Đề tài Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ

MỤC LỤC PHẦN MỞ BÀI 1 CHƯƠNG I: LỊCH SỬ QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT - MỸ TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY 2 I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT - MỸ 2 1. Quan hệ ngoại giao trong lịch sử 2 2. Quan hệ ngoại giao trong chiến tranh Mỹ - Việt 5 3. Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1976 - 1995 7 CHƯƠNG II: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT - MỸ TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY 11 I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT - MỸ 11 1. Tình hình thế giới và khu vực. 11 2. Lợi ích của hai bên trong việc bình thường hoá quan hệ. 12 II. TIẾN TRÌNH BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ NGOẠI GIAO. 16 1. Những ghi nhận sau bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ 16 2. Một số tồn tại và khó khăn: 21 3. Triển vọng quan hệ hợp tác Việt - Mỹ 22 KẾT LUẬN 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

doc28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6210 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ và cũng bỏ lỡ cơ hội bang giao giữa hai nước. Từ đó về sau, trong tình hình thâm nhập ngày càng sâu của Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, không có thêm cuộc tiếp xúc nào của Hoa Kỳ với Triều đình Huế. Nửa cuối thế kỷ XIX, trong lúc Thiên Hoàng Minh Trị đang đưa nước Nhật Bản tiến mạnh mẽ vào con đường duy tân thì tình hình nước Việt Nam ngày càng có nguy cơ mất nốt Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Vua Tự Đức nhu nhược trước âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân Pháp, bác bỏ đề nghị cách tân của Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà cách tân tâm huyết khác. Tuy vậy, ông vẫn muốn nắm tình hình phương Tây để liệu điều chỉnh chính sách. Tháng 7/1873 Tự Đức cử Bùi Viện, một nhà nho thức thời và năng động, đi ra nước ngoài, trước hết là tới Hương Cảng. Do có sự giúp đỡ của Viện lãnh sự Mỹ tại Hương Cảng mà ông đã làm quen. Bùi Viện đáp tàu sang Mỹ với hy vọng tìm được người bạn mới giúp Việt Nam đánh Pháp. Tới Mỹ, ông được Tổng thống Ulysse Grant tiếp và hứa sẽ giúp Việt Nam bảo vệ đất nước nhưng cần có quốc thư uỷ nhiệm chính thức của Nhà nước Việt Nam. Khi Bùi Viện trở lại Mỹ, thực hiện chuyến công cán lần hai vào năm 1875 với quốc thư của Vua Tự Đức trong tay, nhưng tình hình quan hệ Mỹ - Pháp đã khác, Mỹ không còn muốn viện trợ cho Việt Nam chống Pháp nữa vì lúc này Mỹ chưa có điều kiện cạnh tranh với thực dân Pháp. Nếu trước đây Edmund Roberts hai lần tới Việt Nam mà đại sự không thành thì Bùi Viện cũng hai lần sang Mỹ mà cũng trở về tay không, hai nước vẫn chưa thiết lập được quan hệ ngoại giao. Khi nước Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Mỹ đặt lãnh sự quán tại Sài Gòn và Hà Nội trong lúc đó họ cai trị Philippin sau khi đánh bại Tây Ban Nha. Cả hai cuộc tiếp cận lịch sử đều thất bại và từ đó Hoa Kỳ từ bờ Thái Bình Dương đứng nhìn quá trình chủ nghĩa thực dân Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam cho tới khi nó bị gót sắt của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đè bẹp trong chiến tranh thế giới thứ II. Nằm dưới sự đô hộ, cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để giành lại độc lập tự do và khi cách mạng Tháng 8 - 1945 thắnglợi hoàn toàn, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đã chấm dứt hơn 80 năm chế độ Pháp thuộc. Nhưng ngay sau khi giành được độc lập, theo qui định của Hiệp ước Postdam, Đông Dương chia làm 2 khu vực để giải giáp quân Nhật: khu vực phía Bắc từ vĩ tuyết 16 trở lên, khu vực phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc Việt Nam, quân Anh kéo vào miền Nam Việt Nam đại diện cho lực lượng đồng minh giải giáp quân Nhật. Ngay trong thời kỳ này, giữa Việt Nam và Mỹ cũng bắt đầu có quan hệ bang giao thông qua hợp tác tích cực chống quân đội Phát xít. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi nước Mỹ tham gia đồng minh, đang trong hàng ngũ lực lượng dân chủ toàn thế giới chống phe trục: Đức - Ý - Nhật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Mỹ. Trong suốt thời gian lưu lại Trung Quốc, sau khi được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do (1943-1944), Hồ Chí Minh đã làm quen với một số sỹ quan Mỹ đang hoạt động ở Trung Quốc. Trong chuyến đi Côn Minh, Trung uý Mỹ Charles Fenn gặp Hồ Chí Minh ngày 17/3 rồi lại gặp ngày 20/3 Fenn ngỏ ý mong muốn được Việt Minh giúp đỡ. Hồ Chí Minh nhận lời nhưng nói không có phương tiện thông tin. Do sự sắp xếp của Fenn, Hồ Chí Minh gặp tướng Claire I.Chennault, tư lệnh quân đoàn không quân 14 của Mỹ. Ngày 27/4 Hồ Chí Minh trên đường về nước gặp thiếu tá Archimeder L.A.Patti thuộc tổ chức OSS tại một làng nhỏ gần Tĩnh Tây (Trung Quốc). Cùng đi với Người là 2 người Mỹ: Franckie Tan, gốc Hoa và Maxim. Ngày 16/7, thiếu tá Thomas cùng một số người Mỹ nhảy dù xuống làng Kimlung và được bố trí ở Tân Trào (Tuyên Quang). Số người Mỹ này làm việc liên lạc với cơ quan Mỹ ở Côn Minh và huấn luyện kỹ thuật cho một số cán bộ quân sự của quân giải phóng. Người Mỹ cũng đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống khu căn cứ Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để Việt Minh chuyển về nước. Đến tháng 8 thì nhóm Thomas theo quân du kích của Hồ Chí Minh xuôi về Hà Nội, trở thành nhân chứng của một trong những sự tích thần kỳ nhất trong lịch sử Việt Nam - ngày Việt Nam tuyên bố độc lập. Với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp phục trách công tác ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản tuyên bố về chính sách ngoại giao trong đó khẳng định chủ trương quan hệ hoà bình hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Với Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã có trong chiến tranh. Nhân dân Chính phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục bức thư, điện, công hàm tới Tổng thống Truman, Chính phủ và Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung của các văn bản ấy xoay quanh vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp tác của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tháng 10/1945 Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối ngoại của Mỹ, Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn Chính phủ Mỹ sẽ thực hiện đúng tinh thần của Bản tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của các dân tộc nhược tiểu. Song lúc này Chính phủ Mỹ đã ngả hẳng sang chủ trương ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương. Những cố gắng trong quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ đã không đạt kết quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý đến việc giữ tôn trọng của Chính phủ mình đối với vai trò của Mỹ trong đồng minh, sự có mặt của đại diện phái bộ Mỹ trong các buổi lễ ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng như trong các văn bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó. Trong thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức không thành công nhưng quan hệ của Việt Nam với Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả quan thông qua hình thức ngoại giao nhân dân mà điển hình là Hội hữu nghị Việt - Mỹ. Ngày 2/9/1947, trong thư gửi Việt - Mỹ ái hữu hội, Hồ Chủ Tịch đã viết: "Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống thực dân phản động Pháp giành thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ, nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập và dân chủ của quốc gia,... sẽ giúp chúng ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng hiện nay và trong công cuọc kiến thiết xây dựng sau này" (2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, trang 211 . Năm 1947 Chính phủ Mỹ đã giúp Pháp tiến hành chiến tranh Việt Nam. Sự phát triển theo chiều hướng đó đã dẫn tới sự dính líu trực tiếp ngày càng sâu sắc của Mỹ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. 2. Quan hệ ngoại giao trong chiến tranh Mỹ - Việt Khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, Mỹ không những không bị hao hụt về người và của mà trái lại còn thu được nhiều lợi nhất nhờ làm giàu bằng việc bán vũ khí. Cùng thời gian này, cách mạng Việt Nam thành công, lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập, Cách mạng Việt Nam đã trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại, cho xu thế phát triển tất yếu của phòng trào giải phóng dân tộc lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế chân Pháp can thiệp trực tiếp vào Việt Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diêm đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Mỹ. Ngày 23/10/1954, khi Eisenhour gửi bức thư cho Ngô Đình Diệm cam kết Mỹ ủng hộ hoàn toàn và sẽ viện trợ đối với chế độ của ông ta. Điều đó có ý nghĩa rõ ràng rằng Hoa Kỳ chính thức và công khai cam kết chống lại Việt Nam dân chủ cộng hoà với miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến đấu của Đảng và nhân dân ta chống cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đã khởi đầu trong sự so sánh lực lượng bất lợi cho ta. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quí hơn độc lập tự do", nhân dân cả 2 miền đều đứng lên kiên quyết chống Mỹ xâm lược. Năm 1967 ta mở mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị cùng đánh Mỹ. Ta tăng cường đoàn kết với Liên Xô và Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố và phát triển mặt trận nhân dân Đông Dương, đoàn kết với phong trào phản chiến ở Mỹ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ bạn - thù, phân biệt rõ nhân dân Mỹ với những nhà cầm quyền của Mỹ theo đuổi chính sách chiến tranh. Mục đích của nhân dân Việt Nam là đấu tranh để giành độc lập tự do, đem lại hạnh phúc cho dân tộc và chung sống hoà bình với cộng đồng thế giới trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị. Vì vậy Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẵn sàng đàm phán với điều kiện là quân Mỹ phải rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Với mục đích đó, ta chủ trương buộc địch xuống thang từng bước, giành thắng lợi từng phần. Sau thắng lợi tết Mậu Thân (1968), Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở cho ta cục diện vừa đánh vừa đàm, kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, tạo điều kiện cho thắng lợi sau này. Sau bốn năm kiên trì đấu tranh, thương lượng, vào năm 1973, Mỹ phải ký Hiệp định Paris, chịu rút quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam trong lúc quân miền Bắc vẫn ở lại miền Nam. Theo Hiệp định Paris 1973 thì "Hiệp định này sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà và Hoa Kỳ, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau". Ngày 29/4/1975: sứ quán Mỹ đã rút hết số nhân viên và đóng cửa. Ngày 30/4/1975 ta giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước mở ra một chương mới trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc Việt Nam. Cũng từ đó, sau khi thua trên chiến trường, Mỹ lại quyết định lệnh cấm vận toàn Việt Nam. Việt Nam và Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao. 3. Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1976 - 1995 Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời ngày 2/7/1976 đánh dấu bước phát triển rực rỡ của nước Việt Nam. Cũng trong thời gian này, hai Chính phủ Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu đàm phán để thiết lập quan hệ ngoại giao. Phía Việt Nam đã bày tỏ quan điểm của mình: Mỹ phải thực hiện đúng Hiệp định Pari 1973, theo đó Mỹ đã cam kết viện trợ tái thiết cho Việt Nam sau chiến tranh. Nhưng Tổng thống Mỹ G.Ford đã bác bỏ yêu cầu này và đặt ra 2 điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao: 2 điều kiện đó là: kiểm kê đầy đủ những người Mỹ bị coi là mất tích trong chiến tranh mà họ gọi là MIA và giải trình "những hành động gây căng thẳng liên tiếp của Việt Nam"(3) Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Nhà Xuất Bản Công an nhân dân, năm 1998, tập II, tr273 ở Đông Nam Á. Trong 2 năm 1975-1976, Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Mỹ làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ để tạo điều kiện cho 2 bên có thể gặp nhau, nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên. Đầu năm 1977, Jimmy Carter lên làm Tổng thống và ngày 16/3/1977 Carter cử đoàn phái viên của Tổng thống sang Việt Nam, do ông L.Woodcook dẫn đầu để thăm do khả năng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Cũng trong tháng 3/1977, Tổng thống J.Carter cũng cho phép tàu thuỷ, máy bay các nước khác trở hàng cho Việt Nam được ghé qua các sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu. Đây là một cố gắng của Chính phủ Mỹ nhằm đạt được sự bình thường hoá với Việt Nam. Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một chút biến chuyển gì thì tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Năm 1978, Mỹ và Trung Quốc bắt đầu có sự hợp tác để đi đến bình thường hoá quan hệ, Mỹ đã bàn với Trung Quốc để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa 2 nước trong đó có cả việc phối hợp để chống Liên Xô (4) . Cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán để bình thướng hoá quan hệ. Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết định xếp lại kế hoạch đàm phán. Vậy là cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ một lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ. Năm 1979 các cuộc đàm phán để bình thường quan hệ Việt - Mỹ ngừng trệ. Vì phía Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Luật quốc tế khi đưa quân vào Campuchia để lập ra chính quyền Campuchia - Hiengxemrin. Mỹ đã lấy lý do này để lôi kéo các nước ủng hộ những hành động chống phá Việt Nam dưới danh nghĩa bảo vệ ổn định an ninh thế giới. Vấn đề Campuchia đã kéo theo sự dính líu của nhiều nước và sự phân cực gay gắt trong nền chính trị khu vực. Từ đó đánh dấu thời kỳ băng giá trong quan hệ Việt - Mỹ. Tháng 1/1981, Tổng thống Mỹ Regan tuyên hệ nhậm chức. Dưới sức ép mạnh mẽ về vấn đề MIA, ông đã hứa coi việc tìm kiếm người mất tích là ưu tiên cao nhất của ông. Nhưng trong nhiệm kỳ đầu của ông, ngoại giao giữa hai nước ít đạt được kết quả. Năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới cải thiện vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới nên Mỹ bắt đầu thay đổi chính sách quan hệ với Việt Nam. Từ tháng 1 đến 3/8/1987 Tướng Vétxi đặc phái viên của Tổng thống Regan thăm Việt Nam lần thứ nhất, thảo luận vấn đề nhân đạo mà 2 bên cùng quan tâm. Ngày 20/1/1988 Tổng thống Regan tuyên bố: Trong khung cảnh một giải pháp cho vấn đề Campuchia bao gồm Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra khỏi Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên cơ sở tiến bộ trong vấn đề MIA trở lại trại cải tạo (5) Lưu Văn Lợi: Năm mươi lăm ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân, năm 1998, tập II, trang 275 . Năm 1989, Tổng thống Bush đắc cử và đã quyết định thay đổi chính sách đối với Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới với nhiều hy vọng. Ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia. Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt - Mỹ vòng 1 giữa đại sứ Trịnh Xuân Lãng và Phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt - Mỹ. Từ ngày 29 đến 30/9/1990 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp Bộ trưởng Ngoại giao Giêm UBây - Cơ tại Niu Joóc. Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra công khai, chính thức chính sách đối với Việt Nam. Ngày 20/4/1991, Tướng Vétxi vào Việt Nam lần 2, bàn về vấn đề lập văn phòng MIA tại Hà Nội. Ngày 25/4/1991 phía Mỹ tuyên bố lần đầu tiên viện trợ 1 triệu USD giúp Việt Nam về lĩnh vực chân tay giả. Ngày 23/10/1991 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Giêm Bây - Cơ tại Pari nhân dịp ký Hiệp định Pari về Campuchia. Từ 31/1/1992 đến 1/2/1992 đặc phái viên tướng G. Vét - xi vào Việt Nam lần thứ tư bàn về các biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác trong quan hệ Việt - Mỹ. Ngày 8/10/1992 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại trưởng Mỹ Eagleburger và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại Bộ ngoại giao Mỹ trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng tiến tới bình thướng hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh và bằng chứng mà Việt Nam trao có thể bổ xung cho việc giải quyết số phận các quân nhân Mỹ bị mất tích, những người mà Mỹ tin rằng Việt Nam có những tin tức cuối cùng. Năm 1993, Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính quyền của Clintơn cũng kế thừa chính sách "lộ trình" của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi của quá trình bình thường hoá quan hệ vẫn là "tốc độ và qui mô" của quá trình bình thường hoá bị tác động bởi sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai đoạn cho quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ công bố tháng 4/1991 không chính thức được coi là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải thiện quan hệ 2 nước nhưng trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch trình này. Ở giai đoạn 3, có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là: - Tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của Chính phủ Phnôm Pênh với Hiệp định hoà bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Camuchia. - Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin. Trên thực tế, điều một Việt Nam đã hoàn thành và điều hai cũng được giải quyết tích cực với sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam. Phía Mỹ đã thực hiện đầy đủ các điều ghi trong khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3/2/1994, mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và mời Việt Nam lập văn phòng tại Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan hành chính quốc tế viện trợ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người ở Việt Nam. Ở giai đoạn 4, không có đòi hỏi bổ xung yêu cầu Việt Nam thực hiện trong giai đoạn này, Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam, xem xét việc giành chế độ tối huệ quốc cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ. Ngày 28/1/1995, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ chính thức thông báo mở cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước. Với nỗ lực và thiện trí của cả hai bên, 7/1995 chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á. CHƯƠNG II SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT - MỸ TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT - MỸ 1. Tình hình thế giới và khu vực. Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự hai cực cũng chấm dứt theo. Mỹ trở thành 1 cực duy nhất còn lại sau chiến tranh lạnh, với đầy đủ thực lực và tham vọng làm bá chủ thế giới. Thời kỳ chiến tranh lạnh đã đánh dấu thời kỳ vàng son của nước Mỹ, với vai trò, vị trí của mình trên trường quốc tế cùng âm mưu bá chủ thế giới, nhưng sau chiến tranh lạnh, nước Mỹ có phần nào suy yếu, do chạy đua vũ trang, chi phí ngân sách quá lớn cho các cuộc chiến tranh. Hơn nữa, Mỹ còn phải đương đầu với các đồng minh chiến lược của Mỹ, được Mỹ trợ giúp về vốn, kỹ thuật. Giờ đây đang trở thành đối thủ cạnh tranh quyết liệt với Mỹ. Thêm vào đó là vai trò của nước vừa và nhỏ ngày càng tăng lên. Với sức mạnh kinh tế, trình độ khoa học và công nghệ ngày càng có vị trí hơn trong các vấn đề quốc tế như Australia, Canada, ASEAN,... Do đó, thế giới đang ở thời kỳ chuyển tiếp từ trật tự 2 cực chuyển sang trật tự thế giới mới, có nhiều trung tâm nổi lên. Tuy phải đối mặt với nhiều thách thức và nguy cơ không thuận lợi lắm nhưng hiện tại Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất và đang quá độ từ nước bá chủ thể giới sang vai trò làm người lãnh đạo thế giới. Quá trình toàn cầu hoá được thúc đẩy mạnh mẽ do cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật và liên lạc viễn thông bùng nổ hình thành mạng lưới hệ thống liên lạc toàn cầu. Tính quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng diễn ra nhanh và rộng. Kinh tế thế giới, toàn cầu hoá đã góp phần chấm dứt việc hai hệ thống mô hình kinh tế đối lập nhau biểu hiện là trong những năm 80 khu vực các nước XHCN với mô hình kinh tế kế hoạch và bao cấp chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,... từ đầu năm 1990, sự phụ thuộc kinh tế giữa các nước lớn và nhỏ ngày càng gia tăng và có quy mô ngày một rộng hơn. Quan hệ giữa các nước giờ đây không chỉ đơn thuần là quân hệ ngoại giao mà còn là mối quan hệ ràng buộc về kinh tế. Sau chiến tranh lạnh, cùng với toàn cấu hoá, khu vực hoá nền kinh tế cũng trở thành ưu tiên trọng điểm trong sách lược của mỗi nước. Các quốc gia đều coi trọng chính sách khu vực, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, đẩy mạnh liên kết khu vực, đồng thời cân bằng với các nước lớn, khai thác khả năng và những điểm đồng nhất để từ đó mở rộng hợp tác vì lợi ích của mỗi bên. Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế thế giới có khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo là rất lớn dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các nước. Những nước nghèo và kém phát triển sẽ bị cạnh tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi các nước giàu có vốn, khoa học kỹ thuật cao sẽ luôn đặt ra những điều kiện khắt khe khi hợp tác kinh tế mà với khả năng của mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng được. Do vậy vấn đề đặt ra là các nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta phải làm thế nào để vượt qua những thách thức mà lại tận dụng được các mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu mới của khoa học công nghệ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công. Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã khiến toàn thế giới coi trọng, đó là sự phát triển năng động của nền kinh tế khu vực này với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Điều đó không phải là vấn đề mới mà nó đã có ngay từ những năm khi chiến tranh lạnh ở đỉnh cao nhất. Bắt đầu là "sự thần kỳ" của Nhật Bản vào cuối thập niên 60 và sự xuất hiện của 4 con rồng Châu Á vào cuối thập niên 70, sau đó là Thái Lan, Malaysia,... Điều mới cần nói ở đây là sau chiến tranh lạnh, kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương vẫn giữ được đà phát triển ngoạn mục đó không chỉ với các nước đi theo nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà cả đối với những nước trước đây vốn có nền kinh tế tập trung bao cấp và nay chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá vai trò của Châu Á - Thái Bình Dương và giúp cho các nước có cơ sở khách quan trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mình trong những thập kỷ tới. 2. Lợi ích của hai bên trong việc bình thường hoá quan hệ. Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến dài khác xa so với trước nhờ một phần sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới, một phần cũng là do lợi ích chiến lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ kết hợp với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khai thông. a. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò "Người lãnh đạo thế giới" thì cần phải có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của mình cho phù hợp với tình hình thế giới. Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có tham vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay cho chiến lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó là chiến lược "mở rộng dân chủ" của Bill Clintơn. Ngày 27/19/1993 trong diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc nói rõ: "Trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do,... giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó". (6) Phan Doãn Nam, sự điều chỉnh chiến lược của một số nước lớn sau chiến tranh lạnh, Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 20 . Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ đã đặt khu vực này vào vị trí ưu tiên ngang hàng với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu Á Thái Bình Dương là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động của thế giới. "Trong thập kỷ này, hơn 60% của sự phát triển kinh tế thế giới là từ Châu Á, khu vực chiếm hơn 1/2 dân số thế giới". Với tổng số 13.400 tỷ USD, Châu Á - Thái Bình Dương chiếm 54% GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí ngày càng quan trọng đối với các nước lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu vực bao gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải quan tâm và kiêng nể như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc. Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh, hai nước từng tranh giành vị trí, ảnh hưởng với nhau. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị thế của Nga thay vào đó không còn nguyên vẹn như xưa nhưng tiềm lực về quân sự của Nga vẫn là điều mà Mỹ đáng quan tâm. Với Trung Quốc, là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu thụ hàng hoá đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân đội, phổ biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại và Mỹ đã điều chỉnh lại chính sách đối với Trung Quốc. Từ chỗ xem Trung Quốc là "là con bài" là "đồng minh thực tế" trong việc ngăn chặn và kìm chế Liên Xô sang thành một đối thủ. Đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ về hoạch định một chính sách mới đối với Trung Quốc trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh này. Nhưng thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung Quốc. Tức là vừa dính líu vừa kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường tiến đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung Quốc hợp nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều đó sẽ thách thức đối với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực. Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố vị trí của mình ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường quốc nào nổi lên thách thức vai trò vị trí ảnh hưởng ấy, thực hiện "diễn biến hoà bình" với các nước XHCN còn lại. Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng, chia rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc gia ở khu vực này. Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục tiêu của Mỹ khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu hay chính sách với Đông Nam Á của siêu cường này. Một trong những mục tiêu Mỹ hướng tới khi quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là muốn thu hút, lôi kéo Việt Nam lại gần Mỹ và tách Việt Nam ra khỏi các đối tác truyền thống. Tuy nhiên, để đi đến bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, trong Quốc hội Mỹ còn có nhiều tranh luận gay gắt và nó đã chi phối phần lớn chính sách của Mỹ trong suốt 20 năm qua. Việc Mỹ thiết lập quan hệ với Việt Nam còn để làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân Mỹ và trong tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam Tổng thống Bill Clintơn đã nói "Bước đi này sẽ giúp đất nước chúng ta tiến lên phía trước về một vấn đề chia rẽ người Mỹ với nhau quá lâu rồi. Chúng ta hãy hướng về tương lai, chúng ta có quá nhiều việc phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho chúng ta cơ hội để hàn gắn các vết thương của chúng ta. Những vết thương này đã không chịu lành quá lâu rồi. Giờ đây chúng ta có thể tiến tới một cơ sở chung, bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây, chúng ta hãy xếp vào quá khứ, hãy để giây phút này, theo từ của kinh thánh là một thời điểm để kiến tạo" (7) Tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Báo nhân dân, ngày 12/7/1995, trang 10 Mỹ mong muốn sự hợp tác với Việt Nam để giải quyết vấn đề POW-MIA, vấn đề về tù binh chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích. Đây là điều kiện Mỹ đặt hàng đầu để quan hệ với Việt Nam cũng là để giải quyết "Hội chứng Việt Nam" trong lòng dân Mỹ. Thêm vào đó, những người quan tâm đến Việt Nam đánh giá Việt Nam có vai trò quan trọng ở Đông Dương và Đông Nam Á vì nếu xét về diện tích là nhỏ nhưng vị trí lại rất quan trọng. Việt Nam nằm án ngữ con đường biển huyết mạch từ Bắc Á xuống Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Việt Nam còn có cảng Cam Ranh là căn cứ quân sự chiến lược trong khu vực. Việt Nam tuy diện tích nhỏ nhưng có tiềm năng lớn, dân số đông, có trình độ dân trí cao, tài nguyên thiên nhiên phong phú, hứa hẹn nhiều khả năng hợp tác và đầu tư. Cộng thêm chiến lược "mở rộng dân chủ" nhằm làm thay đổi chế độ - chính trị xã hội của Việt Nam, Mỹ cho rằng, việc xoá bỏ cấm vận giúp Việt Nam phát triển kinh tế là nhằm đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng chi phối của Mỹ, xoá bỏ thù hận của người dân Việt Nam đối với Mỹ từ đó thực hiện dễ dàng diễn biến hoà bình ở Việt Nam. b. Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ Năm 1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đường lối: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" (8) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, năm 1991 . Sự điều chỉnh chính sách và đường lối đối ngoại đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu to lớn về kinh tế và mở rộng quan hệ với nhiều nước, thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc phát triển quan hệ với các nước lớn đã được đưa ra trong đường lối chiến lược phát triển của Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ là nhân tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, từng bước có sự điều chỉnh chiến lược để làm thay đổi thái độ, lập trường của Mỹ với Việt Nam. Với phương châm: "Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai". Việt Nam đã làm hết sức mình để khép lại quá khứ của cuộc chiến tranh tàn khốc để cùng Mỹ hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn trong quan hệ. Bằng sự cố gắng của mình, Việt Nam đã tích cực giải quyết vấn đề POW-MIA về những quân nhân Mỹ bị mất tích và chết trong chiến tranh Việt Nam và thành công trong việc tìm ra giải pháp cho vấn đề Campuchia mà kết quả là Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia ra đời ngày 23/10/1991 đã gỡ bỏ dần những áp đặt được đưa ra trong lộ trình bốn giai đoạn của Mỹ. Những cố gắng của Việt Nam cùng sự ủng hộ của Mỹ đã làm xoay chuyển được cục diện quan hệ Việt Nam và Mỹ theo chiều hướng tốt đẹp. Vì chính Mỹ cũng hiểu rằng: nếu tiếp tục đối đầu sẽ không có lợi mà Việt Nam và Mỹ phải tìm cách cải thiện quan hệ thì các quan hệ khác mới được thúc đẩy và đem lại lợi ích cho cả 2 nước. Về phía Việt Nam, mục tiêu chiến lược của Việt Nam đề ra trong quan hệ với Mỹ là đạt được những vấn đề sau: Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam có điều kiện hối thúc Mỹ giúp đỡ để giải quyết những hậu quả chiến tranh do Mỹ để lại. Bên cạnh đó, Việt Nam và Mỹ sẽ cùng hợp tác để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng trong công tác POW/MIA. Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam sẽ củng cố và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc cải thiện quan hệ với các nước khác và khai thông quan hệ với các tổ chức, thể chế tài chính, kinh tế thương mại khu vực cũng như toàn cầu, giúp Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Bình thường hoá quan hệ với Mỹ sẽ tạo điều kiện cho ta khả năng tận dụng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của Mỹ, các doanh nghiệp của Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm ở một nước phát triển cao như Mỹ, tạo môi trường thuận lợi cho việc hợp tác, đầu tư, trao đổi kinh tế, thương mại. Điều này hỗ trợ trực tiếp cho Việt Nam thoát khỏi nguy cơ tụt hậu và giúp Việt Nam thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cuối cùng, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa 2 nước sẽ mở đường cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế đặc miễn dành cho một nước đang phát triển (GSP). Theo đó Việt Nam sẽ được phép xuất khẩu sang Mỹ với chế độ thuế quan rất thấp, hoặc không phải chịu thuế. Điều này sẽ giúp cho việc phát triển kinh tế của Việt Nam được thuận lợi. II. TIẾN TRÌNH BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ NGOẠI GIAO. Ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clintơn đã tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Sự kiện này đã mở ra một bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước. Mặc dù sau khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước không diễn ra các hoạt động "nhộn nhịp" như các sự kiện khác cùng thời điểm nhưng không vì thế tính chất quan trọng của nó giảm đi. Để đi đến sự kiện này, những người đứng đầu Nhà trắng đã có sự tính toán một cách kỹ lưỡng, đặc biệt về thời gian, thời gian công bố bình thường hoá vào tháng 7/1995 là phù hợp với những yêu cầu khách quan của nhân dân tiến bộ thế giới cũng như dư luận và cuộc đấu tranh trong lòng nước Mỹ. Nhìn lại thời gian qua quan hệ ngoại giao giữa 2 nước đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ: 1. Những ghi nhận sau bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ a. Về chính trị - ngoại giao Sau khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ở cấp Đại sứ, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã hoan nghênh và nói phía Việt Nam sẵn sàng trao đổi Đại sứ. Đầu tháng 8/1996, chính quyền Clinton đã quyết định bổ nhiệm hạ nghị sĩ Douglas Peterson làm đại sứ tại Việt Nam và đề nghị Quốc hội Mỹ thông qua theo Luật của Mỹ. Nhưng khi đó ông Peterson là nghị sĩ đương nhiệm, do đó không được giữ một chức vụ của chính quyền mới lập ra và hưởng lương cao hơn mức lương hiện tại của dân biểu, những người chống đối đã dựa vào đó để trì hoãn việc ông Peterson điều trần trước quốc hội cho đến đầu năm 1997. Ngày 13/2/1997 tiểu ban Châu Á - Thái Bình Dương thuộc Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Mỹ thông qua việc cử ông Peterson. Ngày 10/4/1997 toàn thể Thượng nghị viện Mỹ đã nhất trí phê chuẩn việc cử ông Peterson làm đại sứ tại Việt Nam, chấm dứt cuộc tranh cãi làm chậm việc phê chuẩn ông Peterson 11 tháng. Về phía Việt Nam, đã cử ông Lê Văng Bàng làm đại sứ tại Hoa Kỳ. Ngày 9/5/97 ông Lê Văn Bàng tới Oasinhton trong khi cùng ngày ông Peterson cũng đến Hà Nội. Ngày 14/5/97 tại Nhà trắng ông Lê Văn Bàng đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trình thư uỷ nhiệm lên Tổng thống Bill Clinton. Cùng ngày tại Phủ Chủ tịch ông Douglas Peterson, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ, trình thư uỷ nhiệm lên Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Bình. Có thể nói, đây là kết quả quan trọng và cao nhất về mặt ngoại giao. Nó là điều kiện cần thiết về mặt pháp lý để mở rộng các quan hệ khác cho cả hai bên. Với việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao,việc tạo lập cơ sở vật chất, cơ cấu tổ chức bộ máy cho hoạt động của đại sứ quán ở thủ đô mỗi nước đã được tiến hành tuần tự theo từng bước một. Về cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao của 2 bên đã thiết lập với việc khai trương đi vào hoạt động và việc mở lãnh sự quán của Việt Nam tại Sanphrangxitco, lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP. Hồ Chí Minh cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao hai bên đã được thiết lập. Cơ cấu, bộ máy tổ chức, nhân sự của các đại sứ quán về cơ bản đã được hình thành và thực thi chức năng của mình. Phía Hoa Kỳ cũng có tuỳ viên quân sự, tuỳ viên văn hoá, đại diện thương mại tại Việt Nam. Về phía mình, Việt Nam cũng đã thiết lập đại diện Thông tấn xã Việt Nam, đại diện văn hoá tại sứ quán của mình ở Oashinstơn. Là đại diện chính thức của Chính phủ mỗi bên ở nước sở tại, các Đại sứ là kênh chính để hai bên trao đổi thông tin về nhau giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương, để các bên thâm nhập, trực tiếp tìm hiểu nhau. Trước khi Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, chưa có Đại sứ quán thì mọi vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước rất khó được giải quyết hoặc nếu có được giải quyết thì cũng đòi hỏi thời gian khá dài vì phải trải qua các khâu trung gian phức tạp, do vậy đôi khi những cơ hội thuận lợi bị bỏ lỡ. Giờ đây mọi vấn đề đều nhanh chóng được phản ánh một cách chính thức tới Chính phủ hai nước, và những cơ hội cũng được tận dụng không bị bỏ lỡ. Nhờ có đại sứ quán, lãnh sự quán mà việc đi lại, trao đổi các đoàn ở cấp Chính phủ cũng như phi Chính phủ của 2 nước có nhiều thuận lợi và có cơ hội tăng cường. Điều này giúp cho ngoại giao nhân dân được mở rộng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp của 2 nước tìm hiểu, thâm nhập vào thị trường, đầu tư kinh doanh buôn bán. Kể từ khi bình thường hoá đến nay, 2 nước đã tăng cường trao đổi các đoàn quan chức chính phủ, các nghị sĩ quốc hội, tận dụng cơ hội để tiếp xúc với nhau ở các diễn đàn, tổ chức khu vực cũng như quốc tế. Có thể nói, tháng nào cũng có ít nhất 1 đoàn của Hoa Kỳ tới Việt Nam và mở đầu cho hoạt động ngoại giao chính thức của Mỹ ở Việt Nam từ khi 2 nước bình thường hoá quan hệ là chuyến công du tới Việt Nam của ngoại trưởng W.Chirstopher (tháng 8/1995). Sứ mệnh lịch sử của ông trong chuyến thăm đầu tiên này là "Nhân danh Tổng thống Bill Clinton và nhân dân Hoa Kỳ để mở đầu một chương mới trong quan hệ hai nước". Ông cũng là người chính thức khai trương đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội. Tháng 7/1996, một phái đoàn quan chức cấp cao của Chính phủ Mỹ do cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Athony Lake dẫn đầu tới Việt Nam. Trong đoàn có các nhân vật quan trọng của Chính phủ Mỹ như trợ lý ngoại trưởng chuyên trách khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, phó bí thư báo chí Nhà trắng Đ.Giônxen,... Một trong những sứ mệnh chủ chốt của đoàn tới Việt Nam lần này là phía Hoa Kỳ cùng Việt Nam kiểm điểm, đánh giá tình hình phát triển quan hệ 2 nước một năm sau khi bình thường hoá. Tháng 6/1997 sau chuyến thăm của ông A.Lake, tân ngoại trưởng Hoa Kỳ bà Albright đã đến thăm Việt Nam. Chuyến viếng thăm của bà nhằm khảo sát và đánh giá quan hệ 2 nước sau 2 năm bình thường hoá. Đặc biệt, nhiệm vụ trọng tâm của bà Albright trong chuyến viếng thăm này là nhằm hối thúc 2 phía tăng cường phát triển kinh tế thương mại. Vì vấn đề POW/MIA là vấn đề mà Mỹ lấy làm điều kiện tuyên quyết trước khi bình thường hoá thì chính bản thân phía Mỹ cũng phải công nhận sự hợp tác rất có hiệu quả của Việt Nam trong lĩnh vực này. Giờ đây, vấn đề nổi lên hơn cả trong quan hệ 2 nước là vấn đề hợp tác kinh tế, thương mại. Ngày 16/11/2000 máy bay của Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - Bill Clinton hạ cánh xuống sân bay quốc tế Nội Bài - Hà Nội và ông được tháp tùng bởi một đoàn các nhà doanh nghiệp lớn. Đoàn doanh nghiệp này đã đạt được mục đích của mình và một loạt các công ty liên doanh đã được thành lập, trong đó có lễ ký kết bản ghi nhớ giữa hãng Boeing và Hàng không Việt Nam về việc mua 3 máy bay Boeing 777 - 200ER thoả thuận liên doanh sản xuất cáp quang được ký kết giữa Corining International và Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam,... Tổng thống Bill Clinton đã tặng thêm một khoản tín dụng 200 triệu USD cho những công ty muốn vào kinh doanh ở Việt Nam, tiếp đó là lời cam kết của Chủ tịch Hội đồng, Giám điều hành Tổng công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) Mỹ George Munor thăm Việt Nam trong tháng 12/2000. Munor cho biết những doanh nghiệp Mỹ có ít nhất 25% cổ phần trong liên doanh đầu tư đủ tư cách để vay từ 250 nghìn tới 200 triệu USD đầu tư cho các dự án có khả năng thành công cao, tạo lên công ăn việc làm và ít ô nhiễm môi trường. Ngày 1/12/2000 công ty mới nhất của Mỹ vào thị trường Việt Nam kinh doanh là New York life International, đại diện hải ngoại của công ty bảo hiểm nhân thọ New York life Insurance đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội với hy vọng tiếp cận được thị trường Việt Nam đầy hứa hẹn với gần 80 triệu dân và góp phần cho sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam. Về phía Việt Nam, cũng có nhiều đoàn quan chức cao cấp của Việt Nam sang thăm Mỹ như: Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Công nghiệp, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư, Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ và môi trường Việt Nam. Ngày 29/9 đến 2/10/1998 Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm thăm chính thức Hoa Kỳ, đây là chuyến thăm đầu tiên của một quan chức cấp cao của Việt Nam sau 3 năm bình thường hoá quan hệ hai nước. Những chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa hai nước kể trên và những kết quả đạt được là những tín hiệu khả quan về quan hệ Việt - Mỹ. b. Các vấn đề khác đạt được thông qua ngoại giao. Trước hết, Mỹ và Việt Nam hợp tác giải quyết vấn đề POW - MIA. Nếu như trước bình thường hoá, vấn đề POW - MIA là điều kiện tiên quyết đặt ra từ phía Mỹ thì từ khi 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao, vấn đề này vẫn được họ đặc biệt quan tâm và đã có những tiến triển rõ rệt không thể không thừa nhận. Nhiều quan chức cao cấp và nhiều nghị sỹ Mỹ đã được cử đến Việt Nam để tận mắt chứng kiến và tìm hiểu những vấn đề POW - MIA. Trong chuyến đi thăm Việt Nam của W.Grixtôpphơ ông đã dự buổi lễ bàn giao 4 hài cốt lính Mỹ từ phía Việt Nam tìm thấy và làm việc với cơ quan MIA của Mỹ tại Việt Nam. Vào thời điểm sau một năm bình thường hoá, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, Ông Anthony Lake đã đến Việt Nam. Trong các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Việt Nam ông phát biểu rằng: "Việc hợp tác hơn nữa trong việc kiểm kê MIA là điều kiện tiên quyết có thêm những bước tiến mới" và "trong quan hệ song phương, Mỹ luôn giành ưu tiên hàng đầu cho vấn đề MIA và cảm ơn phía Việt Nam đã hợp tác hết sức mình trên lĩnh vực này" (9) Nguyễn Hữu Cát - Những ghi nhận sau bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ - Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1, năm 1997, trang 41. . Ông tuyên bố: Chính phủ và nhân dân Mỹ đánh giá cao sự hợp tác chặt chẽ, hết lòng của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong việc tìm kiếm người Mỹ bị mất tích. Ông chia sẽ sự cảm thông đối với các gia đình Việt Nam có người thân bị mất tích và chết trong chiến tranh và tuyên bố Mỹ sẵn sàng làm những gì có thể được để guíp cho nhân dân Việt Nam trong vấn đề này. Chính vì vậy, Chính phủ Mỹ hoan nghênh các tổ chức phi Chính phủ tham gia các hoạt động nhân đạo ở Việt Nam. Tiếp theo chuyến đi của cố vấn an ninh quốc gia Mỹ đã có nhiều phái đoàn Mỹ do các quan chức, thượng nghị sỹ Mỹ dẫn đầu thăm Việt Nam, trong đó có những đoàn vừa mới thăm Việt Nam ngay sau một tuần diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ như thượng nghị sỹ John Mecain - thành viên cao cấp của Đảng cộng hoà và phó trợ lý Bộ trưởng quốc phòng phụ trách vấn đề POW/MIA. Ngoài những phái đoàn cao cấp đến thăm và làm việc, phía Mỹ đã tạo điều kiện cơ sở vật chất và đưa nhiều đội đặc nhiệm Mỹ sang Việt Nam để phối hợp tìm kiếm. Những người này đã phải làm việc trong điều kiện hết sức khó khăn, nguy hiểm như sự khắc nghiệt của khí hậu, nguy cơ của bệnh viêm não. Sự cố gắng của cả 2 phía đã đem lại kết quả khả quan. Theo phía Mỹ, trong tổng số 1.606 người Mỹ mất tích ở Việt Nam cho đến nay số lượng hài cốt và những thông tin mà phía Việt Nam cung cấp cho Mỹ tương đối thoả mãn như Kent Wasdman, phó trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á nhận xét: "Do vấn đề quân nhân Mỹ bị mất tích trong chiến tranh đã đạt được đủ tiến bộ, Mỹ đã bắt đầu chuyển mối quan tâm của mình sang chủ đề quan hệ buôn bán và an ninh với một quốc gia một thời là kẻ thù của mình". - Vấn đề xử lý nợ: đây là vấn đề có quy mô tương đối lớn và nội dung phức tạp trong quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong Luật thừa kế quốc tế (quy định các quyền lợi và nghĩa vụ quốc tế của Chính phủ mới đối với Chính phủ cũ ở mỗi nước) được tất cả các nước trên thế giới thừa nhận và tuân thủ. Việc Chính phủ Việt Nam chấp nhận Luật này để trả cho Chính phủ Hoa Kỳ những khoản tiền tài sản thuộc trách nhiệm của chính quyền Sài Gòn trước đây phải đi liền với việc Chính phủ Hoa Kỳ trả Chính phủ Việt Nam toàn bộ tiền, tài sản của chính quyền Sài Gòn cũ đang bị phong toả ở Hoa Kỳ. Đồng thời theo nguyên tắc nêu trên đối với nợ cũ, chúng ta chỉ thừa nhận trách nhiệm trả các khoản vay liên quan trực tiếp đến kinh tế, dân sinh đó là các khoản vay của cơ quan viện trợ phát triển Mỹ (USAID) cho 4 dự án đầu tư ở Việt Nam là: hệ thống cấp nước Sài Gòn (ký năm 1960), điện Sài Gòn (ký 1961), chương trình trợ giúp kỹ thuật (ký 1973) và 2 khoản vay Bộ Nông nghiệp Mỹ để nhập khẩu lúa mì và nông sản. Tháng 4/1997, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Rubin đã đến Việt Nam để ký Hiệp định thanh toán nợ do lịch sử để lại và kết quả sử lý như sau: Về tiền và tài sản 2 bên chấm dứt việc phong toả. Do đó về tiền, phía Mỹ sau khi bù trừ đã trả Việt Nam ngay 158 triệu USD. Về các khoản nợ, 2 bên nhất trí xử lý và cơ cấu lại nợ theo đó Việt Nam phải trả số nợ gốc và lãi quá hạn phát sinh là 153 triệu USD trong thời hạn 25 năm, trong đó 16 năm đầu chỉ phải trả lãi với lãi suất ưu đãi khoảng 3%. Đến nay có thể nói việc xử lý tồn tại cũ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã căn bản hoàn tất, góp phần xoá bỏ những trở ngại cuối cùng đ 2 nước bình thường hoá quan hệ. - Vấn đề đấu tranh đòi qui chế tối huệ quốc: năm 1974 điều sửa đổi Jackson - Vanik được ra đời và được nằm trong điều IV của Đạo luật thương mại đã được Quốc hội Mỹ thông qua. Đạo luật này vốn là con đẻ của "Chiến tranh lạnh" đã được áp dụng ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Đến 10/3/1998 tổng thống Bill Clintơn đã ký quyết định bãi miễn việc áp dụng Điều sửa đổi Jackson - Vanik đối với Việt Nam. Quyết định này của Tổng thống Mỹ đã gỡ bỏ một trong những hàng rào thể chế quan trọng để thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ mở ra một chặng đường mới để hai bên đàm phán đi đến Hiệp định thương mại và sau đó là quyết định về chế độ tối huệ quốc áp dụng vào quan hệ Mỹ - Việt Nam. 2. Một số tồn tại và khó khăn: Mặc dù quan hệ Việt - Mỹ đã có những kết quả tích cực, đáng khích lệ trên mọi lĩnh vực đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định cần khắc phục. Trước hết, Việt Nam là một nước nghèo nàn, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi; mọi điều kiện cơ sở hạ tầng xã hội, pháp lý còn chưa hoàn thiện. Vậy mà khi đàm phán với Việt Nam, phía Mỹ thường đưa ra những đòi hỏi áp dụng những tiêu chuẩn của một nền kinh tế đã phát triển, những đòi hỏi, điều kiện quá khắt khe mà Việt Nam chắc chắn với thực tế của mình chưa thể chấp nhận được. Thông qua việc bình thường hoá quan hệ, Mỹ muốn can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam ở Châu Á - Thái Bình Dương. Trong tuyên bố bình thường hoá, Tổng thống Bill Clintơn đã nói: "Bằng việc giúp đưa Việt Nam hoà nhập vào cộng đồng các dân tộc, việc bình thường hoá còn phục vụ lợi ích của chúng ta trong việc phấn đấu cho một nước Việt Nam tự do hoà bình ở Châu Á và ổn định (11) Quan hệ Mỹ - Việt sẽ mang lại lợi ích kinh tế - TTXVN, tin tham khảo đặc biệt, ngày 27/9/1995, trang 37 . Còn ngoại trưởng Chirstopher thì cho rằng việc Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam không phải vì mục đích kinh tế nhưng lợi ích kinh tế sẽ là một trong những lợi ích mà Mỹ có được từ sự bình thường hoá đó: "không phải vì mục đích kinh tế" và "... tôi cho rằng việc tiến tới trong một mối quan hệ kinh tế với Việt Nam sẽ nằm trong lợi ích của Mỹ, nhưng chúng ta sẽ không bỏ qua các lợi ích khác của chúng ta và đó là lợi ích của chúng ta trong việc thúc đẩy nhân quyền". Vậy nội dung và mục đích của "ngoại giao nhân quyền" mà Mỹ áp dụng vào Việt Nam là không thay đổi để tiến tới Mỹ xoá bỏ nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua vấn đề nêu trên ta thấy, trong quan hệ với Mỹ cần phải kết hợp đan xen giữa hợp tác và đấu tranh để chống lại những dụng ý xấu của Mỹ. 3. Triển vọng quan hệ hợp tác Việt - Mỹ Về ngoại giao, cơ cấu, bộ máy nhân sự của các đại sứ quán sẽ tiếp tục được bổ xung và hoàn thiện. Hai nước sẽ tiếp tục sử dụng ngoại giao để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, văn hoá giáo dục. Hai nước sẽ tăng cường trao đổi các đoàn quan chức ngoại giao ở mọi cấp độ cũng như mở rộng ngoại giao phí Chính phủ, ngoại giao nhân dân. Về lĩnh vực kinh tế: nhận thấy rõ lợi ích về kinh tế ở Việt Nam đặc biệt là sau khi bãi bõ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam đã thúc đẩy các cá nhân và các tổ chức của Mỹ quan tâm và đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối với Việt Nam, tạo ra bước tiến có ý nghĩa rất lớn trong quan hệ kinh tế giữa hai nước. Ngày 10/3/1998 Mỹ quyết định bãi bỏ điều bổ xung Luật Jackson - Vanik mà Mỹ áp dụng vào Việt Nam trong nhiều năm qua đã mở đường cho Việt Nam tham gia các chương trình khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ đầu tư của Mỹ. Nhìn chung, quan hệ Việt Mỹ đã có nhiều chuyển biến tích cực không thể công nhận xong vẫn còn những lĩnh vực chưa tiến triển theo nhiệp độ cần thiết để tiến tới sự bình thường hoá hoàn toàn. Đặc biệt là phát biểu của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đưa ra sau buổi gặp Tổng thống Bill Clintơn rằng. Các xí nghiệp quốc doanh Việt Nam vẫn thua lỗ do quản lý tồi, số lượng người quá nhiều và đang trong tình trạng thiếu vốn và khoản nợ tới trên 14 tỷ USD. Trong năm 2000 Việt Nam mới cô rphần hoá đối với 150 xí nghiệp, đưa tổng số xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá là 370 con số quá thấp so với chỉ tiêu đặt ra là cổ phần hoá 1.000 xí nghiệp quốc doanh vào cuối năm 2000 (12) (13) Triển vọng buôn bán Việt - Mỹ sau chuyến thăm của Clinton - TTXVN tin TKKTQT, ngày 31/12/2000,tr3 . Mặc dù vậy, chủ tịch hội đồng, giám đốc điều hành tổng công ty đầu tư tư nhân hải ngoại Mỹ, ông George Munor tỏ ý tin tưởng tiến trình cải cách kinh tế ở Việt Nam sẽ tiếp tục được tiến hành. Ông nói: "Tôi tin ban lãnh đạo Việt Nam đều có thái độ đồng tình với cải cách kinh tế, coi đây là vấn đề quan trọng để cải tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người dân. Sự phản đối của một số người quan liêu trung lưu là chuyện thường tình trong quá trình cải cách kinh tế nhưng tôi tin những nhà lãnh đạo Việt Nam theo xu hướng cải cách sẽ chiến thắng" và quan hệ Việt - Mỹ sẽ ngày càng gắn kết trong các lĩnh vực nếu cả hai bên giành cho nhau quy chế tối huệ quốc và tạo điều kiện hợp tác 2 bên cùng có lợi. KẾT LUẬN Cần khẳng định rằng, trong bức tranh chung của quan hệ Việt - Mỹ từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay đã có những nết chấm phá sinh động mới về mặt chính trị, xã hội. Nhất là trước đây Việt Nam và Mỹ đã từng là kẻ thù của nhau, 2 nước đã có 1 thời ở hai bên chiến tuyến của một cuộc chiến tranh, giờ đây đã đồng ý khép lại quá khứ, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau, mở trang sử mới hợp tác cùng phát triển. Tuy nhiên, thời gian qua mới chỉ là quá trình bước đầu hàn gắn vết thương chiến tranh, vượt qua những hận thù do quá khứ để lại, vừa là quá trình đặt nền móng cho mối quan hệ hợp tác lâu bền trong tương lai. Rồi đây, nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra và thách thức mới cũng sẽ xuất hiện, 2 nước cần có nhiều hoạt động tích cực hơn nữa nhằm thúc đẩy tiến trình bình thường hoá quan hệ đầy đủ. Và điều cuối cùng có thể khẳng định qua quá trình nghiên cứu quan hệ ngoại giao giữa 2 nước dù là tích cực hay tiêu cực, là thù địch hay hợp tác, đều có những nhân tố chủ yếu của thời đại, chính sách đối ngoại của mỗi nước quy định, đều bị chi phối bởi lợi ích quốc gia. Đây cũng là điều quan trọng cho mỗi nước khi hoạch định chính sách đối ngoại, nghiên cứu và đánh giá các mối quan hệ quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lưu Văn Lợi, Năm mười năm ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân, năm 1998 2. Nguyễn Cơ Thạch, Báo cáo về công tác đối ngoại của Đảng ta trong năm 1983. 3. Nguyễn Cơ Thạch, Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và Thế giới trong 25 năm tới (1996-2020), NXB Chính trị Quốc gia, năm 1998. 4. Đỗ Lộc Diệp, Quan hệ Mỹ - Việt sau một năm bình thường hoá, Châu Mỹ ngày nay, số 4, năm 1996. 5. Nguyễn Hữu Cát, Những ghi nhận sau bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, Châu Mỹ ngày nay, số 1, năm 1997. 6. Douglas Peter Peterson, Về triển vọng quan hệ Mỹ - Việt Nam, Châu Mỹ ngày nay, số 6, năm 1999. 7. Triển vọng buôn bán Việt - Mỹ sau chuyến thăm của Bill Clintơn, Tạp chí Kinh tế quốc tế, số 53, 2000 8. Văn kiện Đại hội Đảng VI (1986), VII (1991), VIII (1996). MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan hệ ngoại giao Việt - Mỹ.doc
Luận văn liên quan