Đề tài Nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT I. Khái niệm nợ công: · Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani ), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia ). - Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”. Cũng theo luật này: · Nợ chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. · Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. · Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. - Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người thường chỉ nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỷ đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ đô-la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công. - Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”, là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật quản lý nợ công năm 2009). Vốn vay từ ADB hay WB đương nhiên là nợ nước ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-la, chẳng hạn, dù có hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn phải tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia. - Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2830 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT Khái niệm nợ công: Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…). Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”. Cũng theo luật này: Nợ chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người thường chỉ nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỷ đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ đô-la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công. Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”, là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật quản lý nợ công năm 2009). Vốn vay từ ADB hay WB đương nhiên là nợ nước ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-la, chẳng hạn, dù có hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn phải tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia. Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế). Cách tính nợ công: Nợ công theo định nghĩa của WB và IMF là rộng hơn so với nợ nhà nước. Các tổ chức quốc tế hiện nay khuyến khích các nước tính toán và theo dõi nợ công, chứ không chỉ nợ nhà nước. Vì nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, có khu vực quốc doanh lớn. Về nguyên tắc luật pháp, trong trường hợp quốc doanh hay tư doanh đã được chấp nhận là công ty trách nhiệm hữu hạn, thì khi phá sản, người chủ sở hữu không chịu trách nhiệm gì về nợ nần của các công ty này ngoài tài sản đã góp. Thực tế khác hẳn. Thứ nhất, nhiều công ty quốc doanh không phải là công ty trách nhiệm hữu hạn. Thứ hai, dù là công ty trách nhiệm hữu hạn, về mặt chính trị, nhà nước không thể thoái thác trách nhiệm nợ. Số liệu nợ mà Bộ Tài chính Việt Nam phổ biến hiện nay là nợ nhà nước chứ không phải là nợ công. Nợ công chắc sẽ lớn hơn nhiều. Bảng 1: Nợ nhà nước năm 2009 Bảng nợ nhà nước cho thấy nợ của các nước năm 2009 (bảng 1). Bảng này cho thấy nợ của Việt Nam cao hơn tỷ lệ đưa ra, sự khác biệt có thể là phương pháp tính, nhưng con số Việt Nam đưa ra thì khá thấp (xem biểu đồ 1). Năm 2007, nợ của Nhà nước là 33,8% GDP, nhưng nợ nước ngoài (chủ yếu là nợ nhà nước) theo IMF đã là 43,3% GDP và nếu cộng thêm hơn 7% nợ của Chính phủ do phát hành trái phiếu thì tổng số nợ đã lên 50% vào năm 2007. Như vậy con số của CIA tính ở mức 52% cho năm 2009 có thể vẫn là thấp so với thực tế. Tuy nhiên, có thể nói cách tính của Việt Nam về nợ của chính phủ cũng chưa phản ánh một phần quan trọng khác: đó là nợ phải trả trong tương lai khi công chức về hưu. Phần này có thể rất lớn, thí dụ như ở Singapore nó lên tới 50% GDP. Theo nguyên tắc tính nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thì mỗi khi một công chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một phần khác, có thể bằng hoặc gấp đôi, chính phủ phải đóng vào quỹ này. Nhiều nước, không thiết lập ra quỹ này, mà đem chi hết, như thế nhà nước hàng năm cứ lấy tiền ngân sách ra chi trả và quên đi cái quỹ kia. Nguyên tắc là phải tính và cái quỹ đó chính là nợ của nhà nước với công chức (bao gồm công chức, giáo viên và nhân viên y tế trong khu vực công, quân đội, cảnh sát, và có thể cả những người làm việc cho doanh nghiệp nhà nước). Phần nhà nước đóng góp đáng lẽ phải có (dù không đóng) vẫn phải tính vào chi tiêu. Trong trường hợp dựa vào hợp đồng đã ký về hưu trí, nếu đóng góp không đủ để chi trả trong tương lai thì phải tính vào nợ. Các nước đang phát triển như Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Trong các nước châu Á thì Singapore đã ghi theo đúng chuẩn mực và vì thế tỷ lệ nợ của họ rất cao, xếp hàng thứ 6 thế giới (xem bảng 1). Hầu hết các nước phát triển trong đó có Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc. Ở EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển, khi không tính nợ hưu trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có chính sách hưu trí cho công chức không và tỷ lệ nằm trong diện công chức lớn như thế nào). Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ công có thể bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ nhà nước vì khu vực quốc doanh không đáng kể, và do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước. Các chỉ tiêu đánh giá nợ công: Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ số đánh giá phổ biến nhất cho cái nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một quốc gia, đánh giá mức an toàn của nợ công. Mức độ an toàn được thể hiện qua việc nợ công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó. Để bảo đảm an toàn của nợ công, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau làm giới hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế; không phải tỷ lệ nợ công trên GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, Hoa Kỳ có tỉ lệ nợ bằng 96% GDP, nhưng vẫn được xem là ở ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động cao nhất thế giới là cơ sở đảm bảo bền vững cho việc trả nợ. Nhật Bản có số nợ tương đương với 200 % GDP vẫn được coi là ở ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ nợ trên GDP thấp hơn rất nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ như: Venezuela năm 1981 tỷ lệ đó là 15% GDP, tương tự với Thái Lan năm 1996; trường hợp Argentina năm 2001 là 45% GDP; Ukraina năm 2007 chỉ với 13 % GDP và Rumani là 20% GDP. Mới đây là trường hợp của Hy Lạp với tỷ lệ nợ lên đến 113,5 % GDP, Ireland ước khoảng 98,5 % GDP. Chính vì vậy, để xác định, đánh giá đúng đắn mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công. Các nghiên cứu về nợ công tác động đến tăng trưởng kinh tế: Theo Modigliani (1961) thì nợ quốc gia tác động trực tiếp làm tăng lãi suất trong dài hạn, ảnh hưởng tới động cơ đầu tư của khu vực tư nhân cũng như động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng. Cụ thể khi lãi suất trái phiếu tăng, thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến giảm tiêu dùng, trong khi đó các doanh nghiệp lại hạn chế đầu tư. Mặt khác, theo Modigliani những ảnh hưởng lên dòng vốn thuộc khu vực tư sẽ làm giảm thu nhập thực của các thế hệ trong tương lai, đồng nghĩa với việc tạo gánh nặng cho các thế hệ sau này. “Nợ công và tăng  trưởng kinh tế toàn cầu” (của Manmohan S. Kumar và Jaejoon Woo) – (IMF Working paper - Public Debt and Growth, Manmohan S. Kumar and Jaejoon Woo 07-2010): Sự gia tăng nhanh chóng trong nợ công ở những quốc gia phát triển là một bằng chứng dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu. Mức độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích lũy vốn, năng lực sản xuất và làm giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất lợi, thì vấn đề bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khóa nhằm giảm các khoản nợ xuống mức bền vững hơn. Cụ thể: bình quân, một sự gia tăng 10 điểm% trong tỷ lệ nợ/GDP đầu kỳ đi kèm với một sự sụt giảm trong tăng trưởng GDP thực / người hàng năm: + Khoảng 0.2 điểm % mỗi năm đối với nhóm nước tiên tiến. + Khoảng 0.15 điểm % mỗi năm đối với nhóm nước mới nổi. Hội chứng lần này thì khác (This Time Is Different: Eight Centuries of Financial Folly Carmen M. Reinhart & Kenneth S. Rogoff, Princeton University Press, 2009). + Nợ ngắn hạn: Khi mức nợ quốc gia đang ở mức cao, chính phủ lại có xu hướng vay nợ ngắn hạn để tài trợ cho những dự án dài hạn, làm gia tăng rủi ro vỡ nợ. + Nợ tiềm ẩn: Việc các chính phủ bảo lãnh thường xuyên khoản nợ và xem như là nợ của các cơ quan chính phủ, có thể gánh chịu một rủi ro rất lớn Công trình nghiên cứu năm 2010 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ (NBER), được khảo sát trên 44 quốc gia, cho ra kết quả: + Nợ công - tăng trưởng kinh tế: quan hệ yếu. + Ngưỡng nợ 90% GDP, Tăng trưởng trung bình giảm 4%: khi tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế và làm giảm đi 4% trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. + Đặc biệt, đối với các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam thì ngưỡng nợ/GDP là 60%, tỷ lệ nợ vượt quá ngưỡng này sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 2%. Hội thảo "Tác động nợ công đối với nền kinh tế toàn cầu" – Đại học kinh tế, 11/2010): nợ công gia tăng sẽ làm tăng lãi suất dài hạn của nền kinh tế và sự bất ổn trong chính sách tiền tệ. Sự gia tăng trong tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 82 - 90% sẽ làm cho tiết kiệm của khu vực tư nhân không tồn tại. Tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 45 - 68% sẽ làm cho đầu tư công bị cắt giảm và nếu vượt trên mức 100% thì năng suất của nền kinh tế suy giảm trầm trọng. Thâm hụt ngân sách, nợ công và lãi suất trái phiếu chính phủ (Emaluele Baldacci và Manmohan S. Kumar): Tác động ngược của cán cân ngân sách lên lãi suất: Thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm, tăng tổng cầu. Từ đó, tăng cung nợ Chính phủ dẫn đến lãi suất trái phiếu tăng. Cụ thể: + 1% của sự gia tăng thâm hụt tài khóa làm cho lãi suất đáo hạn của trái phiếu dài hạn CP tăng 17 điểm cơ bản. + Một sự thâm hụt ban đầu hơn 2%GDP nâng tác động lên LS trái phiếu thêm khoảng 14 điểm cơ bản cho mỗi %GDP thâm hụt. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Theo bản đồ nợ của The Economist, p; số nợ chi tiết của Việt Nam là 50.716.438.356 USD (50,7 tỷ USD), chiếm 51,7% GDP. Điều này có nghĩa là với dân số 87,6 triệu, mỗi người Việt Nam gánh 578,65 USD nợ công. Cũng theo thống kê này, kể từ năm 2001 đến nay, số nợ trên đầu người của Việt Nam ngày càng tăng. Hồi 2001, tỷ lệ nợ công trên GDP tương đương 26,6% và nợ công đầu người chỉ là 106 USD. Dự báo cho năm 2011 khả quan hơn khi mặc dù nợ công tăng thêm gần 6 tỷ USD, nhưng tỷ lệ so với GDP giảm xuống còn 50,9%. Tuy nhiên, vào lúc đó, nợ công đầu người là 638 USD. Cơ cấu nợ công Cơ cấu nợ công tính đến cuối năm 2009 gồm: nợ Chính phủ chiếm 79,3%; nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm khoảng 3,1%. Trong nợ Chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60% (trong đó 85% là ODA); nợ trong nước chiếm 40%. Xét về thời hạn, nợ trung và dài hạn chiếm 97%; nợ ngắn hạn (tín phiếu kho bạc) chỉ chiếm 3% trong tổng số dư nợ Chính phủ. Một khối lượng vốn lớn được huy động  bổ sung cho đầu tư phát triển, cân đối ngân sách nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tổng trị giá vốn vay trong và ngoài nước giai đoạn 2001 - 2009 chiếm khoảng 26% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm, riêng vốn vay của Chính phủ chiếm khoảng 17%. Cùng với các nguồn lực khác, vốn vay đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm trong 10 năm qua. Riêng trong năm 2009, tổng số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết cho nước ta đạt khoảng 47,4 tỷ USD, đã đàm phán và ký kết các Hiệp định vay ODA và vay ưu đãi với tổng giá trị 37,5 tỷ USD và đã được giải ngân 19,5 tỷ USD, chiếm 52% so với tổng số vốn ODA đã ký vay. Đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư bằng vốn ODA chiếm khoảng 12% tổng đầu tư toàn xã hội. Tác động của nợ công đối với tăng trưởng Mức độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích luỹ vốn, năng lực sản xuất và làm giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất lợi, thì vấn đề bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khoá nhằm giảm các khoản nợ xuống mức bền vững hơn. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, về cơ cấu tổng thu của Việt Nam, thu từ dầu thô liên tục ở mức cao (trên 20%), thu từ lĩnh vực xuất nhập khẩu trên 20%, các khoản thu trong nước trên 50%. Nhưng đáng chú ý là thu từ việc bán đất đai khá cao (khoảng 8%). Có thể thấy các khoản thu này là không bền vững. Bảng 3: Thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2011 Nguồn thu chính của Chính phủ là từ thuế nhưng cơ cấu thu thuế chỉ chiếm khoảng 40% trong tổng nguồn thu. Cơ cấu tổng chi của Việt Nam cho thấy chi đầu tư phát triển luôn ở mức cao (quanh 30% tổng chi) nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp (thể hiện qua hệ số ICOR của các doanh nghiệp (DN) nhà nước cao hơn nhiều so với DN FDI và tư nhân). Mô hình tăng trưởng hiện tại của Việt Nam dựa vào nguồn vốn là chủ yếu. Mà nguồn vốn lại được sử dụng không tốt đã gây nên sự lãng phí kéo dài. Chính phủ trong thời gian qua tăng cường phát hành trái phiếu và vay mượn để đầu tư do áp lực đầu tư và chi tiêu quá cao. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa chỉ đạt khoảng 27% trên GDP, trong khi đó tỷ lệ đầu tư lại luôn trên 40%. Hệ quả dẫn tới lãi suất trái phiếu chính phủ phải ở mức cao; làm thoái lui đầu tư tư nhân; gây sự bất ổn trên thị trường vốn. Trong bảng cơ cấu nợ công của Việt Nam được công bố bởi IMF cho thấy, mức nợ nước ngoài chiếm hơn 60% so với nợ trong nước. Nợ nước ngoài cao sẽ tác động lên nợ công tăng cao bởi niềm tin mất giá tiền đồng ở Việt Nam là khá lớn. Con số về bảo lãnh nợ của Chính phủ trong thực tế có thể cao hơn nhiều. Trong ngắn hạn, tăng trưởng ở Việt Nam không mang tính bền vững. Việc giải quyết bài toán lạm phát đồng nghĩa với tăng trưởng thấp, nguồn thu để trả nợ cũng bị thu hẹp, dẫn tới vòng xoáy tiếp tục vay mượn cao hơn, gây áp lực lên nợ công. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô bất ổn và các chính sách điều hành gây mất lòng tin sẽ khiến cho tăng chi phí vốn vay, tăng áp lực nợ trên cả thị trường trong và ngoài nước. Nhìn về trung hạn và dài hạn, nguồn thu từ thuế sẽ bị ảnh hưởng mạnh bởi lộ trình cắt giảm thuế quan từ các mặt hàng xuất nhập khẩu. Nguồn thu từ dầu thô và bán đất đai, DN cũng là không ổn định và bền vững. Bước lên vị thế là một nước có thu nhập trung bình, thì các dòng vốn hỗ trợ không hoàn lại hay lãi suất thấp sẽ giảm dần và cuối cùng thay thế bằng lãi suất theo thị trường. Bên cạnh đó, nguồn chi cũng sẽ tăng lên mạnh mẽ trong thời gian tới. Nguyên nhân là do các hạng mục đầu tư cho dân sinh - xã hội tăng lên đáng kể, nhu cầu đầu tư để tăng trưởng và phát triển. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nổ ra tháng 9/2008 đang chồng chất lên vai các quốc gia gánh nặng nợ nần do họ phải đi vay để chi tiêu và cứu trợ kinh tế. Hy Lạp đứng trước nguy cơ vỡ nợ, nhiều nước trong khu vực đồng euro cũng nợ ở mức báo động. Mức nợ công của Việt Nam cũng sắp xấp xỉ ở mức nợ tối thiểu tính theo GDP đối với các thành viên thuộc khu vực euro. Theo Bảng xếp hạng nợ công của nhiều tổ chức tài chính quốc tế thì năm 2008, nợ công của Việt Nam tương đương 52,6% GDP, đứng vị trí thứ 44 về nợ công trong tổng số gần 200 nền kinh tế được xếp hạng. So với nhiều nước khác, kể cả so với những nền kinh tế hàng đầu thế giới, như Mỹ (nợ công tương đương 53% GDP), Nhật Bản (192% GDP, năm 2010 đã lên 227% GDP), Ý (115% GDP), Pháp (80% GDP), Đức (77% GDP)…, nợ công của Việt Nam có vẻ như là khá an toàn. Để phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, cũng như nhiều quốc gia khác, năm 2010 Việt Nam phải tiếp tục vay nợ để đầu tư, cho nên nợ công tiếp tục tăng mạnh lên mức 56,7% GDP. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh thì nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn và Bộ Tài chính hoàn toàn có thể kiểm soát được. Nợ công đến cuối năm 2009 của Việt Nam khoảng 44,7% GDP, trong đó nợ do Chính phủ vay là 35,4% GDP, nợ được Chính phủ bảo lãnh là 7,9% GDP và nợ của chính quyền địa phương là 1,4% GDP. Chính phủ dự kiến nợ công trong năm 2011 sẽ là 57,1% GDP. Nếu tính bình quân đầu người, thì mỗi người Việt Nam gánh 578,65 USD nợ công. Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 44,6% GDP và tổng nợ công đã vượt quá 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa tính đến nợ của các doanh nghiệp nhà nước không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề ở đây không chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nếu năm 2001, nợ công đầu người là 144 USD thì đến năm 2010 lên tới 600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 18%. Nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra những lo ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công một cách chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam. Biểu đồ 4: Nợ công thời kỳ 2006-2010 Nói như vậy để thấy rằng, nợ công của Việt nam đang tăng và mỗi công dân đều có quyền lợi và cả trách nhiệm từ các khoản vay của Nhà nước. Dẫu các chuyên gia kinh tế quốc tế cho rằng, ngưỡng nợ công hơn 50% GDP của Việt nam là có thể chấp nhận được, nhưng Việt Nam không thể chủ quan. Thực tế cho thấy ngưỡng nợ hay quy mô nợ chỉ là điều kiện cần thiết để hạn chế các nguy cơ về ngân sách có thể xảy ra. Nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng về lý thuyết mức nợ công của Việt Nam “không có vấn đề gì” nhưng Việt Nam phải tính tới “phần chìm của tảng băng”, tức là những khoản nợ ngầm, các khoản nợ ngân hàng, nợ doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo lãnh. Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam. Theo ông Alex Warren – Rodriguez, chuyên gia Kinh tế trưởng của Chương trình phát triển liên hợp quốc UNDP tại Việt Nam cho rằng nếu chỉ vào ngưỡng nợ công tính trên GDP là chưa đủ. Bởi Việt Nam chưa thể dự báo được những điều sẽ xảy ra, mà cần phải có một “thước đo chuẩn” từ các nền kinh tế khác có hoàn cảnh và điều kiện kinh tế tương tự. Dẫn ví dụ từ trường hợp của Argentina, một quốc gia dù có mức nợ công dưới 60% và ngân sách tài chính khá tốt, nhưng vẫn xảy ra khủng hoảng nợ. Điều quan trọng là phải giám sát được thực trạng kinh tế vĩ mô. Nợ công và nợ tư xuất phát từ tình hình tài chính, dựa trên tình hình kinh tế Việt Nam, thế giới. Do đó cần mở rộng cách thức suy nghĩ và hiểu về nợ và phân tích nợ. Khi đó, mới dự đoán được tình huống nợ có thể xảy ra. Ví dụ việc tăng thuế, có tác động tốt đến tài chính công hiện tại, nhưng cũng ảnh hưởng đến khả năng bền vững của tài chính công về dài hạn. Trường hợp của Argentina, trong những năm 90 của thế kỷ trước, các cơ quan của Chính phủ Argentina, họ đưa ra chính sách tài chính công rất tốt, như thâm hụt ngân sách dưới 3%, nợ công tính trên GDP dưới 60%, lạm phát thấp, và Argentina cũng là nước giàu. Tuy nhiên, mọi việc đã thay đổi chỉ trong 3 – 4 năm, rủi rõ đã xảy ra ảnh hưởng đến tài chính công của Argentina, dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ ở nước này. Một yếu tố nữa Việt Nam cần lưu ý là những tác động xấu đối với thế giới trong trường hợp rủi ro xảy ra. Câu chuyện Vinashin là một ví dụ. Hàng trăm triệu USD vốn trái phiếu quốc tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn chưa hiệu quả, sự vỡ nợ của Vinashin đã đặt ra câu hỏi về lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế với môi trường kinh doanh Việt Nam. Cuối tháng 11 vừa qua, trang web của Bloomberg dẫn các nguồn tin từ công ty tư vấn tài chính Moody có trụ sở tại Mỹ cho biết, nợ xấu của Vinashin cũng ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng Việt Nam. Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến đến hai yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được dứt điểm vấn đề nợ. Những gì Hy Lạp, Ireland đang trải qua sẽ có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào. Chủ nợ rất dễ biến thành con nợ nếu không kịp thời điều chỉnh lối “ứng xử” với công nợ và tầm nhìn trong đầu tư. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP, nhưng trên thực tế, ở nhiều nước tỷ lệ này lên đến trên 80% GDP. Việc quản lý nợ công của chính phủ: Theo Nghị định Số: 79/2010/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 07 năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 30/08/2010), Chính phủ thống nhất quản lý toàn diện nợ công thông qua bốn công cụ. Cụ thể, các công cụ đó là: Chiến lược dài hạn về nợ công; Chương trình quản lý nợ trung hạn; Kế hoạch vay và trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ; Các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Thứ nhất, chiến lược dài hạn về nợ công gồm các nội dung như đánh giá thực trạng nợ công và công tác quản lý nợ công trong giai đoạn thực hiện Chiến lược trước đó; mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công,... Căn cứ để xây dựng chiến lược dài hạn về nợ công là kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và 10 năm, các kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ cũng như các nghị quyết, quyết định về chủ trương huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ của Đảng, Nhà nước và Chính phủ,... Thứ hai, chương trình quản lý nợ trung hạn gồm các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý nợ trong giai đoạn 3 năm liền kề để thực hiện các chỉ tiêu an toàn về nợ đã được Quốc hội xác định trong mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công. Thứ ba, kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ có nội dung gồm: Kế hoạch vay trong nước (gồm kế hoạch huy động vốn cho ngân sách nhà nước và kế hoạch huy động vốn cho đầu tư phát triển); Kế hoạch vay nước ngoài, được thực hiện thông qua các hình thức huy động, gồm vay ODA, vay ưu đãi, vay thương mại và được chi tiết theo chủ nợ nước ngoài; Kế hoạch trả nợ, được chi tiết theo chủ nợ, có phân định trả nợ gốc và trả nợ lãi, trả nợ trong nước và trả nợ nước ngoài. Thứ tư là các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Các chỉ tiêu giá sát nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP), nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, nợ chính phủ so với GDP... Mối tương quan giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế Việt Nam Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến tính bền vững của nợ công tại Việt Nam: Tính bền vững của nợ công không chỉ phụ thuộc vào cán cân ngân sách mà còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác. - Đầu tiên là tốc độ tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng GDP cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng GDP chỉ do tăng các yếu tố đầu vào vật chất (vốn và lao động) mà không tăng được năng suất thì chắc chắn đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm - Mức lãi suất cao khiến việc vay mới và tài trợ nợ công trở nên đắt đỏ hơn, do vậy ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công. Mức lãi suất, đến lượt mình, lại phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ và kỳ vọng lạm phát trong nền kinh tế. Là một nền kinh tế thâm dụng đầu tư, ở Việt Nam nhu cầu tín dụng luôn luôn cao và lạm phát rất khó kiềm chế ở mức thấp. Một bằng chứng cụ thể là ngay cả khi mới chớm thoát khỏi suy giảm kinh tế thì chỉ số CPI và lãi suất ở Việt Nam đã tăng nhanh trở lại, cao hơn nhiều so với hầu hết các nền kinh tế trong khu vực. Hệ quả là khi Chính phủ đi vay bằng cách phát hành trái phiếu trong nước, lợi suất phải trả đã lên tới 11-12%. Tương tự như vậy, khi Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế, lợi suất phải trả cũng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh (như Indonesia và Philippines) do mức độ rủi ro cao hơn. - Bên cạnh đó, với việc Việt Nam gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình, các khoản vay quốc tế ưu đãi sẽ dần không còn nữa mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn nhiều. - Bên cạnh tốc độ tăng GDP, lạm phát và lãi suất, mức độ rủi ro của nợ công cũng phụ thuộc vào một số biến số vĩ mô khác, chẳng hạn như mức thâm hụt tài khoản vãng lai và dự trữ ngoại hối của quốc gia. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô bất ổn và các chính sách điều hành gây mất lòng tin sẽ khiến cho tăng chi phí vốn vay, tăng áp lực nợ trên cả thị trường trong và ngoài nước. Tác động của nợ công tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam: - Mức độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích luỹ vốn, năng lực sản xuất và làm giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất lợi, thì vấn đề bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khoá nhằm giảm các khoản nợ xuống mức bền vững hơn. - Hiện tại, tỷ lệ nợ/GDP của Việt Nam là 51,6%, nằm dưới ngưỡng cảnh báo trên, nhưng với xu hướng thâm hụt tài khóa gia tăng, việc vay nợ của Chính phủ trong một vài năm tới có thể khiến kinh tế giảm tăng trưởng. Đặc biệt, hậu quả của việc gia tăng trong tỷ lệ nợ/GDP là làm gia tăng lạm phát. Thực tế, những gói kích thích nền kinh tế của Việt Nam trong năm 2009 đã làm tăng thâm hụt ngân sách và nợ công tăng đột ngột là một nguyên nhân chính của tình hình lạm phát hiện nay. - Mô hình tăng trưởng hiện tại của Việt Nam dựa vào nguồn vốn là chủ yếu. Mà nguồn vốn lại được sử dụng không tốt đã gây nên sự lãng phí kéo dài làm tốc độ tăng trưởng chậm lại. - Chính phủ trong thời gian qua tăng cường phát hành trái phiếu và vay mượn để đầu tư do áp lực đầu tư và chi tiêu quá cao. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa chỉ đạt khoảng 27% trên GDP, trong khi đó tỷ lệ đầu tư lại luôn trên 40%. Hệ quả dẫn tới lãi suất trái phiếu chính phủ phải ở mức cao; làm thoái lui đầu tư tư nhân; gây sự bất ổn trên thị trường vốn. CHƯƠNG III: GiẢi pháp nỢ công Ở VIỆt Nam trong giai đoẠn hiỆn nay Các biện pháp quản lý nợ công Quản lý hiệu quả các khoản vay: Điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải chú ý đến hiệu quả sử dụng các khoản vay, từ đó mới bảo đảm được dòng tiền trả nợ trong tương lai. Hiện nay dường như chúng ta mới chỉ chú trọng đến khía cạnh giải ngân cho được các khoản vay, bán cho được trái phiếu, thu tiền về đã xem là thành công. Trong khi tiền đó được sử dụng như thế nào thì chưa được xem trọng. Chính vì vậy, sau khi chúng ta cần theo sát, kiểm tra việc sử dụng nợ công đúng với mục tiêu đã đề ra. Một dự án ODA chẳng hạn, cho dù thời hạn vay kéo dài đến 40 năm, thời gian ân hạn 10 năm đi nữa thì trước sau gì chúng ta cũng phải trả cho hết nợ. Dự án ODA không chỉ triển khai làm cho xong mà còn phải theo dõi xem dòng tiền nó thu về có đủ để trả nợ như cam kết trong dự án hay không. Hay một khoản vay của một tập đoàn kinh tế được Chính phủ bảo lãnh, chúng ta phải theo dõi chặt chẽ xem tiền vay có được sử dụng đúng mục đích ban đầu, tiến độ trả nợ có đúng lộ trình, hiệu quả sử dụng vốn ra sao - bởi suy cho cùng một khi đã bảo lãnh, chính ngân sách nhà nước phải đảm đương khoản nợ này nếu doanh nghiệp không có khả năng chi trả. Quy định rõ kỳ báo cáo nợ cộng: Khác biệt với các nước trên thế giới là ở chỗ pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về kỳ báo cáo nợ công. Theo Hướng dẫn quản lý nợ công của IMF (2003) cũng như Cẩm nang minh bạch tài khoá (2007) thì thông tin về nợ công phải bao quát cả trong quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Điều này là hết sức cần thiết không chỉ để đảm bảo tính hệ thống của thông tin về nợ vì nợ đồng nghĩa với nghĩa vụ trả nợ trong tương lai mà quan trọng không kém là nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra. Do đó, chính phủ cần quy định cụ thể kỳ báo cáo nợ công hằng năm. Ví dụ: Nếu thông tin về Vinashin được cung cấp đầy đủ và kịp thời, Quốc hội, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân tham gia ngay từ khi nó chưa bị lún sâu vào khủng hoảng và ngập ngụa trong nợ nần như hiện nay thì tình hình chắc chắn đã tốt đẹp hơn nhiều. Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về kiểm toán nợ công: Một vấn đề đáng lưu ý khác, Luật Quản lý nợ công Việt Nam không quy định kiểm toán các hoạt động quản lý nợ của cơ các quan được Chính phủ được giao trách nhiệm này như thông lệ trên thế giới gợi ý mà chỉ quy định kiểm toán các chương trình, dự án sử dụng vốn vay (giao cho Kiểm toán Nhà nước hoặc kiểm toán độc lập). Luật cũng không quy định trách nhiệm gì cụ thể cho Kiểm toán Nhà nước đối với nợ công. Theo chúng tôi, cần xem xét bổ sung điểm này để tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan Chính phủ, nhất là khi mà thực tiễn quản lý nợ của nước ta có phần khác với thế giới (Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về nợ Chính phủ; Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm về nợ doanh nghiệp mà một bộ phận nợ doanh nghiệp cũng là nợ công như định nghĩa của Luật Quản lý nợ công Việt Nam) Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nợ công ở Việt Nam Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng khung pháp lý: Hoàn thiện các chính sách quản lý về vốn ODA, vay ưu đãi, phát hành trái phiếu, công trái, quản lý phòng ngừa rủi ro, hoàn thiện các quy định quy trình hoạt động, phân công chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cơ quan nhà nước. Thứ hai, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay: Huy động, sử dụng vốn vay đáp ứng các mục tiêu và nguyên tắc quản lý nợ; vay cho ngân sách phải kiểm soát chặt chẽ đảm bảo bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước không quá 5% GDP; rà soát danh mục dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ, vay lại vốn vay nước ngoài và bảo lãnh; nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đấu thầu; tăng cường công tác theo dõi, giám sát và dự báo thị trường. Thứ ba, đảm bảo an toàn, bền vững nợ: Theo dõi chặt chẽ, đảm bảo thanh toán nợ đầy đủ, đúng hạn; xây dựng ngưỡng an toàn và hạn mức vay phù hợp; thu thập, báo cáo, công khai các chỉ tiêu giám sát an toàn nợ; định kỳ báo cáo Chính phủ, hoặc báo cáo đột xuất khi dự đoán có nguy cơ mất an toàn nợ; phối hợp với các cơ quan Chính phủ xây dựng các giải pháp xử lý an toàn nợ mang tính thống nhất với các mục tiêu tài khoá và tiền tệ. Thứ tư, tăng cường công tác quản lý rủi ro: Xây dựng quy chế quản lý rủi ro (trong đó, theo dõi toàn diện các loại rủi ro: tỷ giá, lãi suất, tái cấp vốn, thanh khoản, tín dụng, hoạt động; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về cách tính mức phí bảo lãnh và cho vay lại để phản ánh mức rủi ro tín dụng và thị trường của các khoản vay); xây dựng các chỉ tiêu giám sát; thực hiện linh hoạt các giao dịch xử lý rủi ro (các giao dịch phòng ngừa và phái sinh); đồng thời báo cáo đầy đủ các phân tích, đánh giá. Thứ năm, tăng cường phát triển thị trường vốn trong nước: Tăng dần một cách hợp lý tỷ trọng nợ trong nước trong danh mục nợ Chính phủ; Xây dựng chính sách, quy trình, và hệ thống cho thị trường sơ cấp và thứ cấp; Chỉ định các nhà tạo lập thị trường; Xây dựng chương trình quan hệ với các nhà đầu tư; Nghiên cứu để từng bước huy động trái phiếu trong nước theo lãi suất thị trường (xây dựng đường cong lãi suất); Tích cực thực hiện hiệu quả các giao dịch mua lại nợ, hoán đổi nợ. Thứ sáu, chuyên nghiệp hoá, hiện đại hoá bộ máy tổ chức: Hoàn thiện quy chế hoạt động; Nâng cao năng lực cán bộ; trang bị các công cụ, thiết bị hiện đại phục vụ công tác ghi chép nợ; tính toán chi phí và rủi ro; đánh giá bền vững nợ; các công cụ theo dõi cập nhật thị trường; tăng cường công tác kiểm toán nội bộ, giám sát rủi ro hoạt động, tự đánh giá công tác quản lý đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế.  Thứ bảy, tiếp tục từng bước tăng cường cập nhật và công khai minh bạch hoá thông tin đối với: Thông tin danh mục nợ công và nợ nước ngoài quốc gia; các chỉ tiêu giám sát nợ; các chiến lược nợ; các báo cáo đánh giá an toàn, bền vững nợ. Thứ tám, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế: Tăng cường quảng bá, giới thiệu trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế; tạo các kênh cập nhật thông tin về kinh tế vĩ mô, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia; tích cực cập nhật tin tức và dữ liệu thị trường từ các cổng thông tin tài chính quốc tế; học hỏi kinh nghiệm quản lý và xây dựng chính sách từ các tổ chức quốc tế có uy tín, các quốc gia thành công trong công tác quản lý nợ; nghiên cứu để từng bước cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn liên quan