Đề tài Phát triển dịch vụ thẻ tại ngân hàng TMCP tại Việt Nam

- Tiếp tục thống nhất thu phí phát hành và thu phí chiết khấu đơn vị chấp nhận thẻ * Hỗ trợ về mặt đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các ngân hàng thành viên Hiệp hội thẻ - Tiếp tục tăng cường tổ chức các khóa đào tạo về các nội dung: Quản lý rủi ro, phòng ngừa giả mạo, kỹ năng xử lý tra soát, khiếu nại. Giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới mẻ của các nước. Kết hợp v ới các cuộc hội thảo chuyên đề mời các chuyên gia thẻ của nước ngoài và trong nước. Hiệp hội thẻ cũng nên chú trọng đến các kiến nghị của ngân hàng tổ chức các đoàn thực tập dài ngày tại các ngân hàn nước ngoài cho các cán bộ của ngân hàng thành viên. * Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để quảng bá hoạt động thẻ Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để quảng bá hoạt động thẻ đến với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để từng bước xã hội hóa dịch vụ thẻ, đồng thời nâng cao sự hiểu biết của công chúng về quản lý, bảo mật thẻ, sử dụng thẻ an toàn. Hiệp hội thẻ sẽ kết hợp với các chương trình sự kiện lớn của đất nước hay những ngày lễ lớn thực hiện các chương trình tuyên truyền quảng bá hình ảnh thẻ, thúc đẩy thanh toán thẻ trên các cơ quan thông tấn, báo chí hoặc truyền hình. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng, cải tiến hình thức ấn phẩm “Thị trường thẻ Việt Nam” của Hiệp hội thẻ, để xứng đáng là kênh thông tin hợp pháp, chính thức thể hiện quá trình phát triển của thị trường thẻ Việt Nam.

pdf52 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2878 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ thẻ tại ngân hàng TMCP tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền mà chủ thẻ ký thác tại ngân hàng để đảm bảo thực hiện thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ. Ngân hàng có thể sử dụng vào các hoạt động kinh doanh và đảm bảo thanh toán đối với số tiền này. Có thể xem đây là nguồn vốn kinh doanh ngân hàng có thể tận dụng mà không phải chi trả lãi suất. Sô dư tiền tài khoản thanh toán càng lớn ngân hàng càng có khả năng mở rộng thêm các hoạt động kinh doanh mang lại thu nhập cao hơn cho ngân hàng. Chủ thẻ có số dư tiền gửi lớn cùng là các chủ thẻ có năng lực tài chính, tiếp cận được các khách hàng này cùng chính là thanh công của ngân hàng. Chính vì vậy, số dư tiền gửi trên tài khoản thẻ (số tuyệt đối hay trung bình/thẻ) cũng là một trong các tiêu chí thể hiện sự phát triển của dịch vụ thẻ của ngân hàng. 20 1.2.2.5. Doanh số thanh toán thẻ: Doanh số thanh toán thẻ là tổng giá trị các giao dịch được thanh toán bằng thẻ tại các điểm chấp nhận thẻ và số lượng tiền mặt được ứng tại các điểm rút tiền mặt. Doanh số này càng cao chứng tỏ số lượng khách hàng đặt niềm tin vào dịh vụ thanh toán thẻ và tính t iện ích cùng như sự an toàn của nó. Thông qua đó các chủ thể cung cấp dịch vụ này trong đó có các ngân hàng thương mại sẽ có thu nhập lớn hơn. Chính vì vậy đây là một tiêu chí phản ánh sự phát triển dịch vụ thẻ của ngân hàng. 1.2.2.6. Thu nhập từ hoạt động cung cấp dịch vụ thẻ: Xét cho cùng, ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ với mục đích gia tăng thu nhập, gia tăng số lượng dịch vụ để giảm rủi ro và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh thẻ có thể liệt kê theo cac nguồn như sau: * Thẻ nội địa: Nguồn thu từ phí phát hành, phí duy trì thẻ,…Thu từ việc sử dụng số dư trên tài khoản t iền gửi thanh toán, thu lãi cho vay từ khoản tín dụng tiêu dùng... * Thẻ quốc tế: - Thẻ ghi nợ có nguồn thu từ các khoản phí liên quan, số dư trên tài khoản thanh toán, phí từ Interchange - là một số phần trăm tính trên doanh số chủ thẻ giao dịch và phí do Visa/MasterCard trả cho ngân hàng phát hành. - Thẻ tín dụng : Phí phát hành, thường niên,…, thu lãi cho vay từ khoản tín dụng t iêu dùng, thu phí Interchange - là một số phần trăm tính trên doanh số chủ thẻ giao dịch, phí do Visa/MasterCard trả ngân hàng phát hành. 21 * Thu từ POS: Thu từ các điểm bán hàng một số phần trăm tính trên doanh số thanh toán, trả cho tổ chức thẻ quốc tế một phần, còn lại là thu của ngân hàng. * Thu từ ATM: Đây là nguồn thu nếu áp dụng việc tính phí giao dịch trên ATM: phí rút tiền, phí chuyển khoản, phí rút từ các khách hàng có thẻ ATM của ngân hàng khác trong liên minh,... 1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch vụ thẻ của ngân hàng thương mại 1.3.1. Nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Mức độ đầu tư cho dịch vụ thẻ Để phát triển dịch vụ thẻ đòi hỏi chi pí đầu tư rất lớn. Đó là chi phí đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng về phát hành và thanh toán thẻ, như chi phí đầu tư máy móc thiết bị, bên cạnh đó còn chi phí đầu tư cho các đơn vị chấp nhận thẻ, chi phí chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân viên,...đòi hỏi các ngân hàng phải có mức độ đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực kinh doanh này. Trong các nghiệp vụ ngân hàng hiện nay, nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ thẻ được coi là dẫn đầu về lĩnh vực công nghệ ứng dụng. Bên cạnh đó, dịch vụ thẻ là một hình thức thanh toán được phát tr iển dựa trên sự phát tr iển của kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Trước hết, phải nói đến công nghệ sản xuất thẻ, từ những chiếc thẻ từ đến những chiếc thẻ chip với hệ thông vi mạch điện tử với công suất bộ nhớ cao cho phép lưu trữ và xử lý ngày nhiều thông tin và giao dịch. Bên cạnh đó, phát triển dịch vụ thẻ còn cần hệ thống thanh toán nối mạng giữa tổ chức phát hành thẻ với các bên có liên quan như ngân hàng thanh toán, các điểm chấp nhận thẻ, điểm ứng tiền mặt,... Trong điều kiện hiện nay, khi số lượng giao dịch không ngừng gia tăng với yêu cầu ngày càng cao, để thanh toán 22 được thông suốt thì đòi hỏi sự phát triển cao về công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng và đòi hỏi các ngân hàng phải ứng dụng được công nghệ tiên tiến hiện đại vào hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng mình. Để có công nghệ hiện đại, các ngân hàn phải chấp nhận chi phí đầu tư ban đầu như chi phí tư vấn, chuyển giao, vận hành,... Do đó mức độ đầu tư sẽ quyết định sự phát triển cho nghiệp vụ này. 1.3.1.2. Số lượng và mật độ đơn vị chấp nhận thẻ cũng như các đơn vị chấp nhận thanh toán trực tuyến Dịch vụ thẻ không thể hoàn thiện nếu thiếu sự tham gia của các các đơn vị chấp nhận thẻ vì họ là trung gian quan trọng tạo nên tiện ích của dịch vụ thẻ. Nếu màng lưới cơ sở chấp nhận thẻ rộng khắp, việc thanh toán thẻ sẽ có nhiều thuận lợi và do đó số lượng người sử dụng thẻ sẽ nhiều hơn. Trong tương lai, khi thương mại điện tử thực sự phát triển, hầu hết các đơn vị cung cấp hàng hóa và dịch vụ đều chấp nhận thanh toán không dùng tiền mặt, nhu cầu thanh toán thẻ sẽ gia tăng nhanh chóng. Sự phát triển dịch vụ thẻ không thể tách rời sự phát triển của các đơn vị này. 1.3.1.3. Trình độ của đội ngũ nhân viên ngân hàng Con người là trung tâm của mọi hoạt động, là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế. Thẻ thanh toán là một hình thức thanh toán hiện đại, mang tính chuẩn hóa cao độ và có quy trình vận hành thống nhất, vì vậy cần phải có đội ngũ nhân lực có trình độ, có khả năng tiếp cận với công nghệ cao. Để làm được các dịch vụ về thẻ, các nhân viên phải nắm vững quy trình phát hành và thanh toán thẻ, hiểu biết về lĩnh vực tin học, năng động, sáng tạo, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ. 23 Ngân hàng nào có đội ngũ nhân viên tốt và có chính sách đào tạo hợp lý sẽ có thế mạnh trong việc phát triển dịch vụ thẻ. 1.3.1.4. Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng Thanh toán thẻ được xem là phương thức thanh toán an toàn, tuy vậy nó vẫn tiềm ẩn những rủi ro như: gian lận, giả mạo thẻ, lộ p in, chủ thẻ bị mất thông tin, sự cố vận hành hệ thống thanh toán, điều này là cản trở cho sự phát triển của dịch vụ thẻ bởi khách hàng có thể e ngại khi sử dụng dịch vụ. Do đó ngân hàng phải có kỹ năng trong việc phòng chống rủi ro trong việc phát hành và thanh toán, gia tăng sự tin tưởng cho khách hàng. Bên cạnh rủi ro nêu trên, còn có rủi ro cho bản thân ngân hàng khi phát triển dịch vụ này, song song với các hoạt động kinh doanh khác, đó là rủi ro hoạt động như rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất,... khi ngân hàng cung cấp càng nhiều dịch vụ thì yêu cầu năng lực quản trị rủi ro càng cao mới có thể đảm bảo sự phát triển ổn định của ngân hàng. 1.3.2. Nhân tố khách quan 1.3.2.1. Môi trường pháp lý Các quy chế, quy định trong lĩnh vực kinh doanh thẻ ngân hàng có thể khuyến khích việc kinh doanh và sử dụng thẻ nếu đó là những cơ chế hợp lý, đồng bộ cũng như phù hợp với điều kiện thực tế, nhưng nó cũng có tác động ngược lại nếu quá chặt chẽ hay quá lỏng lẻo hay không phù hợp với tình hình thực tiễn. 1.3.2.2. Sự phát triển kinh tế xã hội * Sự phát triển ổn định của nền kinh tế: Sự phát triển của lĩnh vực kinh doanh thẻ thanh toán phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế. Kinh tế 24 phát triển, người dân có thu nhập cao là tiền đề cho sự phát triển của thẻ thanh toán. Khi thu nhập cao, nhu cầu mua sắm, giải trí, du lịch, ... của người dân cũng cao hơn từ đó phát sinh nhu cầu thanh toán thẻ. Việt Nam là một đất nước đang phát triển, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm tương đối cao, thu nhập của người dân trong những năm gần đây đã có những cải tiến đáng kể, đó là điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong việc thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán tiên tiến này. * Các nhân tố về mặt xã hội: - Thói quen sử dụng tiền mặt của công chúng: sẽ rất khó để phát triển dịch vụ thẻ tại một địa bàn mà người dân có thói quen sử dụng tiền mặt trong hầu hết các giao dịch. Tại các nước phát triển, người ta mất hơn nửa thế kỷ để công chúng có thể làm quen với thẻ thanh toán và các tiện ích mà thẻ mang lại. Hiện tại ở Việt Nam, thẻ thanh toán mới đang trong giai đoạn phát triển, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các ngân hàng thương mại đang triển khai d ịch vụ này. - Nhận thức của người dân về thẻ ngân hàng: nếu nhận thức của người dân về những tiện ích và rủi ro của dịch vụ thẻ ngân hàng đầy đủ sẽ giúp cho các ngân hàng dễ dàng phát triển dịch vụ này. Ngược lại, sẽ rất khó cho các ngân hàng mở rộng và phát triển hoặc phải chấp nhận chi phí cao cho quảng cáo, nâng cao nhận thức và kỹ năng phòng chống rủi ro cho khách hàng tiềm năng. 1.3.2.3. Môi trường cạnh tranh Môi trường cạnh tranh cũng có tác động rất lớn đến sự phát triển dịch vụ của ngân hàng nói chung và dịch vụ thẻ thanh toán nói r iêng. Nếu ngân hàng đ i đầu trong lĩnh vực kinh doanh sẽ có thế mạnh trong việc tiếp cận và thu hút khách hàng. Điều đó sẽ khó hơn nếu thị trường đã trở nên bão hòa do có quá 25 nhiều nhà cung cấp. Khi đó mỗi ngân hàng phải có những chiến lược riêng như cho ra đời các sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm, ... Hiện nay ở Việt Nam có khoảng trên 30 đơn vị phát hành thẻ, 200 thương hiệu thẻ thanh toán các loại với nhiều thương hiệu đã nổi tiếng. Mức độ cạnh tranh đang ngày càng găy gắt. Điều này gây khó khăn khi phát tr iển dịch vụ cho các ngân hàng nhỏ và những ngân hàng mới gia nhập thị trường. 26 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2.1. Cơ sở pháp lý. Bắt đầu từ năm 2002, trên nền tảng hệ thống ngân hàng “lõi” (core banking) mới hiện đại được các ngân hàng đầu tư nâng cấp, các sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa lần đầu tiên được phát hành tại Việt Nam. Nhờ đó, người dân đã bắt đầu biết đến và làm quen với một phương tiện thanh toán tiện lợi, nhanh gọn, dễ đăng ký, dễ sử dụng hoạt động dựa trên cơ sở tài khoản cá nhân. Tuy nhiên, dịch vụ thẻ thanh toán thực sự sôi động, bắt đầu có chiều sâu vào những năm 2006-2007 khi Chính phủ ban hành Quyết định số 291/2006/ TTg về triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2011 và đặc biệt sự ra đời của quyết định số 20/2007/NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam điều chỉnh các quy định về phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng. Từ đó đến nay, hành lang pháp lý để không ngừng được hoàn thiện đã kích thích việc sử dụng thẻ: +Quyết định số 2453/QĐ-TTg ngày 27/12/11 phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015. +Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không dùng tiền mặt. +Ngày 28/12/2012, NHNN đã ban hành Thông tư quy định về phí dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa (Thông tư 35) và Thông tư quy định về trang bị, quản lý, vận hành 27 và đảm bảo an toàn hoạt động của ATM (Thông tư 36) nhằm thực hiện song hành đồng bộ với Thông tư 35 từ ngày 01/03/2013. +Trước đây Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 về Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng, Quyết định số 38/2007/QĐ-NHNN ngày 30/10/2007 về Quy chế cấp, sử dụng và quản lý mã tổ chức phát hành thẻ ngân hàng và Quyết định số 32/2007/QĐ-NHNN ngày 09/7/2007 về hạn mức số dư đối với thẻ trả trước vô danh. +Đối với dịch vụ ATM, NHNN thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc, nhắc nhở NHNN chi nhánh, các NHTM có trang bị ATM tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động, rà soát, bổ sung các quy trình, quy định cần thiết trong lắp đặt, sử dụng ATM; phát hiện, xử lý kịp thời những sự cố phát sinh. NHNN đã triển khai một số hoạt động tuyên truyền, cung cấp thông tin về các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, nhất là kết quả triển khai Quyết định 2453, chủ trương thu phí dịch vụ thẻ nội địa, phát triển thanh toán thẻ qua POS, nhằm giúp cho công chúng, người sử dụng và các tổ chức trong xã hội h iểu, tiếp cận và sử dụng các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt một cách đầy đủ, kịp thời và tạo được sự chuyển biến bước đầu về thói quen sử dụng tiền mặt.. 2.2. Thực trạng phát hành và thanh toán thẻ của các NHTM Việt Nam 2.2.1 Số lượng thẻ và mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ gia tăng: Đầu năm 2003, khi thị trường xuất hiện 2 loại thẻ nội địa dùng trên máy ATM (máy rút tiền tự động) là Connect 24 của Vietcombank và F@asAcess của Techcombank, thì tổng số lượng thẻ phát hành (gồm cả thẻ nội địa và thẻ quốc tế) mới đạt 234.000 thẻ. Nhưng đến nay, tốc độ tăng trưởng của thị trường thẻ đã rất cao, có những năm đạt trên 300%. 28 Thẻ ngân hàng tiếp tục là phương tiện thanh toán đa dụng, tiện ích, được các ngân hàng thương mại chú trọng phát triển, có tốc độ phát triển nhanh chóng. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 3/2013, đã có 52 ngân hàng thương mại trong nước và ngân hàng có vốn nước ngoài đăng ký phát hành thẻ, với trên 57,1 triệu thẻ các loại đã được phát hành, tăng 38,5% so với cuối năm 2011. Đây là tốc độ phát triển hết sức ấn tượng. Trong đó, hầu hết là thẻ ghi nợ (chiếm 93,6%), thẻ tín dụng (chiếm 3,1%). Tỷ lệ sử dụng thẻ ngân hàng so với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác đang có xu hướng tăng lên. Dịch vụ thẻ ngân hàng phát triển đã giúp NHTM có thêm kênh huy động vốn và phát triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng với nhiều tiện ích khác nhau cung cấp cho khách hàng. Đến cuối tháng 3/2013, có 46 NHTM đã trang bị máy ATM/POS với số lượng trên 14.300 ATM và hơn 101.400 POS. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các công ty chuyển mạch, các ngân hàng phát hành thẻ hoàn thành kết nối liên thông hệ thống ATM trên phạm vi toàn quốc, qua đó thẻ của một ngân hàng đã có thể sử dụng để rút tiền tại hầu hết ATM của các ngân hàng khác. Để thực sự phát huy tác dụng làm giảm t iền mặt trong việc sử dụng thẻ, NHNN đã chỉ đạo tr iển khai kết nối liên thông mạng lưới POS và phát triển thanh toán thẻ qua POS. Đến cuối năm 2012, về cơ bản hoàn thành kết nối về kỹ thuật trên toàn quốc, với trên 76.000 POS của trên 720 chi nhánh tổ chức tín dụng và 20.600 đơn vị chấp nhận thẻ đã được kết nối liên thông; số lượng và giá trị thanh toán qua POS tiếp tục tăng nhanh, đạt mức gần 21 triệu giao dịch và 95.000 tỷ đồng; nhận thức về thanh toán thẻ qua POS đã có sự chuyển biến tích cực ở các địa phương, việc sử dụng thẻ thanh toán qua POS đang dần trở nên phổ biến ở các thành phố lớn; nhận thức chung của xã hội về thanh toán không dùng tiền mặt đang thay đổi, xu hướng thanh toán bằng thẻ của dân cư cũng bắt đầu gia tăng. Một số đơn vị chấp 29 nhận thẻ đã có những nhận thức tích cực về lắp đặt và chấp nhận thanh toán thẻ qua POS. 2.2.2 Chất lượng dịch vụ thẻ ngày càng được cải thiện: Bên cạnh việc phát triển số lượng thẻ, các NHTM ngày càng quan tâm đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ bằng việc tăng khả năng thanh toán cho chủ thẻ thông qua phát hành thẻ thanh toán đồng thương hiệu và đa ứng dụng có liên kết với các tổ chức khác, như trường học, hãng taxi, hãng hàng không…; chú trọng tăng độ an toàn, bảo mật của thẻ thanh toán như ứng dụng công nghệ Chip trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, như phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ chip chuẩn EMV. Cuối năm 2011 doanh số các loại thẻ lên đến 32 tỉ USD vào (theo số liệu của hiệp hội Thẻ Việt Nam), song giao dịch rút tiền vẫn còn lớn, chiếm hơn 80%. Việc còn hạn chế các điểm chấp nhận thẻ cùng thói quen trả tiền mặt khi mua sắm có thể là lý do khiến đại diện các siêu thị Co.opmart, Big C, Citimart, Ma ximark cho biết thanh toán không dùng tiền mặt chỉ đạt xấp xỉ 1% và không quá 5% tổng doanh thu. 30 Mặc dù vậy, người tiêu dùng đã có dấu hiệu thích mang theo chiếc thẻ đi mua sắm. Doanh số chi tiêu qua thẻ tăng cao cho thấy người tiêu dùng đang dần thay đổi thói quen sử dụng thẻ thay vì tiền mặt. Đơn cử một số ngân hàng tiêu biểu như sau: +DongABank (DAB) là ngân hàng có lượng thẻ lớn trên thị trường với hơn 6,066 triệu thẻ các loại đến cuối năm 2011, tổng chi tiêu qua thẻ trong năm đã tăng hơn 40,64% so với năm 2010. Trong đó, chỉ có 7.155 thẻ tín dụng quốc tế, chiếm 0,12% tổng lượng thẻ phát hành, nhưng chi tiêu của loại thẻ này đã đạt 141,573 tỉ đồng, chiếm 21% tổng doanh thu. +Tại ngân hàng Vietcombank, trong năm 2012 chỉ tính riêng chi nhánh Vietcombank TP.HCM, chi t iêu (không kể rút tiền) qua thẻ nội địa một tháng chừng 30 tỉ đồng qua các kênh thanh toán trực tiếp, mạng; đặc biệt thông qua máy cà thẻ (POS) tăng mạnh… Riêng chi tiêu của các chủ thẻ tín dụng của Vietcombank TP.HCM đã đạt khoảng 200 tỉ đồng một tháng. Hiện Vietcombank có 6 triệu thẻ nội địa và 1 triệu thẻ quốc tế, với tổng chi tiêu qua thẻ bình quân tăng 30% từng năm. Thẻ tín dụng được chấp nhận ở mọi nơi trên thế giới, cùng cái lợi chi trước trả tiền sau 45 ngày không lãi suất, nên đạt doanh số lớn. Chi tiêu qua thẻ ghi nợ nội địa tăng, nhưng thẻ tín dụng tăng mạnh hơn. Bình quân một khoản chi tiêu qua thẻ tín dụng Vietcombank là 3 triệu đồng/giao dịch, nhiều người dùng thẻ 3 – 4 lần/tuần. Chủ thẻ tín dụng ngày càng chi tiêu tại thị trường Việt Nam nhiều hơn, chiếm khoảng 30 – 40%. +Tại ngân hàng HSBC Việt Nam, mảng kinh doanh thẻ tín dụng của HSBC có mức tăng trưởng đáng kể. Phần lớn khách hàng thẻ tín dụng của HSBC là người Việt Nam, và hơn 50% chi tiêu thanh toán bằng thẻ tín dụng của ngân hàng HSBC được thực hiện ở nước ngoài: Singapore, Mỹ, Hong Kong, Anh quốc, Úc là những nơi mà khách hàng HSBC đến và chi tiêu nhiều nhất. Số tiền tiêu nhiều nhất vào các dịch vụ ăn uống, quần áo, phụ kiện, du lịch và bán lẻ. HSBC cũng nhận thấy có sự tăng trưởng nhanh chóng về số lượng thanh toán cũng như số điểm chấp nhận thẻ tại thị trường Việt Nam. 31 Theo số liệu công ty nghiên cứu thị trường Mỹ Research & Markets đưa ra vào cuối năm 2011, thị trường thẻ Việt Nam được đánh giá là một thị trường năng động hàng đầu thế giới, với mức tăng trưởng khoảng 18,5% trong giai đoạn 2011 – 2014. Trong đó, có hơn 20 ngân hàng triển khai Internet Banking, gần tám ngân hàng triển. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng xung quanh chiếc thẻ ngày càng gay gắt thúc đẩy các ngân hàng trong nước nâng cao năng lực canh tranh, góp phần phát triển các dịch vụ thẻ ngày càng tiện ích cho khách hàng Chẳng hạn, trong khi phần lớn các ngân hàng thu phí giao dịch liên mạng, thì DAB không thu phí rút tiền ngoài hệ thống. “DAB đang chịu lỗ ở mảng này. Một số ngân hàng đang muốn tăng phí, nhưng nếu phí tăng lên nữa thì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra và tạo cho người tiêu dùng cảm giác ngân hàng tận thu phí từ họ, thì có thể khiến cho những bàn tay đang có thói quen rút thẻ trả tiền chùn lại. Tuy lỗ, song một số ý kiến cho rằng điều này đang mang lại lợi ích dài lâu. Ngân hàng sẽ thấy khách hàng của mình đông hơn qua từng tấm thẻ phát hành, từ đó có thể khai thác những dịch vụ khác đối với chủ thẻ. 2.3. Những hạn chế còn tồn tại của hoạt động phát triển dịch vụ thẻ của các NHTM Việt Nam: Mặc dù các cơ quan chức năng, cũng như các NHTM đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy việc sử dụng thẻ thanh toán, tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại do cả yếu tố khách quan và chủ quan. Trước tiên phải kể đến, do thói quen sử dụng tiền mặt của người Việt Nam vẫn còn nặng nề, đặc biệt là khu vực nông thôn. Người dân thường thích chi tiêu bằng tiền mặt hơn là sử dụng một công cụ bị cho là “cao siêu” khó dùng. Hệ thống máy ATM tuy phát triển nhanh, nhưng phân bố lại chưa đều. Số lượng máy tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, nơi phát triển dịch vụ thanh toán, trong khi ở khu vực nông thôn, miền núi còn hạn chế. Một phần nguyên nhân cũng do người dân khu vực này chủ yếu có thu nhập thấp, nên họ thích lưu trữ tiền mặt hơn là sử dụng các 32 dịch vụ ngân hàng. Sự phân bố chưa đều còn ở chỗ, có nơi nhu cầu lớn, thì chỉ đặt một máy, có nơi nhu cầu ít hơn, lại đặt 2 hay nhiều máy hơn tại cùng một vị trí (chủ yếu ở thành phố lớn). Điều này đã gây nhiều bất tiện cho người sử dụng, nhất là trong thời kỳ cao điểm, như: thời điểm trả lương, mua sắm Tết… Người sử dụng thẻ ATM phần lớn là để rút tiền, chứ không phải thanh toán. Theo số liệu của Hiệp hội thẻ Việt Nam, tính đến cuối năm 2011, tổng giá trị giao dịch của các loại thẻ tại thị trường Việt Nam lên đến 32 tỷ USD, tuy nhiên, giao dịch rút tiền vẫn còn lớn, chiếm hơn 80%. Do đó, tác dụng giảm sử dụng tiền mặt trong thanh toán chưa nhiều, mặt khác làm tăng áp lực đối với duy trì hoạt động và tiếp quỹ tiền mặt cho ATM. Việc ATM chủ yếu chỉ phục vụ nhu cầu rút tiền tiền mặt của người dân là một sự lãng phí lớn, trong khi các tính năng, như: gửi tiền, thanh toán chưa được sử dụng nhiều. Bên cạnh đó tỷ lệ thẻ ảo, thẻ được phát hành nhưng khách hàng không sử dụng còn cao. Hiện tại cả Hiệp hội thẻ và NHNN đều chưa có con số chính xác về tỷ lệ thẻ hoạt động, tuy nhiên qua thăm dò ý kiến từ một số quản lý lãnh đạo Trung tâm Thẻ của một số Ngân hàng điển hình thì tỷ lệ thẻ hoạt động (lấy theo quan điểm chuyên môn là tối thiểu có một giao dịch thanh toán/rút tiền/chuyển khoản mỗi năm) chung của các ngân hàng rơi vào khoảng từ 60 - 71%, tùy từng ngân hàng và từng loại thẻ, trong đó thẻ tín dụng thường có tỷ lệ hoạt động cao nhất là khoảng 90% và tỷ lệ của thẻ hoạt động ghi nợ quốc tế thường là thấp nhất khoảng <60% . Đây có lẽ là hệ quả của việc các NHTM trong nước ồ ạt chạy đua tăng trưởng về số lượng thẻ phát hành nhằm gia tăng thị phần nhưng không tư vấn tốt cho khách hàng về các dịch vụ mà sản phẩm thẻ mang lại. Chất lượng các máy ATM cũng còn nhiều vấn đề phải bàn. Tình trạng các máy ATM "chết" không có tiền, treo máy, hệ thống đường truyền hay bị tắc nghẽn, bị nuốt thẻ... gây phiền phức, khiến người sử dụng quay lưng với dịch vụ thẻ ngày càng nhiều. Nhiều trung tâm mua sắm, bán lẻ được trang bị máy POS, nhưng việc thanh toán của người dân qua phương thức này còn khiêm tốn. Việt Nam hiện cũng chưa có quy định 33 nào bắt buộc các cơ sở kinh doanh phải trang bị máy POS. Nhiều điểm chấp nhận thẻ hiện nay vẫn chưa mặn mà lắm với việc khuyến khích khách hàng thanh toán bằng thẻ, vì phải trả một khoản phí cho ngân hàng. Do vậy, có tình trạng đơn vị chấp nhận thẻ thu phụ phí của khách hàng thanh toán bằng thẻ, khiến người sử dụng muốn chuyển sang thanh toán bằng tiền mặt. Mới đây, việc NHNN đồng ý cho các NHTM bắt đầu thu phí khi rút tiền tại máy ATM cũng tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng khách hàng. Bởi, người dân cho rằng, ngân hàng đang sử dụng tiền của họ với lãi suất thấp lại còn thu phí là bất hợp lý. Bên cạnh đó, một số ngân hàng chưa tích cực hoàn thành việc chuyển đổi mã tổ chức phát hành thẻ (mã định dạng ngân hàng - BIN) để mở rộng các dịch vụ giá trị gia tăng cho thẻ thanh toán. Công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động thanh toán thẻ của các NHTM đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu. Ngoài ra hoạt động phát triển dịch vụ thẻ còn gặp một số hạn chế như: độ an toàn và tính bảo mật thông tin trong các giao dịch chưa cao trong khi đó khách hàng luôn phải cung cấp khá nhiều các thông tin cá nhân cho ngân hàng khi phát thẻ tại các NHTM VN; việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là dấu hiệu khả quan của các ngân hàng nhưng cũng đặt ra thách thức không nhỏ trong việc quản lý rủi ro, phòng chống gian lận,…Để đáp ứng yêu cầu cho việc phát triển dịch vụ thẻ nói riêng và phát triển các hoạt động của Ngân hàng nói chung, cần nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như cơ sở pháp lý, nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở vật chất, sự liên kết giữa các Ngân hàng,… - Nguyên nhân khách quan: + Thói quen dùng tiền mặt của người dân còn phổ biến: Mặc dù dược coi là một thị trường tiềm năng về phát triển dịch vụ thẻ nhưng gần 20 năm dịch vụ thẻ đi vào đời sống tiêu dùng của người dân Việt Nam vẫn trong giai đoạn thâm nhập ban đầu. Người Việt Nam gần như vẫn coi tiền mặt là phương tiện không thể thay thế trong thanh toán tiêu dùng và cảm 34 nhận việc thuận tiện , yên tâm khi thanh toán và nhận thanh toán bằng tiền mặt. Việc thanh toán trực tiếp không thông qua ngân hàng ở nước ta còn chiếm tỷ lệ cao (Thanh toán bằng tiền mặt chiếm từ 20-30% trong tổng phương tiện thanh toán, 99% các khoản chi tiêu cá nhân được thanh toán bằng tiền mặt trực tiếp). Vì vậy khó tạo ra một bước thay đổi lớn nào nếu người dân chưa quen với một phương tiện thanh toán mới dù nó tiện ích đến đâu. Ngoài ra, có một tỷ lệ lớn khách hàng và điểm bán hàng còn chưa am hiểu kiến thức trong việc sử dụng và thanh toán thẻ, thậm chí hiểu sai lệch do các thông tin từ các nguồn thông tin không chính thức. Kết quả nghiên cứu do tập đoàn Visa Châu Á Thái Bình Dương công bố năm 6/2007 cho thấy các điểm bán hàng rất sẵn sàng bảo vệ thông tin của chủ thẻ, song bên cạnh đó quá nửa các cửa hàng thiếu hiểu biết về những tiêu chuẩn quốc tế trong bảo mật thanh toán ; 2/3 số lượng người sử dụng thẻ chưa biết thấu đáo phương pháp tự bảo vệ khi sử dụng và giao dịch bằng thẻ. Điều đó gây nên rủi ro cho việc thanh toán thẻ và gây ra tâm lý e ngại cho khách hàng mới khi tham gia thị trường này. + Cạnh tranh khốc liệt trên thị trường: Cạnh tranh là một điều đáng duy trì, là một văn hóa thị trường lành mạnh. Điều đó thúc đẩy các ngân hàng muốn tồn tại phải không ngừng đổi mới, đưa ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu và yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Dịch vụ thẻ là một lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi đầu tư vốn ban đầu cao và bản thân các ngân hàng phải có nền tảng công nghệ hiện đại mà không phải ngân hàng nào cùng đáp ứng được. Trên thị trường hiện nay có 37 ngân hàng tham gia và lĩnh vực kinh doanh thẻ, trong đó có nhiều ngân hàng đã tạo được uy tín và chỗ đứng vững chắc. Do đó đã gây ra cho Các NHTMvà một số ngân hàng đi sau khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động. 35 + Cơ chế, chính sách trong lĩnh vực kinh doanh thẻ, thương mại điện tử chưa hoàn thiện Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh thẻ còn sơ sài. Luật giao dịch điện tử đã có hiệu lực nhưng các văn bản hường dẫn vẫn chưa được ban hành. Hiện Chính phủ đã có quy định về trả lương cho cán bộ công nhân viên và lương hưu nhưng vẫn chưa được các cơ quan thực hiện nghiêm chỉnh. Ngoài ra hệ thống các văn bản liên quan khác trong lĩnh vực kinh doan thẻ như : phòng chống tội phạm thẻ và các hành vi gian lận, giả mạo trong thanh toán thẻ chưa được ban hành. Ngân hàng nhà nước chưa có quy định hướng dẫn về v iệc trích lập dự phòng xử lý rủi ro, những quy định về việc hình thành tổ chức liên minh thẻ và liên minh thẻ với nước ngoài, nhất là những quy đ ịnh và hướng dẫn việc xử lý chanh chấp, vi phạm trong thanh toán thẻ. Chính điều này cũng gây những cản trở lớn cho các ngân hàng khi tham gia phát hành thẻ trên thị trường. Nếu khách hàng có khiếu nại thì việc giải quyết và bảo vệ quyền lợi của chủ thẻ chưa được văn bản pháp luật nào quy định cụ thể, điều này gây thiệt hại cho cả ngân hàng phát hành và chủ thẻ. Ngoài ra, trước tình hình tội phạm ngày càng tinh vi như hiện nay, việc đánh cắp thông tin cá nhân của khách hàng, thông tin đăng nhập tài khoản tại ngân hàng, làm thẻ giả, giả mạo chứng từ, sao chép và tạo băng từ giả (skimming) các giao dịch thanh toán không có xuất trình thẻ (giao dịch qua mạng, fax,...) ... nhằm ăn cắp một khối lượng tiền lớn trong tài khoản của chủ thẻ là một vấn đề VIB và các ngân hàng khác đặc b iệt quan tâm. Trong khi đó, Bộ Luật Hình sự lại chưa có một quy định nào về khung hình phạt cho những lĩnh vực này. Trong thời gian tới đây, trước áp lực của hội nhập và áp lực của sự cạnh tranh găy gắt của dịch vụ thẻ giữa các ngân hàng, Các NHTMcần phải nỗ lực 36 khắc phục tối đa những hạn chế còn tồn tại. Song với những kết quả đạt được bước đầu, với lợi thế của một ngân hàng “đi sau” sẽ giúp Các NHTMcó khả năng đi tắt, đón đầu để có thể đứng vững trên thị trường vốn tiềm ẩn nhiều khó khăn và thách thức như hiện tại. + Tình trạng “cát cứ” về thị trường phát hành và thanh toán thẻ: Hiện nay trên thị trường tồn tại 4 liên minh thẻ, trong đó tuy Banknet và Smart link, tuy vậy việc kết nối thẻ giữa các ngân hàng còn chưa thông suốt, thẻ ATM chỉ g iao dịch được trong nội bộ hoặc tại các ngân hàng trong liên minh. Tình trạng khách hàng phải mất nhiều thời gian và chi phí tìm điểm ngân hàng tự động đã làm giảm t iện ích vốn có của thanh toán thẻ làm cho việc phát tr iển dịch vụ này còn chưa được như mong muốn của các ngân hàng trong đó có VIB Bank. + Hiệp hội thẻ chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc phát triển lĩnh vực thanh toán thẻ Trước những thách thức mà Các NHTMphải đối mặt khi Việt Nam gia nhập WTO, một ngân hàng nhỏ như Các NHTMbị hạn chế rất nhiều về khả nưng tài chính cũng như kỹ thuật công nghệ. Việc liên kết của Các NHTMvới các ngân hàng khác trong liên minh và giữa các liên minh với nhau là điều hết sức cần thiết để mở rộng da dạng hóa dịch vụ thẻ của Ngân hàng. Đẻ làm được như vậy thì cần có sự can thiệp của Hiệp hội thẻ trong việc liên kết các ngân hàng thành viên, quản lý rủi ro và tuyên truyền, quảng bá vê thẻ trong các tầng lớp dân cư. Nhưng trên thực tế hiện nay Hiệp hội thẻ được đánh giá là chưa phát huy được hết vai trò của mình trong hoạt động này. Ngoài nguyên nhân chính là do trình độ kỹ thuật công nghệ thông tin của các ngân hàng là không tương thích, đây cũng là một nguyên nhân khiến cho Các NHTMgặp khá nhiều khó khăn trong việc liên kết hệ thống với các ngân hàng khác trong liên minh. Chính vì vậy, hiệu quả kinh doanh thẻ tại Các NHTMcòn hạn chế. 37 38 CHƯƠNG 3 NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯỜNG MẠI VIỆT NAM 3.1. Nhóm giải pháp đối với Chính phủ và NHNN : Nhà nước cần xem xét có quy định về các loại hình kinh doanh bắt buộc phải chấp nhận thanh toán qua ngân hàng ngay từ khi khởi sự kinh doanh nhằm minh bạch hóa các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và tạo cơ sở cho việc theo dõi và quản lý thuế sau này như hoạt động lữ hành du lịch, khách sạn, giao d ịch bất động sản…Về lâu dài chắc chắn sẽ có hiệu quả chung cho nền kinh tế trong đó cả về phương diện thanh toán không dùng tiền mặt và thu ngân sách nhà nước. NHNN xem xét đề xuất với các cơ quan liên quan có hình thức hỗ trợ đơn giản thủ tục thanh toán hóa đơn thuế đối với các trường hợp chấp nhận thanh toán qua thẻ. Điều này sẽ khuyến khích người có thẻ tăng cường sử dụng thẻ để thanh toán, nâng cao tỷ lệ hoạt động thẻ, giảm dần tỷ lệ thanh toán bằng t iền mặt của người dân. Bên cạnh đó, nhiều đơn vị kinh doanh không muốn chấp nhận thẻ do phải trả phí cho ngân hàng, việc thanh toán thẻ sẽ phải công khai doanh thu nên có một số đơn vị kinh doanh chưa muốn sự minh bạch hoặc tránh thuế. Do vậy, nếu áp dụng một chính sách khuyến khích phù hợp như áp dụng thuế GTGT khi thanh toán qua ngân hàng thấp hơn khi thanh toán bằng t iền mặt sẽ động viên và khuyến khích các đơn vị kinh doanh tích cực hơn trong việc làm nghĩa vụ thuế. Cần sớm chuẩn hóa hoạt động thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng và giữa ngân hàng với ngân hàng, đây là giải pháp nhằm tạo nền tảng cho việc ứng dụng cơ chế xử lý tự động các giao dịch thanh toán, tăng tốc độ xử lý giao dịch và qua đó giảm chi phí. 39 NHNN có cơ chế đồng thuận và khuyến khích việc các ngân hàng phát hành thẻ quốc tế thực hiện hoạt động thanh toán bù các giao dịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam cần được xử lý qua các công ty chuyển mạch của Việt Nam (Banknet hoặc Smartlink) nhằm giảm chi phí giao dịch phải trả cho các tổ chức thẻ quốc tế, tăng nguồn thu cho các ngân hàng nội địa và đảm bảo lợi ích quốc gia. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, NHNN xem xét có tác động giúp các ngân hàng Việt Nam trong việc yêu cầu các tổ chức thẻ quốc tế giảm các mức phí áp dụng tại thị trường Việt Nam cũng như áp dụng các lộ trình đảm bảo tiêu chuẩn phù hợp với đ iều kiện Việt Nam. NHNN nên xem xét đẩy nhanh tiến trình xây dựng Trung tâm chuyển mạch quốc gia thống nhất và hệ thống bù trừ tự động quốc gia ACH (Automated Clearing House) để hỗ trợ cho việc chuyển mạch và kết nối liên thông qua mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ, ATM, dịch vụ thanh toán điện tử, thanh toán thẻ nội địa được thuận lợi hơn và tránh phụ thuộc và các tổ chức thẻ quốc tế. 3.2. Giải pháp cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức phát hành thẻ  Nghiên cứu phát triển thẻ thông minh : Cần tích cực đầu tư mở rộng liên kết hợp tác trong thanh toán thẻ thông qua việc triển khai toàn diện hoạt động kết nối các hệ thống thẻ để khai thác tận dụng tối đa nguồn lực đầu tư, đồng thời tăng cường dịch vụ phục vụ khách hàng sử dụng thẻ. Tích cực nỗ lực làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ thiết yếu như điện, nước, điện thoại… để mở rộng việc chấp nhận thanh toán các phí giao dịch cơ bản hàng ngày thông qua dịch vụ thanh toán bằng thẻ. Đồng thời, các ngân hàng cần chủ động trong việc đặt mục tiêu giảm dần tỷ lệ dùng thẻ để rút tiền mặt trong thời gian tới. 40  Phát triển mạng lưới máy rút tiền ATM: Cần tăng cường đầu tư công nghệ, đặc biệt là các thiết bị thẻ và mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ, tăng tỷ lệ thẻ hoạt động để tiến tới g iảm dần sự phụ thuộc của giao dịch thẻ vào hệ thống ATM. Phát triển dịch vụ Internet Banking đi kèm với các sản phẩm hiện tại g iúp khả năng tối ưu hóa tiện ích cho người sử dụng dịch vụ và ngân hàng thu được phí sử dụng các dịch vụ đi kèm. Hoàn thành việc chuyển đổi mã tổ chức phát hành thẻ (mã BIN) nhằm mở rộng tích hợp các ứng dụng giá trị gia tăng cho thẻ thanh toán của các ngân hàng phát hành thẻ. Hệ thống máy rút tiền tự động h iện nay được các ngân hàng Việt Nam đưa vào vận hành khá rộng rãi ở các khu vực thành phố lớn, thị xã, thị trấn…Tuy nhiên, với dân số 90 triệu người mà tỷ lệ 16,000 người mới có 1 máy ATM thì tỷ lệ này còn quá thấp nên cần phát triển mạng lưới ATM rộng hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người sử dụng thẻ. Các ngân hàng cần có kế hoạch triển khai hệ thống ATM có thể kết nối với hệ thống các ngân hàng khác nhau. Các máy ATM cần được phát triển theo định hướng đa chức năng, thực sự là điểm giao dịch tự động của chủ thẻ, có thể chấp nhận tất cả các loại thẻ thông dụng trên thế giới.  Mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ : Sự cạnh tranh để có được đơn vị chấp nhận thẻ ngày càng gay gắt, xu thế các đơn vị chấp nhận thẻ thực hiện thanh toán qua nhiều ngân hàng cùng một lúc để khi ngân hàng này phát sinh sự cố thì chuyển sang thanh toán qua ngân hàng khác. Vì vậy, ngân hàng phải có chính sách phát triển đơn vị chấp nhận thẻ linh động, dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt, quy trình tốc độ và tính ổn đ ịnh của hệ 41 thống xử lý giao dịch, hỗ trợ kịp thời về kỹ thuật để đảm bảo hoạt động kinh doanh cho các đơn vị chấp nhận thẻ. Hiện tại, các đơn vị chấp nhận thẻ chủ yếu tập trung tại các địa bàn thành phố lớn, thị xã… Vì vậy, các ngân hàng cần có định hướng phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ tại các địa phương khác để chủ thẻ có khả năng sử dụng trên một địa bàn rộng và thuận tiện hơn.  Đa dạng hóa sản phẩm thẻ : Đa dạng hóa sản phẩm thẻ nâng cao chất lượng dịch vụ là nhu cầu sống còn của các ngân hàng thương mại hiện nay, các ngân hàng thương mại cần có các chương trình quảng bá rộng rãi về sản phẩm thẻ của mình. Bên cạnh việc tích cực phát triển thẻ ghi nợ như thời gian vừa qua, các ngân hàng cần có chính sách và hệ thống công cụ phù hợp để đẩy nhanh việc triển khai dịch vụ thẻ tín dụng. Từ đó, hướng người dân vào sử dụng các dịch vụ tín dụng phục vụ tiêu dùng theo hình thức chi tiêu trước trả tiền sau. Các ngân hàng cần chú trọng quảng bá, giới thiệu sản phẩm thẻ cho các đối tượng doanh nghiệp với số lượng cán bộ công nhân viên đông đúc để phát hành thẻ kết hợp với các loại hình khác như trả lương, đầu tư tự động… Mở rộng phát hành thẻ nội địa tập trung vào các khu vực đông dân cư, mở rộng mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ đặc biệt là các nhà hàng, siêu thị…  Các ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ bảo vệ quyền lợi của của khách hàng : Hình thức thanh toán không bằng tiền mặt là hình thức thanh toán tiên t iến hiện nay, nó đem lại sự thuận lợi cho người sử dụng và các chủ thể khác tham gia. Tuy nhiên, nó cũng chứa đựng không ít những rủi ro mà ta phải quan tâm để giảm thiểu tổn thất mà nó gây ra. Để làm tốt điều này thì cần có sự 42 quan tâm của các cấp các ngành để nâng cao hệ thống hạ tầng đặc b iệt là hệ thống hạ tầng các ngân hàng .  Dựa vào các trường hợp rủi ro xảy ra trong hệ thống ngân hàng thế giới và Việt Nam có thể rút ra các biện pháp để quản lý rủi ro như sau :Trang bị kiến thức cho các chủ thể tham gia, phố biến các quy định sử dụng thanh toán thẻ cho các chủ thể tham gia tập huấn thường xuyên kiến thức nghiệp vụ, các quy định của các tổ chức quốc tế cho các đơn vị chấp nhận thẻ và các cán bộ để tránh các rủi ro xảy ra.  Thay đổi các điều kiện phát hành : hiện nay cơ sở để xác nhận hạn mức tín dụng để phát hành thẻ còn dựa nhiều vào giá trị tài sản thế chấp dẫn đến coi nhẹ khả năng thanh toán thường xuyên của các chủ thẻ vì vậy cần căn cứ trên thu nhập thường xuyên của chủ thẻ để xác định hạn mức tín dụng và điều kiện phát hành thẻ, có như vậy mới đảm bảo khả năng thanh toán của chủ thẻ để tránh rủi ro xảy ra.  Cập nhật rộng rãi danh sách Bulettin từ các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Phát hành thẻ, ngân hàng thẻ thanh toán bằng các thiết bị, phương tiện của mình để cập nhật danh sách thẻ cấm lưu hành, thẻ cấm sử dụng và nhanh chóng cập nhật danh sách đến các đơn vị chấp nhận thẻ kiểm tra khi chấp nhận thanh toán, đặc biệt chú ý đến các đơn vị chưa kết nối trực tuyến.  Phòng chống tội phạm : tập trung phối hợp với các tổ chức thẻ quốc tế, cơ quan an ninh quốc tế, phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thẻ, khi phát hiện các trường hợp gian lận, giả mạo cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn và thông báo các cơ quan hữu quan nhằm phối hợp xử lý. 43  Hạn chế rủi ro trong phát hành và sử dụng thẻ: Để hạn chế rủi ro trong phát hành thẻ, các cán bộ tín dụng cần kiểm tra thông tin phát hành thẻ và các thông tin khác về chủ thẻ một cách kỹ lưỡng.  Quản lý thanh toán của chủ thẻ : phần lớn rủi ro của ngân hàng là chủ thẻ không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán. Vì vậy, ngân hàng cần có biện pháp theo dõi tình hình thanh toán của chủ thẻ, tình hình chi tiêu vượt mức của chủ thẻ... Khi chủ thẻ không có khả năng thanh toán cần thông báo cho các cơ quan hữu quan để tìm hướng xử lý.  Bù đắp rủi ro : bất kỳ hoạt động nào cũng chứa đựng những rủi ro, để giảm thiểu những rủi ro ngân hàng phải mua bảo hiểm thẻ hoặc trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp rủi ro phát sinh trong nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ.  Hạn chế rủi ro thanh toán: khi ký hợp đồng với đơn vị chấp nhận thẻ cần tìm hiểu rõ về đơn vị chấp nhận thẻ đặc biệt là tình hình kinh doanh, tình hình tài chính của đơn vị chấp nhận thẻ để hạn chế các rủi ro phát sinh. Định kỳ tập huấn, cung cấp các tài liệu về thanh toán cho các đơn vị chấp nhận thẻ.  Hạn chế rủi ro kỹ thuật : hạn chế tối đa rủi ro kỹ thuật trục trặc trong hệ thống, các hệ thống tin học đều có những sự cố nhất định. Vì vậy, phải có những biện pháp dự phòng, kiểm tra tính chính xác của các thiết bị kỹ thuật, hệ thống máy tính… Khi xảy ra lỗi kỹ thuật không thể xử lý có thể phối hợp với các tổ chức thẻ quốc tế tìm hướng xử lý và thực hiện các biện pháp an toàn. Các NHTM cũng cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng như dịch vụ giải quyết tra soát khiếu nại, hỗ trợ giải đáp thắc mắc… liên quan đến 44 các giao dịch thanh toán thẻ. Đặc biệt, các ngân hàng có cung cấp dịch vụ thanh toán – Acquring cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiên quyết xử lý các đơn vị chấp nhận thẻ và các nhà cung cấp dịch vụ tiến hành thu các phí phụ trội khi thanh toán bằng thẻ, từ đó khuyến khích người dân sử dụng nhiều hơn các phương tiện này. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 3.3.1.1. Có những chính sách khuyến khích phát triển hoạt động kinh doanh của dịch vụ thẻ - Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đầy đủ hơn cho mọi hoạt động của dịch vụ thẻ, trong đó cần sớm ban hành các quy định điều chỉnh các hành vi liên quan đến hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, đặc biệt là việc tranh chấp, rủi ro, để làm cơ sở xử lý khi xảy ra các tranh chấp. - Đưa ra định hướng và lộ trình phát tr iển hội nhập chung đối với nghiệp vụ thẻ để các ngân hàng xây dựng định hướng phát tr iển của mình, tránh chồng chéo, gây lãng phí, dẫn đến không tận dụng được các lợi thế chung. - Xây dựng hệ thống Thông tin tín dụng cá nhân, để các ngân hàng có được những thông tin về chủ thẻ nhằm quản trị được rủi ro trong nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng. - Có chính sách thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt như: Thắt chặt quản lý tiền mặt, thu phí sử dụng tiền mặt để người dân chuyển sang các hình thức thanh toán khác; Đồng thời cũng cần có chính sách ưu đãi cho các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. 45 - Ngân hàng nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các đề án, tính toán hiệu quả kinh tế va vốn đầu tư trên cơ sở đó huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực thẻ. - Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với các tổ chức thẻ quốc tế và các NHTM trong nước để để ra chính sách trợ giúp các NHTM Việt Nam trong v iệc khai thác và phát triển thị trường thẻ trong nước, định hướng ứng dụng các thành tựu kho học công nghệ hiện đại đã và đang được sử dụng trong khu vực và thế giới. Đồng thời, hỗ trợ, hướng dẫn các ngân hàng trong việc xây dựng chế đô báo cáo, hạch toán, kiểm tra phù hợp với nghiệp vụ thẻ theo thông lệ quốc tế và các quy định của Ngân hàng nhà nước. - Cho phép các NHTM thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro về nghiệp vụ thẻ, thành lập bộ phận quản lý rủi ro chung cho các ngân hàng nằm trong trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước. - Cho phép các NHTM Việt Nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định để đảm bảo tính cạnh tranh cho các loại thẻ do các NHTM Việt Nam phát hành so với các loại thẻ của các NHTM nước ngoài hay chi nhánh NHTM nước ngoài phát hành. 3.3.12. Phát triển các hệ thống thanh toán. a) Hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng - Thiết kế mở rộng phạm vi triển khai giai đoạn II Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán do WB tài trợ và phát triển các hệ thống thanh toán quan trọng có tính hệ thống theo các chuẩn mực quốc tế dược Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) khuyến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống, tăng cường hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Các hệ thống thanh toánliên ngân hàng và các hệ thống thanh toán quan trọng khác phỉa được đầu tư bằng 46 nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc viện trợ ODA, do Ngân hàng nhà nước vận hành, quản lý và giám sát. Các hệ thống thanh toán nội bộ của từng tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cần phải được đầu tư và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường dịch vụ thanh toán. - Tập trung phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng vì đây là hệ thống thanh toán xương sống của nền kinh tế. Việc thiết kế mở rộng hệ thống đáp ứng nhu cầu cho các thành viên phải phù hợp với các chuẩn quốc tế áp dụng chung cho các hệ thống thanh toán và quyết toán. Các giải pháp phần mềm hệ thống cần đảm bảo độc lập giữa xử lý số liệu và truyền số liệu, đảm bảo tính bảo mật hệ thống, tích hợp dữ liệu và tính liên tục trong hoạt động,.v.v b) Xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ tự động phục vụ cho các giao dịch bán lẻ: - Phát triển hệ thống thanh toán bán lẻ, trung tâm thanh toán bù trừ bán lẻ trên cơ sở khuyến khích sự tham gia góp vốn và vận hành của các ngân hàng thương mại trên cơ sở đáp ứng các quy định của Ngân hàng Nhà nước nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống và đảm bảo sự hoạt động ổn định, an toàn của hệ thống tài chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện v iệc quản lý và giám sát các hệ thống này - Thiết lập Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia tại Hà nội thực hiện xử lý bù trừ hối phiếu/séc, vận hành hệ thống Bank Giro và giao diện với trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất. Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia sẽ kết nối trực tiếp và có giao diện với hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vận hành. Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia đóng vai trò là trung tâm xử lý thông tin thanh toán bù trừ và gửi lệnh thanh toán bù trừ về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quyết toán giao dịch cho các ngân hàng thông qua tài khoản của các ngân 47 hàng mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qua hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đối với các hoạt động cụ thể của Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia, định hướng chung là phát tr iển và ứng dụng công nghệ hiện đại ( điện tử ) trong xử lý thanh toán bù trừ các công cụ thanh toán. c) Xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất: Xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất, với các thương hiệu thống nhất, kết nối các hệ thống máy ATM của các liên minh thẻ hiện hành thành một hệ thống thống nhất nhằm tăng tính thuận tiện cho người sử dụng dịch vụ thẻ ngân hàng, đảm bảo thẻ do một ngân hàng phát hành có thế sử dụng ở nhiều máy ATM và POS của các ngân hàng khác, tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ với tiềm lực tài chính hạn chế có thể tham gia vào thị trường thẻ, đồng thời g iảm bớt gánh nặng đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho các ngân hàng lớn. 3.3.2. Kiến nghị với Hiệp hội thẻ Dự đoán tình hình phát triển thị trường thẻ những năm tới, khi Việt Nam gia nhập WTO, để hoạt động của Hiệp hội thẻ ngày càng hiệu quả, thúc đẩy vai trò hợp tác của các ngân hàng thành viên, Hiệp hội thẻ nên có các động thái như sau: * Phát huy tích cực vai trò liên kết, hợp tác giữa các thành viên để cùng phát triển - Liên kết các ngân hàng thành viên đẩy nhanh tiến độ kết nối hệ thống thanh toán thẻ - Làm đầu mối thúc đẩy liên kết phát triển sản phẩm, dịch vụ mới - Phát triển màng lưới đơn vị chấp nhận thẻ 48 - Quản lý và phòng ngừa rủi ro - Tiếp tục thống nhất thu phí phát hành và thu phí chiết khấu đơn vị chấp nhận thẻ * Hỗ trợ về mặt đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các ngân hàng thành viên Hiệp hội thẻ - Tiếp tục tăng cường tổ chức các khóa đào tạo về các nội dung: Quản lý rủi ro, phòng ngừa giả mạo, kỹ năng xử lý tra soát, khiếu nại. Giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới mẻ của các nước... Kết hợp với các cuộc hội thảo chuyên đề mời các chuyên gia thẻ của nước ngoài và trong nước. Hiệp hội thẻ cũng nên chú trọng đến các kiến nghị của ngân hàng tổ chức các đoàn thực tập dài ngày tại các ngân hàn nước ngoài cho các cán bộ của ngân hàng thành viên. * Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để quảng bá hoạt động thẻ Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để quảng bá hoạt động thẻ đến với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để từng bước xã hội hóa dịch vụ thẻ, đồng thời nâng cao sự hiểu biết của công chúng về quản lý, bảo mật thẻ, sử dụng thẻ an toàn. Hiệp hội thẻ sẽ kết hợp với các chương trình sự kiện lớn của đất nước hay những ngày lễ lớn thực hiện các chương trình tuyên truyền quảng bá hình ảnh thẻ, thúc đẩy thanh toán thẻ trên các cơ quan thông tấn, báo chí hoặc truyền hình. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng, cải tiến hình thức ấn phẩm “Thị trường thẻ Việt Nam” của Hiệp hội thẻ, để xứng đáng là kênh thông tin hợp pháp, chính thức thể hiện quá trình phát triển của thị trường thẻ Việt Nam. 3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ - Chỉ đạo các Bộ, ngành cung ứng dịch vụ bưu chính viễn thông, điện lực,... tích cực phối hợp với ngành ngân hàng để đẩy mạnh việc chấp nhận thẻ 49 như một hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần giảm chi phí xã hội, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng - Quy định cụ thể về việc trả lương các cơ quan daonh nghiệp qua tài khoản - Có chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị nguyên vật liệu cho hoạt động thẻ mà trong nước chưa sản xuất được. 50 KẾT LUẬN Thẻ ngân hàng còn là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tiên t iến, kích thích mạnh mẽ sự phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Bài nghiên cứu của nhóm nhằm mô tả lại toàn cảnh bức tranh hiện trạng dịch vụ thẻ tại các NHTM Việt Nam, đồng thời từ đó tìm ra giải pháp và đề xuát kiến nghị với các các cơ quan Hiệp hội thẻ, Ngân hàng nhà nước và các cơ quan làm luật với mong muốn dịch vụ thẻ trở thành một nguồn thu chính cho lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Xin chân thành cảm ơn! 51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Thị Thu Hiền, Xu thế xử dụng và giải pháp phát triển thanh toán thẻ, Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng, (T5/2008) 2. Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế, Báo cáo về tìn hình hoạt động và tổng kết hoạt động thanh toán thẻ, Hội an 2008 3. Ngân hàng nhà nước, (1999), Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, Hà nội 4. Nguyễn Thu Hà, (2006, Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam 10 năm hoạt động và trưởng thành, Thị trường thẻ Việt Nam, tr 2-7 5. Nguyễn Trọng Tài,(2007) phát triển lĩnh vực ngân hàng bán lẻ của Việt Nam, kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, (bản thảo) 6. Thủ tướng Chính phủ, (2006), Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thanh toán không dùng t iền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphat_trien_dich_vu_the_tai_ngan_hang_thu_final_0395.pdf
Luận văn liên quan