Đề tài Phân tích hoạt động kinh doanh tại ngân hàng công thương Kiên Giang

PHẦN I: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Với xu thế hội nhập và cạnh tranh như hiện nay, các Ngân hàng Thương mại (NHTM) đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn tín dụng cho các ngành nghề trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế xã hội ngày càng cao. Để có nguồn vốn đủ đáp ứng cho nhu cầu ngày càng phát triển, các tổ chức tín dụng (TCTD) cần hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đồng thời cũng phải đạt được mục tiêu kinh tế cho bản thân các TCTD đó. Như vậy hiệu quả kinh doanh của các TCTD không chỉ đơn thuần là hiệu quả về kinh tế mà còn là hiệu quả về mặt xã hội, khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế vùng và đất nước. Trong tiến trình phát triển kinh tế, cùng với hệ thống ngân hàng cả nước, Ngân hàng Công thương Kiên Giang (NHCT KG) cũng góp phần vào việc cung ứng vốn cho tỉnh nhà nhằm hỗ trợ các ngành kinh tế trong tỉnh phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng cũng ngày càng sôi nổi hơn. Vì vậy, các nhà quản lý cần có phương hướng và biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đồng thời hạn chế rủi ro trong quá trình kinh doanh. Cũng như các Ngân hàng khác, NHCT Kiên Giang cũng cần phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để củng cố, phát huy, khắc phục, cải tiến quản lý. Kết quả phân tích là cơ sở để đưa ra những quyết định quản trị đúng đắn, giúp dự báo, đề phòng và hạn chế rủi ro bất định. Kết quả kinh doanh là mục tiêu của mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ kinh doanh hoàn thành hay không hoàn thành kế hoạch đều phải xem xét đánh giá, phân tích nhằm tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích kết quả kinh doanh giúp nhà lãnh đạo có được các thông tin cần thiết để ra những quyết định sửa chữa điều chỉnh kịp thời nhằm đạt mục tiêu mong muốn trong quá trình điều hành các quá trình sản xuất kinh doanh. Đây cũng chính là lý do tôi quyết định chọn đề tài: “Phân tích hoạt động kinh doanh tại NHCT Kiên Giang” để nghiên cứu. II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Trên cơ sở phân tích hoạt động kinh doanh trong ba năm gần đây giúp nhà lãnh đạo tìm ra được những biện pháp quản lý đúng đắn và kịp thời trong quá trình hoạt động kinh doanh. Do nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng là huy động vốn và cho vay, nên mục tiêu nghiên cứu hướng đến những vấn đề sau: - Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn - Tình hình thu nợ và giải quyết nợ quá hạn - Tình hình thu nhập, chi phí và lợi nhuận của Ngân hàng - Dựa vào các chỉ tiêu kinh tế tài chính đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: + Phương pháp thu thập dữ liệu: Thu thập những dữ liệu thực tế có liên quan đến việc phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong ba năm gần đây gồm: - Bảng cân đối kế toán - Kết quả hoạt động kinh doanh - Những quy định trong hoạt động của ngân hàng + Phương pháp phân tích số liệu: Phân tích các chỉ tiêu kinh tế bằng phương pháp so sánh số tương đối, tuyệt đối kết hợp dùng đồ thị để biểu diễn những chỉ tiêu. IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Do hạn chế về thời gian cũng như những kinh nghiệm thực tế, tôi không nghiên cứu phân tích chi tiết từng nghiệp vụ, hoạt động cụ thể mà chủ yếu chỉ nghiên cứu tình hình huy động vốn và cho vay của ngân hàng, đánh giá kết quả hoạt động trong ba năm gần nhất (2003, 2004, 2005) nhằm đề ra biện pháp và phương hướng hoạt động cho kỳ tiếp theo. Tuy đã rất cố gắng để hoàn thiện luận văn nhưng đề tài còn những sai sót nhất định. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô, Ban giám đốc cùng cán bộ công nhân viên trong NHCT Kiên Giang và các bạn sinh viên.

doc74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2315 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động kinh doanh tại ngân hàng công thương Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng được thể hiện một phần qua doanh số thu nợ. Năm 2004, doanh số thu nợ của Ngân hàng là 712,11 tỉ đồng, tăng 73,78 tỉ với tỉ lệ tăng là 11,4% so với năm 2003. Trong đó doanh số thu nợ ngoài quốc doanh chiếm 95%, tăng 72,37 tỉ với tỉ lệ là 12% so với năm 2003. Doanh số thu nợ khối quốc doanh cũng tăng lên 10,4 tỉ với tỉ lệ 38,8%. Đến ngày 31/12/2005 doanh số thu nợ tiếp tục tăng 92,01 tỉ so với năm 2004, chủ yếu do khối dân doanh tăng 83,99 tỉ so với năm 2004, còn khối quốc doanh tăng nhẹ 8,02 tỉ. Như vậy, tình hình thu nợ của Ngân hàng Công thương Kiên Giang đã có những bước tiến so với năm trước. Điều này chứng tỏ hoạt động của Ngân hàng ngày càng đi vào ổn định và đạt hiệu quả trong công tác thu nợ nhằm đảm bảo cho đồng vốn quay vòng nhanh, nâng cao hiệu quả hoạt động trong kỳ tiếp theo. Chi nhánh cần phát huy hơn nữa khả năng thu hồi nợ nhằm làm giảm nợ quá hạn cũng là giảm rủi ro trong kinh doanh. Nhìn chung sự gia tăng doanh số thu nợ là do Ngân hàng có chính sách thu hồi nợ đúng đắn và thẩm định tốt các dự án đầu tư, cho vay có đảm bảo thế chấp, cầm cố tài sản. Vì vậy, Ngân hàng đảm bảo các nguồn thu vững chắc để thu hồi nợ. Năm 2005, Chi nhánh đã thu hồi được những khoản nợ còn tồn đọng, thu hồi nợ đã được xử lý rủi ro và thu hồi nợ đã được Chính phủ cấp xử lý. 3. Phân tích dư nợ 3.1. Dư nợ theo thành phần kinh tế Phân theo thành phần kinh tế thì dư nợ được phân theo hai thành phần kinh tế chính gồm: quốc doanh và ngoài quốc doanh. Bảng 13: DƯ NỢ THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ Đvt: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 So sánh 2004/2003 So sánh 2005/2004 Số tiền % Số tiền % Tổng dư nợ 502 622 674,33 120,0 23,9 52,33 8,4 - Quốc doanh 38,6 45,3 49,2 6,7 17,4 3,9 8,6 - Ngoài quốc doanh 463,4 576,7 625,13 113,3 24,4 48,43 8,4 Qua bảng số liệu ta thấy thành phần kinh tế ngoài quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ. Cụ thể, năm 2003 dư nợ ngoài quốc doanh là 463,4 tỉ đồng. Năm 2004 dư nợ ngoài quốc doanh đạt 576,7 tỉ; tăng 113,3 tỉ so với năm 2003 tương đương với tỉ lệ tăng là 24,4%. Năm 2005 dư nợ ở thành phần kinh tế này tiếp tục tăng 48,43 tỉ so với năm 2004 với tỉ lệ tăng là 8,4%. Dư nợ quốc doanh năm 2003 đạt 38,6 tỉ đồng. Sang năm 2004 dư nợ này tăng 6,7 tỉ so với năm 2003 đạt 45,3 tỉ đồng. Đến năm 2005 dư nợ quốc doanh lại tăng lên 8,6% so với năm 2004 đạt 49,2 tỉ đồng. Tuy dư nợ thành phần kinh tế quốc doanh luôn gia tăng nhưng có xu hướng tăng chậm do thành phần kinh tế quốc doanh làm ăn kém hiệu quả ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, các doanh nghiệp quốc doanh có xu hướng giảm do việc cổ phần hóa doanh nghiệp theo chủ trương của Nhà nước. 3.2. Dư nợ theo thời hạn: Dư nợ qua các năm tăng giảm không ổn định. Dư nợ cho vay ngắn, trung và dài hạn của Ngân hàng được thể hiện qua bảng sau: Tổng dư nợ đến cuối năm 2004 là 622 tỉ đồng, tăng so với năm 2003 số tiền là 120 tỉ đồng, tỉ lệ tăng là 24%. Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn là 346 tỉ đồng, tăng 63,3 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 22% so với năm 2003, chiếm tỉ trọng 56% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay trung và dài hạn là 276 tỉ, tăng 56,7 tỉ đồng so với năm 2003, tỉ lệ tăng là 26% và chiếm tỉ trọng 43,69% trên tổng dư nợ. Tổng dư nợ năm 2005 là 674,33 tỉ đồng, tăng so với năm 2004 số tiền là 52,33 tỉ đồng. Trong đó: Dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2005 là 366,13 tỉ đồng, tỉ lệ tăng lên so với năm 2004 là 32,7 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 54,3% trên tổng dư nợ. Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2005 là 308,2 tỉ đồng, giảm 37,8 tỉ so với năm 2004 chiếm tỉ trọng 45,7% tổng dư nợ. Qua số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng nói chung của Chi nhánh năm 2005 là rất tốt, chủ yếu là giảm thấp dư nợ đối với cho vay ngắn hạn. Nguyên nhân dẫn đến việc giảm thấp dư nợ nêu trên là do Chi nhánh đang thực hiện chính sách lựa chọn, sàng lọc khách hàng để cho vay, thận trọng cho vay đối với ngành hải sản mặc dù đây là ngành kinh tế trọng điểm nằm trong chiến lược phát triển của tỉnh. Do ngành khai thác hải sản trong những năm gần đây gặp nhiều khó khăn như: giá dầu tăng cao, ngư trường đánh bắt ngày càng cạn kiệt, tranh chấp vùng biển lãnh hải gia tăng. Nhìn chung, ba năm qua Chi nhánh đã có nhiều đổi mới cơ cấu quản lý, chú trọng công tác tăng trưởng tín dụng, tăng cường công tác tiếp thị, thường xuyên áp dụng chính sách ưu đãi, linh động và tăng cường mối quan hệ uy tín với khách hàng. Nhưng do việc cạnh tranh, Ngân hàng ngày càng gia tăng và diễn ra gay gắt trên địa bàn. Cụ thể, nhiều TCTD thu hút khách hàng vay vốn bằng cạnh tranh chưa lành mạnh như: hạ thấp điều kiện tín dụng, cho vay thời gian dài hơn, số tiền lớn hơn cho cùng một dự án. III. RỦI RO NỢ QUÁ HẠN 1. Tình hình nợ quá hạn: Nhìn chung hoạt động tín dụng của Ngân hàng trong thời gian qua luôn tăng trưởng, góp phần mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Song cùng với việc mở rộng tín dụng ít nhiều sẽ tiềm ẩn những rủi ro. Nợ quá hạn là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nếu không quản lý tốt các món nợ quá hạn nó sẽ trở thành các khoản nợ xấu, nợ khó có khả năng thu hồi làm giảm hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh. Nợ quá hạn của NHCT KG qua ba năm tăng, giảm không ổn định. Tình hình như sau: Bảng 15: TÌNH HÌNH NỢ QUÁ HẠN Đvt: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 So sánh 2004/2003 So sánh 2005/2004 Số tiền % Số tiền % Nợ quá hạn 22,96 8,09 23,99 (14,87) (64,8) 15,90 (197) - Ngắn hạn 4,85 1,54 1,80 (3,31) (68,2) 0,26 16,9 - Trung & dài hạn 18,11 6,55 22,19 (11,56) (63,8) 15,64 238,8 Tổng dư nợ 502 622 674,33 120 23,9 52,33 8,4 Năm 2003, Chi nhánh chịu ảnh hưởng của tình hình kinh tế trong tỉnh: các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, giá cả gia tăng… Số nợ quá hạn của Chi nhánh là rất cao: 22,96 tỷ đồng. Trong đó: Nợ quá hạn ngắn hạn là 4,85 tỷ, chiếm 21% nợ quá hạn, nợ quá hạn trung hạn là 18,11 tỷ, chiếm 79% nợ quá hạn. Cũng trong năm này nợ quá hạn chiếm 4,57% tổng dư nợ. Sang năm 2004 số dư nợ có sự sụt giảm còn 8,09 tỷ đồng, giảm 14,87 tỉ tương đương với tỷ lệ giảm là 64,8% so với năm 2003. Do năm 2004 Chi nhánh đã thu hồi được các món nợ tồn đọng và xử lý rủi ro các món nợ quá hạn. Cụ thể, năm 2004 nợ quá hạn bão số 5 được NHCT Việt Nam cho xử lý rủi ro 50% dư nợ, số còn lại chờ nguồn của Chính phủ xử lý. Hơn nữa, Ngân hàng kiên quyết sử dụng biện pháp tích cực để thu hồi nợ như thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ, phạt chậm trả…nên làm cho nợ quá hạn năm 2004 giảm mạnh so với năm 2003. Năm 2005, nợ quá hạn là 23,99 tỷ đồng, tiếp tục tăng mạnh so với năm 2004 là 15,90 tỷ. Trong đó nợ quá hạn ngắn hạn là 1,80 tỷ, còn nợ quá hạn trung hạn là 22,19 chiếm 92,5% nợ quá hạn. Nguyên nhân là do sự biến động của giá cả thị trường theo hướng leo thang, đặc biệt là giá cả nhiên vật liệu đã làm cho các ngành nghề giảm hiệu quả kinh doanh thậm chí thua lỗ nên đã không đảm bảo chi trả đúng thời hạn dẫn đến nợ quá hạn của Ngân hàng tăng mạnh. Trong đó đáng chú ý là nợ quá hạn của Công ty Chế biến Thực phẩm Xuất khẩu là 52.028 triệu đồng (gồm VND và ngoại tệ quy VND). Chi nhánh đã xử lý rủi ro của Công ty này là 35.087 triệu đồng. Kết quả phân tích trên cho thấy cho vay trung và dài hạn chứa đựng nhiều rủi ro về khả năng thanh toán, do cho vay thời gian kéo dài trong khi đó tình hình kinh tế luôn có những biến động bất ngờ. Vì vậy, trong năm 2006, Chi nhánh sẽ thực hiện kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ đặc biệt là các khoản nợ trung và dài hạn để khống chế mức gia tăng nợ quá hạn mới, đồng thời chỉ đạo Cán bộ nghiệp vụ và các Bộ phận liên quan khác xử lý, giảm sát và đôn đốc thu hồi nợ quá hạn cũ. Mục tiêu giảm 8.000 triệu đồng nợ nhóm 5 so với kết quả thực hiện năm 2005. Từ sự phân tích trên cho thấy nếu không quản lý tốt các khoản nợ quá hạn thì nợ quá hạn sẽ trở thành các khoản nợ khó đòi. Đó là các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày. Lúc này khoản nợ quá hạn đã bộc lộ rõ về khoản cho vay rủi ro. 2. Tình hình quản lý rủi ro của Chi nhánh: Nhằm quản lý rủi ro Ngân hàng đã tiến hành những nghiệp vụ sau: Thành lập Hội đồng tín dụng để xem xét đánh giá những món vay từ 50 triệu trở lên. Thực tế cho thấy các thành viên trong Hội đồng đã có nhiều ý kiến hữu ích khác nhau để thấy rõ những khó khăn trong hồ sơ pháp lý, giá trị tài sản cũng như nhiều yếu tố khác bổ ích cho việc hạn chế những rủi ro đến mức thấp nhất. Tranh thủ sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, khu phố, phường, xã… trong việc thu thông tin ban đầu về khách hàng vay vốn, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý tài sản sau này nếu khách hàng không trả được nợ. Tiến hành kiểm tra, giám sát thực tế hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở tìm hiểu để tư vấn cho khách hàng. Đây là vấn đề mang tính chất phòng ngừa từ xa bảo đảm khi có vấn đề xảy ra thì Chi nhánh sẽ có biện pháp xử lý kịp thời. Tham gia vào mạng lưới CIC (Credit Information Center - mạng lưới thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng) của Ngân hàng Nhà nước nhằm thu thập những thông tin cần thiết khi có nhu cầu thường xuyên và đột xuất. Tất cả các khách hàng trước khi vay đều được Chi nhánh điều tra thông tin dư nợ từ các Ngân hàng khác qua mạng lưới CIC, điều đó có thể tránh được sự cho vay trùng lắp. Tuy nhiên, hiện nay công tác CIC có thể nói là chưa đạt yêu cầu để đáp ứng với yêu cầu thực tế, việc cung cấp thông tin tín dụng từ CIC của Ngân hàng Nhà nước rất chậm. Việc xử lý tài sản khi khách hàng không trả được nợ đã được Chi nhánh giải quyết thỏa đáng. Do đó, Ngân hàng đã giảm nợ quá hạn, tránh tồn đọng vốn. IV. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG: Hiệu quả tín dụng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu: hệ số thu nợ, vòng quay vốn tín dụng, nợ quá hạn trên tổng dư nợ. 1. Hệ số thu nợ: Hệ số thu nợ là tỉ lệ giữa doanh số thu nợ và doanh số cho vay. Hệ số thu nợ này phản ánh trong cùng một thời kỳ một động cho vay ra thì có khả năng thu hồi về được bao nhiêu đồng. Hệ số thu nợ bằng một là lý tưởng. Bảng 16: HỆ SỐ THU NỢ Đvt: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Doanh số thu nợ 639,33 712,11 804,12 Doanh số cho vay 645,33 832,11 856,45 Hệ số thu nợ (%) 99,0 85,6 93,9 Từ bảng ta thấy hệ số thu nợ qua ba năm tăng, giảm không ổn định. Năm 2003 là 99%; năm 2004 giảm xuống còn 85,6% và năm 2005 lại có sự tăng lên là 93,9%. Nguyên nhân dẫn đến hệ số thu nợ có sự bất ổn trên là do tốc độ tăng doanh số thu nợ và tốc độ tăng doanh số cho vay là chưa tương xứng với nhau qua từng thời kỳ nhất định. Trong năm 2004, Doanh số thu nợ tăng 11,4% trong khi doanh số cho vay tăng 28,9% so với năm 2003. Vì vậy, hệ số thu nợ giảm 13,4% so với năm 2003. Đến năm 2005, doanh số thu nợ tăng 12,9% thì doanh số cho vay chỉ tăng 2,9% so với năm 2004. Điều này làm cho hệ số thu nợ tăng 8,3% so với năm 2004. Trên cơ sở kết quả của ba năm 2003, năm 2004, năm 2005 ta thấy NHCT KG cần hoàn thiện chính sách thu nợ để hệ số thu nợ có sự cải thiện tích cực đồng thời cũng để nâng cao hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 2. Vòng quay vốn tín dụng: Là tỷ số giữa doanh số thu nợ trên dư nợ bình quân. Vòng quay vốn tín dụng thể hiện hiệu quả sử dụng đồng vốn cho vay, chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng, cho biết số vốn đầu tư được quay nhanh hay chậm trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Bảng 17: VÒNG QUAY VỐN TÍN DỤNG Đvt: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Doanh số thu nợ 639,33 712,11 804,12 Dư nợ bình quân 499,40 560,72 648,48 Vòng quay vốn (lần) 1,28 1,27 1,24 Vòng quay vốn tín dụng có sự ổn định và luôn đạt tiêu chuẩn đặt ra của Chi nhánh là trên 1 vòng. Năm 2003 là 1,28 lần; Năm 2004 là 1,27 lần, giảm 0,01 lần so với năm 2003. Sang năm 2005 là 1,24 lần giảm 0,03 lần so với năm 2004. Tuy sự sụt giảm của vòng quay vốn tín dụng là không đáng kể nhưng ít, nhiều cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng, làm giảm khả năng luân chuyển vôn, đáp ứng chậm nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế. Nguyên nhân là do tốc độ tăng doanh số thu nợ còn ở mức thấp, tình hình vay vốn ngày càng gia tăng nên dẫn đến đồng vốn quay vòng chậm. Ngân hàng cần có biện pháp nhằm làm cho khả năng sinh lời từ đồng vốn đầu tư sẽ nhanh và cao hơn, tạo điều kiện cho việc tăng lợi nhuận của Ngân hàng. 3. Tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ phản ánh hiệu quả chất lượng tín dụng tại Chi nhánh. Nếu hiệu quả hoạt động tín dụng tốt thì tỷ lệ này sẽ thấp và ngược lại tỷ lệ này cao thì chất lượng tín dụng là không tốt. Bảng 18: NỢ QUÁ HẠN TRÊN TỔNG DƯ NỢ Đvt: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Nợ quá hạn 22,96 8,09 23,99 Tổng dư nợ 502 622 674,33 Nợ quá hạn/tổng dư nợ 4,57 1,30 3,55 Tỷ lệ nợ quá hạn có sự sụt giảm vào năm 2004 so với năm 2003 là 3,27%. Đây là dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng được nâng cao. Nguyên nhân là do nợ quá hạn bão số 5 được Ngân hàng Công Thương Việt Nam cho xử lý rủi ro 50% dư nợ. Đến năm 2005, nợ quá hạn trên tổng dư nợ lại có sự gia tăng so với năm 2004 là 2,25%. Điều này cho thấy chất lượng tín dụng có xu hướng xấu đi. Tình trạng nợ quá hạn của năm 2005 có xu hướng xấu đi là do nợ quá hạn của Công ty Chế biến Thực phẩm Xuất khẩu Kiên Giang, đây là khoản cho vay theo dự án nước dưa cô đặc xuất khẩu đã mất khả năng thanh toán từ nhiều năm trước nhưng Công ty không có biện pháp khắc phục lỗ. Vì vậy, Ngân hàng cần có biện pháp nhằm làm tăng chất lượng tín dụng. Muốn như vậy Ngân hàng cần phải thường xuyên giảm sát các khoản vay theo từng đối tượng, cán bộ tín dụng cần nắm rõ tình hình tổng thể của các doanh nghiệp để có biện pháp thu hồi nợ đúng đắn và cho vay một cách hợp lý nhất. V. PHÂN TÍCH THU NHẬP, CHI PHÍ, LỢI NHUẬN: Nâng cao thu nhập, giảm thiểu chi phí kéo theo sự gia tăng lợi nhuận là kỳ vọng cuối cùng của bất kỳ đơn vị kinh doanh nào. Lợi nhuận là nguồn tạo vốn kinh doanh bổ sung và duy trì hoặc cải tiến thanh danh cho Ngân hàng, là đòn bẩy quan trọng khuyến khích cán bộ, nhân viên và Ban lãnh đạo phải nổ lực hơn nữa để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Sau đây chúng ta sẽ đi vào phân tích tình hình thu, chi, lợi nhuận của ngân hàng. 1. Phân tích thu nhập: Thu nhập của Ngân hàng là toàn bộ khoản tiền thu được từ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng như thu từ lãi cho vay, thu từ lãi tiền gửi, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối, cung cấp dịch vụ… Thu nhập của Ngân hàng ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003 thu nhập của Ngân hàng gần 25 tỉ. Sang đến năm 2004 tổng thu nhập tăng lên 39 tỉ, tăng 14 tỉ so với năm 2003 với tỉ lệ tăng là 57%. Đến năm 2005 thu nhập tiếp tục tăng lên 75%, cao hơn năm 2004 là 29 tỉ đồng. Có thể nói hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đang có những tiến triển tích cực, góp phần vào sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà. 1.1. Thu từ lãi: 1.1.1. Thu từ lãi cho vay: Đây là khoản thu chính của Ngân hàng, chiếm 89% tổng thu nhập. Tình hình thu từ lãi cho vay cũng có sự gia tăng về số lượng. Năm 2004, thu từ lãi cho vay là 33 tỉ, tăng 13 tỉ với tỉ lệ tăng là 65,8% so với năm 2003. Tính đến ngày 31/12/2005 thu từ lãi cho vay trên 58 tỉ, tăng 25 tỉ so với năm 2004, tỉ lệ tăng là 75,6%. Với tình hình thu nhập như trên, khẳng định Ngân hàng đang có những bước phát triển ổn định tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong việc gia tăng cho vay nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế. Bên cạnh việc tăng thu về số lượng Ngân hàng đang phấn đấu để có những khoản thu đạt chất lượng nhằm tạo ra những bước đi vững chắc. Tăng cường cho vay các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và uy tín, hạn chế cho vay các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhằm đảm bảo nguồn thu đúng kỳ hạn, tránh tình trạng nợ quá hạn kéo dài gây khó khăn cho việc kinh doanh. 1.1.2. Thu từ lãi tiền gửi: Đây là khoản thu do Ngân hàng gửi tiền vào các tổ chức tín dụng khác hoặc Ngân hàng Trung ương. Khoản thu này chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng thu nhập và cũng có xu hướng gia tăng. Năm 2003, thu từ tiền gửi là 1,120 tỉ đồng, chiếm 4,5% tổng nguồn thu. Sang năm 2004, thu từ lãi tiền gửi tăng 15% so với năm 2003. Bước qua năm 2005, nguồn thu này lại tiếp tục gia tăng nhưng chỉ chiếm 2% trong tổng nguồn thu, đạt 1,337 tỉ, tăng 490 triệu so với năm 2004với tỉ lệ 38%. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do Chi nhánh đã tăng cường lượng tiền gửi nhằm bảo đảm cho các hoạt động thanh toán, phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng về hoạt động chi trả của Ngân hàng. 1.2. Thu khác ngoài lãi: Khoản thu này tuy chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn thu nhưng đã có sự gia tăng đáng kể, góp phần vào việc tăng tổng thu nhập. Các khoản thu này bao gồm: thu từ dịch vụ thanh toán, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và các khoản thu khác. Năm 2003, thu ngoài lãi chiếm 15,3% tổng thu, đạt 3,815 tỉ. Đến năm 2004 thu ngoài lãi đạt 4,701 tỉ đồng, tăng 23,2% so với năm 2003 nhưng tỉ trọng nguồn thu này lại giảm xuống còn 12%. Năm 2005 khoản thu này là 8,752 tỉ, tăng 4,061 tỉ so với năm 2004 với tỉ lệ tăng là 86,4%. Trong năm 2003, hoạt động dịch vụ của Chi nhánh có mở rộng về quy mô, số lượng, chất lượng dịch vụ song vẫn chưa có bước đột phá, chưa khai thác hết nhu cầu và tiềm năng của khách hàng. Nguyên nhân chủ yếu là do Chi nhánh chưa thực sự gắn kết việc phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ với công tác tín dụng, mở rộng khách hàng và huy động. Đến năm 2004, Chi nhánh đã tích cực duy trì và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ truyền thống, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng, tăng thêm tiện ích cho khách hàng. Từng bước đổi mới trang thiết bị và công nghệ, tin học phục vụ cho chương trình hiện đại hoá nên thu dịch vụ tăng được 144 triệu đồng. Đặc biệt trong năm 2005 Chi nhánh đã triển khai thêm dịch vụ mới là dịch vụ rút tiền mặt qua máy rút tiền tự động nên đã góp phần giúp thu dịch vụ tăng mạnh từ 1.325 triệu đồng năm 2004 lên 2.165 triệu đồng năm 2005, với một lượng tuyệt đối là 840 triệu đồng, tăng đến 63% so với năm 2004. Trong tương lai thì đây là loại hình sẽ phát triển mạnh và tạo ra nguồn thu đáng kể cho Ngân hàng. Thu kinh doanh ngoại tệ cũng tăng lên đáng kể từ 1.357 triệu đồng năm 2004 lên 1.958 triệu đồng năm 2005, tăng 44,3% là do Ngân hàng luôn đảm bảo an toàn kinh doanh ngoại tệ, thực hiện đúng các quy định về kinh doanh ngoại tệ đảm bảo trạng thái ngoại hối cho phép của Ngân hàng, áp dụng các hình thức mua bán linh hoạt về tỉ giá và phương thức thanh toán. Còn các khoản thu khác như thu phí bảo lãnh, thu nợ xấu, thu bất thường từ các khoản nợ còn tồn đọng ở các năm trước cũng tăng lên tương đối, năm 2004 là 2.019 triệu đồng, tăng 91% so với năm 2003, năm 2005 là 5.639 triệu đồng, tăng 3.620 triệu đồng so với năm 2004 Nhìn chung tổng thu nhập của Ngân hàng qua ba năm đều tăng với tỉ lệ khá trong đó chủ yếu là các khoản thu từ lãi chiếm khoảng 86% tổng thu. Điều này chứng tỏ hoạt động của Ngân hàng ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên Ngân hàng cần có biện pháp để tăng thu đối với hoạt động dịch vụ và kinh doanh ngoại hối vì đây là lĩnh vực sẽ đem lại lợi nhuận cao trong tương lai. 2. Phân tích chi phí: Cùng với sự gia tăng của thu nhập và sự đa dạng hóa các hình thức cho vay, dịch vụ cung cấp cho khách hàng là sự gia tăng của chi phí. Do đó, phân tích chi phí cho biết quy mô tín dụng, chi phí nào là chính trong hoạt động của Chi nhánh, đồng thời sẽ có biện pháp tiết kiệm những chi phí không hợp lý. Tổng chi phí của Ngân hàng luôn tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2003 tổng chi là 19,8 tỉ đồng, sang năm 2004 chi phí này là 29,5 tỉ tăng 9,7 tỉ đồng với tỉ lệ là 49% so với năm 2003. Đến năm 2005, tổng chi của Ngân hàng là 55 tỉ, tăng 25,5 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 86%. Chi phí của Ngân hàng bao gồm các khoản chi trả lãi và các khoản chi khác ngoài lãi. Để có thể hiểu được sự biến động của tổng chi ta đi vào phân tích từng khoản cấu thành chi phí như sau: 2.1. Chi trả lãi: Đây là khoản chi chủ yếu của Ngân hàng. Nó chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi. Năm 2003, khoản chi trả lãi chiếm 65,7%, trong đó trả lãi tiền gửi chiếm 53,1% và trả lãi tiền vay chiếm 12,6%. Năm 2004, tổng chi trả lãi chiếm 62,5% tổng chi, trong đó chi trả lãi tiền gửi là 47% và chi lãi tiền vay là 18,5%. Năm 2005, tổng chi trả lãi chiếm 46,3% trong tổng chi, trong đó chi trả lãi tiền gửi là 30% và chi trả lãi tiền vay là 16,3%. Nhìn chung, chi trả lãi của Ngân hàng qua ba năm có sự biến động tương đối ổn định: + Năm 2003, khoản chi trả lãi là 13,05 tỉ đồng, sang năm 2004 là 18,44 tỉ đồng, tăng 5,39 tỉ với tỉ lệ tăng là 41,3% so với năm 2003. Nguyên nhân là do: - Năm 2003, các khoản chi trả lãi vay Ngân hàng từ 2,51 tỉ đồng tăng lên 5,46 tỉ đồng vào năm 2004, tăng 2,95 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 118% so với năm 2003. Khoản chi này tăng là vì Ngân hàng đã sử dụng nguồn vốn vay của NHCT Việt Nam để phục vụ cho hoạt động kinh doanh nên Ngân hàng đã làm tăng chi phí hoạt động của mình. - Tuy nhiên, cũng trong năm 2004, các khoản chi trả lãi tiền gửi của Ngân hàng lại có sự gia tăng, điều này làm góp phần làm tăng tổng chi. Cụ thể, năm 2003 khoản chi trả lãi tiền gửi này là 10,54 tỉ đồng, sang năm 2004 là 12,98 tỉ, tăng 2,44 tỉ với tỷ lệ tăng là 23,1% so với năm 2002. Việc chi trả lãi tiền gửi tăng là phù hợp khi Ngân hàng thực hiện chính sách tăng lãi suất nhằm huy động được nhiều nguồn vốn tại chỗ cho Chi nhánh đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp trong tỉnh. + Đến năm 2005, tổng chi trả lãi của Ngân hàng là 25,63 tỉ đồng, tăng 7,19 tỉ đồng so với năm 2004. Sỡ dĩ có sự gia tăng này là do: - Năm 2005, các khoản chi trả lãi tiền gửi tăng 3,56 tỉ đồng so với năm 2004. Sự gia tăng này là vì trong thời gian qua Ngân hàng đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động như: tiết kiệm dự thưởng, kỳ phiếu dự thưởng, tặng phiếu giảm giá… Khi nguồn tiền huy động trong năm gia tăng, tất yếu sẽ làm chi phí trả lãi của Ngân hàng gia tăng theo. - Thêm nữa, trong năm 2005, các khoản chi trả lãi vay là 9,09 tỉ đồng, tăng 3,63 tỉ đồng với tỷ lệ tăng 66,5% so với năm 2004. Sự gia tăng của chi phí này không phải là vì Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả mà do nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế gia tăng, để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh được ổn định Ngân hàng phải nhận vốn điều hòa từ NHCT Việt Nam. Mặc dù lượng tiền huy động có gia tăng nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Nguồn vốn vay tăng chứng tỏ quy mô tín dụng của Ngân hàng ngày càng mở rộng, là điều đáng chú ý. Tuy nhiên, với tỷ lệ tăng là khá cao, Ngân hàng cần có biện pháp để cân bằng nguồn vốn huy động và vốn kinh doanh của mình nhằm làm giảm chi phí tín dụng trong hoạt động kinh doanh cũng như góp phần nâng cao lợi thế cạnh tranh của Ngân hàng. Tóm lại: Chi trả lãi chịu tác động nhiều bởi chi trả lãi tiền gửi của khách hàng. Khoản chi này chiếm 43% tổng chi. Chi trả lãi đều tăng qua các năm phần lớn là do sự gia tăng các khoản chi trả lãi tiền gửi. 2.2. Chi ngoài lãi: Năm 2003, khoản chi này chiếm 34,3%, sang năm 2004 là 37,5% và đến năm 2005 là 53,7%. Nhìn chung nguồn chi này có tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng chi nhưng nó bao gồm nhiều khoản chi khác nhau hợp thành: chi về hoạt động thanh toán; chi thuế, phí, lệ phí; chi cho nhân viên; chi hoạt động quản lý và công cụ; chi khấu hao tài sản cố định; chi dự phòng và các khoản chi khác. Năm 2003 khoản chi này là 6,8 tỉ đồng, năm 2004 là 11 tỉ đồng, tăng 4,2 tỉ với tỉ lệ tăng là 62,5% so với năm 2003. Sang năm 2005 khoản chi này là 29,68 tỉ đồng, tăng 18,63 tỉ đồng với tỷ lệ tăng là 168,6% so với năm 2002. Nguyên nhân của sự tăng chi phí đột biến này là do Chi nhánh đã trích dự phòng rủi ro cao vào năm 2005. a. Chi về hoạt động thanh toán: Khoản chi này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi. Năm 2003, chi cho hoạt động thanh toán là 160 triệu đồng, chiếm 0,8% trong tổng chi. Sang năm 2004 khoản chi này là 540 triệu đồng, chiếm tỷ trọng là 1,8%, tăng 380 triệu so với năm năm 2003. Đến năm 2005 khoản chi này là 570 triệu đồng, chiếm 1,1%, tăng 30 triệu đồng với tỷ lệ 5,6%. b. Chi thuế, phí, lệ phí: Khoản chi này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi. Nó thường ổn định qua các năm. Năm 2003, khoản chi này là 310 triệu đồng, chiếm 1,6% trong tổng chi; sang năm 2004 khoản chi này chiếm 1,7% trong tổng chi, tăng 180 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 58% so với năn 2003. Đến năm 2005, khoản chi này là 660 triệu đồng, tăng 17 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 34,7% so với năm 2004. c. Chi cho nhân viên: Năm 2003, khoản chi này là 2,09 tỉ. Đến năm 2004 khoản chi cho nhân viên tăng lên 3,39 tỉ, tăng 1,3 tỉ , với tỉ lệ tăng là 62%. Năm 2005, chi cho nhân viên là 3,7 tỉ tăng 0,31 tỉ so với năm 2004 với tỉ lệ tăng 9%. Khoản chi này tăng khi số nhân viên trong Chi nhánh tăng. Năm 2004 Ngân hàng đã tiếp nhận thêm 9 nhân viên đáp ứng cho yêu cầu công việc. d. Chi hoạt động quản lý và công cụ: Năm 2003, khoản chi này là 1,4 tỉ chiếm 7,2% trong tổng chi. Sang năm 2004 khoản chi này là 2,3 tỉ, chiếm 7,8% tăng 0,9 tỉ với tỷ lệ tăng là 64,3% so với năm 2003. Đến năm 2005 khoản chi này tăng 2,37 tỉ với tỷ lệ tăng là 3% so với năm 2004. e. Chi hoạt động kinh doanh ngoại hối: Khoản chi này có xu hướng ổn định do hoạt động kinh doanh ngoại hối của Ngân hàng còn nhiều hạn chế. Năm 2003, khoản chi này là 1,03 tỉ chiếm 5% tổng chi. Năm 2004 là 1,06 tỉ, tăng 0,03 tỉ với tỉ lệ tăng là 3%. Năm 2005, chi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ là 1,08 tăng 0,02 tỉ với tỉ lệ tăng là 1,9%. f. Chi dự phòng: Năm 2004, chi dự phòng là 3,02 tỉ tăng 1,55 tỉ so với năm 2003. Đến năm 2005 là 21,06 tỉ, tăng 18,04 tỉ so với năm 2004. Nguyên nhân có sự gia tăng đột biến này là do Chi nhánh trích dự phòng rủi ro năm 2005 tăng. Nhìn chung chi phí của Ngân hàng có sự gia tăng qua các năm do tất cả các khoản chi đều gia tăng. Trong đó đặc biệt nổi lên là năm 2005 Chi nhánh phải trích dự phòng rủi ro là 21,06 tỉ đồng. Trong năm 2006 khoản vay 35 tỉ đồng của Công ty Cổ phần Xây dựng Giao thông Thuỷ lợi Kiên Giang dự kiến sẽ chuyển sang nợ nhóm 3 do Công ty này đang gặp khó khăn về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính do nguyên nhân khách quan thuộc ngành giao thông xây dựng. Tuy nhiên cùng với sự gia tăng chi phí thì lợi nhuận của Chi nhánh cũng tăng lên, do đó lợi nhuận vẫn được bảo đảm gia tăng. 3. Phân tích lợi nhuận: Lợi nhuận là thước đo cuối cùng trong quá trình đánh giá hoạt động của một Ngân hàng. Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá chất lượng kinh doanh của NHTM. Lợi nhuận có thể hữu hình như: tiền, tài sản... và vô hình như: uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, hoặc phần trăm thị phần ngân hàng chiếm được.... Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 So sánh 2004/2003 So sánh 2005/2004 số tiền % số tiền % Tổng thu nhập 24,97 33,52 61,29 8,55 34,0 27,77 82,9 Tổng chi phí 19,85 29,49 55,31 9,64 48,6 25,82 87,5 Thu nhập thuần 5,13 9,74 13,14 4,61 89,9 3,40 34,9 Thuế thu nhập 1,64 3,11 4,20 1,47 89,7 1,09 35,0 Thu nhập ròng 3,48 6,62 8,93 3,14 90,2 2,31 34,9 Bảng 21TỔNG HỢP TÌNH HÌNH LỢI NHUẬN Đvt: tỉ đồng Nhìn tổng thể ta thấy thu nhập ròng qua các năm của Ngân hàng có sự gia tăng Năm 2004, lợi nhuận ròng là 6,62 tỷ tăng 3,14 tỉ về số tuyệt đối, tương đương với tỉ lệ tăng là 90,2%. Sang năm 2005 lợi nhuận ròng là 8,93 tỷ, tăng 2,31 tỷ tương đương với tỷ lệ tăng là 34,9%. Sự gia tăng của thu nhập ròng chịu ảnh hưởng bởi thu nhập và chi phí của Chi nhánh. Thu nhập của Chi nhánh qua ba năm có sự gia tăng. Năm 2004 tăng 34% so với năm 2003, năm 2005 tăng 82,9% so với năm 2004. Như vậy thu nhập có sự gia tăng mạnh góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận. Thu nhập tăng là do trong năm Chi nhánh đã tăng lãi suất cho vay đồng thời thu được các khoản nợ xấu còn tồn đọng, thu từ dịch vụ có sự gia tăng đáng kể. Bên cạnh sự gia tăng về thu nhập là sự gia tăng về chi phí. Năm 2004 chi phí là 29,49 tỉ đồng, tăng 48,6% so với năm 2003. Năm 2005 chi phí tăng lên là 55,31 tỉ tương đương với tỉ lệ tăng là 87,5%. Nguyên nhân của sự gia tăng chi phí là do việc gia tăng lãi suất huy động vốn và tăng chi phí cho các biện pháp thu hút tiền gửi. Tuy lợi nhuận ròng qua các năm đều tăng nhưng điều đáng lưu ý là tốc độ tăng thu nhập luôn thấp hơn tốc độ tăng của chi phí. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng. 4. Phân tích các chỉ số đo lường lợi nhuận: Các chỉ số đo lường lợi nhuận là công cụ giúp nhà quản trị có thể dự đoán về khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai thông qua số liệu mà những báo cáo đem lại. Trong lĩnh vực Ngân hàng, nước ta chưa có những chỉ tiêu đánh giá về lợi nhuận và rủi ro bình quân một cách cụ thể nên việc đánh giá hiệu quả hoạt động thông qua các chỉ tiêu của doanh nghiệp có những hạn chế nhất định. Sau đây là các chỉ tiêu được sử dụng trong việc đánh giá lợi nhuận của Ngân hàng. 4.1. Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA): ROA của Chi nhánh được thể hiện qua bảng sau: Bảng 22: LỢI NHUẬN RÒNG TRÊN TỔNG TÀI SẢN Đvt: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 So sánh 2004/2003 2005/2004 Lợi nhuận ròng 3,48 6,62 8,93 3,14 1,35 Tổng tài sản 460 497 590,5 37 93,5 ROA (%) 0,76 1,33 1,51 0,57 0,18 Thông qua ROA giúp nhà phân tích thấy được khả năng của Ngân hàng trong việc tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng từ một đồng tài sản. Nói cách khác, chỉ số này cho nhà phân tích xác định hiệu quả kinh doanh của một đồng tài sản. ROA lớn Ngân hàng kinh doanh có hiệu quả, có cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy nhiên ROA quá lớn cũng là nỗi lo của nhà phân tích vì rủi ro luôn đi cùng với lợi nhuận cao. Năm 2003, ROA chỉ đạt 0,76% cho thấy kém hiệu quả trong việc sử dụng tài sản. Nhưng chỉ số này sang năm sau đã có sự chuyển biến tích cực. Cụ thể năm 2004, ROA tăng lên 1,33% là do năm 2004 lợi nhuận của Ngân hàng tăng mạnh, tăng 3,14 tỉ đồng so với năm 2003 nên làm cho tỉ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản gia tăng. Đến năm 2005, chỉ số này tiếp tục tăng lên đến 1,51%; tăng 0,18% so với năm 2004. Tổng tài sản của Chi nhánh qua các năm đều tăng nhưng lợi nhuận của Ngân hàng cũng không ngừng tăng mạnh, do đó ROA liên tục tăng qua các năm. Điều này chứng tỏ việc sử dụng tài sản của Ngân hàng đang đe theo chiều hướng hợp lý và có hiệu quả, đã làm tăng hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh. 4.2. Tổng chi phí trên tổng thu nhập: Chỉ số này tính toán khả năng bù đắp chi phí của một đồng thu nhập. Đây cũng là chỉ số đo lường hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Thông thường chỉ số này phải nhỏ hơn 1, nếu nó lớn hơn 1 chứng tỏ Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Bảng 23: TỔNG CHI PHÍ TRÊN TỔNG THU NHẬP Đvt: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 So sánh 2004/2003 2005/2004 Tổng chi phí 19,85 29,49 55,31 9,64 25,82 Tổng thu nhập 29,97 39,22 68,45 14,25 29,23 Tổng chi phí / tổng thu nhập (%) 66 75 80 9 5 Qua bảng phân tích ta thấy tổng chi phí trên tổng thu nhập của Chi nhánh ngày càng gia tăng. Năm 2003 là 66%, năm 2004 là 75%, năm 2005 lại tăng lên 80%. Điều này chứng tỏ tốc độ tăng của chi phí luôn lớn hơn tốc độ tăng của thu nhập nên đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của toàn Chi nhánh. Chi phí của ngân hàng phải bỏ ro ngày càng nhiều cho việc tạo được một đồng thu nhập. Để nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng cần cắt giảm tối đa các khoản chi phí như các khoản chi nội bộ, tránh lãng phí văn phòng phẩm, điện..... Tuy các khoản chi này không đáng kể nhưng nó góp phần làm giảm tốc độ tăng của chi phí trong toàn đơn vị. VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh qua ba năm được thể hiện qua việc phân tích các chỉ tiêu trên, ta có những nhận xét, đánh giá sau về kết quả kinh doanh. 1.Những thuận lợi: Trong thời gian qua hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, song do sự cố gắng của toàn thể Cán bộ, công nhân viên Ngân hàng nên hoạt động cũng đạt được những thành quả nhất định. Có thể nói Ngân hàng đã phát huy được vai trò quan trọng của một ngành huyết mạch, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội địa phương. Cụ thể là: 1.1. Về nguồn vốn: Nguồn vốn của Ngân hàng tăng trưởng tốt, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể, năm 2004 tăng 8% so với năm 2003, năm 2005 tăng 19% so với năm 2004. Trong đó, nguồn vốn huy động có sự sụt giảm và nguồn vốn nhận điều hoà từ NHCT Việt Nam tăng. 1.2. Về sử dụng vốn: Nhìn chung, Doanh số cho vay qua các năm có sự tăng trưởng ổn định. Sử dụng vốn của Chi nhánh chủ yếu là cho vay các thành phần kinh tế. Trong đó đa số là ngoài quốc doanh. Do các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả nên Chi nhánh có chính sách hạn chế cho vay thành phần kinh tế quốc doanh nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngày càng có hiệu quả cao. 1.3. Các hoạt động nghiệp vụ khác: Bên cạnh các hoạt động về huy động vốn và cho vay nền kinh tế, Ngân hàng còn thực hiện có hiệu quả các hoạt động kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ khác. Các hoạt động nghiệp vụ đều tăng trưởng đạt và vượt kế hoạch. Được thể hiện qua kết quả kinh doanh. Thu nhập từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh đều gia tăng. Năm 2005 thu dịch vụ là 1,165 tỉ đồng, tăng 112% so với kế hoạch đặt ra góp phần vào tăng lợi nhuận chung của toàn chi nhánh. Tuy nhiên, so với yêu cầu và mục tiêu, định hướng chiến lược của Ban lãnh đạo NHCT VN thì kết quả trên còn thấp. Nguyên nhân là do hầu hết các lĩnh vực có thể thu phí dịch vụ gặp khó khăn do đặc điểm kinh tế xã hội trên địa bàn, số lượng giao dịch, thanh toán thấp hơn so với các thành phố lớn. 1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh: Lợi nhuận của Ngân hàng qua các năm liên tục gia tăng. Năm 2005 lợi nhuận tăng 35% so với năm 2004. Do hệ thống NHCT VN nói chung và NHCT KG nói riêng luôn theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh trên thị trường và địa bàn để đưa ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn, thu hút khách hàng mới, duy trì quan hệ với khách hàng cũ nhưng vẫn đảm bảo có lợi nhuận. 2.Những khó khăn: 2.1. Về công tác huy động vốn: Do tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh khá mạnh nên hệ thống Ngân hàng trên địa bàn gặp phải khó khăn trong huy động vốn tại chỗ từ nền kinh tế và dân cư, vì phần lớn nguồn lực tài chính trong xã hội được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong khi nhu cầu vay vốn tín dụng của các thành phần kinh tế vượt quá khả năng của các Ngân hàng. Mặc dù Ngân hàng trong thời gian qua đã có sự thay đổi lãi suất huy động theo chiều hướng tăng lãi suất nhưng huy động vốn của Chi nhánh luôn sụt giảm. Do vậy, vốn hoạt động chủ yếu dựa vào vốn điều chuyển từ Hội sở làm cho chi phí hoạt động của Chi nhánh ngày càng tăng, ảnh hưởng đến lợi nhuận của toàn Chi nhánh. 2.2.Về các hoạt động dịch vụ: Đã có sự tăng trưởng khá về hoạt động dịch vụ. Song so với các TCTD khác trên địa bàn thì hoạt động này còn ở mức thấp. Đặc biệt là hoạt động thẻ ATM trên địa bàn chỉ có 2 máy rút tiền trong khi Ngân hàng Ngoại thương là 10 máy. 2.3. Về nợ quá hạn: Năm 2005, nợ quá hạn là 23,99 tỉ đồng tăng 196%. Trong đó riêng nợ quá hạn của Công ty Chế biến Thực phẩm Xuất khẩu là 52 tỉ. Chi nhánh đã xử lý rủi ro của Công ty này là 35.087 tỉ. Nguyên nhân là do các Công ty làm ăn thua lỗ nên không có khả năng chi trả. Nhìn chung NHCT Kiên Giang đã có những định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế địa phương nên đã đạt được những thành tựu khả quan góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn và cho chính Ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động kinh doanh trong những năm tiếp theo. Chương 4 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH I. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG: Căn cứ tình hình phát triển trên địa bàn và kết quả kinh doanh trong thời gian qua. Chi nhánh có kế hoạch kinh doanh theo phương hướng sau: + Tổng nguồn vốn dự kiến đạt 679 tỉ tương đương 15% so với năm trước. Trong đó nguồn vốn huy động đạt 356 tỉ, nguồn vốn điều hòa từ Ngân hàng Công thương Việt Nam là 323 tỉ. + Dư nợ đạt 688 tỉ, tăng 20% so với năm 2005 + Nâng cao chất lượng tín dụng, kiềm giữ nợ quá hạn ở mức dưới 1% + Lợi nhuận ước tính đạt 19 tỉ + Mở rộng địa bàn hoạt động để mở rộng mạng lưới giao dịch và tăng cường huy động vốn. + Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành bộ máy của doanh nghiệp. + Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên có nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu công việc. + Giữ khách hàng truyền thống, tìm kiếm khách hàng mới trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tối đa rủi ro. + Tích cực trong việc xử lý nợ tồn đọng, nợ quá hạn để thu nợ và lãi đưa vốn vào kinh doanh. + Đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh ngoại hối, dịch vụ nhằm tăng nguồn thu về dịch vụ Ngân hàng. + Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ, giảm sát để hoạt động của Chi nhánh ngày càng hoàn thiện và ổn định. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP: 1.Về huy động vốn: Để thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, Ngân hàng phải đa dạng hóa và linh hoạt trong công tác huy động vốn sao cho phù hợp với tình hình kinh doanh và bối cảnh chung của thị trường. Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn: + Tăng cường phát hành thẻ để huy động vốn thông qua tiện ích của việc sử dụng thẻ. + Áp dụng phí chuyển tiền ưu đãi đối với khách hàng chuyển tiền thanh toán qua Ngân hàng Công thương Kiên Giang thường xuyên và trị giá lớn để tăng tiền gửi thanh toán. + Thực hiện tốt chính sách khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng nhất là cán bộ, nhân viên có công tác giao dịch trực tiếp với khách hàng. + Tăng cường tiếp thị phù hợp và hiệu quả đối với từng đối tượng khách hàng khác nhau như gặp gỡ khách hàng theo khu vực, theo nhóm, theo ngành nghề…Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng như: ti vi, báo, đài, tạp chí… Trong đó giới thiệu cụ thể các thủ tục, điều kiện và nêu bật được các tiện ích khi khách hàng tìm đến giao dịch với Ngân hàng. + Xây dựng biểu lãi suất hấp dẫn mang tính cạnh tranh để thu hút khách hàng tăng tiền gửi vừa đảm bảo có lợi cho khách hàng vừa tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Lãi suất là yếu tố nhạy cảm, nhất là trong điều kiện có sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn, do vậy việc vận dụng yếu tố lãi suất một cách phù hợp, linh động sẽ thu hút được nguồn vốn huy động cho tổ chức tín dụng đó (đặc biệt là đối với khách hàng truyền thống và có nguồn tiền gửi lớn) như áp dụng lãi suất bậc thang, theo đó khách hàng gửi tiền sẽ được hưởng lãi suất tương ứng với từng mức tiền gửi theo quy tắc mức tiền gửi càng lớn lãi suất càng cao. + Có chính sách khen thưởng thích đáng nhằm khuyến khích cán bộ, nhân viên có thành tích tốt trong công tác huy động vốn, giới thiệu khách hàng giao dịch với Ngân hàng. + Chủ động tìm kiếm khách hàng, khi đó Ngân hàng sẽ chủ động nắm bắt được thông tin về khách hàng và có điều kiện thẩm định, lựa chọn khách hàng. + Quan tâm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng bằng cách gửi phiếu yêu cầu khách hàng đánh giá, đo lường sự hài lòng của khách hàng đối với các sản phẩm của Ngân hàng cũng như cung cách phục vụ. + Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên có nghiệp vụ vững, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. + Cán bộ, nhân viên sẵn sàng tư vấn, hướng dẫn khi khách hàng vay vốn có yêu cầu hoặc thắc mắc về thủ tục, hồ sơ vay vốn. 2. Về cho vay: + Điều chỉnh kịp thời lãi suất cho vay khi có biến động nhằm bảo đảm cạnh tranh. + Có chính sách cho vay mềm dẻo sao cho vừa thu hút được nhiều khách hàng hơn nữa vừa đem lại hiệu quả cao cho Ngân hàng như số tiền vay, thời gian vay, thủ tục nhanh chóng tiện lợi cho khách hàng. + Thường xuyên thu thập, nắm bắt thông tin về khách hàng để xác định được nhu cầu vay vốn cũng như khả năng trả nợ của họ. + Cập nhật tình hình phát triển kinh tế của địa phương, chủ trương chính sách ở khu vực và Nhà nước để có định hướng cho vay phù hợp với từng ngành nghề, từng thành phần kinh tế khác nhau nhằm đạt hiệu quả tốt việc sử dụng nguồn vốn. + Thực hiện tốt công tác thẩm định các dự án vay vốn và định giá tài sản thế chấp nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Thông qua việc trang bị, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ, nhân viên làm công tác thẩm định. + Kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị vay vốn nhằm đánh giá đúng tiến độ thực hiện phương án vay vốn cũng như khả năng chi trả đúng thời hạn nhằm hạn chế nợ quá hạn, không có khả năng thanh toán của khách hàng. 3. Về hoạt động dịch vụ: + Tăng cường thêm các máy rút tiền đồng thời bố trí ở những nơi thuận tiện để phục vụ khách hàng. + Nâng cao chất lượng dịch vụ như rút ngắn thời gian chuyển tiền, thủ tục mau lẹ. + Đề nghị làm đầu mối thanh toán cho các hợp đồng ngoại nhập thiết bị dự án xây dựng mới dây chuyền Xi măng Hà Tiên 2.2 với tổng mức đầu tư trên 3.000 tỉ đồng nhằm tăng thu từ hoạt động thanh toán quốc tế. PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN: Nền kinh tế của đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống nhân dân được cải thiện. Kết quả trên là do nỗ lực chung của các ngành, các cấp. Trong đó ngành Ngân hàng có những đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế Việt Nam. Vai trò của Ngân hàng ngày càng thể hiện rõ thông qua việc đáp ứng nhu cầu vốn rất lớn cho nền kinh tế. Một mặt Ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mặt khác Ngân hàng cũng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở các hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Cùng với xu thế chung của đất nước, NHCT KG đã tham gia vào việc tạo ra và cung cấp vốn cho các thành phần kinh tế trong khu vực tỉnh Kiên Giang. Trong thời gian qua Chi nhánh đã rất cố gắng trong việc huy động vốn nhưng với tình hình cạnh tranh gay gắt của các TCTD khác đã khiến cho nguồn vốn ba năm qua của Ngân hàng luôn giảm và phải nhận vốn điều hòa từ NHCT VN. Hơn nữa, chính sách đầu tư của các đơn vị kinh doanh đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Cụ thể như một số doanh nghiệp thay vì gửi tiền nay chuyển sang vay tiền. Do đó đã làm tăng chi phí và giảm hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Bên cạnh việc huy động vốn gặp không ít khó khăn thì tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng cũng không gặp nhiều thuận lợi. Cho vay doanh nghiệp Nhà nước đều có nhiều vướng mắc do phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều có tình hình tài chính yếu. Một số doanh nghiệp Nhà nước không thuộc diện khuyến khích tiếp tục cho vay do đặc điểm khó khăn về ngành, về cơ chế chính sách. Tuy nhiên những doanh nghiệp đã có mối quan hệ từ lâu, có số dư nợ lớn thì việc rút dần dư nợ đang gặp trở ngại bởi lý do: + Ngừng cho vay thì doanh nghiệp không thể trả được nợ cũ và gần như không Ngân hàng Thương mại nào chấp nhận cho vay, doanh nghiệp không tìm được nguồn tài trợ khác. + Giảm dư nợ cho vay, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về thiếu hụt vốn dẫn đến mất cân đối về tài chính. Mặc dù, các phương diện hoạt động của Ngân hàng có những vướng mắc nhất định nhưng nhìn tổng thể thì Ngân hàng vẫn đạt được những kết quả khả quan được biểu hiện thông qua lợi nhuận ròng thu được. Lợi nhuận thu được qua ba năm có sự gia tăng chủ yếu là do thu lãi. Vì vậy, Ngân hàng cần phát triển hơn nữa các dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu nền kinh tế và góp phần tăng thêm thu nhập cho Ngân hàng. Song song đó ngân hàng cần cắt giảm các khoản chi phí như chi phí văn phòng phẩm, điện, nước… để nâng cao hơn nữa hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Những khó khăn hiện tại là những khó khăn chung của nhiều TCTD trên địa bàn. Bằng những nỗ lực và phấn đấu không ngừng của toàn thể Ban giám đốc cùng cán bộ, công nhân viên Ngân hàng trong thời gian qua nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ tiếp tục có những bước tiến khả quan trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế. II. KIẾN NGHỊ Về nghiệp vụ + Tổ chức mạng lưới phục vụ cho công tác huy động vốn thông qua việc tạo ấn tượng khác biệt sự khang trang, thoải mái và dễ gần tại nơi làm việc để cho khách hàng cảm thấy tin tưởng. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng phổ biến rộng rãi đến mọi thành phần kinh tế về các loại hình tiền gửi, dịch vụ và lợi ích mà nó đem lại cho khách hàng. + Mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm chiếm thị phần và thu hút khách hàng như mở thêm các điểm giao dịch ở những nơi có kinh tế phát triển. + Cải cách việc thanh toán qua Ngân hàng, rút ngắn quy trình giao dịch khi khách hàng gửi tiền vào tài khoản, thanh toán nhanh chóng và thuận lợi hơn. Trang bị thêm máy rút tiền tự động ATM, phát hành thẻ, thẻ thanh toán, đẩy mạnh tốc độ dịch vụ chuyển tiền nhanh. Từ đó thu hút một khối lượng lớn tiền gửi thanh toán. Nhanh chóng hoàn tất chương trình hiện đại hóa Ngân hàng trong năm 2006 để đẩy nhanh tốc độ thanh toán và tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng nhiều tiện ích của Ngân hàng Công Thương Việt Nam. + Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thu hồi nợ, xử lý nợ quá hạn, đặc biệt là tích cực tác động, tranh thủ sự hỗ trợ của các cấp, các ngành ở địa phương cũng như Ngân hàng cấp trên trong công tác xử lý thu hồi nợ. Vì hiện nay dư nợ cho vay chưa hoặc không thu hồi được gốc và lãi của Chi nhánh còn chiếm tỉ trọng cao trong tổng nguồn vốn mà cụ thể là món vay đầu tư nhà máy chế biến nước dứa cô đặc thuộc Công ty Chế biến Thực phẩm Xuất khẩu Kiên Giang; Dự án cho vay vùng đệm U Minh Thượng hay nợ cho vay khắc phục hậu quả bảo số 5…việc thu hồi tốt các khoản nợ đến hạn cũng là một trong những nguồn vốn quan trọng để tiếp tục sử dụng vốn cho vay trong tương lai. + Định kỳ tổ chức tuyên truyền, quảng cáo, quảng bá sản phẩm, thương hiệu của Chi nhánh; tăng cường công tác tiếp thị những khách hàng mới, thực hiện tốt việc chăm sóc và duy trì khách hàng đã có quan hệ tiền gửi với Chi nhánh. Tăng chi phí khuyến mãi một cách hợp lý để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội. + Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, muốn tạo được sự khác biệt so với các Ngân hàng khác trên địa bàn trong việc thu hút lượng tiền gửi thì đòi hỏi phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tác phong giao dịch của nhân viên trực tiếp giao dịch, tiếp xúc với khách hàng. Muốn làm được việc này cần phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cán bộ, công nhân viên trong Ngân hàng về phong cách bán hàng, thái độ phục vụ. Đặc biệt nên định kỳ hàng năm tổ chức mở lớp bồi dưỡng marketing căn bản cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh, bên cạnh đó cũng cần phải có chế độ khen thưởng, khuyến khích vật chất lẫn tinh thần cho những cán bộ có thành tích xuất sắc trong công tác huy động vốn, ngược lại phải xử phạt nghiêm những trường hợp có thái độ giao dịch với khách hàng không niềm nở… Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam + Đối với việc phát triển dịch vụ Ngân hàng, Chi nhánh đề nghị NHCT VN trang bị thêm các máy rút tiền để bố trí được nhiều nơi thuận tiện để phục vụ khách hàng nhằm tăng cường tính cạnh tranh. Việc này có thể tiết kiệm chi phí bằng cách trang bị máy có giá trị thấp như máy âm tường mà Ngân hàng Ngoại thương đang làm. + Thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ mang tính chuyên sâu, phát triển thêm nguồn nhân lực, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Chi nhánh. Những khoá huấn luyện đào tạo nên cho ứng dụng thực tế cao ngay trong chương trình giảng dạy. Nên có những khuyến khích để kích thích trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ công nhân viên, từ đó có thể phát huy tính năng động sáng tạo trong công việc và nâng cao trách nhiệm của mỗi người. + Giao thêm quyền chủ động cho Giám đốc Chi nhánh trong việc xem xét quyết định hạn mức tín dụng cho mỗi khách hàng để Ngân hàng chủ động trong việc xác định mức lãi xuất, từ đó tạo tính chủ động trong hoạt động cho vay. + Cho phép Chi nhánh tự cân đối, linh hoạt về việc áp dụng lãi suất huy động để phù hợp với mặt bằng lãi suất huy động vốn của các Tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. + Đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa Ngân hàng, ứng dụng rộng rãi việc thanh toán điện tử; thẻ tín dụng; ATM; triển khai thực hiện cơ chế thanh toán và các phương thức thanh toán mới như: Dịch vụ gửi tiền tiết kiệm một nơi, lĩnh ở nhiều nơi; dịch vụ tài khoản điện tử; dịch vụ Ngân hàng tại nhà và các dịch vụ Ngân hàng điện tử khác nhằm đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng đảm bảo khả năng cạnh tranh với các Tổ chức tín dụng khác. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước + Thực hiện kết nối hệ thống đặc biệt là thị trường thẻ. Hiện nay hệ thống thẻ chưa kết nối được với nhau, mạnh Ngân hàng nào Ngân hàng đó làm tuỳ theo khả năng về vốn đầu tư của mình. Thẻ ATM của Ngân hàng nào phát hành thì chi sử dụng được trong hệ thống máy ATM do Ngân hàng đó mà thôi và cũng không thể chuyển khoản cho người khác nếu không cùng mở tài khoản trong cùng một hệ thống Ngân hàng. Chính điều này đã làm các Ngân hàng lãng phí tiền đầu tư cho hệ thống máy ATM của mình thay vì có thể sử dụng chung một máy và tạo tiện ích cho người sử dụng. + Đưa trung tâm thông tin phòng chống rủi ro đi vào hoạt động một cách hiệu quả hơn nữa. Vì hiện nay hầu hết các Ngân hàng đều có quan hệ hợp tác với trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước, nhưng lại hời hợt vì vậy làm cho chất lượng hoạt động của trung tâm không cao, nguồn thông tin nhận được từ trung tâm hầu như không đủ, chậm chạp. Từ đó trung tâm cần có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động và độ tin cậy thông qua việc quy định rõ ràng trách nhiệm của nguồn cung cấp cũng như nơi sử dụng thông tin. + Tham mưu, đề nghị Nhà nước cần sửa đổi bổ sung luật Ngân hàng Nhà nước và luật các Tổ chức tín dụng để phù hợp với pháp luật hiện hành cũng như phù hợp với tình hình hoạt động của các TCTD. Nhằm đảm bảo cho các TCTD hoạt động có hiêu quả hơn. + Kiến nghị với Nhà nước ổn định giá trị đồng tiền nội tệ. Vì lạm phát cao đồng tiền bị mất giá sẽ gây ảnh hưởng đến việc huy động tiền gửi vào Ngân hàng, người dân sẽ không gửi tiền vào Ngân hàng nữa hoặc rút ra để chuyển qua giữ đồng tiền của họ ở dạng như: vàng, ngoại tệ, tài sản khác.... Đồng tiền mất giá kéo theo Ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để bù đắp phần trượt giá, lãi suất huy động cao làm cho lãi suất cho vay cũng sẽ tăng lên, khi đó các doanh nghiệp khó có thể vay Ngân hàng với lãi suất cao này. Kết quả là Ngân hàng bị ứ đọng vốn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích hoạt động kinh doanh tại NHCT Kiên Giang.doc
Luận văn liên quan