Đề tài Phát triển dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ nội dung quy chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với việc cấp tín dụng thông thường. + Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập nhằng, khó hiểu vì quan hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt nhau.

pdf41 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2971 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
¹n 11. Th anh to¸n §¬n vÞ BTT NK 1. H§ b¸n hµng PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 12 Quy trình này thường sử dụng trong bao thanh toán quốc tế (xuất nhập khẩu hàng hoá). Sau đây là quá trình thực hiện: (1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. (2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. (3) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu đề nghị đơn vị bao thanh toán nhập khẩu cùng thực hiện hợp đồng bao thanh toán. (4) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng. (5) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch bao thanh toán với đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chấp thuận tài trợ cho người bán. (6) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. (7) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. (8) Người bán chuyển giao bản gốc hợp đồng mua bán hàng hóa, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tiếp tục chuyển nhượng các chứng từ trên cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. (9) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán. (10) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu tiến hành thu hồi nợ từ người mua. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 13 (11) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. (12) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu trích trừ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số tiền còn lại cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. (13) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho người bán. 1.1.5. Tiện ích và rủi ro khi sử dụng công cụ bao thanh toán 1.1.5.1. Tiện ích của bao thanh toán a) Đối với người bán Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh hơn. Lượng tiền mặt sẵn có tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Bao thanh toán là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu thành tiền mặt. Đối với bất kỳ một người bán nào, tiền mặt là quyền lực và sức mạnh. Không có tiền mặt, người bán không thể tồn trữ nhiều hàng hơn, cũng không có tiền để trả lương cho công nhân viên. Bao thanh toán không phân biệt khách hàng là ai, đó có thể là một công ty in ấn, một cửa hàng bán công cụ máy móc, một nhà máy dệt may, một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ hay bất cứ một chủ thể nào của nền kinh tế. Mỗi một đơn vị bao thanh toán, với kinh nghiệm dày dạn trong rất nhiều lĩnh vực, sẽ là một cộng tác đắc lực hỗ trợ cho công việc làm ăn của khách hàng ngày càng thuận lợi và phát triển hơn. Người bán có thể yên tâm vì các đơn vị bao thanh toán hoàn toàn có đủ năng lực chuyên môn, hệ thống mạng lưới rộng khắp cũng như là sự hiểu biết thông thái về từng lĩnh vực chuyên môn để có thể thực hiện tốt công việc của mình. Ở một số tổ chức bao thanh toán chuyên nghiệp, người bán thậm chí có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị bao thanh toán. Nói một cách ngắn gọn, các tổ chức PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 14 bao thanh toán giúp người bán lấp được lỗ hỗng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi được người mua thanh toán. Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, hấp dẫn làm mãi lực tăng mạnh, từ đó nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào càng sẵn sàng hỗ trợ nhiều hơn. Là một đối tác tài chính, các tổ chức bao thanh toán sẽ đem lại cho người bán nguồn lực tài chính để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn trữ thêm nhiều hàng tồn kho, cung ứng nhiều đơn hàng hay chỉ đơn giản là tìm kiếm các cơ hội làm ăn mới. Các tổ chức bao thanh toán luôn khẳng định mình sẽ luôn sát cánh với khách hàng, thấu hiểu mọi nhu cầu của họ, và thiết lập một chương trình hỗ trợ tài chính để giúp đỡ họ. Rất nhiều chủ thể kinh tế rơi vào tình trạng thiếu vốn khi muốn phát triển tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mình. Khi đó, bao thanh toán sẽ là phương tiện rất hiệu quả giúp họ vượt qua khó khăn. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng từ một người bán đưa ra giá thấp nhất mà lại có nguồn hàng dồi dào nhất. Nhưng chính điều đó lại đẩy người bán vào tình thế khó xử, càng phát triển lại càng phải bán chịu nhiều hơn. Thật không may là phần lớn người bán không thể nào xoay xở được với tất cả các khoản bán chịu này. Dù việc buôn bán có phát đạt đến thế nào thì tới một lúc người bán cũng nhận thấy rằng mình đang rơi vào một tình thế rất nguy hiểm. Các tổ chức bao thanh toán sẽ giảm thiểu rủi ro này bằng cách chuyển các hóa đơn chưa thu được tiền thành tiền mặt, nhờ đó mà người bán có thể tiếp tục cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần phải lo rủi ro thanh khoản nữa. Hệ quả trực tiếp của việc này là người bán nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình nhờ sẵn sàng chấp nhận khoảng thời gian bán chịu hấp dẫn người mua hơn. Các tổ chức bao thanh toán cam kết tận dụng sự thông thạo trong lĩnh vực tín dụng, thu hồi nợ, cung ứng nguồn tiền mặt hay tài trợ giúp cho người bán nâng cao được hiệu quả hoạt động, vừa tăng doanh số vừa giảm được mất mát do không thu hồi được nợ, đồng thời cải thiện rõ rệt dòng lưu chuyển tiền tệ. Nhờ mọi rắc rối kể trên đã được PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 15 chuyển sang cho tổ chức bao thanh toán nên người bán có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào việc sản xuất hay cung ứng hàng hóa. Nói tóm lại, người bán càng thêm có nhiều cơ hội làm ăn nhờ: o Sẵn sàng bán chịu cho người mua mà không sợ ảnh hưởng đến dòng lưu chuyển tiền tệ; o Tăng doanh số; o Tăng tồn trữ hàng tồn kho; o Cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ; o Tận dụng thế mạnh của chiết khấu thương mại; o Nâng hạng tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng; o Tìm kiếm nhiều cơ hội mới, mở rộng giao thương quốc tế. Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất. Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn phải mất thời gian quản lý các khoản phải thu từ người mua. Nếu người bán sử dụng bao thanh toán, công việc này sẽ được chuyển cho đơn vị bao thanh toán. Người bán không còn phải tốn chi phí để duy trì và điều hành một bộ phận chuyên trách việc xem xét khách hàng có đủ điều kiện mua chịu hay không, cũng như phải kiểm tra và thu hồi các khoản nợ này nữa. Với kinh nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản của mình, các tổ chức bao thanh toán sẽ giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp và hiệu quả mọi vấn đề liên quan đến các hóa đơn và việc thu hồi nợ. Châm ngôn của các tổ chức bao thanh toán lúc này là “Hãy để chúng tôi làm những việc mà chúng tôi làm tốt nhất, còn bạn, hãy làm những việc mà bạn làm tốt nhất !Chúng ta hãy cùng là đối tác tốt của nhau.” b) Đối với người mua PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 16 Thứ nhất, nhà nhập khẩu có thể giảm gánh nặng tài chính: do việc nhà nhập khẩu không phải mở thư tín dụng, không phải trả phí mở thư tín dụng, hay không phải ký quỹ… Thứ hai, nhà nhập khẩu được chủ động đối với hàng hóa: được nhận hàng và sử dụng hàng mà chưa cần phải thanh toán tiền ngay, và chỉ phải thanh toán tiền hàng khi hàng đáp ứng được các yêu cầu của hợp đồng mua bán. Thứ ba, nhà nhập khẩu đơn giản hóa thủ tục thanh toán: nhờ tập trung thanh toán về một đầu mối là ngân hàng Thứ tư, nhà nhập khẩu có thể mua hàng với điều kiện tài khoản ghi sổ như: mua giao hàng ngay, mua trả chậm, và nhà nhập khẩu có cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn. Hình thức này hỗ trợ rất lớn cho các nhà nhập khẩu về khả năng thanh khoản cũng như hoạt động ngân quỹ. Thứ năm, nhà nhập khẩu cũng giảm được công sức và chi phí trong việc quản lý sổ sách kế toán, quản lý khoản nợ: vì khi ngân hàng đã kí hợp đồng bao thanh toán với nhà xuất khẩu thì ngân hàng phải có trách nhiệm trong việc theo dõi, giám sát khoản phải thu từ phía nhà nhập khẩu. Vậy khi đó nhà nhập khẩu có thể thỏa thuận với ngân hàng trong việc quản lý sổ sách kế toán cũng như khoản nợ của mình. c) Đối với đơn vị bao thanh toán Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán cũng có được một thuận lợi là được hưởng lợi ích theo quy mô. Các lợi ích đó là: Thứ nhất, doanh thu hoạt động kinh doanh của đơn vị bao thanh toán sẽ tăng lên nhanh chóng nhờ các khoản tiền thu được khi thực hiện nghiệp vụ này như phí, lãi suất… Thứ hai, việc thực hiện bao thanh toán làm đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cho đơn vị bao thanh toán, đem lại tiện ích mới cho khách hàng và nguồn thu không nhỏ cho ngân hàng. Nghiệp vụ bao thanh toán còn cung cấp một số dịch vụ khác như:  Bảo hiểm rủi ro cho doanh nghiệp  Quản lý các khoản phải thu và thu nợ cho khách hàng PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 17  Tài trợ vốn cho các doanh nghiệp. Thứ ba, các đơn vị bao thanh toán có thể loại trừ được các khoản nợ xấu thông qua thực hiện bao thanh toán có truy đòi. Ngoài ra, quy trình thực hiện bao thanh toán đều yêu cầu đơn vị bao thanh toán xem xét đến khả năng tài chính của bên mua và bên bán, hoạt động mua bán phải thực hiện đúng những thỏa thuận và không trái pháp luật, đây là cơ sở vững chắc trong việc thu hồi các khoản phải thu sau khi đơn vị bao thanh toán đã mua lại từ bên bán. Thứ tư, các đơn vị bao thanh toán cung cấp dịch vụ này cùng lúc cho nhiều khách hàng nên xét về quy mô sẽ giảm được chi phí cố định liên quan đến các khách hàng đó. d) Đối với nền kinh tế BTT có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh và thu hút giao thương quốc tế trong điều kiện quốc gia đó còn nhiều hạn chế về luật thương mại và thực thi luật thương mại, hệ thống luật phá sản và kinh nghiệm quản lý. Đối với những quốc gia này, sự hạn chế về pháp luật, hành lang pháp luật chưa vững chắc và trình độ quản lý yếu kém là trở ngại lớn cho hoạt động giao thương trong và ngoài nước. Đặc biệt là trong giao thương quốc tế, các bên bán rất hạn chế giao dịch đối với bên mua tại các quốc gia có luật thương mại yếu kém vì cơ sở giao dịch không được bảo đảm. Điều này cũng đồng nghĩa với sự phát triển của quốc gia đó có nhiều hạn chế, sự hấp dẫn đầu tư cũng giảm sút. Thông qua việc thực hiện BTT, vấn đề này được cải thiện rất nhiều. Với vai trò hoạt động của mình, các đơn vị BTT phải có trách nhiệm tư vấn, kiểm tra các nghiệp vụ mua bán chung nhằm bảo đảm có thể kiểm soát theo dõi khoản phải thu trong tương lai được chặt chẽ và loại trừ được nợ xấu. Điều này cũng góp phần cải thiện hình ảnh của bên mua tại những quốc gia có luật thương mại yếu kém đối với bên bán, nhờ vào sự đảm bảo về mặt tài chính và uy tín của các đơn vị BTT (thông thường là các ngân hàng hay các công ty tài chính chuyên nghiệp). 1.1.5.2. Rủi ro khi thực hiện bao thanh toán:  Rủi ro gian lận PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 18 Rủi ro gian lận là rủi ro hóa đơn được bao thanh toán (có ứng trước) không tương ứng với một giao dịch thương mại thực tế nào. Vì vậy, hóa đơn đó không có giá trị pháp lý và đơn vị bao thanh toán không thể thu nợ từ người mua. Như đã nói ở trên, đơn vị bao thanh toán ứng trước cho người bán trước khi được nhận thanh toán từ người mua. Người bán sau khi giao hàng sẽ ký phát hóa đơn đòi tiền người mua và gửi cho đơn vị bao thanh toán một bảo sao hóa đơn. Phần lớn các gian lận đều xuất phát từ đây. Người bán có thể ký phát hóa đơn trước khi giao hàng thực tế hoặc thậm chí ký phát những hóa đơn hoàn toàn không có thật để nhận được tiền ứng trước của đơn vị bao thanh toán.  Rủi ro thu nợ Rủi ro thu nợ là rủi ro đơn vị thanh toán không thể thu được nợ đúng hạn và hiệu quả. Khác với các nghiệp vụ tín dụng truyền thống khác, rủi ro trong việc thu hồi nợ phụ thuộc rất nhiều vào uy tín và năng lực tài chính của người mua hàng chứ không phải người bán. Bên mua hàng là người chịu trách nhiệm trả nợ chính cho đơn vị bao thanh toán nhưng vì họ không phải là người trực tiếp yêu cầu khoản tín dụng từ đơn vị bao thanh toán và do đó họ không có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến khả năng tài chính và tình hình hoạt động của mình cho đơn vị bao thanh toán. Chính vì vậy, khó khăn lớn nhất của các đơn vị bao thanh toán trong khi thực hiện nghiệp vụ này là không chắc chắn thu hồi được nợ. Ngoài ra, đơn vị bao thanh toán có thể gặp rủi ro nếu học cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho hàng được bán theo phương thức ký gửi, hoặc hàng hóa cần được lắp đăt, hoặc hàng hóa có điều khoản bảo hành cho phép người mu không có quyền yêu cầu người bán muc lại hoặc giảm giá nếu hàng hóa không đáp ứng được những yêu cầu nhất định.  Rủi ro thanh khoản PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 19 ĐVBTT có thể gặp khó khăn về tính thanh khoản khi luồng tiền ra và luồng tiền vào của đơn vị không tương xứng, cả về lượng và thời gian. Khi đó ĐVBTT sẽ không thể ứng trước cho người bán cho đến khi thu được nợ.  Rủi ro ngoại hối Đối với nghiệp vụ bao thanh toán xuất – nhập khẩu, khi ứng trước cho người bán hoặc khi thu nợ từ người mua bằng ngoại tệ, lợi nhuận của đơn vị bao thanh toán có thể bị ảnh hưởng khi tỷ giá hối đoái thay đổi PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 20 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM 2.1. Hoạt động bao thanh toán trên thế giới Hiện nay trên thế giới BTT đã được hầu hết các nước áp dụng và đặc biệt phát triển ở các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật... Điển hình các nước có doanh số lớn như Vương quốc Anh, Ý, Pháp, Đức, Tây Ban Nha… Cho đến nay số nước thực hiện BTT và tham gia hiệp hội BTT thế giới đã là 72 quốc gia với doanh số thực hiện năm 2007 lên đến 1.299.127 triệu EUR (số liệu của FCI) tăng 14,53 % so với năm 2006. Đây là một con số không nhỏ, chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP của các nước. Tuy nhiên doanh số BTT vẫn tập trung chủ yếu ở các nước phát triển thuộc Châu Âu với tỷ trọng BTT năm 2007 là 71.57% chiếm gần 2/3 doanh số BTT trên thế giới, tiếp sau đó là Châu Á với 13.44% và Châu Mỹ với 11.56 %. Một thực tế hiện nay là: bao thanh toán trên thế giới hiện nay vẫn chủ yếu là bao thanh toán trong nước với tỷ trọng BTT trong nước luôn chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2001 doanh số bao thanh toán trong nước mới có 664.659 triệu EUR nhưng con số này đã tăng gần gấp hai lần lên con số 1.153.131 triệu EUR vào năm 2007. Tuy nhiên bao thanh toán quốc tế trên thế giới tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ nhưng lại phát triển nhanh chóng năm 2007 so với năm 2001 gấp 3.5 lần từ 41.023 triệu EUR năm 2001 lên con số 145.996 triệu EUR năm 2007. Các các nước có doanh số BTT lớn nhất năm 2007 bao gồm: Anh (286.496 triệu EUR),Ý (122.800 triệu EUR), Pháp (1210660 triệu EUR), Mỹ (97.000 triệu EUR), Nhật (89.000 triệu EUR)… BTT đã không ngừng phát triển ở các nước phát triển mà còn đang lan rộng qua các nước đang phát triển như ở khu vực Châu Á, Bảng 9: Doanh số bao thanh toán của một số quốc gia châu Á Đơn vị: triệu euro PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 21 (Nguồn: Báo cáo thường niên của FCI) Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy tình hình phát triển của hoạt động bao thanh toán ở các nước khu vực Châu Á. Doanh số liên tục tăng qua các năm chứng tỏ hoạt động này đã đem lại một lợi ích quan trọng đối với các doanh nghiệp đang thiếu vốn như hiện nay. Năm 2004, khi nghiệp vụ bao thanh toán còn chưa xuất hiện ở nước ta, thì tại một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan đã khá phát triển rồi. Tuy rằng tốc độ tăng doanh số bao thanh toán của Việt Nam là khá ấn tượng, nhưng quy mô của nghiệp vụ bao thanh toán Việt Nam so với các nước châu Á khác là rất nhỏ bé. 2.2. Thực trạng hoạt động bao thanh toán tại các NHTM Việt Nam: Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 1990, nhưng chưa có điều kiện để phát triển. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động bao thanh toán đối với các doanh nghiệp Việt Nam, ngày 06/9/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng (sau này, gọi là Quy chế 1096). Sự ra đời của văn bản pháp lý này bước đầu đã tạo động lực thúc đẩy các tổ chức tín dụng triển khai và phát triển dịch vụ 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Trung Quốc 2640 4315 5830 1430 0 3297 6 5500 0 6730 0 Singapore 2435 2600 2880 2955 3270 4000 4700 Thái Lan 1425 1500 1640 1925 2240 2367 2107 Malaysia 718 730 532 480 468 550 700 Việt Nam 0 0 2 16 43 85 95 PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 22 bao thanh toán. Và mãi đến đầu năm 2005, bao thanh toán mới chính thức được triển khai tại Việt Nam. Ở Việt Nam, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài là những tổ chức thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán đầu tiên. Deutsche Bank AG là đơn vị đầu tiên triển khai dịch vụ này vào 01/2005. Tiếp đó, là một số ngân hàng khác cũng đồng loạt triển khai dịch vụ này, như Far East National Bank (02/2005), UFJ Bank (03/2005), City Bank (10/2005)… Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam triển khai thực hiện dịch vụ bao thanh toán đã tăng lên: Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Á Châu (ACB), Ngoại thương (VCB), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Phương Đông (OCB), Xuất nhập khẩu (Eximbank), Quốc tế (VIB), Đông Nam Á (Seabank), Việt Á, Nam Á, Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDB), Phát triển nhà Hà Nội (Habubank), Hàng hải (MSB)… Trong số này, có 4 ngân hàng tham gia vào FCI: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Kỹ Thương, Ngân hàng TMCP Á Châu và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Do còn dè dặt trong bước đầu triển khai nên hiện nay các ngân hàng chủ yếu thực hiện dịch vụ bao thanh toán trong nước có truy đòi. Tại Việt Nam, nghiệp vụ Bao thanh toán còn khá mới mẻ. Các ngân hàng Việt Nam cung cấp dịch vụ Bao thanh toán tập trung vào các ngành xuất khẩu thế mạnh như: Dệt may, da giày, gỗ, điện tử và linh kiện, thủy hải sản đông lạnh… FCI cho biết, doanh số Bao thanh toán năm 2011 tại Việt Nam đạt 25 triệu EUR, đạt mức tăng trưởng bình quân 1,8 lần trong giai đoạn 2007-2011. Như vậy so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2011 là 203.6 tỳ USD thì doanh số bao thanh toán tại Việt Nam thật quả là khiêm tốn. 2.2.1. Dịch vụ bao thanh toán tại một số ngân hàng tại Việt Nam Một số NHTM phát triển mạnh dịch vụ bao thanh toán tại Việt Nam có thể kể đến như ACB, Eximbank, BIDV… 2.2.1.1. Hoạt động bao thanh toán tại ACB: Bao thanh toán tại ACB gồm 2 loại hình: bao thanh toán trong nước (Domestic factoring) và bao thanh toán xuất nhập khẩu (International factoring). Bao thanh toán PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 23 trong nước là việc bao thanh toán dựa trên Hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. Bao thanh toán xuất nhập khẩu là việc bao thanh toán dựa trên Hợp đồng xuất nhập khẩu. Để được ACB bao thanh toán, khoản phải thu phải phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa hợp pháp và thời hạn thanh toán còn lại không quá 180 ngày. ACB sẽ không thực hiện bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa bị pháp luật cấm; các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp/đang có tranh chấp; từ các hợp đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi; các khoản phải thu được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp hoặc các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán. Sau khi chấp thuận bao thanh toán, ACB sẽ ký kết Hợp đồng bao thanh toán với bên bán hàng và bên bán hàng thực hiện việc chuyển nhượng quyền đòi nợ khoản phải thu cho ACB. ACB sẽ ứng trước một số tiền cho bên bán hàng. Tỷ lệ (hoặc số tiền) ứng trước này do ACB và bên bán hàng thỏa thuận và được thể hiện trong Hợp đồng bao thanh toán. Khi đến hạn thanh toán, ACB sẽ thu lại toàn bộ khoản nợ từ bên mua hàng. Số tiền còn lại giữa số tiền thu được từ bên mua hàng và số tiền ứng trước (sau khi trừ đi lãi và các chi phí khác) sẽ được chuyển vào tài khoản tiền gửi thanh toán của bên bán hàng mở tại ACB.  Đối tượng bao thanh toán của ACB a. Bên mua hàng Bên mua hàng là những khách hàng thỏa mãn các tiêu chí của ACB về quy mô, uy tín, ngành nghề kinh doanh cũng như khả năng tài chính Lợi ích của bên mua hàng khi tham gia bao thanh toán: - Tăng khả năng mua hàng trả chậm, khai thác tối đa lợi ích từ nguồn vốn chiếm dụng của bên bán hàng. - Tăng uy tín của bên mua hàng trên thị trường thông qua mức độ tín nhiệm của ngân hàng. b. Bên bán hàng PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 24 Bên bán hàng là những khách hàng thỏa mãn các quy định về bao thanh toán và có khoản phải thu đủ điều kiện. Lợi ích của bên bán hàng khi thực hiện bao thanh toán: - Chuyển đổi khoản phải thu thành tiền để bổ sung nguồn vốn tiếp tục chu kỳ kinh doanh mới. - Được ngân hàng kiểm tra, đánh giá khả năng thanh toán của bên mua hàng.  Tỷ lệ ứng trước Tỷ lệ ứng trước là tỷ lệ phần trăm trên giá trị khoản phải thu mà ACB ứng trước cho bên bán hàng, tối đa không quá 80% giá trị khoản phải thu.  Quy trình bao thanh toán tại ACB  Lãi bao thanh toán Lãi bao thanh toán được tính trên số tiền mà ACB ứng trước cho bên bán hàng và được thu lúc bên mua hàng/bên bán hàng thanh toán tiền cho ACB theo công thức sau: Lãi = [Số tiền ứng trước x Lãi suất (tháng) x số ngày bao thanh toán]/30ngày Số ngày bao thanh toán: tính từ ngày ứng trước tiền cho đến ngày bên mua hàng/bán bán hàng thanh toán tiền cho ACB.  Phí bao thanh toán PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 25 Phí bao thanh toán được tính trên giá trị khoản phải thu (số tiền bên mua hàng phải thanh toán) và thu một lần ngay khi ứng trước tiền cho bên bán hàng. ACB không hoàn lại lãi và phí cho bên bán hàng vì bất cứ lý do gì.  Thời hạn bao thanh toán - Thời hạn còn lại của khoản phải thu bao thanh toán tối đa không vượt quá 90 ngày. - Thời hạn gia hạn thanh toán trong mọi trường hợp tối đa không vượt quá 30 ngày. 2.2.2.2 Hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam a. Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước tại TCB. Định hướng khách hàng: khách hàng là doanh nghiệp bán hàng trong nước theo phương thức thanh toán trả chậm cho những người mua hàng uy tín được ngân hàng chấp thuận. Đối với BTT trong nước, TCB chỉ thực hiện BTT có truy đòi : Điều kiện thực hiện BTT trong nước: - Trước hết, doanh nghiệp đó phải có 1 năm kinh nghiệm buôn bán với người mua; - Khách hàng có tối thiểu 2 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh mặt hàng đề nghị; - Có lãi trong hai năm tài chính gần nhất; - Thực hiện thành công các hợp đồng trước đây; - Ngòai ra còn có các chỉ tiêu của khách hàng là người mua phải như sau: + Báo cáo tài chính phải có cơ quan kiểm toán độc lập. + Doanh thu năm tài chính gần nhất >200 tỷ + ROE >10% + Tổng tài sản : >100 tỷ + VCSH/ Tổng tài sản>30% + Tài sản lưu động / nợ ngắn hạn > 1,2 PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 26 Nhìn chung, TCB đã quy định những chỉ tiêu định lượng về người mua hàng được TCB chấp nhận. Đây là cơ sở thuận lợi để các chi nhánh của TCB thực hiện việc BTT cho các khách hàng một cách thống nhất. Quy trình thực hiện: Bước 1: khách hàng của TCB ký hợp đồng mua bán với điều khoản thanh toán là thanh toán trả chậm và giao hàng theo đúng nội dung của hợp đồng. Bước 2: Bên bán hàng sẽ đem khoản phải thu từ việc bán hàng đến ngân hàng đề nghị TCB tài trợ dựa trên khoản phải thu đó. Tại TCB sẽ tiến hành thẩm định những yêu cầu khách hàng, đặc biệt là quan tâm đến uy tín và năng lực thanh toán của bên mua hàng. Sau khi thẩm định, nếu mức phán quyết BTT vượt quá chi nhánh, thì hồ sơ được chuyển về hội sở. Khi được và đi đến quyết định đồng ý bao thanh toán và chuyển quyết định đó về chi nhánh Bước 3: Sau khi được hội sở chấp thuận, chi nhánh TCB cùng khách hàng (bên bán hàng) tiến hành ký hợp đồng bao thanh toán Bước 4 : Chi nhánh TCB sẽ gửi thông báo về việc chuyển nhượng khoản phải thu cho bên mua. Bên mua hàng Bên bán hàng TCB Hội sở TCB tại chi nhánh 1 2 3 4 5 6 2 2 PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 27 Nội dung thư thể hiện : • Đề nghị Công ty là người mua trực tiếp chuyển tiền thanh toán vào tài khoản của công ty tại TCB • Tên chủ tài khoản: [tài khoản của Techcombank gắn với tên khách hàng] • Số Tài khoản: • Tại Techcombank - chi nhánh cấp hạn mức BTT • Nội dung: thanh toán cho Hoá đơn/Đơn đặt hàng/Hợp đồng số… ký ngày… • Chỉ dẫn thanh toán trên áp dụng cho toàn bộ các khoản phải thu của [nhà cung cấp] từ Công ty và toàn bộ các khoản phải thu phát sinh trong tương lai (cho đến khi có văn bản thông báo khác) và không thể huỷ bỏ trừ khi có sự chấp thuận bằng văn bản của Techcombank Bước 5: Chi nhánh TCB sẽ ứng tiền cho khách hàng. Thông thường TCB sẽ ứng khoảng 80%-85% giá trị trên hóa đơn đòi tiền. Bước 6: Người mua hàng sẽ chuyển về TCB, TCB sẽ thu phần ứng trước, lãi phát sinh và phần còn lại trả lại công ty bán hàng, khi người mua hàng không trả nợ thì TCB sẽ gửi thông báo đòi nợ. Về mức phí áp dụng tại TCB: hiện nay mức phí TCB đang áp dụng phí thu hộ các khoản phải thu từ 20,000 đồng- 50,000 đồng/ khoản phải thu. Nhìn chung phí của TCB tương đối thấp hơn so với các ngân hàng trên địa bàn. Chẳng hạn tại ACB phí này là 0,5% trên giá trị BTT và tối thiểu 500,000 đồng. b. Bao thanh toán quốc tế: Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của TCB: Sau khi NHNN ban hành quyết định hướng dẫn nghiệp vụ BTT, TCB cũng cho ra đời quy trình nghiệp vụ BTT quốc tế, mà chủ yếu là BTT xuất khẩu. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 28 Theo TCB quy định, Bao thanh toán xuất khẩu là dịch vụ tài chính trọn gói dành cho nhà xuất khẩu bán hàng theo phương thức Open account (ghi sổ trả chậm hay còn gọi là T/T trả sau) hoặc D/A (nhờ thu trả chậm), bao gồm: Bảo hiểm rủi ro nợ xấu Ứng trước Hạch toán và theo dõi các khoản phải thu Thu hộ Quy trình như sau: (1) Nhà xuất khẩu gửi danh sách các nhà nhập khẩu cho Techcombank bao gồm tên, địa chỉ, hạn mức bao thanh toán yêu cầu cho mỗi nhà nhập khẩu. (2) Techcombank gửi danh sách các nhà nhập khẩu để đối tác bao thanh toán nhập khẩu thẩm định và cấp hạn mức bảo lãnh thanh toán. (3) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thông báo cho Techcombank về hạn mức bảo lãnh thanh toán và các điều kiện cấp hạn mức. (Điều kiện quan trọng nhất: nhà xuất khẩu phải chuyển nhượng tất cả các khoản phải thu theo phương thức T/T trả sau từ nhà nhập khẩu được cấp hạn mức cho Techcombank và cho Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu). Ví dụ: hạn mức khách hàng yêu cầu là 1.000.000 USD, Đơn vị BTT nhập khẩu cấp hạn mức bảo lãnh thanh toán 500.000 USD -> TCB cấp hạn mức BTT cho khách hàng 500.000 USD, tỷ lệ ứng trước 80% (~hạn mức ứng trước 400.000 USD), phí bao thanh toán 1,2%/trị giá hóa đơn. Các khoản phải thu trong hạn mức đều được ứng trước không cần TSĐB và được cung cấp đủ 3 dịch vụ quản lý, thu hộ và bảo lãnh thanh toán. Ở một thời điểm nào đó cho dù số dư các khoản phải thu của khách hàng phát sinh vượt 500.000 USD thì khách hàng vẫn phải chuyển nhượng các khoản phải thu vượt hạn mức cho TCB, các khoản phải thu này chỉ được cung cấp dịch vụ quản lý và thu hộ với mức phí phải đóng cũng thấp hơn (0,6%/trị giá hóa đơn), nếu muốn được ứng trước thì phải có TSĐB. Các khoản phải thu này sẽ được chuyển vào hạn mức và hưởng đủ các dịch vụ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 29 nếu sau đó có khoản phải thu nào đó được tất toán, trường hợp này KH phải đóng bổ sung phí BTT. Nếu uy tín nhà nhập khẩu tốt thì Đơn vị BTTNK có thể cấp hạn mức lên đến 100% hạn mức yêu cầu, nhưng với những KH được BTT lần đầu tiên thì không được như vậy. Nhưng cũng có thể khắc phục bằng cách: sau một vài giao dịch mà nhà nhập khẩu thanh toán nghiêm túc có thể xin Đơn vị BTT nhập khẩu tăng hạn mức. (4) Nếu nhà xuất khẩu nhất trí với hạn mức và các điều kiện BTT, Techcombank và nhà xuất khẩu ký một hợp đồng bao thanh toán duy nhất cho tất cả các khách hàng của nhà xuất khẩu. Techcombank hướng dẫn nhà xuất khẩu gửi thư thông báo cho nhà nhập khẩu về việc ký kết hợp đồng bao thanh toán, trong đó nêu rõ việc nhà xuất khẩu chuyển giao quyền thu nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn nhà nhập khẩu thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán. Techcombank hướng dẫn khách hàng quy định lại một số điều khoản trong hợp đồng xuất nhập khẩu cho phù hợp với dịch vụ bao thanh toán. - Không cản trở việc chuyển nhượng khoản phải thu phát sinh từ HĐ XNK cho bên thứ ba - Cho phép bên thứ ba tiến hành thu hộ khoản phải thu - Cho phép và bảo vệ bên thứ ba tiến hành các thủ tục pháp lý khác để khởi kiện trong những trường hợp không thu hồi được khoản phải thu. - Bộ chứng từ gửi cho Techcombank sau đó Techcombank gửi cho nhà nhập khẩu. (5) Nhà xuất khẩu tiến hành giao hàng, xuất trình bộ chứng từ cho Techcombank kiểm tra và đề nghị giải ngân tiền ứng trước nếu có nhu cầu. (6) Techcombank gửi bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu đi nhận hàng. Techcombank thông báo cho đối tác bao thanh toán nhập khẩu về khoản phải thu mới phát sinh, đối tác bao PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 30 thanh toán nhập khẩu sẽ chấp thuận bao thanh toán khoản phải thu này nếu không có gì trái với các điều kiện đã đặt ra khi xét duyệt cấp hạn mức. (7) Techcombank tiến hành giải ngân cho nhà xuất khẩu theo các điều kiện đã quy định trong hợp đồng bao thanh toán. (8) Đối tác bao thanh toán nhập khẩu của Techcombank tiến hành thu nợ khi khoản phải thu đến hạn thanh toán và chuyển tiền cho Techcombank để ghi Có cho nhà xuất khẩu. Techcombank sẽ thông báo ngay cho nhà xuất khẩu nếu có bất cứ việc khấu trừ thanh toán hoặc tranh chấp nào phát sinh từ phía nhà nhập khẩu. Trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán và không gây tranh chấp nào đối với khoản phải thu, Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu sẽ thực hiện thanh toán thay 100% số tiền của khoản phải thu thuộc hạn mức BTT cho nhà xuất khẩu qua Techcombank. Khi đó Techcombank sẽ tất toán với nhà xuất khẩu sau khi trừ đi số tiền đã ứng trước và các khoản lãi, phí chưa nộp khác. Với các khoản phải thu ngoài hạn mức BTT, Đơn vị BTT nhập khẩu vẫn thu nợ nhưng không thực hiện thanh toán thay nếu nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán. Sau một số ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán mà nhà nhâp khẩu không thanh toán, TCB có quyền truy đòi số tiền đã ứng trước cho nhà xuất khẩu. 2.2.2 Đánh giá về hoạt động bao thanh toán của NHTM tại VN: Hiện nay Việt Nam đang có 11 ngân hàng tham gia vào dịch vụ bao thanh toán, trong đó 4 ngân hàng là ACB, Vietcombank, Sacombank và Techcombank là những ngân hàng đầu tiên áp dụng dịch vụ này vào thanh toán. Trong đó ACB là nổi bật nhất trong việc thực hiện bao thanh toán. Tuy nhiên cho đến nay vẫn đơn thuần là áp dụng với khách hàng trong nước với doanh số thực hiện còn khá thấp. - Nhiều doanh nghiệp vẫn còn xa lạ với loại hình dịch vụ bao thanh toán, nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vẫn ưu tiên sử dụng các hình thức như gửi tiền, tín dụng chứng từ… hơn là bao thanh toán. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 31 - Lãi và phí của loại hình dịch vụ này tương đối cao so với các doanh nghiệp trong nước. Đi liền cùng với mức độ tín nhiệm bảo lãnh, phí lại càng cao, ACB có thể là ví dụ điển hình trong vấn đề này khi thu phí cao hơn hẳn các ngân hàng khác. Những loại thực phẩm nông sản, đồ tươi khó bảo quản nếu chấp nhận bao thanh toán cho bên mua thì cần phải xem xét kỹ lưỡng. - Ngân hàng đòi hỏi khá cao đối với khách hàng để chứng minh uy tín của bên mua hàng hóa. Đối với các nhà sản xuất ở trong nước, trình độ hiểu biết về thị trường nước ngoài còn hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều nên khó có thể đáp ứng vấn đề này. - Sản phẩm chưa hoàn thiện, chưa đa dạng, chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp lớn. 2.3 Nguyên nhân của một số tồn tại khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam: Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhưng tình hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể hiện hết những ưu điểm vốn có của nó. Hoạt động của dịch vụ này còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Đối tượng khách hàng hiện nay sử dụng dịch vụ Bao thanh toán tại các ngân hàng còn rất hạn chế, chủ yếu là các khách hàng quen, đã từng sử dụng nghiệp vụ này hoặc có quan hệ tín dụng với ngân hàng thì mới tham gia dịch vụ này. Bên cạnh đó hoạt động bao thanh toán quốc tế cũng còn nhiều hạn chế nên chưa phát triển được. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ phía Nhà nước với những bất cập môi trường pháp lý, từ chính bản thân các đơn vị thực hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể: 2.3.1 Khung pháp lý Hoạt động bao thanh toán cũng được quy định trong nhiều quy định như 1096/2004/Q Đ- NHNN, 30/2008/QĐ- NHNN .Tuy nhiên, những quy chế này vẫn còn PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 32 nhiều bất cập và hạn chế. Chính vì thế, các ngân hàng thương mại, công ty tài chính vẫn chưa mạnh dạn triển khai rộng rãi hoạt động này. - Theo Quy chế 1096, bao thanh toán được định nghĩa “là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa”. + Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ nội dung quy chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với việc cấp tín dụng thông thường. + Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập nhằng, khó hiểu vì quan hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt nhau. + Theo Quy chế 1096, nghiệp vụ bao thanh toán chỉ áp dụng cho các khoản phải thu xuất phát từ hợp đồng mua bán hàng hóa, không đề cập gì đến khoản phải thu phát sinh từ việc cung ứng dịch vụ. - Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng trước chỉ đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc sở hữu của người bán. Chính sự không chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ bao thanh toán đã dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển giao quyền đòi nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Pháp luật hiện nay vẫn không có quy định liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này. - Theo mục c, d, đ, e, khoản 1, điều 13 của Quy chế 1096 có viết: PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 33 “c. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. d. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán. đ. Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán và đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn vị bao thanh toán. e. Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán”. Điều này đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng Việt Nam khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Khi người bán và đơn vị bao thanh toán đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng, mà bên mua hàng không đồng ý, không gửi văn bản xác nhận về việc đã nhận thông báo thì sẽ gây khó khăn cho cả người bán và đơn vị bao thanh toán. Bởi vì, pháp luật sẽ không thừa nhận dịch vụ bao thanh toán nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng phải trả nợ. Cũng theo đề mục trên, khi người bán và đơn vị bao thanh toán thỏa thuận, kí kết hợp đồng bao thanh toán, sẽ phải đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng. Như vậy, chưa đủ cơ sở để xác định thông báo có hiệu lực thi hành cho tất cả các bên. - Cũng theo Quy chế 1096, chỉ các tổ chức tín dụng mới được thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Quy định trên không hợp lý vì nó gây khó khăn cho các doanh nghiệp có uy tín, có năng lực về tài chính và thẩm định khách hàng muốn cung cấp dịch vụ này. - Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết mọi tranh chấp thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã được đóng dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp đồng thương mại khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có tranh chấp, sẽ được đưa ra PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 34 trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử. Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại, một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do luật pháp của ta chưa nghiêm. - Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối cùng và hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn tránh nghĩa vụ khi đến hạn. Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa thực sự là phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng kinh tế và dân sự còn quá phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án còn nhiều bất cập… Sau một chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết quả là ngân hàng vẫn đứng trước nguy cơ không thu hồi được khoản nợ. 2.3.2 Khái niệm bao thanh toán còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/2004, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hiểu biết về bao thanh toán vẫn còn rất mơ hồ nhất là các doanh nghiêp nhỏ lẻ. Tại các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế , các doanh nghiệp chỉ đựơc giới thiệu một chút am hiểu về sản phẩm bao thanh toán. Từ đó, họ không có khái niệm sử dụng dịch vụ cũng như lựa chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh nghiệp mình. 2.3.3 Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệp Bao thanh toán là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía người mua. Vì vậy, dịch vụ bao thanh toán có chi phí tương đối cao, trung bình khoảng 3 – 5% doanh thu. Chi phí cao bởi vì ngoài chi phí để gánh chịu rủi ro, còn bao gồm chi phí quản lý sổ sách, chi phí chuyển phát nhanh và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 35 2.3.4 Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán quốc tế Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho sự phát triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những chỉ chịu sự điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn chịu sự điều tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ như: theo GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh toán cho đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt Nam thì phải có xác nhận này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức bao thanh toán mới có hiệu lực. Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện bao thanh toán. Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng như tập quán riêng. Vì vậy, để nắm bắt, am hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, điều này thật không đơn giản. Và chính việc không am hiểu luật pháp quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, thua kiện khi ra tòa. 2.3.5 Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế Trong bao thanh toán quốc tế, người mua và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu ở hai quốc gia khác nhau, vì thế việc thẩm định người mua rất khó khăn. Nhất thiết cần phải có sự tham gia hỗ trợ của một tổ chức bao thanh toán tại quốc gia người mua (đơn vị bao thanh toán nhập khẩu). Do đó, một ngân hàng muốn thực hiện bao thanh toán quốc tế tốt, cần phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức bao thanh toán khác trên thế giới. Nhưng đa số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện để mở các chi nhánh tại nước ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng, đơn vị bao thanh toán nước ngoài còn nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn của các ngân hàng Việt Nam. Những lý do trên là nguyên nhân làm cho nghiệp vụ bao thanh toán không phát triển ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ bao thanh toán chỉ được thực hiện ở hội sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chưa quen thuộc và cũng chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện cũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ này đến khách hàng. Điều này cũng là một rào cản gây khó khăn cho việc mở rộng, phát triển sản phẩm ở thị trường đầy tiềm năng như nước ta. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 36 2.3.6 Nguyên nhân khác: Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên tài sản thế chấp của tín dụng ngân hàng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản đảm bảo không những được các ngân hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng nước ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro, không cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính không thể tin tưởng được.Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài sản đảm bảo đã làm giảm đi ưu thế của dịch vụ bao thanh toán, đồng thời cũng đã làm mất đi bản chất của dịch vụ này. Mặt khác, dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các doanh nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống thông tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện rất khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định chế tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao thanh toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất khẩu) sẽ hết nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh toán có quyền truy đòi. Điều này cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 37 Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách hàng của bên bán (bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng. Điều này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 38 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 3.1 Thiết lập mối quan hệ giữa các Ngân hàng, các Ngân hàng nên làm đại lý bao thanh toán cho nhau. Các Ngân hàng có thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán nên chủ động liên hệ với nhau và thảo luận về những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động bao thanh toán do thiếu thông tin về khách hàng, phải nhìn nhận những khó khăn chung mà hầu hết các ngân hàng đều gặp phải, từ đó nhấn mạnh tính chất đôi bên cùng có lợi từ sự liên kết này. Sau đó các ngân hàng hợp tác và trao đổi thông tin về khách hàng để xác minh cả bên bán và bên mua hàng; hoặc có những hợp đồng tài trợ theo phương thức: “đồng bao thanh toán”. Bên cạnh đó, để có thể sử dụng hệ thống hai đại lý bao thanh toán nhằm khắc phục những khó khăn về thiếu thông tin để thẩm định người mua cũng như để cung cấp dịch vụ thu hộ hiệu quả hơn, các ngân hàng nên thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý bao thanh toán cho nhau. Các ngân hàng phải đưa ra những quy định chặt chẽ về những ràng buộc giữa hai bên, nhất là về tính trung thực của thông tin về khách hàng mà ngân hàng đã cung cấp. 3.2 Khuyến khích và tiếp thị bên mua hàng ký hợp đồng liên kết với Ngân hàng . Ngân hàng để có thêm thông tin về người mua hàng, ngoài việc liên kết với các ngân hàng đại lý cũng có thể liên kết với chính người mua hàng thông qua việc thương lượng với họ về việc ký kết hợp đồng liên kết với mình. Và đương nhiên hai bên phải cùng có lợi qua sự liên kết này:  Về phía người mua: - Có được khoản hoa hồng phí theo một tỷ lệ phần trăm giá trị khoản phải thu cho việc giao dịch bao thanh toán với ngân hàng và được thông báo về việc bao thanh toán. (khoản PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 39 hoa hồng phí này bên mua chỉ có được khi có tham gia vào hợp đồng mua bán hàng hoá với bên bán được ngân hàng bao thanh toán). - Tập trung thanh toán về một mối là Ngân hàng  Về phía Ngân hàng: - Được người mua cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động và khả năng tài chính ngay khi ký kết hợp đồng và trong suốt quá trình thu nợ khi ngân hàng có yêu cầu. Từ đó, ngân hàng có thể nắm được tình hình của con nợ để có biện pháp xử lý và thu nợ. - Được người mua cung cấp danh sách các bên bán hàng mà họ đang có giao dịch mua bán. Do đó, ngân hàng có thêm thông tin của bên bán để có chiến lược tiếp thị hiệu quả hơn. - Người mua ký xác nhận thông báo về hợp đồng bao thanh toán mà ngân hàng đã ký kết với bên bán hàng và việc chuyển giao quyền đòi nợ. Và đây sẽ là cơ sở quan trọng để ngân hàng tiến hành giao khoản tiền ứng trước cho bên bán hàng 3.3 Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định chất lượng khoản phải thu và bên mua hàng, đặc biệt cần nâng cao kỹ năng thẩm định hợp đồng thương mại :  Đối với khoản phải thu: - Trên cơ sở các số liệu và thông tin phân tích, ngân hàng có thể xây dựng được các chỉ số an toàn phù hợp. - Kiểm tra cẩn thận các khoản phải thu với nhiều hình thức, trên các hợp đồng và các sổ phụ, trên các hoá đơn chứng từ và các tài khoản tại các NHTM khác. - Phân tích có dự báo tình hình các đối tác, tình hình thị trường có ảnh hưởng đến mặt hàng liên quan đến khoản phải thu. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 40 - Tận dụng tối đa các kênh thông tin khác như C.I.C. các Chi nhánh NHTM khác, thông tin qua các khách hàng là bạn hàng của nhau để phòng ngừa rủi ro đạo đức. - Tính toán lịch thu nợ, trả nợ liên quan đến các khoản phải thu trên cơ sở cân đối dòng tiền phải trả cho ngân hàng và cho khách hàng. Ngoài ra, hoá đơn bán hàng là chứng từ người bán phát hành để đòi tiền người mua thanh toán những khoản nợ phát sinh từ việc mua bán hàng giữa hai bên. Do đó, ngân hàng nên quy định rõ những điều kiện của hoá đơn của các sản phẩm có thể bao thanh toán được.  Đối với người mua hàng - Cần sử dụng nhiều nguồn thông tin chính thống và phi chính thống để tìm hiểu uy tín, tư cách và lịch sử tín dụng của bên mua. Quan trọng nhất là nguồn thông tin từ các ngân hàng đại lý – ngân hàng mà người mua có quan hệ giao dịch thường xuyên; hoặc từ những thông tin do chính người mua cung cấp theo như những cam kết mà họ đã ký với ngân hàng trong hợp đồng liên kết. - Đối với các hợp đồng thương mại: Khi thẩm định hợp đồng cần chú ý hai vấn đề quan trọng sau: Tính chặt chẽ và hình thức của hợp đồng 3.4 Một số giải pháp khác - Đào tạo đội ngũ nhân viên có tính chuyên nghiệp cao, đồng thời nhanh chóng tuyển dụng nhân viên pháp lý chứng từ có kinh nghiệm trong việc lập và thẩm định các hợp đồng thương mại. - Tăng cường các hoạt động Marketing - Các ngân hàng cần phải thiết lập nên bộ phận chuyên trách để thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán có hiệu quả hơn - Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng theo mặt bằng trình độ quốc tế PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 41

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_tieu_luan_cua_nhom_9_6938.pdf
Luận văn liên quan