Đề tài Phân tích những tác động của tình trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục

Theo những phân tích đã trình bày ở trên, có thể thấy được thực trạng đôla hóa trầm trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như những tác động tiêu cực mà nó mang lại trong mọi mặt đời sống. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận những tác động tích cực của đôla hóa đến nền kinh tế của các quốc gia khác, mà qua đó Việt Nam cần học tập. Trong bối cảnh gia nhập WTO và mở rộng quan hệ về mọi mặt với các quốc gia khác trên thế giới, việc sử dụng USD trong các hoạt động kinh tế là một vấn đề tất yếu của Việt Nam. Tuy nhiên không nên quá lệ thuộc và sùng bái USD, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế Mỹ có nhiều dấu hiệu bất ổn. Việc duy trì một tỷ lệ đôla hóa hợp lý là việc làm cần thiết đòi hỏi phải thực hiện trong thời gian sớm nhất để ổn định thị trường ngoại hối qua đó, tác động ổn định kinh tế vĩ mô. Có rất nhiều các giải pháp được đề ra, nhưng chung lại, việc mà các cơ quan chức năng cũng như Nhà nước cần làm là lấy lại lòng tin của người dân vào VND.

doc43 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4497 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích những tác động của tình trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẪN ĐẾN ĐÔLA HÓA 1. Nguyên nhân chủ quan Các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức thường là những quốc gia có nền kinh tế nhỏ quy mô dân số cũng như diện tích nhỏ. Đối với những nước này việc chấp nhận một ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần làm cho nền kinh tế ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao hơn và họ chấp nhận đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định này hoặc do sự yếu kém trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ của NHTW và sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống NHTM trong nước, NHTW không đủ năng lực để điều hành chính sách tiền tệ do đó chấp nhận giao quyền điều hành cho NHTW nước ngoài. Panama là một ví dụ điển hình về một nước đôla hóa hoàn toàn mặc dù về kinh tế do sử dụng chính thức USD đã tạo ra môi trường kinh tế ổn định, trở thành trung tâm tài chính quan trọng trong vùng, tương phản với các nước láng giềng, nhưng về chính trị, Panama là nước dễ bị tổn thương trong quan hệ với Mỹ. Điển hình là năm 1998, Mỹ đã buộc tội và bỏ tù nhà lãnh đạo của nước này, tướng Manuel Noriega, đồng thời chính phủ Mỹ ra lệnh đóng băng tài sản của Panama tại các ngân hàng Mỹ, ngừng tất cả việc chuyển nhượng, thanh toán bằng USD. 2. Nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân thứ nhất là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood Sau khi hệ thống này sụp đổ rất nhiều nước gặp khó khăn trong việc tìm kiếm một chế độ tỷ giá phù hợp, việc điều hành tỷ giá lại càng khó khăn hơn khi thị trường vốn và thị trường thương mại tự do hội nhập. Một trong những cách giải quyết tương đối hiệu quả vấn đề này là từ bỏ đồng tiền chính thống của mình và chấp nhận một tiền tệ ổn định hơn của quốc gia khác. Cũng trong giai đoạn này các nước kém phát triển không xuất khẩu dầu mỏ gặp nhiều khó khăn một mặt do giá dầu tăng cao một mặt do kinh tế các nước phát triển suy thoái nên xuất khẩu vào những nước này có xu hướng giảm sút. Kết quả là các nước này chịu thâm hụt cán cân thanh toán với khối lượng khổng lồ và để cân bằng chính phủ các nước tiến hành vay nợ nước ngoài dẫn đến đôla hóa tài khoản nợ bươc đầu mở đường cho đôla hóa. Nguyên nhân thứ hai là do nhu cầu phòng chống rủi ro. Khi nền kinh tế trong nước gặp phải những bất ổn trầm trọng như khủng hoảng tài chính, lạm phát cao thậm chí siêu lạm phát trong khi lãi suất tiền gửi nội tệ lại không mấy hấp dẫn so với lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Người dân sẽ tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Với chức năng ban đầu làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị. Nguyên nhân thứ ba đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của tiền tệ thế giới. Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hóa như GBP, JYP, EUR..., nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Nguyên nhân thứ tư mức độ đôla hóa của mỗi nước khác nhau còn phụ thuộc vào trình độ dân trí và tâm lý của người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng và cơ chế quản lý ngoại hối. Ở những quốc gia trình độ của người dân về lĩnh vực tài chính tiền tệ còn hạn chế họ có tâm lý thích nắm giữ ngoại tệ, thích sử dụng hàng ngoại sẽ tiếp tay cho sự thâm nhập ngoại tệ ngày càng sâu vào nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước càng thấp, cơ chế quản lý tỷ giá càng lỏng lẻo thì mức độ đôla hóa nền kinh tế càng cao. III. TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Có rất nhiều quan điểm đánh giá về vấn đề tác động của đôla hóa lên nền kinh tế. Có ý kiến cho rằng đôla hóa chỉ mang lại tác động tiêu cực do đó phải đưa ra giải pháp nhằm xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng này. Tuy nhiên thực tế cho thấy bên cạnh những tác động tiêu cực đôla hóa cũng có những tác động tích cực. 1. Tác động tích cực Thứ nhất đối với các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa hoàn toàn, ngoại tệ mạnh được sử dụng thay thế toàn bộ nội tệ trong giao dịch cũng như trong cất trữ, do đó đôla hóa chính thức góp phần làm giảm chi phí giao dịch như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ, các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Ngoài ra đôla hóa chính thức còn loại bỏ hoàn toàn rủi ro tiền tệ xảy ra trong giao dịch giữa các quốc gia cùng sử dụng USD từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước. Những nền kinh tế đôla hóa chính thức thường ổn định hơn và có tỷ lệ lạm phát thấp hơn, chính sự ổn định này của nền kinh tế đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào trong nước từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế . Thứ hai đô la hóa chính thức góp phần làm tăng kỷ luật ngân sách nhà nước. Với những quốc gia có chính sách tiền tệ độc lập khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt, chính phủ có thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để bù đắp thâm hụt. Ngược lại với những quốc gia bị đôla hóa hoàn toàn chính phủ không thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách do đó để khác phục tình trạng thâm hụt chính phủ nước này phải tiết kiệm chi tiêu đồng thời gia tăng nguồn thu ngân sách. Thứ ba đô la hóa không chính thức góp phần giảm lạm phát. Đôla hóa làm tăng cung ngoại tệ dẫn đến sự giảm giá ngoại tệ. Khi đó giá cả hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn dẫn đến mặt bằng giá cả trong nước giảm xuống. 2. Tác động tiêu cực Ngoài sự đánh mất chủ quyền về tiền tệ, vị trí độc tôn của đồng nội tệ bị giảm sút khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi lấn át nội tệ thì đôla hóa còn gây ra nhiều tác động tiêu cực lên những nền kinh tế bị đôla hóa. Chính vì lý do này mà chính phủ và NHTW các nước luôn tìm cách hạn chế và đẩy lùi tình trạng này. Tác động tiêu cực đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy là việc mất đi thu nhập từ thuế in tiền. Đó chính là thu nhập từ việc phát hành tiền được tính bằng chênh lệch giữa chi in tiền, chi phí đưa tiền vào lưu thông so với giá trị hàng hóa mà tiền mua được. Thứ hai, những quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức không có chính sách tiền tệ độc lập khi đó các quốc gia này không thể chủ động trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với những nền kinh tế không bị đôla hóa, NHTW có thể thông qua cơ chế điều hành tỷ giá tác động lên xuất nhập khẩu để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Giả sử khi các yếu tố khác không đổi muốn kiềm chế lạm phát, NHTW có thể hút nội tệ trong lưu thông làm cho nôi tệ lên giá so với ngoại tệ (tức làm cho tỷ giá giảm) ngược lại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo công ăn việc làm, NHTW có thể sử dụng chính sách nội tệ. Trong khi đó, những nước có nền kinh tế đô la hóa chính thức không có quyền chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của họ phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách tiền tệ của NHTW nước ngoài. Thứ ba, đô la hóa chính thức tước đi vai trò của NHTW, là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Ở những nền kinh tế không bị đô la hóa, khi NHTM gặp khó khăn về thanh khoản, NHTW sẽ cho vay tiền để giải quyết vấn đề đó, tránh dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, nhưng ở những nền kinh tế bị đôla hóa chính thức, NHTW chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Một khi đã sử dụng hết dự trữ tiền tệ thì không thể phát hành thêm tiền để giúp đỡ NHTM. Vì vậy, khả năng dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống NHTM trong nước là hoàn toàn có thể xảy ra. Thứ tư, đối với những nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức, ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong thanh toán, cất trữ, do đó sẽ có một lượng ngoại tệ lớn trôi nổi trên thị trường, nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTW. Vì vậy, việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán từ đó đưa ra các quyết định về tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông sẽ kém chính xác và kịp thời. Thứ năm, cung cầu ngoại tệ thường xuyên biến động. Những thay đổi về lãi suất trong nước từ nước ngoài có thể gây ra sự dịch chuyển lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác hay từ nơi này sang nơi khác. Khi lãi suất có sự thay đổi theo hướng nắm giữ ngoại tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang nội tệ đổi lấy ngoại tệ, làm cho cầu ngoại tệ tăng, ngược lại, khi nắm giữ nội tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang ngoại tệ đổi lấy nội tệ, dẫn tới cầu nội tệ tăng. Điều này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoài ra, đối với các NHTM có tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ cao, khi có biến động, người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ đó đã được ngân hàng cho vay, và NHTW cũng không thể hỗ trợ được do dự trữ ngoại hối còn mỏng có thể gây ra những bất ổn trong hệ thống NHTM trong nước. CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ ĐÔLA HÓA TẠI VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM. Việt Nam là một trong những nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức. Đôla hóa của Việt nam bao gồm: đôla hóa thay thế tài sản, đôla hóa phương tiện thanh toán, đôla hóa trong niêm yết giá hàng hóa dịch vụ. Tình trạng đôla hóa ở Việt Nam được đánh giá là khá trầm trọng. Một trong những công cụ đo lường mức độ đôla hóa là tỷ lệ tiến gửi bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán FCD/M2. Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn chưa phản ánh được một cách chính xác nhất về tình trạng đôla hóa của Việt Nam do nó chỉ đo lường được lượng USD gửi trong các ngân hàng mà không thể thấy được khối lượng lớn USD dân chúng nắm giữ. Bảng 1: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2) Thờigian Tỷ lệ % 1989 28,2 1990 32,4 1991 41,2 1992 30,6 1993 22,9 1994 22,2 1995 21,0 1996 20,3 1997 23,6 1998 24,6 1999 26,1 2000 26,9 2001 31,7 2002 28,4 2003 23,6 2004 24,3 2005 23,0 2006 21,6 6/2007 20,2 (Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007) Theo thống kê trên, tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam luôn ở mức trên 20%, con số này cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Thái lan… (chỉ khoảng từ 7-10%). II. THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN 1. Giai đoạn trước khi mở cửa. Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá (tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng Rúp chuyển nhượng và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá - lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ đôla hóa là không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ. 2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến khủng hoảng tài chính khu vực Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đôla Mỹ trong giao dịch buôn bán..., chỉ bắt đầu được chú ý đến từ cuối những năm 80 đầu những năm 90, khi mà nền kinh tế nước ta phải đối mặt với lạm phát nặng nề, tiền đồng trở nên mất giá so với USD dẫn đến tâm lý người dân chuyển sang tích trữ USD hoặc vàng thay cho nội tệ. Bảng 2: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam Năm Lạm phát(%) Năm Lạm phát(%) 1986 774,7 2000 -0,6 1987 223,1 2001 0,8 1988 393,8 2002 1,5 1989 37,7 2003 3,0 1991 64,6 2004 7,71 1992 17,36 2005 8,29 1996 4,5 2006 7,48 1997 3,6 2007 8,3 1998 7,8 2008 22,97 1999 0,1 2009 6,88 (Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà nước và IMF) Mặt khác, do thấy được điểm yếu về giá trị của tiền đồng, nên người dân chuyển sang gửi ngắn hạn nội tệ thay cho việc gửi dài hạn, điều này đã ảnh hưởng lớn tới lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế đang trong giai đoạn kiến thiết. Trước hoàn cảnh đó, Chính phủ đã ban hành luật đầu tư năm 1987 hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam, đồng thời cho phép các ngân hàng được nhận tiền gửi bằng đồng đôla. Chính sách này đã làm tăng tỉ lệ đôla hóa của nền kinh tế do đã tác động làm tăng nguồn đôla chảy vào trong nước thông qua các kênh như FDI, viện trợ nước ngoài và lượng kiều hối Đến năm 1991, sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và một số quốc gia khác, cùng với những chính sách mở cửa của Nhà nước đã làm lượng USD vào Việt Nam tăng mạnh. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát lên tới đỉnh điểm 67.5% và tỷ giá USD/VND tăng vọt (từ 5,133VND/USD lên 9,274VND/USD). Điều này khiến cho tình trạng đôla hoá tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD. Trước tình trạng trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đôla hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Mặt khác, thời gian này lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ đôla hóa giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 ở mức 23,6%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm. Cũng phải nhìn nhận rằng, các hoạt động ngoại hối trái phép tồn tại chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Cho đến nay, vấn đề này vẫn là một tồn tại chưa được khắc phục. 3. Giai đoạn từ sau khủng hoảng tài chính khu vực đến nay 3.1. Giai đoạn 1998-2001 Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001 đã tăng cao trở lại đến gần 30%. Nguyên nhân là trong suốt một thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn hơn các ngoại tệ khác. Mặt khác, các chính sách mới ban hành đã tạo sự tin tưởng của người dân, thu hút được một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào hệ thống ngân hàng. Tâm lý đôla hóa trong giai đoạn này cũng một phần do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực và kỳ vọng của thị trường vào sự phá giá của VND. 3.2. Giai đoạn 2001 đến 2006. Tỷ lệ FCD/M2 liên tục giảm, đến năm 2003 còn 23,6%. Thanh toán và kinh doanh ngoại tệ vẫn tiếp tục phát triển. Theo kết quả khảo sát năm 2002, hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do có quy mô từ 4 - 6 tỷ USD/năm, tương đương 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm đó, số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường tự do ước khoảng 5 tỷ USD. Đôla hóa trong niêm yết, định giá bằng ngoại tệ còn phổ biến. Tuy nhiên đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất tiền gửi VND không mấy hấp dẫn hơn lãi suất tiền gửi bằng USD khiến cho người dân có tâm lý đổi VND lấy các đồng tiền khác có tính ổn định cao hơn như USD, EUR để gửi vào NHTM khiến cho FCD/M2 tăng lên đến mức 24,3%. Với doanh số tiền gửi ngoại tệ không ngừng tăng lên, các NHTM cũng phải tìm cách để cho vay số ngoại tệ này, tránh tồn đọng vốn. Đây chính là hiện tượng đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa cơ cấu dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng. Năm 2005 lãi suất cơ bản của Mỹ tiếp tục tăng lên từ 3.75% lên đến 4.75%, theo hiệu ứng đó, các NHTM trong nước đồng loạt tăng lãi suất tiền gửi USD, lãi suất tiền gửi VND cũng tăng nhưng không đáng kể, trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, từ đó thu hút lượng tiền gửi ngoại tệ vào các NHTM. Năm 2006, đánh dấu sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư trực tiếp vào Việt Nam đạt mức 10.2 tỷ USD mang lại một nguồn thu ngoại tệ lớn và làm cho tỷ lệ FCD/M2 vẫn duy trì ở mức trên 20%. 3.3. Giai đoạn năm 2007 đến nay Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới WTO và thực hiện cam kết quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn với Hoa Kỳ (PNTR), đã tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu và hạn chế các rào cản thương mại. Tuy nhiên, trong năm 2007, biến động của nền kinh tế Mỹ cũng ảnh hưởng một phần đến nền kinh tế Việt Nam đã khiến cho tỷ giá USD/VND trong nước bất ổn. Những tác động này một lần nữa lại làm tăng tỷ lệ đôla hóa trong nền kinh tế. Năm 2008 được xem là một năm đầy biến động đối với nền kinh tế VN nói chung và vấn đề tỷ giá USD/VND nói riêng. Giai đoạn đầu năm 2008, NHNN thông báo phát hành tín phiếu bằng VND, và thực hiện dưới hình thức bắt buộc đối với các NHTM với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm. Đồng thời NHNN cũng không thực hiện việc mua USD vào nhằm hạn chế bơm tiền ra lưu thông. Cùng thời điểm trên thị trường thế giới giá USD vẫn tiếp tục sụt giảm, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) vẫn tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản. Người dân không còn giữ USD như trước mà chuyển qua nắm giữ vàng hoặc VND để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao. Hoạt động của giới đầu tư và đầu cơ nước ngoài đã đưa vào Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn. Số tiền này được đổi ra VND để hưởng chênh lệch lãi suất thông qua gửi tiết kiệm hoặc đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Một lượng kiều hối cũng được chuyển về Việt Nam nhằm hưởng chênh lệch lãi suất và chuyển cho người thân dịp Tết. Những nguyên nhân trên đã khiến cho lượng USD đổ vào NHTM tăng lên không ngừng, làm tăng tỷ lệ FCD/M2 một cách đáng kể. Tuy nhiên, trong quý 2 năm 2008, khi mà tỷ giá USD/VND tăng mạnh và việc các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam khi lo ngại về tình hình kinh tế Việt Nam cũng như tình hình thanh khoản yếu trên thị trường thế giới đã gây ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ cả trên thị trường chính thức và thị trường tự do, tỷ lệ đôla hóa có xu hướng giảm nhiệt. Sang đến quý 3 năm 2008, khi tỷ giá đi vào ổn định đồng thời NHNN công bố tỷ lệ dự trữ USD, thực hiện kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn đã khắc phục tình trạng khan hiếm USD, ổn định thị trường ngoại hối, đồng thời ổn định tỷ lệ FCD/M2 quanh mức 20%. Những tháng cuối năm 2008, tỷ lệ lạm phát tăng lên đạt mức xấp xỉ 20 % khiến cho người dân có tâm lý lo ngại về sự mất giá của VND, từ đó tăng việc nắm giữ USD trong dân. Thời gian này cũng là lúc nhu cầu sử dụng ngoại tệ để thanh toán của các doanh nghiệp nhập khẩu tăng lên, cũng như nguồn kiều hối đổ về nước nhiều hơn khiến cho tình trạng đôla hóa trầm trọng trở lại. Mặt khác, các ngân hàng thương mại tăng lãi suất tiền gửi bằng USD lên 7,2% cao hơn gần 2% so với mức lãi suất trái phiếu Chính phủ kì hạn 1 năm của Mỹ là 5,25%. Chênh lệch quá lớn so với thị trường quốc tế đã tạo ra tâm lý coi trọng đồng đôla, tiếp sức cho nạn đầu cơ ngoại tệ, làm tăng mức độ đôla hóa nền kinh tế. Sau cú sốc khủng hoảng tài chính năm 2008, kinh tế thế giới đang phục hồi chậm chạp. Đồng đôla Mỹ ngày càng mất giá, song USD tỷ giá USD/VND ngày càng cao, vượt mức 20.000 VND/USD. Người dân ngày càng mất lòng tin vào VND và xu hướng sùng bái đồng đô la càng trở nên trầm trọng hơn, tỷ lệ đô la hóa ngày càng cao, theo thống kê mới nhất của ADB tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam hiện nay ở mức 20%. Mặc dù Nhà nước không cho phép, nói một cách khác là bất hợp pháp, nhưng giao dịch ngoại tệ tại một số trung tâm của các thành phố lớn (như Hà Trung ở Hà Nội) đã diễn ra khá sôi động, kể cả khi Ngân hàng Nhà nước tăng cường kiểm soát, vì chừng nào tồn tại tỷ giá thị trường chợ đen cao hơn tỷ giá chính thức thì người bán ngoại tệ vẫn lựa chọn tỷ giá cao; hơn nữa, hoạt động trao đổi ngoại tệ trên thị trường chợ đen còn có ưu điểm về tiện ích cho người dân, chỉ cần gọi điện thoại đến các cơ sở đổi tiền là có người mang đến tận nhà một lượng tiền lớn. III.BIỂU HIỆN ĐÔLA HÓA TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Thứ nhất, là đô la hóa trong quảng cáo, niêm yết, thông báo giá hàng hóa, dịch vụ. Hiện nay tình trạng quảng cáo, niêm yết, thông báo giá cả hàng hóa dịch vụ có giá trị lớn. Những nơi bị kiểm soát gắt gao, chủ hộ kinh doanh lách bằng cách không ghi giá song vẫn chấp nhận thanh toán bằng USD. Ở những nơi tập trung nhiều khách du lịch nước ngoài tới thăm quan mua sắm, những người bán hàng dù không niêm yết giá bằng USD nhưng khi khách ngoại quốc hỏi họ vẫn phải nói giá bằng USD. Công ty kinh doanh máy tính và linh kiện máy tính cũng là một trong số những “đối tượng” vi phạm quy định niêm yết giá nhiều nhất. Thứ hai, là đôla hóa nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay trong các NHTM. Mức độ đôla hóa này được đo lường bằng tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi và tỷ lệ tín dụng bằng ngoại tệ trên tổng tín dụng trong hệ thống NHTM. Từ năm 1988, khi NHTM cho phép các ngân hàng thương mại được nhận tiền gửi bằng ngoại tệ, tỷ lệ tiền gửi USD trên tổng tiền gửi tăng dần, đến năm 1992 đạt mức 41,2%. Tuy nhiên sau đó, tỷ lệ này giảm xuống mức 20,3% năm 1996. Đầu năm 2000, đồng USD liên tục tăng giá so với VND, đồng thời lãi suất USD trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng rất cao, giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm dẫn tới sự tăng lãi suất huy động USD của các NHTM trong nước, điều này thúc đẩy tâm lý muốn nắm giữ USD của người dân. Do đó tiền gửi bằng USD tăng lên đạt 31,7% năm 2001 trong khi các khoản cho vay bằng USD lại giảm gây nên hiện tượng đôla hóa nguồn vốn. Sau đó, tỷ lệ tiền gửi USD trên tổng tiền gửi giảm từ 31,7% năm 2001 xuống 22% năm 2005. Tỷ trọng tín dụng ngoại tệ trên tổng tín dụng trong các NHTM tăng từ 20,7% năm 2000 lên 24,5% năm 2004 đạt gần 103 tỷ (theo báo cáo IMF năm 2006). Mặc dù tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi có giảm xuống song số tuyệt đối vẫn liên tục tăng từ 4,85 tỷ USD năm 2000 lên 8.85 tỷ USD năm 2005. Hiện nay, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ có xu hướng giảm và tỷ trọng tín dụng ngoại tệ lại có xu hướng tăng do nhu cầu găm dữ USD của người dân và nhu cầu vay ngoại tệ cho các hoạt động thanh toán của doanh nghiệp. Thứ ba, hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ diễn ra một cách tự do và công khai trên thị trường ngầm (thị trường phi chính thức, thị trường chợ đen). Trong thông tư số 33/NH-TT ngày 15/03/1989 về hướng dẫn thi hành Điều lệ quản lý ngoại hối đã nêu rõ: “Việc lưu thông ngoại tệ trong nước chỉ được thực hiện thông qua ngân hàng và các tổ chức kinh doanh, dịch vụ được phép thu ngoại tệ. Nghiêm cấm việc mua bán, trao đổi ngoại tệ trên thị trường ngầm”. Như vậy thị trường ngầm là thị trường diễn ra hoạt động trao đổi, mua bán ngoại tệ không được pháp luật công nhận. Sở dĩ tồn tại của thị trường ngầm làm tăng tình trạng đô la hóa ở Việt Nam là do: NHNN luôn khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho NHTM đồng thời pháp luật Việt Nam có một số quy định hạn chế đối với đối tượng được mua ngoại tệ tại các NHTM nhằm hạn chế việc sử dụng rộng rãi việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam nhưng do tỷ giá các NHTM luôn thấp hơn tỷ giá trên thị trường ngầm nên để có lợi người dân đem ngoại tệ bán trên thị trường ngầm, bên cạnh đó những đối tượng không đáp ứng được yêu cầu của các NHTM thì cũng thực hiện việc mua USD trên thị trường ngầm. Ở Việt Nam, thị trường ngầm tồn tại dưới các hình thức sau: các cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quý đồng thời kinh doanh mua bán ngoại tệ tiền mặt; chuyển tiền kiều hối chuyển tiền qua biên giới không thông qua hệ thống ngân hàng dưới nhiều hình thức khác nhau; các sạp đổi tiền dọc biên giới nơi các hoạt động buôn lậu; các hoạt động mua bán khác trong dân cư. Phương thức giao dịch mua bán chủ yếu trên thị trường ngầm là phương thức trao tay. Đồng tiền giao dịch chủ yếu là USD, ngoài ra còn một số ngoại tệ khác nhưng khối lượng giao dịch rất nhỏ bé. Sự tồn tại của thị trường ngầm ở các quốc gia là điều thường thấy vì trên thực tế không có sự ăn khớp hoàn toàn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do, tuy nhiên ở Việt Nam thị trường ngầm không những tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ do sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen. Sở dĩ có sự chênh lệch này là do trong thời gian qua tỷ giá vẫn được xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN, chưa phải là tỷ giá phản ánh cung cầu trên thị trường. Hiện nay, các NHTM được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không được vượt quá biên độ giao dịch cho phép so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Thời gian gần đây, do có nhiều biến động trên thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện 2 lần điều chỉnh nhẹ biên độ năm 2007, 3 lần điều chỉnh trong năm 2008 và 2 lần vào năm 2009. Cụ thể, ngày 3/1/2007 biên độ là 0.5%, đến cuối năm 2007 là 0.75%. Ngày 10/3/2008, biên độ tăng thêm 0.25% lên mức 1%, ngày 27/6/2008 biên độ là 2% và tăng lên 3% vào ngày 7/11/2008. Ngày 24/3/2009, biên độ được NHNN quy định là 5%, sau đó giảm xuống 3% vào ngày 26/11/2009 và giữ nguyên cho tới nay. Việc mở rộng biên độ này là cần thiết để kéo tỷ giá trên thị trường chính thức gần với thị trường tự do hơn. Ngoài ra chừng nào các hoạt động kinh tế ngầm còn phát triển, thì chừng đó nhu cầu ngoại tệ và các giao dịch về ngoại tệ trên thị trường ngầm còn tồn tại và phát triển. IV. CÁC NGUỒN CUNG USD CỦA VIỆT NAM 1. Nguồn kiều hối Kiều hối (không kể lượng kiều hối chuyển lậu, ngoại tệ của người Việt Nam nhập cảnh không khai báo…) chuyển về Việt Nam nhìn chung mỗi năm một tăng, với mức tăng bình quân 10% mỗi năm, với số liệu cụ thể ở bảng 2. Các khoản kiều hối sau khi đi qua hệ thống ngân hàng nếu không được khuyến khích chuyển thành nội tệ sẽ phát tán trong dân cư dưới hình thức ngoại tệ và làm tăng khả năng đôla hóa nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, với giá trị kiều hối khoảng 4,5 tỷ USD/năm, thì kiều hối là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, có tác động tích cực trong việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá, là nguồn ngoại tệ quan trọng cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, bên cạnh luồng kiều hối vào Việt Nam theo con đường chính thức, thì một bộ phận lớn kiều hối chảy vào Việt Nam theo con đường không chính thức, gọi là “kiều hối lậu”. Kiều hối lậu chuyển vào Việt Nam chủ yếu bằng tiền mặt USD do Việt kiều thu gom ở nước ngoài chuyển về nước và được trao tận tay cho người nhận. Cơ chế quản lý ngọai hối hiện hành ở Việt Nam không cấm đưa kiều hối vào Việt Nam dười bất kỳ hình thức nào, miễn là khi nhập cảnh có khai báo đủ với cơ quan hải quan theo quy định. Trên thực tế người nhận “kiều hối lậu” rất ít khi gửi, bán ngoại tệ cho ngân hàng mà chủ yếu là nắm giữ ngoại tệ tiền mặt hoặc bán trên thị trường ngầm. Bên cạnh đó, đối với nguồn kiều hối chính thức, cơ chế quản lý ngoại hối cho phép việc chi trả bằng ngoại tệ tiền mặt cho người thụ hưởng trong nước cũng là nguyên nhân tạo nên lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường ngầm. Bảng 3: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong các năm gần đây (Nguồn: BVSC) 2. Khách du lịch đến Việt Nam Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng. Khách du lịch nước ngoài mang theo ngoại tệ và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt rất lớn tại các cơ sở kinh doanh tư nhân. Khách du lịch cũng có hoạt động đổi tiền tại các quầy đổi tiền nhưng thông thường chi tiêu đến đâu họ đổi tiền đến đó và khi việc đổi tiền không mấy thuận lợi do địa bàn, đường xá, họ thỏa thuận với người bán hàng để thanh toán bằng đôla Mỹ. Bảng 4 : Số lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam Năm 2000 01 02 03 04 05 06 07 08 09 Số lượng (tr lượt người) 2.1 2.3 2.6 2.4 2.9 3.4 3.6 4.2 4.3 3.8 Nguồn: Tổng cục thống kê 3. Vốn đầu tư nước ngoài 3.1. Vốn đầu tư trực tiếp Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ngày càng tăng cung cấp một lượng ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Năm 2006 được coi là mở đầu cho một thời kì mới, vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục được nâng cao sau khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, bên cạnh đó là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh tạo trường pháp lý bình đẳng thông thoáng và minh bạch cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước: Luật đầu tư và luật doanh nghiệp cùng với luật đấu thầu, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ và một số luật khác được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chính những yếu tố trên, đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài từ đó góp phần thúc đẩy làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Bảng 5 : Biểu đồ Vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam 2006-2009 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) 3.2. Vốn đầu tư gián tiếp Nguồn vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp FII, cũng là một nguồn cung ngoại tệ quan trọng. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế trung gian tài chính khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia hoạt động quản lý đầu tư. Làn song FII đầu tiên vào Việt Nam xuất hiện khi một số quỹ đầu tư từ nước ngoài như Vietnam Lazard Fund, Templeton Vietnam và Beta Fund được thành lập ở thị trường Việt Nam với số vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, phần lớn các quỹ đầu tư đã rút khỏi thị trường VIệt Nam, chỉ còn duy nhất Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL) do công ty Dragon capital (của Anh) quản lý. Làn số FII thứ hai được khởi động lại từ năm 2002 khi nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy cơ hội kinh doanh lớn từ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam. Hiện nay, cùng với việc thành lập các quỹ vào Việt Nam, số nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam đang tăng nhanh, đặc biệt trong thời gian gần đây, khi thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ. 4. Vay nợ nước ngoài Vay nợ nước ngoài cũng là một kênh dẫn nguồn ngoại tệ vào nước ta. Vay nợ nước ngoài là khoản vay ngắn, trung hoặc dài hạn (có hoặc không trả lãi) do Nhà nước Việt Nam, chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác. Các khoản vay nợ bao gồm: Vay ODA, tín dụng thương mại của chính phủ và doanh nghiệp từ các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các nước, các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài, phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế của chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam trong đó chủ yếu là ODA. Bảng 6: ODA của Việt Nam Năm Cam kết Thực hiện % thực hiện 2006 3.75 1.85 49.41% 2007 4.50 1.82 40.44% 2008 5.43 2.20 40.55% 2009 5.85 3.00 51.28% Nguồn: Tổng cục thống kê 5. Nguồn thu từ xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian gần đây, cũng góp phần là nguồn cung đôla lớn cho nền kinh tế. Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Nguồn: Tổng cục thống kê 6. Các kênh ngoại tệ khác Các kênh ngoại tệ khác như tiền lương và thu nhập của người Việt Nam được trả bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ do người nước ngoài đến Việt Nam làm việc , sinh sống và học tập mang theo, ngoại tệ từ hoạt động buôn lậu và các hoạt động kinh tế ngầm khác… V. TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM Đô la hóa có thể là một giải pháp hiệu quả đối với các nền kinh tế mở ,có quy mô nhỏ và có mối quan hệ thương mại cũng như tài chính chặt chẽ đối với quốc gia cung cấp đồng tiền thay thế. Việt Nam rõ ràng không phải là ứng cử viên được lợi từ đô la hóa do khác biệt lớn so với Mỹ về sự giàu có, cơ cấu kinh tế và sự hội nhập thấp về vốn và lao động. Ngoài ra ngoại tệ được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam là đô la Mỹ nhưng Việt Nam lại có quan hệ thương mại đa dạng với các nước khác trên thế giới. Mặc dù buôn bán với Mỹ đang tăng nhanh nhưng buôn bán với các nước khác như Nhật Bản Trung Quốc châu Âu cũng chiếm một tỷ trọng lớn. Khi tỷ giá USD/VND và tỷ giá của USD với các đồng tiền khác đang biến động ngược chiều như hiện nay sẽ ảnh hưởng lớn đến thương mại của Việt Nam. Tình trạng đô la hóa kéo dài và ở mức cao như việt Nam hiện nay đã gây nhiều tác động tiêu cực lên nền kinh tế: Thứ nhất, xu hướng tăng giá một chiều của tỷ giá ngày càng rõ rệt. Tính đến ngày 30/9 /2010 VND đã mất giá khoảng 10,2% tỷ giá USD/VND đã có lúc lên đến 21000. Theo lý thuyết khi nội tệ giảm giá sẽ kích thích xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, nhưng trong điều kiện thực tế của Việt Nam nhập khẩu giảm không đáng kể do năng lực sản xuất và quản lý của các doanh nghiệp trong nước vãn còn yếu kém, trong khi chúng ta xuất khẩu những sản phẩm thô hoặc sản phẩm thuộc những ngành hàng cần nhiều sức lao động do đó doanh thu từ xuất khẩu không lớn. Bên cạnh đó khi USD tăng giá làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tăng từ đó dẫn tới sự tăng giá chung đối với các hàng hóa trong nước, gây áp lực lạm phát. Thứ hai, nguồn ngoại tệ chảy vào Việt Nam dồi dào nhưng cung ngoại tệ tăng lên không đáng kể. Thay vì bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, các cá nhân tổ chức có nguồn thu từ ngoại tệ như doanh nghiệp xuất khẩu, những người nhận kiều hối từ nước ngoài…lại nắm giữ ngoại tệ tiền mặt hoặc gửi tiết kiệm tại các NHTM.Khi đó các NHTM khó mua được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán và NHNN cũng khó tăng dự trữ ngoại hối. Bảng 8: Tổng dự trữ quốc tế của Việt Nam Bảng 9: Tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm 2010 (Nguồn BVSC ước tính) Thứ ba, tình trạng đôla hóa càng phát triển càng tạo điều kiện và kích thích thị trường chợ đen phát triển, từ đó gây khó khăn và giảm hiệu lực khi điều hành chính sách tỷ giá. Đô la hóa tạo nên tình trạng hai tỷ giá, một tỷ giá trên thị trường chính thức và một tỷ giá trên thị trường chợ đen. Bảng 10: Tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen của VND/USD Tỷ giá trên thị trường chợ đen thường cao hơn so với tỷ giá trên thị trường chính thức, thường biến động rất nhanh, thậm chí đã tạo ra cơn sốt đô la, gây thiệt hại cho một bộ phận người dân, tác động xấu đến lòng tin của người dân đối với VND. Bên cạnh đó, hoạt động của thị trường chợ đen còn tiếp tay cho những hoạt động kinh doanh bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền…. Thứ tư, hệ thống ngân hàng bị đô la hóa gây nguy cơ khủng hoảng tài chính. Mặc dù tiền gửi bằng ngoại tệ có tác động tích cực đến độ sâu tài chính song tiền gửi bằng ngoại tệ thường có thời hạn tương đối ngắn, trong khi các khoản cho vay bằng ngoại tệ lại thường có thời hạn dài. Sự mất cân đối về kỳ hạn này dẫn đến nguy cơ thanh khoản bằng ngoại tệ cao, trong khi đó khả năng của NHNN trong việc điều tiết nguy cơ thanh khoản bằng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng khi NHTM phải nhờ đến NHNN trên cương vị là người cho vay cuối cùng còn hạn chế. Mở rộng tín dụng bằng ngoại tệ giúp ngân hàng tránh được chênh lệch tiền tệ giữa tài sản nợ và có, nhưng lại gia tăng rủi ro tín dụng, vì rủi ro tỷ giá được chuyển sang người đi vay cuối cùng, nhất là những doanh nghiệp không có nguồn thu bằng ngoại tệ. Trong khi đó các công cụ phòng ngừa rủi ro bằng ngoại hối trên thị trường Việt Nam vẫn chưa phát triển, hơn nữa việc cho vay ngoại tệ trong nước còn thúc đẩy tiến trình đô la hóa bằng cách tính lãi bằng ngoại tệ đối với những khoản vay này, tạo thêm cầu ngoại tệ, phá hoại sự ổn định của nội tệ. Thứ năm, đô la hóa nguồn vốn huy động khiến các NHTM trong nước bị động về lãi suất. Lãi suất ngoại tệ trong nước và quốc tế ở đâu cao hơn, dòng tiền gửi ngoại tệ sẽ chảy đến đó. Nếu nhận thấy lãi suất tiền gửi trên thị trường quốc tế cao hơn, người gửi tiền sẽ rút tiền gửi ngoại tệ của mình ở ngân hàng trong nước để gửi ở ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp này, các ngân hàng trong nước có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Để giữ được người gửi tiền, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất bằng ngoại tệ lên theo lãi suất quốc tế. Bên cạnh đó, những khách hàng đang gửi tiền bằng nội tệ khi nhận thấy lãi suất tiền gửi ngoại tệ đem lại lợi nhuận cao hơn, họ sẽ chuyển khoản tiền gửi của mình sang ngoại tệ. Vì vậy, cầu nội tệ trở nên bất ổn do nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất quốc tế. Lãi suất huy động nội tệ tăng lên, để đảm bảo lợi nhuận, các ngân hàng cũng phải tăng lãi suất cho vay nội tệ, từ đó làm gia tăng chi phí vốn cho các doanh nghiệp, dẫn đến sự gia tăng của giá cả hàng hóa trong nước, từ đó gây áp lực lên lạm phát. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM Nhận thấy được những tác động tiêu cực của tình trạng đôla hóa lên nền kinh tế Việt Nam thời gian qua Chính phủ đã có một số biện pháp nhằm hạn chế tình trạng này như: nghiêm cấm việc thanh toán, niêm yết giá hàng hóa dịch vụ bằng ngoại tệ, phát hành trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ, từng bước tự do hóa đối với giao dịch vàng lai và giao dịch vốn, hạn chế cho vay ngoại tệ đối với các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ…tuy nhiên những biện pháp này chủ yếu là những biện pháp hành chính mang tính tạm thời không đạt hiệu quả cao, tình trạng đôla hóa ở Việt Nam vẫn ngày càng trầm trọng. Để góp phần giải quyết tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay nhóm xin được đề xuất một số giải pháp cơ bản 1. Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng đôla hóa trầm trọng như hiện nay ở Việt Nam là việc mất lòng tin của công chúng vào VND đồng thời quá sùng bái, tin tưởng USD. Vì vậy biện pháp quan trọng nhất có thể giải quyết tận gốc tình trạng đôla hóa ở Việt Nam chính là củng cố lòng tin của người dân vào sự ổn đinh của VND, nâng cao tính chuyển đổi của VND thông qua ổn định nền kinh tế vĩ mô. Trong đó đặc biệt chú ý đến việc kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá. Để có thể kiềm chế lạm phát trước tiên đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ, hài hòa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. NHTW phải sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc…tác động một cách có hiệu quả vào thị trường tiền tệ nhằm ổn định giá trị của VND. Lạm phát ở Việt Nam hiện nay được đánh giá là lạm phát do chi phí đẩy và do cầu kéo. Đối với lạm phát do chiphis đẩy chính phủ có thể kiềm chế bằng cách giảm thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng nhập khẩu cần thiết cho quá trình sản xuất và cho tiêu dùng của người dân. Đối với lạm phát do cầu kéo NHNN cần điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng kiểm soát chặt chẽ mức gia tăng tín dụng, hạn chế bơm tiền vào nền kinh tế. Về vấn đề tỷ giá: NHNN cần điều hành chính sách tỷ giá theo cơ chế linh hoạt và ổn định. Chế độ tỷ giá ở Việt Nam hiện nay được gọi là chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết tuy nhiên có chế điều hành thật sự là cơ chế neo giữ tỷ giá. NHNN công bố tỷ giá dao dịch bình quân liên ngân hàng đồng thời quy định biên độ dao động đối với tỷ giá mua và bán của các ngân hàng thương mại. Cơ chế này tạo ra sự ổn định của tỷ giá trong một thời gian nhưng nó không phản ánh chính xác quan hệ giữa cung cầu ngoại tệ, làm tăng chênh lệch giữa tỷ giá của các NHTM và tỷ giá trên thị trường tự do góp phần làm tăng tình trạng đôla hóa. Vì vậy trong dài hạn để hạn chế tình trạng đôla hóa NHNN cần phải áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết thật sự, tỷ giá phải phản ánh chính xác quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Việc làm này cần thực hiện dần từng bước để các chủ thể trong nền kinh tế có thể thích ứng thích ứng Bước đầu nên nới lỏng biên độ dao động dần tiến tới xóa bỏ biên độ dao động và NHTM không trực tiếp ấn định tỷ giá. Bên cạnh đó các công cụ của chính sách tỷ giá như: mua bán trực tiếp nội tệ trên thị trường ngoại hối, quy đinh lãi suất tái chiết khấu…vẫn phải được NHTW sử dụng để có những tác động kịp thời, hiệu quả trong trường hợp tỷ giá biên đổi theo chiều hướng tổn hại đến sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời tỷ giá ngang giá nên gắn với một rổ tền tệ bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và 1 số đồng tiền của các nước trong khu vực như CNY….Các đồng tiền này tham gia vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư vói Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như vậy sẽ giảm bớt sự lệ thuộc của VND vào USD. 2. Xóa bỏ hoàn toàn hoạt động nhận tiền gửi bằng ngoại tệ và tín dụng ngoại tệ ở các NHTM Ở Việt Nam, lượng tiền bằng ngoại tệ được gửi vào các NHTM nhiều, nhưng thực tế lượng ngoại tệ cho vay lại rất hạn chế (chỉ những doanh nghiệp có hoạt động thu chi bằng ngoại tệ và một số ít người dân có đủ điều kiện theo quy định mới được vay), từ đó dẫn đến tình trạng đô la hóa nguồn vốn huy động ở Việt Nam, và nằm ở mức cao. Các NHTM sau đó cũng phải đem gửi ngoại tệ ở nước ngoài để tạo ra sự cân bằng giữa nguồn vốn huy động và nguồn cho vay. Mặt khác, những đối tượng tham gia và hoạt động gửi tiền bằng ngoại tệ vào NHTM không chỉ là những người có mục đích chính đáng như Việt kiều gửi tiền về nước, các doanh nghiệp có doanh thu trực tiếp từ ngoại tệ, mà còn có những đối tượng buôn lậu, tham nhũng từ các dự án đầu tư nước ngoài, những người có được ngoại tệ từ việc bán nội tệ trên thị trường chợ đen… Như thế, chính những hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, vô hình chung đã tiếp tay cho thị trường chợ đen phát triển. Biện pháp xóa bỏ hoạt động huy động vốn bằng ngoại tệ của các NHTM sẽ nâng cao tính minh bạch của thị trường ngoại hối trong nước, khiến cho những người có ngoại tệ phải bán ngoại tệ cho ngân hàng thay vì đem gửi như trước đây. Điều này có thể thực hiện bằng cách đưa ra các mức tỷ giá hấp dẫn dành riêng cho nguồn kiều hối, đồng thời phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, trong đó có dịch vụ chuyển tiền kiều hối có quy đổi ngay ra VND theo tỷ giá hiện tại thông qua hệ thống ATM. Trên thực tế, dịch vụ này đã được một số NHTM trong nước triển khai song người dân vẫn còn hạn chế trong việc tiếp cận và sử dụng. 3. Quản lý chặt các kênh dẫn ngoại tệ vào trong nước: đầu tư nước ngoài, kiều hối, vay nợ nước ngoài. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đô la hóa là do nguồn ngoại tệ dồi dào chảy vào nước ta hàng năm. Sẽ là không khả thi nếu hạn chế lượng ngoại tệ chảy vào trong nước bởi đó là nguồn đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Do vậy nên thay vì hạn chế, cần phải có những biện pháp nâng cao hiệu quả của luồng vốn này, như quản lý chặt chẽ dòng lưu chuyển và sử dụng vốn, tăng cường hoàn thiện môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để thu hút các luồng ngoại tệ đổ vào với hiệu quả đạt được là cao nhất. Đối với nguồn kiều hối, chúng ta có thể khuyến khích người dân bán thằng ngoại tệ cho tổ chức tín dụng, triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại, đáp ứng được nhu cầu giao dịch nhanh chóng, thuận tiện. Đối với nguồn vốn ODA, cần phải có những chính sách quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, có hiệu quả, tránh tình trạng vốn đã được giải ngân mà dự án triển khai chậm, kém hiệu quả, ngoại tệ rơi vào tay một số người, tổ chức tiếp tay cho nạn tham nhũng. Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng VND, đồng thời quy định đầu tư gián tiếp phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán bằng VND; cần xây dựng môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, đồng bộ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. 4. Sử dụng đồng tiền chung khu vực Đồng tiền chung châu Á là vấn đề đã được đề cập khá nhiều trong các hội nghị quốc tế và khu vực kể từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997-1998. Ý tưởng về việc hình thành đồng tiền chung châu Á là rất tích cực trong xu thế liên kết khu vực, một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế xã họi tăng khả năng cạnh tranh, mặt khác sẽ giúp các quốc gia châu Á hạn chế sự lệ thuộc quá nhiều vào USD và tránh được những biến động trên thị trường tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên con đường dẫn đến đồng tiền chung cho khu vực châu Á còn nhiều chông gai đặc biệt là sự khác biệt khá lớn giữa các thành viên trong khu vực đòi hỏi sự nỗ lực hợp tác giúp đỡ giữa các quốc gia. 5. Phát triển các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Để các tổ chức tín dụng và khách hàng tiếp cận và thích nghi hơn với cơ chế tỷ giá linh hoạt và phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong kinh doanh ngoại tệ; thì chúng ta phải phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ mình trước các rủi ro về tỷ giá thay vì nắm giữ ngoại tệ. Tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân được tham gia thị trường ngoại tệ một cách công khai, dễ dàng nhằm thực hiện mục tiêu là dịch vụ hoá cao độ các nghiệp vụ hối đoái, bình thường hoá vai trò và ảnh hưởng của ngoại tệ. Tại Việt Nam cũng đã có NHTM thí điểm cung cấp sản phẩm tài chính phái sinh như hợp đồng quyền chọn, giao dịch hoán đổi….Tuy nhiên việc cung cấp các sản phẩm này vẫn còn hạn chế về quy mô và loại hình sản phẩm. Vì vậy cần nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ ngân hàng, khả năng tài chính, trình độ công nghệ. Bên cạnh đó chúng ta vẫn chưa có một khung pháp lý phù hợp điều chỉnh hoạt động cung cấp sản phẩm tài chính phái sinh của cá ngân hàng thương mại. Như vậy trong thời gian tới NHNN cùng các cơ quan chuyên môn cần nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng, ban hành hệ thống cá văn bản pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh hoạt động kinh doanh sản phẩm tài chính phái sinh của các NHTM tạo điều kiện các NHTM được cung cấp và khách hàng được sử dụng công cụ phái sinh này. 6. Tăng quy mô và quản lý tốt dự trữ ngoại hối quốc gia Dự trữ ngoại hối trong thời gian vừa qua đã giảm mạnh hiện nay dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt khoảng 8 tuần nhập khẩu trong khi mức cần thiết là 12 tuần. Dẫn đến không chỉ lòng tin ở trong nước mà cả uy tín vay nợ nước ngoài của chính phủ cũng giảm sút. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu cao (Việt Nam lại là một nước nhập siêu…) và yêu cầu thanh toán các khoản nợ nước ngoài ngày càng lớn vì vậy tăng dự trữ ngoại hối là cần thiết. Dự trữ ngoại hối có đủ mạnh thì NHNN mới có thể can thiệp kịp thời và hiệu quả vào thị trường ngoại hối. Giải pháp quan trọng nhằm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng đồng thời cũng hạn chế tình trạng đô la hóa là: Khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho NHTM, sau đó NHNN mua lại ngoại tệ từ các NHTM này để tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Thu hút tiền gửi vào Ngân hàng, tăng cường giám sát chặt chẽ và ngăn chặn việc mua bán ngoại tệ quá dễ dàng ở các cửa hàng tư nhân vừa tạo nguồn USD cho phát triển kinh tế, quản lý được khối lượng USD, hạn chế các giao dịch bằng USD không được phép. Nền kinh tế Việt Nam hằng năm thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, nếu lượng vốn này không được hấp thụ hết sẽ làm USD hóa trầm trong hơn, vì vậy việc mua vào đôla của Nhà nước là cần thiết. Tuy nhiên một vấn đề nảy sinh ở đây là mua ngoại tệ từ các NHTM cũng có nghĩa là bán ra nội tệ. Hoạt động bán ra nội tệ làm tăng cung tiền trong lưu thông từ đó có thể gây lạm phát. Vì vậy, khi tiến hành mua ngoại tệ từ các NHTM, NHNN cần kết hợp với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: bán ra chứng khoán để thu hút bớt lượng nội tệ vào. Bên cạnh đó cũng cần phải quản lý tốt dự trữ ngoại hối: Ngoại tệ khi đưa vào can thiệp phải có hiệu quả, xác định mức dự trữ ngoại hối phù hợp đa dạng hóa cơ cấu dự trữ ngoại hối, lựa chọn các đồng tiền mạnh trên thế giới và được Việt Nam sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế làm dự trữ ngoại hối, giảm sự phụ thuộc vào USD. Đồng thời phải công khai minh bạch số kiệu dự trữ ngoại hối nhằm nâng cao tính minh bạch trong quản lý dự trữ ngoại hối, tạo lập niêm tin cho dân chúng vào việc ổn định tỷ giá và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. 7. Các giải pháp khác Bên cạnh những giải pháp cơ bản trên cần chú ý kết hợp thêm những biện pháp như: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, tăng cường nhận thức của người dân về vấn đề này. Hoàn thiện hệ thống NHTM đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt. Tăng cường chống buôn lậu và tham nhũng. Tăng cường công tác kiểm tra xử lý các vi phạm về quản lý ngoại hối. KẾT LUẬN Theo những phân tích đã trình bày ở trên, có thể thấy được thực trạng đôla hóa trầm trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như những tác động tiêu cực mà nó mang lại trong mọi mặt đời sống. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận những tác động tích cực của đôla hóa đến nền kinh tế của các quốc gia khác, mà qua đó Việt Nam cần học tập. Trong bối cảnh gia nhập WTO và mở rộng quan hệ về mọi mặt với các quốc gia khác trên thế giới, việc sử dụng USD trong các hoạt động kinh tế là một vấn đề tất yếu của Việt Nam. Tuy nhiên không nên quá lệ thuộc và sùng bái USD, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế Mỹ có nhiều dấu hiệu bất ổn. Việc duy trì một tỷ lệ đôla hóa hợp lý là việc làm cần thiết đòi hỏi phải thực hiện trong thời gian sớm nhất để ổn định thị trường ngoại hối qua đó, tác động ổn định kinh tế vĩ mô. Có rất nhiều các giải pháp được đề ra, nhưng chung lại, việc mà các cơ quan chức năng cũng như Nhà nước cần làm là lấy lại lòng tin của người dân vào VND. Điều đó là rất khó thực hiện trong ngày một ngày hai, mà cần một quá trình lâu dài với những giải pháp đồng bộ và việc thực hiện kiên quyết, có hiệu quả của các cơ quan Nhà nước, các cấp các ngành.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctai_chinh_quoc_te_dola_hoa_9969.doc
Luận văn liên quan