Đề tài Phân tích thực trạng phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN 1.1 GIỚI THIỆU VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN. 1.1.1 Lịch sử hình thành sản phẩm bao thanh toán. 1.1.2 Khái niệm về bao thanh toán. 1.1.3 Phân loại bao thanh toán. 1.1.4 Phí bao thanh toán. 1.1.5 Quy trình thực hiện bao thanh toán. 1.1.6 Lợi ích khi sử dụng nghiệp vụ bao thanh toán. 1.1.7 Rủi ro phát sinh từ hoạt động bao thanh toán. 1.2 HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN TRÊN THẾ GIỚI. 1.3 KINH NGHIỆM BAO THANH TOÁN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM. 1.3.1 Kinh nghiệm từ các nước trên thế giới 1.3.2 Bài học kinh nghiệm của Việt Nam. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM 2.1 CÁC QUY ĐỊNH VỀ BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM. 2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 2.2.1 Tình hình hoạt động bao thanh toán hiện nay. 2.2.2 Khó khăn và tồn tại khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM. 3.1 TÍNH CẤP THIẾT CẦN PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM. 3.2 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM. 3.2.1 Giải pháp vĩ mô. 3.2.2 Giải pháp vi mô. PHẦN 3: KẾT LUẬN.

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2733 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh khả năng suy thoái kinh tế thế giới đang rất cao, nhiều dấu hiệu cho thấy toàn cầu có thể phải đối mặt với một cuộc suy thoái sâu rộng hơn bất kỳ cuộc suy thoái nào trong vòng 30 năm qua, Việt Nam cũng phần nào chịu ảnh hưởng của cơn lốc này. Tuy nhiên, nói về kinh tế Việt Nam, bên cạnh những nhận định khó khăn, nền kinh tế non trẻ đang trên đà phát triển của Việt Nam thì nước ta đã có những giải pháp nhất định để đảm bảo tăng trưởng kinh tế là động lực chủ yếu để tạo thêm nhiều việc làm ổn định và bền vững cho người lao động. để nền kinh tế tăng trưởng bền vững ổn định trong thời gian tương đối dài và giải quyết tốt vấn đề tiến bộ xã hội. Mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững. Vì vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nước ta hướng đến, sự đầu tư này góp phần làm tăng tổng vốn đầu tư, thu hút được nhiều nguồn vốn mà còn là kết hợp một cách hết sức hiệu quả giữa vốn, các mối quan hệ có liên quan như an ninh quốc gia nhằm đảm bảo cho môi trường đầu tư lành mạnh, ổn định, tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp thu quản lý tri thức và công nghệ hiện đại đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thu ngân sách nhà nước và ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó nền kinh tế phải đối mặt với những tác động tiêu cực mà đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại nó tạo ra sức ép cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, việc chuyển giao công nghệ không nhiều, nguồn lực phân bổ không cân đối => Đó cũng là thử thách không nhỏ đối với nước ta hiện nay. Qua đó phát huy mặt tích cực, ngăn chặn những tác động tiêu cực thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam cùng với việc bổ sung nguồn vốn quan trọng vào vốn đầu tư, thu hút những công nghệ mới, mở rộng quy mô sản xuất, thúc đẩy chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung: Phân tích tác động của đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số vấn đề liên quan. Phân tích thành tựu và hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Nguyên nhân - bài học kinh nghiệm các giải pháp chủ yếu với tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. 1.3. Phương pháp nghiên cứu 1.3.1. Phương pháp thu số liệu thứ cấp: Từ báo chí, internet, tạp chí, các nguồn khác,… 1.3.2. Phương pháp phân tích số liệu: Thống kê, so sánh các số liệu tương đối và tuyệt đối. 1.4. Phạm vi nghiên cứu 1.4.1. Không gian: do số liệu hạn chế nên đề tài nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên phạm vi cả nước. 1.4.2. Thời gian: đề tài được thực hiện từ tháng 5/2009 đến tháng 7/2009. 1.4.3. Nội dung:tác động của đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. PHẦN 2 : NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là công ty mẹ và các tài sản được gọi là công ty con hay chi nhánh công ty. 1.2. Các hình thức FDI © Phân theo bản chất đầu tư + Đầu tư phương tiện hoạt động: là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. + Mua lại và sáp nhập: là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào. Phân theo các nguồn vốn. + Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty. + Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. + Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. 1.3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế 1.3.1. Các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế 1.3.1.1. Tổng sản phẩm quốc nội (Gross domestic product) Tổng sản phẩm nội địa hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Khi áp dụng cho phạm vi toàn quốc gia, nó còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó. Tồn tại hai loại GDP là GDP thực tế và GDP danh nghĩa. GDP danh nghĩa * GDP danh nghĩa là tổng sản phẩm nội địa theo giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời kỳ đó. Do vậy còn gọi là GDP theo giá hiện hành GDPin = ∑QinPin Trong đó: i: loại sản phẩm thứ i với i =1,2,3...,n t: thời kỳ tính toán Q: số lượng sản phẩm ; Qi: số lượng sản phẩm loại i P: giá của từng mặt hàng; Pi: giá của mặt hàng thứ i. * GDP thực tế là tổng sản phẩm nội địa tính theo sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của năm ngiên cứu còn giá cả tính theo năm gốc do đó còn gọi là GDP theo giá so sánh. => GDP thực tế được đưa ra nhằm điều chỉnh lại của những sai lệch như sự mất giá của đồng tiền trong việc tính toán GDP danh nghĩa để có thể ước lượng chuẩn hơn số lượng thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP. GDP thứ nhất đôi khi được gọi là GDP tiền tệ trong khi GDP thứ hai được gọi là GDP giá cố định hay GDP điều chỉnh lạm phát hoặc GDP theo giá năm . Số tiền chi phí cho GDP thì GDP thực tế lại có tính đến các yếu tố như sự mất giá của tiền tệ để ước lượng chính xác hơn số lượng hàng hóa và dịch vụ thực sự tạo thành GDP. GDP danh nghĩa đôi khi còn được gọi là GDP tiền tệ trong khi GDP thực tế còn được gọi là GDP giá cố định hay GDP điều chỉnh lạm phát. Có ba cách tính GDP đó là tính theo tổng giá trị tiêu dùng, tổng các khoản chi tiêu hoặc tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Về lý thuyết, dù theo cách tính nào cũng cho kết quả tính GDP như nhau. Nhưng trong nhiều báo cáo thống kê, lại có sự chênh lệch nhỏ giữa kết quả theo ba cách tính. Đó là vì có sai số trong thống kê. GDP là tổng giá trị tiêu dùng, các nhà kinh tế học đưa ra một công thức như sau: GDP = C + I + G + NX Trong đó: • C: là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế. • I: là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư. Cần phân biệt rõ đầu tư này với các đầu tư mang tính đầu cơ tích trữ vào thị trường chứng khoán và trái phiếu. • G: là tổng chi tiêu của chính phủ. • NX: là xuất khẩu ròng của nền kinh tế. GDP theo cách tính tổng chi phí (tổng chi tiêu nội địa hay GDE (Gross Domestic Expenditure) được tính toán tương tự, mặc dù trong công thức tính tổng chi phí không kê khai những khoản đầu tư ngoài kế hoạch (bỏ hàng tồn kho vào cuối chu kỳ báo cáo) và nó phần lớn được sử dụng bởi các nhà kinh tế. GDP được sử dụng rộng rãi trong kinh tế, giá trị của nó như là một chỉ số vẫn đang là vấn đề gây ra nhiều tranh luận. 1.3.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân - GNP (Gross National Product) Tổng sản phẩm quốc dân hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước). Sản phẩm cuối cùng là hàng hóa được tiêu thụ cuối cùng bởi những người tiêu dùng chứ không phải là những sản phẩm được sử dụng như là sản phẩm trung gian trong sản xuất những sản phẩm khác. Ví dụ, một chiếc ô tô bán cho người tiêu dùng là một sản phẩm cuối cùng; các thành phần như lốp được bán cho nhà sản xuất ô tô là sản phẩm trung gian. Cũng chiếc lốp đó, nếu bán cho người tiêu dùng thì nó lại là sản phẩm cuối cùng. Chỉ có sản phẩm cuối cùng mới được tính trong thu nhập quốc gia, do việc đưa cả sản phẩm trung gian vào sẽ dẫn tới việc tính kép làm tăng ảo giá trị thực sự của thu nhập quốc gia. Thu nhập được tính như là một phần của GNP, phụ thuộc vào chủ sở hữu các yếu tố sản xuất chứ không phải là việc sản xuất diễn ra quốc gia nào. Có nhiều cách tính tổng sản phẩm quốc dân, dưới đây là cách tính theo quan điểm chi tiêu xã hội: GNP = C + I + G + (X - M) + NR Trong đó: • C = Chi phí tiêu dùng cá nhân • I = Tổng đầu tư cá nhân quốc nội • G = Chi phí tiêu dùng của nhà nước • X = Kim ngạch xuất khẩu ròng các hàng hóa và dịch vụ • M = Kim ngạch nhập khẩu ròng của hàng hóa và dịch vụ • NR= Thu nhập ròng từ các tài sản ở nước ngoài (thu nhập ròng) 1.4. Hạn chế của các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước đo trình dộ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành mục tiêu phấn đấu của một chính phủ vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính phủ. Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí. 1.5. Vai trò của tăng trưởng kinh tế Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. Tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okum1 (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội. Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển. Chương 2: TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM 2.1. Thực trạng thu hút FDI 2.1.1. Theo ngành nghề 2.1.1.1. Công nghiệp và xây dựng Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO, Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút FDI. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án FDI thuộc các lĩnh vực như thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may... vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Bảng 2.1.1.1: Thực trạng thu hút FDI đối với công nghiệp và xây dựng giai đoạn 2006 – 2008. ĐVT :Triệu USD Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư Vốn thực hiện 06 07 08 06 07 08 06 07 08 CN dầu khí 38 48 39 2,158 3,862 14,478 1,081 5,148 4,659 CN nhẹ 2,542 2,740 2,973 10,485 13,269 15,680 3,702 3,639 6,885 CN nặng 2,404 2,602 4,550 15,660 23,977 47,164 4,734 7,049 14,132 CN thực phẩm 310 350 378 2,441 3,622 4,199 1,208 2,058 1,876 Xây dựng 451 563 413 5,272 5,301 8,731 4,517 2,146 2,112 Tổng 5,745 6,303 8,353 36,016 50,031 90,252 15,242 20,040 29,664 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư Năm 2006, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5,745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. Năm 2007, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ chiếm tỉ trọng lớn lần lượt 2,740 triệu USD và 2,602 triệu USD trong tổng số 6,303 triệu USD của năm. Nhìn chung thực trạng thu hút FDI đối với công nghiệp và xây dựng tăng 558 triệu USD chiếm 55.8% so với năm 2006. Năm 2008, lĩnh vực công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ vẫn chiếm ưu thế hơn xây dựng, tỉ trọng lần lượt 54,47% và 35,59% trong khi đó xây dựng chỉ chiếm 4,95%. Tuy nhiên vẫn có xu hướng tăng đáng kể, công nghiệp nhẹ tăng 12,22% so với 2006 và tăng 11% so với 2007. Công nghiệp nặng tăng 13.19% so với 2007 tăng 12.63% so với 2006. à Tóm lại thực trạng thu hút FDI đối với công nghiệp và xây dựng giai đoạn 2006 – 2008 có xu hướng tăng tương đối nhanh. Vốn thực hiện luôn thấp hơn so với vốn đã đăng ký. 2.1.1.2. Dịch vụ Việt Nam có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Vì vậy khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản... tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ, FDI tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn FDI trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%). Bảng 2.1.1.2 : Thực trạng thu hút FDI đối với dịch vụ ĐVT: triệu USD TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư Đầu tư đã thực hiện 1 Giao thông vận tải-Bưu điện (bao gồm cả dịch vụ logicstics) 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê 153 9.262 1.892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp– khu chế xuất 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8 Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) 954 2.145 445 Tổng cộng 1.912 28.609 7.399 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí. 2.1.1.3. Nông – Lâm - Ngư nghiệp Năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD, Các dự án FDI trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Bảng 2.1.1.3: Thực trạng thu hút FDI đối với Nông – Lâm - Ngư nghiệp ĐVT: USD STT Nông, lâm nghiệp Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện 1 Nông-Lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư 2.1.2. Theo vùng - lãnh thổ FDI tập trung chủ yếu tại các vùng trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế - xã hội. Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% trong tổng vốn thực hiện của cả nước; Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện. Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiến bộ trong thu hút vốn FDI, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế. 2.1.3. Theo hình thức đầu tư Năm 2007, các doanh nghiệp FDI thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. 2.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế qua các năm Bảng 2.2.1: Một số chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế từ 2006 -2008 Chỉ tiêuC Các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế 2006 2007 2008 Tăng trưởng GDP (%) 8,2 8,5 6,23 Chỉ số sản xuất công nghiệp (%) 17,0 17,1 16,8 Tỷ lệ thất nghiệp (% khu vực thành phố) 4,8 4,6 4,5 Chỉ số giá tiêu dùng (%) 7,5 12,6 12,6 Cán cân thương mại (tỷ USD) -5,1 -14,2 -16,0 Xuất khẩu (tỷ USD) 39,8 48,5 59,2 Nhập khẩu (tỷ USD) 44,9 62,7 75,2 Nợ nước ngoài (tỷ USD) 19,2 22,4 24,8 % tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP 31,5 31,6 30,5 Dự trữ, bao gồm vàng (tỷ USD) 11,5 21,6 22,1 Tăng trưởng tín dụng (%) 25,4 53,9 30,0 Lãi suất ngắn hạn (%-3 tháng) 7,9 8,9 9,0 Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam, World Bank và IMF Năm 2006 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,2%. Nền kinh tế cũng đạt được tiến bộ lớn như tổng số vốn đầu tư xã hội ước đạt 390,5 ngàn tỷ đồng bằng 40% GDP. Xuất khẩu đạt gần 40 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng cao khoảng 22%, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 9 tỷ USD. Tích cực trong hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước. . Việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2006 có tác động sâu rộng đối với sự phát triển kinh tế đất nước, nâng cao hình ảnh Việt Nam, khơi rộng các nguồn vốn đầu tư và mở thêm các các cơ hội kinh doanh thương mại. Năm 2007 Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 8,5% cao hơn 0,3% so với năm 2006. Tổng GDP đạt 1.144.000 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng, tương đương 835 USD/đầu người. Nếu so sánh với các nước trong khu vực, theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao thứ 2, sau Trung Quốc (11,2%), vượt qua cả Singapore (7,5%) và các nước khác. Ngoài ra, vốn đấu tư phát triển toàn xã hội tăng 22,4%, bội chi ngân sách Nhà nước bằng 5% GDP, Cơ cấu đóng góp của khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP cũng nâng từ mức 38,08% năm 2006, lên 38,14% trong năm 2007. Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và xây dựng trong GDP cũng cải thiện hơn năm 2006, chiếm 41,61% (so với con số 41,52% năm 2006). Tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt 10,6%. Khu vực nông nghiệp gặp khó khăn do thiên tai và dịch bệnh, đạt tốc độ tăng trưởng 3,41. Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp trong GDP giảm từ mức 20,40% năm 2006 xuống 20,25% trong năm 2007. Đầu tư nước ngoài, là một lực đẩy giúp kinh tế tăng tốc. Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước và tăng 15,8% so với năm 2006. Vốn đầu tư nước ngoài thu hút mới tính tới 22/12 đạt 17,86 tỷ USD. Nếu tính cả 2,47 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép trong các năm trước thì tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006. Tốc độ tăng giá tiêu dùng sau những tháng đầu năm liên tục tăng nhưng các tháng cuối năm đã liên tục giảm. Tính bình quân giá tiêu dùng năm 2008 tăng 22,97% so với năm 2007. Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2008 tăng 26,3%; tổng chi ngân sách tăng 22,3%. Bội chi ngân sách chỉ bằng 97,5% mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua từ đầu năm. Thâm hụt trong cán cân thương mại đã được cải thiện vào cuối năm 2008. Kim ngach xuất khẩu đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Tổng nhập siêu của nền kinh tế năm 2008 chỉ còn 17,5 tỷ USD, chiếm 27,8% giá trị xuất khẩu. Cán cân thương mại ngày càng nghiêng về phía nhập siêu, khi kim ngạch nhập khẩu cả năm lên tới 60,8 tỷ USD. Nhập siêu hàng hóa đang chiếm tới 25,7% giá trị xuất khẩu và lớn gấp gần 2,5 lần mức nhập siêu của năm 2006. Năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,23%, khu vực nông, lâm thủy sản tăng 3,79%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33% và khu vực dịch vu tăng 7,2%. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 tuy thấp hơn 1,547% so với 2006 và 1,77% so với năm 2007 và chưa đạt mục tiêu kế hoạch tăng trưởng GDP đã được Quốc hội điều chỉnh 7% nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế nhiều nước suy giảm mạnh thì mức 6,23% vẫn là một tốc độ tăng trưởng khá cao, đặc biệt kiềm chế lạm phát, cân đối vĩ mô, an sinh xã hội được bảo đảm là một thành tựu thể hiện sự nỗ lực, điều hành chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế thế giới có những biến động phức tạp. Giá dầu thô và nhiều loại nguyên vật liệu hàng hóa trên thị trường thế giới tục tăng cao, sau đó giảm mạnh vào những tháng cuối năm. Khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ đã nhanh chóng dẫn tới suy giảm kinh tế toàn cầu. Sản xuất công nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do giá cả đầu vào tăng nhanh rồi giảm nhưng giá trị sản xuất công nghiệp vẫn tăng trưởng 14,6%;trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 4%, khu vực ngoài Nhà nước tăng 18,8% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,6%. è Tóm lại ta vẫn rất lạc quan về tương lai kinh tế Việt Nam. Hội nhập WTO, cùng các chính sách mở cửa và nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, và ưu thế về nguồn nhân lực, Việt Nam đang là điểm đến đầy bất ngờ với các doanh nhân thế giới. Đáng chú ý, với quy mô dân số hơn 85 triệu người, sức tiêu thụ nội địa lớn cũng sẽ là nhân tố giúp kinh tế phát triển bền vững. 2.3. Tác động của FDI đối với tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam. 2.3.1. Tác động tích cực FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế Đóng góp của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội thay đổi lớn, năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%. Vốn FDI đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29%. Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%). Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu và tỷ trọng XK/GDP- % Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê các năm và ADB FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp FDI đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. ... Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn FDI cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn FDI trong ngành công nghiệp. FDI đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới. FDI đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ. Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực FDI cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn FDI áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. FDI đóng góp đáng kể vào ngân sách nhá nước và các cân đối vĩ mô Đóng góp của doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam vào ngân sách ngày càng tăng. Các doanh nghiệp có vốn FDI đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn FDI đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD. FDI tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu... FDI góp phần giúp Việt Nam hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế FDI chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc…Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. FDI góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực Khu vực có vốn FDI đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế dần thay thế các chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. FDI góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới FDI đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Nhờ vào sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được đánh giá cao. Biểu đồ 2.3: Nguồn vốn FDI, ODA, kiều hối, FPI vào VN giai đoạn 1992-2007 Nguồn: Tổng cục Thống kê, IMF, WB 2.3.2. Tác động tiêu cực Nông – Lâm - Ngư nghiệp : Đầu tư vào lĩnh vực này rủi ro đầu tư cao, nên kết quả thu hút FDI vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ: Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án FDI nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn FDI còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, chỉ có Lâm Đồng đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn FDI còn thấp so với các vùng khác của cả nước.Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút FDI phục vụ phát triển kinh tế tại các vùng này còn rất thấp. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được FDI nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài . Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời: Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, một số trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ đối với các nước tiếp nhận đầu tư, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Chương 3: GIẢI PHÁP VỚI TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 3.1. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế FDI 3.1.1. Nguyên nhân của những thành tựu Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành. Nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập và mức sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện đã góp phần mở rộng dung lượng thị trường trong nước. Sự ổn định về chính trị - xã hội cùng với sự đảm bảo về an ninh đã làm cho nước ta được cộng đồng các nhà đầu tư quốc tế đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn. Hệ thống luật pháp chính sách về đầu tư nước ngoài đã tiếp tục được hoàn chỉnh hơn tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong những năm qua Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu thầu, đồng thời tiếp tục chỉnh sửa nhiều chính sách liên quan đến đầu tư. Nhiều luật mới cũng đã được Quốc hội thông qua, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn, như Luật Chứng khoán, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ Luật Lao động liên quan đến đình công. Hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực ở cả trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm vào các địa bàn trọng điểm, dự án quan trọng. Đặc biệt việc tổ chức các Hội thảo, diễn đàn đầu tư trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của Lãnh đạo Chính phủ ta đã thu hút mối quan tâm của hàng trăm tập đoàn, công ty lớn của nước ngoài. Cơ chế đối thoại giữa Chính phủ với các nhà đầu tư được tăng cường thông qua nhiều diễn đàn, nhất là Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ đã tạo thêm lòng tin của các nhà đầu tư đối với Chính phủ, các Bộ ngành và chính quyền địa phương. Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân. Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án). Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch. è Chính vì vậy, mà hiệu quả đã được nâng dần với kết quả minh chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào tìm kiếm cơ hội đầu tư và ký kết số lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn sóng đầu tư mới lần 2 vào Việt Nam, kể từ năm 1987 đến nay. 3.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài đều thống nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi về đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và về đầu tư trực tiếp nước ngoài, chưa thực sự coi về đầu tư trực tiếp nước ngoài là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép về đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích về đầu tư trực tiếp nước ngoài mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. Môi trường đầu tư - kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn FDI tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt. Định hướng chiến lược thu hút vốn về đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp về đầu tư trực tiếp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam. Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp trong quản lý hoạt động về đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình về đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh. 3.2. Các giải pháp chủ yếu với tác động tiêu cực Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt, hạn chế những tác động tiêu cực mà đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau Giải pháp về quy hoạch Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu để bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Giải pháp về luật pháp, chính sách Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về việc thực hiện cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở để cấp giấy chứng nhận đầu tư.Giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Uu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Giải pháp về xúc tiến đầu tư Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. Vận động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư – thương mại - du lịch. Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về đầu tư trực tiếp nước ngoài cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga) Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Giải pháp về lao động, tiền lương Hoàn thiện chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Giải pháp về cải cách hành chính Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế một cửa trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, phù hợp với điều kiện cụ thể. Xử lý kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. PHẦN 3 : KẾT LUẬN Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế nước ta trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực, chúng ta không ngừng vận dụng những lợi ích mà đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại góp phần nâng cao sự tăng trưởng cho nền kinh tế với những hình thức, chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó cần đưa ra những biện pháp, đạo luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được nâng cao qua sự gia tăng số lượng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Dù hiện nay môi trường đầu tư ở Việt Nam rất hứa hẹn, nhưng vẫn có rất nhiều rủi ro và thách thức tiềm ẩn có thể tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước nhà. Tốc độ phát triển kinh tế phụ thuộc vào yếu tố kích thích ở bên ngoài nước. Mặc dù nước ta đã chứng kiến tốc độ tiêu thụ nội địa mạnh mẽ trong những năm gần đây, nền kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp tục theo mức trao đổi mậu dịch từ bên ngoài cao và đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng. Hơn nữa, thực tế khả năng của các bên đối tác Việt Nam trong liên doanh thường yếu cả về vốn lẫn trình độ quản lý, dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Vì vậy, nhà nước ta đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Đầu tư, nhằm cân bằng các dự án đầu tư trên toàn lãnh thổ, làm cho các doanh nghiệp ở các ngành phát triển có hiệu suất hơn theo Phương châm của Đảng ta: “Việt Nam sẳn sàng là bạn là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên toàn thế giới“ TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Cành, “Phương Pháp Và Phương Pháp Luận Trong Nghiên Cứu Kinh Tế”, NXB Đại Học Quốc Gia, TPHCM, 2004. Lê Khương Ninh, Kinh tế Vi Mô, NXB Giáo Dục, 2008. David Begg, “ Kinh tế học Vĩ Mô”, NXB Thống Kê, 2007. Phùng Xuân Nhạ, Các Hình Thức Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài ở Việt Nam, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2007. Các website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích thực trạng phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan