên chức có năng lực và trách nhiệm cao. Trong cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam, cần có những doanh nghiệp mang tầm vóc quốc tế. Những đòi hỏi này nhấn mạnh đến vai trò của công tác đào tạo, giáo dục của Việt Nam phải có những bước tiến xa, đáp ứng nhu cầu đất nước. Tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam Như đã phân tích trên, các doanh nghiệp Việt Nam đang dần bị lấn ép trên chính thị trường trong nước trước sự tấn công ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu. Trong một nền kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước không còn có thể dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước. Họ phải tự lực cánh sinh để tồn tại trên thương trường. Một khi doanh nghiệp trong nước đạt được sự tin tưởng của người tiêu dùng thì họ mới có thể trụ vững lâu dài được. Lượng hàng hóa nhập khẩu do đó mà ít đi do vấp phải cạnh tranh từ hàng nội địa. Vì thế, có thể nói nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước là một biện pháp giảm nhập siêu hiệu quả. Muốn được như vậy, các doanh nghiệp trong nước cần nâng cao năng lực quản trị để có thể lèo lái con tàu doanh nghiệp vượt qua đối thủ cạnh tranh. Như đã nói, các mặt hàng nhập khẩu không chỉ hơn hàng nội về mẫu mã mà còn về chất lượng, giá cả. Nếu chủ các doanh nghiệp tìm tòi cải tiến về công nghệ, sản xuất… thì họ mới có thể tồn tại được. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam hiện giờ rất bị động về thông tin thị trường như về đối thủ, nhu cầu của khách hàng… Do đó, các doanh nghiệp nên chủ động trong vấn đề này. Họ có thể tự làm hoặc thuê các công ty nghiên cứu thị trường đề có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt nhất. Đa số các doanh nghiệp trong nước thuộc loại vừa và nhỏ. Đứng trước các đối thủ nước ngoài có nhiều kinh nghiệm đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước đoàn kết lại. Điều này cần thiết phải có Hiệp hội của từng ngành kinh doanh. Vai trò của Hiệp hội này là cung cấp thông tin về thị trường, tư vấn pháp luật và giải đáp thắc mắc cho các thành viên. Đồng thời, Hiệp hội sẽ là người đại diên doanh nghiệp nói lên nguyện vọng cuả họ cho cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, hiện nay có rất ít những Hiệp hội như thế do tâm lí làm ăn manh múng, chụp giựt của doanh nghiệp trong nước. Do đó, trước tiên, các doanh nghiệp trong nước cần ý thức được tình thế hiện nay và thay đổi cách hoạt động của mình. Gia tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước hướng về xuất khẩu với các mặt hàng xuất khẩu nổi tiếng như dệt may, gạo, cà phê… Tuy nhiên, giá trị tăng thêm khi xuất khẩu các mặt hàng này lại không cao. Có ít nhất hai nguyên nhân cho vấn đề này. Thứ nhất, cơ sở hạ tầng, công nghệ còn yếu kém, khả năng dự báo hạn chế và khâu nghiên cứu thị trường chưa được coi trọng. Điển hình cho trường hợp này là gạo Việt Nam. Dù là nước xuất khẩu gạo lớn trong khu vực, nhưng vẫn còn một số điều còn bất cập như quy mô sản xuất nhỏ lẻ, tự phát, quy trình thu mua, vận chuyển lạc hậu…gây ra thất thoát và giảm chất lượng gạo. Để có thể cải thiện tình hình, cần có chiến lược phát triển lâu dài, nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện tại và thực hiện nghiên cứu thị trường. Nguyên nhân thứ hai, các doanh nghiệp Việt Việt Nam chưa thật sự tham gia vào chuỗi gia trị toàn cầu và mạng lưới phân phối toàn cầu. Theo GS. TS Đoàn Thị Hồng Vân phát biểu trong hội thảo “Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu” rằng các doanh nghiệp Việt Nam (FDI) đang ở trình độ lắp ráp- công đoạn thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, để nâng cao giá trị xuất khẩu, ta cần tiến hành tham gia vào các công đoạn cao hơn, thâm nhập ngày càng sâu vào trong chuỗi giá trị. Đây là một giải pháp mới lạ và khả thi. Điều quan trọng là các doanh nghiệp cũng cần nâng cao khả năng hơn nữa về công nghệ, con người (nhân công vả quản lí), tài chính đề có thể tiến sâu vào trong chuỗi này. Xuất khẩu bằng giá CIF, nhập khẩu bằng giá FOB Một giải pháp liên quan nhiều nhất tới Logistics và Bảo hiểm: Xuất khẩu giá CIF (Cost Insurance Freight) và nhập khẩu giá FOB (Free On Board), điều mà hiện tại đang được thương nhân Việt Nam làm hoàn toàn ngược lại. Theo tính toán năm 2007 thì nếu chúng ta đã sử dụng dịch vụ Logistics và Bảo hiểm trong nước và xuất khẩu trong điều kiện CIF, chúng ta có thể tiết kiệm khoảng 3 tỷ USD, và nếu chúng ta đã nhập khẩu trong điều kiện FOB, chúng ta có thể tiết kiệm khoảng 4 tỷ Đô la Mỹ. Vì vậy, việc xuất khẩu giá FOB, nhập khẩu giá CIF đã làm cho chúng ta bị mất một số lượng lớn ngoại tệ. Hơn nữa, khi chúng ta xuất khẩu giá FOB, nhập khẩu giá CIF, chúng ta không có quyền giao hàng, từ đó không thể có những lợi ích từ việc chọn đường, hoặc phương tiện. Và nó cũng có ảnh hưởng xấu đến ngành công nghiệp bảo hiểm trong nước. Như chúng ta đã biết, thu nhập của các công ty bảo hiểm chủ yếu xuất phát từ bảo hiểm thương mại, và nó rất có lợi cho đất nước. Nhưng khi doanh nghiệp xuất khẩu theo giá FOB và nhập khẩu giá CIF, các quyền của bảo hiểm sẽ thuộc về thương nhân nước ngoài. Chúng ta hiện đang kinh doanh một số lượng rất lớn của hàng hóa, và như vậy có nghĩa là chúng ta đang mất đi một số tiền thật lớn phí bảo hiểm khi giao dịch trong điều kiện này. Điều này làm tổn thương nền kinh tế nước nhà. Cách thức áp dụng hình thức xuất nhập khẩu này: Thực tế, ngành hàng hải chúng ta không đủ mạnh, các công ty Logistics còn yếu kém, và thiếu các đại lý ở nước ngoài. Hơn nữa, mức cước phí vận chuyển cao, nhiều tàu cũ, và tàu chuyên dụng thì hiếm. Dù một mặt nào đó, công nghiệp hàng hải Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu của thương nhân, nhưng trên thực tế, hiên nay đã có 36 công ty vận chuyển và đại lý tại Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp nên tìm thêm thông tin về những công ty này và tạo dựng mối quan hệ tốt để so sánh và lựa chọn đối tác phù hợp nhất. Uy tín của ngành công nghiệp bảo hiểm trong nước khá thấp. Nguyên nhân là do trong một thời gian dài chỉ có một công ty bảo hiểm tại Việt Nam. Vì vậy, rất nhiều yêu cầu bảo hiểm đã được giải quyết từ từ, và Doanh nghiệp đã phải mất rất nhiều thời gian cho công tác bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu. Nhưng bây giờ đã có nhiều thông tin hơn về công ty bảo hiểm, và dịch vụ bảo hiểm tại Việt Nam ngày càng uy tín. Các doanh nghiệp có thể xem xét Công ty bảo hiểm Bảo Việt,  Công ty Bảo Minh, Công ty PTI, PJICO, Công ty Bảo Long, vv. Hiện nay, chúng ta thiếu sự phối hợp giữa doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp vận chuyển, và công ty bảo hiểm. Đó là lý do tại sao doanh nghiệp xuất nhập khẩu tiếp tục xuất khẩu trong điều kiện FOB và không bao giờ quan tâm đến thu nhập của doanh nghiệp vận chuyển  nước nhà. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp xuất nhập khẩu phối hợp với các công ty vận tải và bảo hiểm khi xuất khẩu giá CIF, nhập khẩu giá FOB. Doanh nghiệp Việt Nam thường ít vốn, họ thường phải vay ngân hàng khi kinh doanh, vì vậy mà không đủ tiền để thuê tàu hoặc mua bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, họ có thể sử dụng thư tín dụng (L/C) để được vay ngân hàng nhiều hơn khi xuất khẩu trong điều kiện CIF. Và họ cũng phải trả ít hơn cho tài khoản ký quỹ phát hành L/C khi nhập khẩu trong điều kiện FOB. Trong nhiều thương vụ, các doanh nghiệp nước ngoài thật sự khéo léo hơn chúng ta khi đàm phán. Vì vậy, họ có thể lấy được quyền vận tải khi thực hiện xuất nhập khẩu với Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước nhà cần đào tạo nhiều hơn về kỹ năng đàm phán cho nhân viên để có được quyền vận chuyển. Ngoài ra, một phần khiến các doanh nghiệp đang xuất FOB, nhập CIF là vì lo sợ rủi ro và trách nhiệm khi phải xuất CIF, nhập FOB, vì vậy các doanh nghiệp cũng phải nghiên cứu và  cập nhật kiến ​​thức về vận tải và bảo hiểm nhiều hơn nữa, từ đó dũng cảm sử dụng cách thức xuất nhập khẩu này vì một nguồn lợi lớn hơn cho bản thân doanh nghiệp và cả cho đất nước. Nói chung, việc xây dựng một cơ sở hạ tầng tốt và vững chắc nhất cho Xuất Nhập khẩu Việt Nam là cả một quãng đường dài, một giải pháp dài hạn và gặp nhiều khó khăn. Nhưng nó sẽ là tiền đề cho những lần xuất nhập khẩu sau này được dễ dàng hơn. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tin vào doanh nghiệp vận tải trong nước và công ty bảo hiểm, đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhau. Hơn nữa, doanh nghiệp cần phải được chuẩn bị tốt khi đàm phán với các đối tác nước ngoài để tránh bất lợi. Chúng ta cần phải thay đổi hình thức xuất nhập khẩu thành xuất CIF, nhập FOB để phần nào giúp nền kinh tế của Việt Nam giảm nhập siêu. Phát triển du lịch – ngành “xuất khẩu tại chỗ”: Hội đồng lữ hành và du lịch thế giới (WTTC) đưa ra những con số đánh giá về du lịch Việt Nam trong năm 2010 như sau:  Việt Nam đứng thứ 12/181 quốc gia tăng trưởng du lịch dài hạn. Theo đó, đóng góp trực tiếp của du lịch Việt Nam năm 2010 vào GDP là 73.800 tỷ đồng (tương đương gần 4 tỷ USD), chiếm 3,9% GDP; lao động trực tiếp tham gia vào lĩnh vực du lịch là 1.397.000 người, khoảng 3% tổng số lao động toàn quốc. Tuy nhiên, các con số gián tiếp (khá chính xác vì tính theo tài khoản vệ tinh) cao hơn rất nhiều. Ngành du lịch đóng góp gián tiếp tới hơn 231.200 tỷ đồng vào GDP (tương đương 12,5 tỷ USD), khoảng 12,4% GDP; có 4.539.000 người hoạt động gián tiếp trong lĩnh vực du lịch, chiếm 9,9% tổng lao động toàn quốc. Năm 2020, dự kiến đóng góp gián tiếp của ngành Du lịch sẽ là 738.600 tỷ đồng (tương đương 32,658 tỷ USD), khoảng 13,1% GDP; có 5.651.000 công ăn việc làm gián tiếp trong du lịch, chiếm 10,4% tổng số việc làm.  Giá trị tăng trưởng của du lịch là 3,4% năm 2010 và sẽ tăng lên 7,3%/năm trong 10 năm tới.  Thu nhập du lịch nhờ xuất khẩu tại chỗ từ khách quốc tế và hàng hóa du lịch dự kiến tạo ra 84.700 tỷ đồng (tương đương 4,58 tỷ USD), chiếm 6,7% tổng xuất khẩu cả nước trong năm 2010. Năm 2020 sẽ đạt 285.300 tỷ đồng (tương đương 12,6 tỷ USD), chiếm 7,3% tổng xuất khẩu cả nước.  Đầu tư du lịch trong năm nay ước tính 62.900 tỷ đồng, chiếm khoảng 10,2% tổng mức đầu tư cả nước.  Đến năm 2020 vốn đầu tư cho du lịch sẽ đạt 195.600 tỷ đồng, chiếm 10,3% tổng mức đầu tư.  Theo những con số trên thì mục tiêu dự kiến năm 2020 đạt 15,900 tỷ USD doanh thu từ du lịch, đóng góp 6% vào tổng GDP, thu hút 752.300 lao động trực tiếp trong lĩnh vực du lịch mà Tổng cục Du lịch đưa ra là quá khiêm tốn.  Trong tổng số 181 quốc gia, vùng lãnh thổ được WTTC nghiên cứu, ước tính thì du lịch Việt Nam đứng thứ 47 trên thế giới về phát triển tổng thể, đứng thứ 54 vì những đóng góp cho nền kinh tế quốc gia và đứng thứ 12 trong sự tăng trưởng dài hạn (trong vòng 10 năm tới). Có thể nói, du lịch là ngành thu ngoại tệ hiệu quả nhất. Trong khi lượng và kim ngạch xuất khẩu dầu thô đang có xu hướng giảm mạnh; các ngành dệt may, da giày chủ yếu là gia công, tỷ lệ nguyên liệu nhập khẩu cao; thủy sản phụ thuộc vào thức ăn nhập khẩu lớn, ngược lại, phần giá trị gia tăng trong sản phẩm du lịch lại khá lớn. Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, GS. Nguyễn Quang Thái tính toán, thu nhập du lịch trực tiếp khoảng 4 tỷ USD, nhưng nếu tính cả thu nhập mà ngành du lịch gián tiếp đem lại cho các ngành như vận tải, văn hóa, thương mại, bưu chính viễn thông, tư vấn, bảo hiểm, ngân hàng… dự kiến lên tới trên 6 tỷ USD, tương đương 6,5-7% GDP. Trên thực tế, tiềm năng phát triển du lịch Việt Nam cũng đã thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài. TS. Phạm Trung Lương cho biết, từ năm 2001 đến hết tháng 7/2008, cả nước có 250 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch được cấp phép với tổng vốn đăng ký đạt 4,466 tỷ USD, chiếm 3,96% về số dự án và 15% về vốn đăng ký trong tổng đầu tư FDI chung cả nước. Sau giai đoạn này, vốn FDI vào lĩnh vực du lịch tăng mạnh. Riêng năm 2009, thu hút đầu tư nước ngoài vào du lịch đã đạt 8,8 tỷ USD trên tổng số 22,48 tỷ USD vốn FDI đăng ký vào Việt Nam, chiếm 41%, Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Tuấn đưa thêm thông tin. Sau giai đoạn này, vốn FDI vào lĩnh vực du lịch tăng mạnh. Riêng năm 2009, thu hút đầu tư nước ngoài vào du lịch đã đạt 8,8 tỷ USD trên tổng số 22,48 tỷ USD vốn FDI đăng ký vào Việt Nam, chiếm 41%, Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Tuấn đưa thêm thông tin. Cho đến năm 2009, ngành du lịch tạo ra khoảng 450 nghìn lao động trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp. Phát triển du lịch cũng góp phần thúc đẩy phát triển nhiều ngành kinh tế liên quan như hàng không, xây dựng, thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp… Đáng lưu ý, du lịch Việt Nam hoàn toàn có cơ hội duy trì tăng trưởng cao trong giai đoạn tới. Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) dự báo, sau khi thoát khỏi khủng hoảng, ngành “công nghiệp không khói” thế giới sẽ phục hồi mạnh trong năm 2010, tăng khoảng 3-4%, trong đó châu Á - Thái Bình Dương và Trung Đông là hai khu vực có tốc độ tăng trưởng cao. Cũng theo tổ chức này, đến hết quý 1/2010, khách du lịch quốc tế trên toàn cầu tăng 2% sau 14 tháng suy giảm, trong đó châu Á - Thái Bình Dương tăng trưởng mạnh nhất, đạt 10%. Việt Nam nằm trong số 5 nước tăng trưởng khách du lịch đứng đầu thế giới, tăng 36%, đứng đầu khu vực Đông Nam Á, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Văn Tuấn chia sẻ. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của ngành du lịch VN vẫn còn thấp. Mặc dù đạt được mức tăng trưởng cao trong một thời gian dài, năng lực cạnh tranh thấp vẫn là quan ngại lớn của ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn các nước trong khu vực ngày càng quan tâm đưa ngành kinh tế này trở thành trụ cột chính cho tăng trưởng của mình. Theo TS. Phạm Trung Lương, năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam vẫn còn ở mức thấp. Mặc dù đạt đỉnh cao về lượng khách quốc tế và thu nhập du lịch trong năm 2008, nhưng cũng năm đó, Việt Nam xếp vị trí 97 trên tổng số 113 quốc gia, vùng lãnh thổ được xếp hạng về du lịch, trong khi Singapore xếp thứ 7, Malaysia thứ 32, Thái Lan 42… Việt Nam chưa có sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao song giá cả thiếu cạnh tranh; nhiều khu, điểm du lịch phát triển tự phát, chưa được đầu tư đúng tầm; nhiều chương trình du lịch còn đơn điệu, trùng lắp, chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách; dịch vụ du lịch chưa đa dạng, chất lượng thấp, ít hấp dẫn…, TS. Lương khái quát lại những điểm yếu cần khắc phục của du lịch Việt Nam. Nhìn trên góc độ vĩ mô, TS. Trần Thị Minh Hòa (Đại học Khoa học xã hội và Tự nhiên) cho rằng các yếu tố như thuế, tỷ giá… của Việt Nam cũng là rào cản cho tăng trưởng lượng khách và thu nhập du lịch trong giai đoạn vừa qua. So sánh biểu thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng giữa Việt Nam và các đối thủ cạnh tranh trong khu vực, TS. Hòa cho rằng, mức thuế của cả hai sắc thuế này cao nhất ở Việt Nam và Indonesia.  Trong khi đó, từ nhiều năm nay, Thái Lan đã cho áp dụng hoàn thế giá trị gia tăng đối với du khách để hạ giá sản phẩm và khuyến khích các đối tượng này tăng chi tiêu. “Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thu hút khách du lịch, kích thích họ mua sắm và làm họ hài lòng”, TS. Hòa lưu ý. Cũng theo bà Hòa, suốt nhiều năm qua, Việt Nam duy trì việc định giá VND cao hơn thực tế, khiến cho khách du lịch nước ngoài bị thiệt hơn. Cho nên, trong suốt giai đoạn vừa qua, khoảng cách về lượng khách quốc tế giữa Việt Nam với 4 nước dẫn đầu khu vực là Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia luôn trong khoảng từ 2-5 lần; khoảng cách về thu nhập du lịch cùng thời kỳ luôn nằm trong khoảng từ 1,5-4 lần. Giải pháp để đưa du lịch Việt Nam trở thanh ngành kinh tế mũi nhọn: Trong phạm vi nghiên cứu hạn hẹp của đề tài, nhóm chỉ xin đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch Việt Nam trong thời gian tới: Đặt ưu tiên phát triển ngành du lịch lên hàng đầu trong những ngành kinh tế trọng điểm. Phát huy lợi thế cảnh quan sẵn có, từ đó xây dựng những chiến lược phát triển đồng bộ theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam; nâng cao thương hiệu du lịch Việt trong mắt du khách quốc tế. Kết hợp du lịch với các hoạt động văn hóa, ẩm thực của Việt Nam. Với các món ăn phong phú và đa dạng, Việt Nam có thể trở thành “Bếp ăn của thế giới” như lời của cha đẻ Marketing hiện đại – Philip Kotler. Việc quảng bá văn hóa ẩm thực cần được tiến hành một cách bài bản, có chiến lược cụ thể và quy hoạch dài hạn. Văn hóa ẩm thực của người Việt có thể là điểm khởi đầu cho việc xây dựng thương hiệu quốc gia. Và với thương hiệu là “bếp ăn” của thế giới, chúng ta sẽ có điều kiện và cơ sở chắc chắn nhất để tái cấu trúc và chuyển đổi nền kinh tế. “Bếp ăn” của thế giới có thể là một khái niệm rất rộng bắt đầu từ những món ăn truyền thống, những bí quyết và công nghệ chế biến chúng, đến các sản phẩm nông nghiệp và những chế phẩm đi kèm, đến các vật dụng phục vụ ăn uống, cách bài trí phòng ăn, các dịch vụ tư vấn về dinh dưỡng và sức khỏe... Vô số các dịch vụ và sản phẩm khác, thậm chí cả ngành sản xuất nông nghiệp có thể “ăn theo” ở đây – Theo tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng – báo Tuổi trẻ đăng ngày 19/08/2007. Thu hút kiều hối Chúng ta đã biết, nhập siêu triền miên dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. Để giảm tình trạng này, nhà nước cần một lượng ngoại tệ đủ lớn để bù đắp thâm hụt. Thiết nghĩ, thu hút kiều hối là một giải pháp có thể thực hiện được trong ngắn hạn và hiệu quả lại cao. Vụ Quản lý Ngoại hối Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho hay, lượng tiền Việt kiều gửi về nước trong năm 2010 lên tới 8 tỷ đôla (có thể bù đắp được gần 65% nhập siêu năm 2010), tăng hơn 25% so với năm 2009, và hiện cả nước có trên 3.200 dự án đầu tư của kiều bào với tổng số vốn gần 5,7 tỷ USD. Lượng ngoại tệ người Việt ở nước ngoài chuyển về Việt Nam được Ngân hàng Thế giới dự báo sẽ tăng thêm 6,2% trong năm 2011. Thống kê của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài - TP. Hồ Chí Minh, trong năm qua đã có 3.700 kiều bào ở 32 quốc gia, vùng lãnh thổ và thân nhân về nước trực tiếp tới các cơ quan hỗ trợ kiều bào để tìm hiểu về chính sách, pháp luật liên quan tới đầu tư, nhà đất, lao động và cư trú (tăng 37% so với năm 2009). Cụ thể, đã có 2.200 hồ sơ hỗ trợ hành chính, pháp lý cho kiều bào, làm cầu nối cho kiều bào liên hệ tới các cơ quan chức năng Nhà nước. Ngoài ra, cơ quan Nhà nước quản lý về người Việt Nam ở nước ngoài còn nhận được liên hệ của đông đảo các tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài tại Pháp, Bỉ, Thụy Sỹ, Anh, Hoa Kỳ, Slovakia, Canada, Nepan... bày tỏ quan tâm tới các chính sách đầu tư trong nước. Đóng góp lớn nhất của trí thức kiều bào đối với đất nước trong năm qua là các chương trình thiết kế và chế tạo thử nghiệm thành công bộ chíp vi xử lý 32 bit mang tên VN1632 (đã được Trung tâm đào tạo công nghệ thông tin và tự động hóa tại khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh nghiệm thu) và Công trình nghiên cứu về “An ninh năng lượng và biến đổi khí hậu ở Việt Nam”. Theo thống kê đến cuối năm 2010 đã có trên 2.500 doanh nghiệp kiều bào đăng ký kinh doanh tại TP. Hồ Chí Minh với tổng vốn điều lệ gần 37 ngàn tỷ đồng, với 117 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư (tổng vốn đầu tư là 275,2 triệu USD). Riêng tại khu công nghệ cao thành phố có 10 dự án của kiều bào đầu tư với tổng vốn đầu tư lên tới 158 triệu USD. Ông Lê Quốc Hùng - Tổng lãnh sự Việt Nam tại thành phố San Francisco (Mỹ) nhận xét người Việt Nam dù ở đâu, sống trong hoàn cảnh nào, dù là người lao động chân tay hay trí thức, dù rời đất nước ra đi trong hoàn cảnh nào, cũng đều có chung một điểm là luôn chăm lo, giữ gìn cốt cách, bản sắc, tâm hồn Việt, vẫn đậm đà tình nghĩa với quê hương, đất nước. Hơn nữa, Việt kiều – đặc biệt là tầng lớp trí thức là những người được đào tạo ở những môi trường tiên tiến trên thế giới. Nếu tận dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao này, chúng ta sẽ có một đội ngũ phát triển những ngành sản xuất đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao mà không cần phải thuê chuyên gia, vốn hạn chế hiểu biết về văn hóa, ngôn ngữ cũng như không có tinh thần đóng góp cho đất nước như người Việt Nam. Thiết nghĩ, chính phủ cần tận dụng nguồn lực kiều bào, trước hết là kiều hối để cải thiện cán cân thương mại, tăng nguồn ngoại tệ trong nước bằng những chính sách cụ thể. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu mà nhóm đề xuất: Tăng lãi suất huy động đô la để thu hút nguồn ngoại tệ từ kiều bào chảy vào ngân hàng. Sở dĩ lượng kiều hối năm 2010 tăng mạnh là do chính sách kiều hối trong nước thông thoáng và lãi suất huy động ngoại tệ của các ngân hàng trong nước cao hơn ở nước ngoài, khiến Việt kiều tăng lượng tiền chuyển về. Tạo điều kiện cho các dự án của Việt kiều tại Việt Nam có điều kiện giải ngân kịp thời, đặc biệt là các dự án mang tính hiệu quả cao và thiết thực. Xây dựng kênh cung cấp thông tin riêng cho Kiều bào về các chính sách của nhà nước. Tại Hội nghị tổng kết năm 2010 và triển khai công tác năm 2011 của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài (UBVNVNONN) TP. Hồ Chí Minh sáng 17-3-2010,Ông Lê Hoàng Quân- Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh phát biểu:”cần chủ động thông tin tới kiều bào những vấn đề mà kiều bào quan tâm bằng những nguồn chính thống để không chỉ bà con hiểu đúng về đất nước,  mà các thế hệ trẻ kiều bào ghi nhớ truyền thống của dân tộc luôn hướng về quê hương” Đặc biệt hơn nữa là xây dựng một môi trường đầu tư lành mạn, các chính sách thông thoáng, minh bạch. Có như thế Việt kiều mới có thể an tâm chuyển vốn về nước đầu tư. Đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” Tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2010 triển khai Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của Bộ Chính trị, Thứ trưởng Bộ Công thương Hồ Thị Kim Thoa, trưởng Ban chỉ đạo cuộc vận động (CVĐ) của Bộ Công thương đã khẳng định: “CVĐ không phải là giải pháp tình thế mà đây sẽ là chương trình không có kết thúc” để không chỉ đem thương hiệu Việt đến với người Việt mà còn để xây dựng nền tảng vững chắc cho thị trường nội địa. CVĐ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất trong nước, cho hoạt động và phát triển của doanh nghiệp Việt Nam, hướng tới việc nâng cao chất lượng và cạnh tranh của hàng Việt. Các doanh nghiệp nhận thức sâu sắc ý nghĩa của CVĐ là một “cơ hội vàng” để nâng cao uy tín thương hiệu đối với người tiêu dùng, đem lại cơ hội sản xuất kinh doanh tại thị trường nội địa. Theo khảo sát, ghi nhận của Bộ Công thương, thực hiện CVĐ, sản phẩm, hàng hóa được cải thiện đáng kể về mẫu mã, chất lượng trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại, sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế, từng bước đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, thay đổi hành vi của người tiêu dùng. Bà Hồ Thị Kim Thoa cho biết: Các doanh nghiệp chưa thật chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường và hỗ trợ xây dựng sản phẩm thương mại phát triển trên thị trường nội địa. Nhiều doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng bán hàng, đặc biệt là kỹ năng chăm sóc khách hàng, kinh nghiệm xúc tiến thương mại. Không ít doanh nghiệp không quan tâm đến thị trường nội địa, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu. Theo Vietnam+, kết quả điều tra của Tập đoàn Grey Group (Mỹ), trước đây có đến 77% người tiêu dùng VN ưa chuộng các thương hiệu nước ngoài, tức chỉ có 23% người tiêu dùng ưa chuộng các thương hiệu trong nước. Nhưng theo điều tra mới nhất, sau 1 năm phát động CVĐ NVNƯTDHVN  đã có 58% người tiêu dùng quan tâm đến hàng Việt. Cụ thể hơn, trong năm 2010, hàng Việt tiêu thụ trong hệ thống siêu thị Co.opMart tăng lên 58% so với cùng kỳ, trong khi hàng ngoại nhập chỉ tăng 22%. Tuy nhiên, để cuộc vận động thật sự trở thành một cuộc Cách mạng về thói quen tiêu dùng, cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn. Sau đây là một số đề xuất của nhóm: Thực hiện đồng bộ và quyết liệt, tạo thành một làn sóng trong người dân. Ưu tiên dành các kênh truyền thông cho quảng cáo hàng Việt. Một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao ý thức sử dụng hàng Việt cho người dân là khâu quảng bá, tiếp thị thì chúng ta lại làm chưa tốt. Người dân muốn mua hàng Việt nhưng họ lại không hề có thông tin gì về sản phẩm, trong khi ngày nào trên TV cũng phát những đoạn quảng cáo về những sản phẩm tương tự nhưng của nước ngoài sản xuất. Như vậy, khi cần mua sản phẩm ấy, điều đầu tiên người tiêu dùng nghĩ đến sẽ là sản phẩm mà mình đã được thông tin chứ không phải là một cái tên lạ hoắc ít khi được nhắc đến. Vì thế, các cơ quan báo đài cần phải phối hợp để đưa hàng Việt lên các kênh quảng bá hiệu quả. Nhưng trên hết vẫn phải đảm bảo và rà soát lại chất lượng của các mặt hàng Việt Nam, tránh gây mất uy tín cho người tiêu dùng. Doanh nghiệp Việt cần nâng cao nhận thức về uy tín chất lượng, từ đó phát huy nội lực để có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài đang tràn lan tại thị trường Việt Nam. Chính phủ nên có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước, giúp các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài. KẾT LUẬN Tuy nhập siêu ít có tác dụng kích thích nền kinh tế, nhập siêu số lượng lớn kéo dài sẽ khiến cho nền kinh tế khó phát triển ổn định và là nút thắt của nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô tại Việt Nam hiện nay. Các số liệu cho thấy tình hình nhập siêu tại Việt Nam ngày càng trầm trọng. Trong năm 2010, Việt Nam là quốc gia nhập siêu đứng thứ 41 thế giới và cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam chủ yếu nhập siêu các mặt hàng có giá trị cao như máy móc, thiết bị hay hàng tiêu dùng cao cấp từ các thị trường châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Nhập siêu ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân tác động Nhập siêu không phải là một vấn đề đơn giản, và không thể được giải quyết trong ngắn hạn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta lơ là không đánh giá đúng các rủi ro nền kinh tế có thể gặp phải do nhập siêu. Thời gian qua, Nhà nước liên tục đưa ra hàng loạt các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát, chống nhập siêu, chấp nhận điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch về tăng trưởng theo hướng hạ thấp chỉ tiêu so với trước. Những giải pháp này đã bước đầu giảm lượng nhập siêu. Tuy nhiên, về lâu dài, phải có sự phối hợp giữa chính phủ, doanh nghiệp và người dân để có thể hoàn toàn xoay chuyển được tình thế của đất nước. Trong phạm vi nghiên cứu của nhóm, nhóm đề nghị về lâu dài nhà nước nên tái cấu trúc cơ cấu nên kinh tế một cách hợp lý hơn. Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên chú trọng phát triển các ngành dịch vụ như du lịch vốn là những ngành đòi hỏi ít lượng nhập khẩu nhưng lại cho hiệu quả thu ngoại tệ cao. Ngoài ra, cũng không kém phần quan trọng đó là phải tích cực nâng cao ý thức tiêu dùng hàng Việt của người dân, từ đó giảm thiểu lượng nhu cầu nhập khẩu không cần thiết. Nếu có được sự phối hợp đồng bộ giữa chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân, Việt Nam sẽ có nhiều hy vọng thoát khỏi tình trạng nhập siêu đã gây không ít khó khăn cho nền kinh tế trong thời gian qua. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Anh Alessandria, G., 2007. Trade deficits aren't as bad as you think. Business Review, (Q1), pp.1-10. Anon., n.d. Balance of Trade. [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. Capozzi, C., 2011. What is the Competitive Advantage of Trade Surplus and Trade Deficit? [Online] Available at: [Accessed 18 May 2011]. Congressional Budget Office, 2000. Causes and Consequences of the Trade Deficit: An Overview. [Online] Available at: [Accessed 18 May 2011]. Elwell, C.K., 2008. The U.S. Trade Deficit: Causes, Consequences, and Cures. Congressional Research Service. Harvest Investment Group, Inc., 2011. Trade Deficit. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. Hoffman, M.E.S., 2005. The Exchange Rate and the Trade Deficit: What's the Relationship?. Lamond, E. & Cunningham, W., 1929. A Discourse of the Common Weal of this Realm of England. Cambridge University Press. Liew, K., Lim, K. & Hussain, H., 2003. Exchange Rate and Trade Balance Relationship: The Experience of ASEAN Countries. International Trade 0307003, EconWPA. Morici, P., 1997. The Trade Deficit: Where does it come from and What does it do? Economic Strategy Institute. Schmidt, M., 2007. In Praise of Trade Deficits. [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. Tripp, G., 2007. "Balance of Trade." Encyclopedia of Business and Finance, 2nd ed. [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. Wang, Q., 2001. Import-Reducing Effect of Trade Barriers: A Cross-Country Investigation. IMF Working Paper. IMF. Tiếng Việt Anon., 2010. Nhập siêu kéo dài: Tỷ giá hay cơ cấu kinh tế? Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Bảo, N.T., 2010. Cách nhìn khác về nhập siêu. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online. Chi, L., 2010. Vấn nạn nhập siêu từ Trung Quốc. [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. Chí, P.Đ., 2011. Câu chuyện nhập siêu: Hai nguyên nhân chính. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online. Giang, T. & Luân, T., 2011. Tìm “chìa khóa” thoát khỏi tình trạng tăng trưởng thiếu bền vững. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. Hà, N.T.T., 2011. Tiếp tục đưa cuộc vận động“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” vào chiều sâu, lan tỏa rộng. [Online] Available at: [Accessed 22 May 2011]. Hangviet.vtv, 2011. Để người Việt “ưu tiên” dùng hàng Việt. [Online] Available at: [Accessed 22 May 2011]. Liêm, H., 2010. Đau đầu với nhập siêu. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. Lương, P.T., 2007. Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù nâng cao sức cạnh tranh của Du lịch Việt Nam. Tạp chí Du lịch Việt Nam, (8/2007). Mạnh, T. & Trang, Y., 2011. Kiến nghị giảm nhập siêu để ổn định kinh tế. Báo Pháp Luật. Minh, Đ.T., 2010. Nhập siêu: đâu là nguyên nhân chính? [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. N.M, 2007. Chúng ta nhập khẩu những gì? [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. Nghĩa, N.D., 2010. 10 bất cập trong xuất khẩu. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. Nghi, T.V. & Minh, L.N., 2009. Công nghiệp phụ trợ: “đứa con không chịu lớn”. [Online] Available at: [Accessed 18 May 2011]. Phương, T.A., 2007. Về một nguyên nhân gây nhập siêu cao. Bộ Tài chính. Phương, T., 2010. Giải quyết nhập siêu: Phải chấm dứt “chở củi về rừng”. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. Quân, A., 2010. "Xuất khẩu tại chỗ" chưa được quan tâm đúng mức? [Online] Available at: [Accessed 22 May 2011]. Tâm, M., 2010. Ngành dệt may: Nhập khẩu nguyên phụ liệu nhiều sẽ mất dần lợi thế. [Online] Available at: [Accessed 18 May 2011]. Tâm, T., 2010. Nhập siêu: Bài toán cần nhiều hơn một lời giải. [Online] Available at: [Accessed 18 May 2011]. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 2011. Xây dựng công nghiệp phụ trợ - thách thức lớn. [Online] Available at: [Accessed 18 May 2011]. Tiền Phong Online, 2009. Làm gì để người Việt dùng hàng Việt? [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. Trí, N., 2011. Xuất khẩu 2011: Đòn bẩy từ chất lượng. [Online] Available at: [Accessed 19 May 2011]. Vịnh, N.D., 2010. Bàn về cải tiến cơ cấu của nền kinh tế. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (1/2010). VOVNews, 2006. Thiếu liên kết, doanh nghiệp sẽ khó đứng vững! [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNhập siêu Việt Nam- Thực trạng nguyên nhân và giải pháp.docx
Luận văn liên quan