Đề tài Quản lý nhà nước đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

Bài này không có chương I. Nếu ai mua thì sưu tầm và viết thêm vào nhé. Trước cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế thế giới đã bị ảnh hưởng nặng nề. Theo ước tính của UNCTAD thì sau 4 năm tăng trưởng liên tiếp, dòng vốn FDI toàn cầu từ mức kỷ lục với tốc độ tăng trưởng 30% trong năm 2007 đã giảm 10% trong năm 2008 - một con số trầm trọng nhất so với nhiều thập niên qua. Mặc dù sự sụt giảm này là hệ quả của cuộc suy thoái nhưng cũng chính việc phục hồi, đẩy mạnh hoạt động FDI sẽ là một trong những đầu tàu quan trọng kéo nền kinh tế thế giới đi lên. Hơn bao giờ hết, những diễn biến và xu hướng của hoạt động FDI đã và đang tạo ra những ảnh hưởng nhất định trong nền kinh tế thế giới. Ở phương diện quốc gia, nắm bắt được những hiện tượng này rất cần thiết trong việc hoạch định chính sách để đưa nền kinh tế tiến sâu vào quá trình hội nhập toàn cầu một cách có hiệu quả. Với việc tăng cường QLNN đối với FDI trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2007 đến nay, Việt Nam đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong hoạt động QLNN bao gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật; tạo lập môi trường đầu tư cho nhà đầu tư; tổ chức hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư; tổ chức bộ máy QLNN đối với FDI, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về FDI; thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về FDI. Khi hoạt động QLNN được tăng cường, sự phục hồi của nguồn vốn FDI cũng có những biểu hiện khả quan sau những diễn biến của cuộc suy thoái kinh tế vừa qua. Riêng trong quý I năm 2010, FDI vào Việt Nam đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi đặc biệt là số vốn thực hiện tăng lên đáng kể với 2.500 triệu USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2009, số vốn đăng ký là 2139,4 triệu USD bằng 29,3%, số dự án là 139 dự án bằng 59,1% so với cùng kỳ năm 2009. Sự tăng trưởng này đã góp phần không nhỏ vào những thành tựu tăng trưởng và chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp. MỤC LỤC CHƯƠNG 2. 1 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 1 VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM . 1 TRONG BỐI CẢNH SUY THOÁI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2007-2009. 1 2.1. Quá trình hình thành và phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trước năm 2007. 1 2.1.1. Giai đoạn 1987-1990. 1 2.1.2. Giai đoạn 1991-1996. 2 2.1.3. Giai đoạn 1997-2000. 3 2.1.4. Giai đoạn 2001-2006. 4 2.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2009. 5 2.2.1. Tổng quan về cuộc suy thoái kinh tế. 5 2.2.1.1. Sụp đổ tài chính phố Wall - khởi đầu suy thoái kinh tế toàn cầu. 6 2.2.1.2. Khủng hoảng trở thành toàn cầu - lan truyền dư chấn tới các khu vực kinh tế thực và các nền kinh tế trên toàn thế giới 7 2.2.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007-2009. 10 2.2.2.1. Tình hình cấp phép và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 10 2.2.2.2. Phân bổ FDI theo ngành. 13 2.2.2.3. Phân bổ FDI theo địa phương. 15 2.2.2.4. Phân bổ FDI theo đối tác đầu tư. 17 2.2.4.5. Phân bổ FDI theo hình thức đầu tư. 20 2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2009. 23 2.3.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. 23 2.3.2. Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật 23 2.3.3. Tạo lập môi trường đầu tư cho nhà đầu tư. 29 Những nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo ổn định về chính trị, đảm bảo tăng trưởng kinh tế; hoàn thiện cơ sở vật chất và đặc biệt là việc hình thành, phát triển nhiều loại thị trường đã làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn, thu hút được các nhà ĐTNN ngay trong thời kỳ kinh tế khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên, theo đánh giá của IFC (International Finance Corporation) và WB (World Bank) trong Báo cáo Môi trường kinh doanh 2008, mức độ kinh doanh Việt Nam chưa cao, chỉ xếp thứ 91/178 nước. 31 2.3.4. Tổ chức hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư. 32 2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 33 2.3.6. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 37 2.3.7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài 39 2.4. Đánh giá chung. 41 2.4.1. Thành tựu. 41 2.4.2. Hạn chế. 44 2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế. 48 2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan. 48 2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan. 49 CHƯƠNG 3. 52 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 52 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG BỐI CẢNH SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU 52 3.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đến năm 2010. 52 3.2.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đến năm 2015. 52 3.2.2. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đến năm 2015 53 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh suy thoái kinh tế. 55 3.2.1. Giải pháp về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 55 3.2.2. Giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 58 3.2.3. Giải pháp về đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 63 3.2.4. Giải pháp về đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 64 3.2.5. Giải pháp về tạo lập môi trường đầu tư. 66 3.2.6. Giải pháp về đẩy mạnh quảng bá và xúc tiến đầu tư. 68 PHẦN KẾT LUẬN 72

doc75 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2512 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai bảng lương, đóng bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao động. Những việc làm này đã gặp phải nhiều phản ứng trong dư luận xã hội, gây nên những cuộc đình công, làm mất trật tự, an toàn xã hội. Gần đây, tại thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra nhiều vụ đình công vì doanh nghiệp FDI nợ bảo hiểm xã hội và tiền lương như trường hợp của Công ty TNHH Giày Anjin, Công ty TNHH Quang Sung Vina, Công ty TNHH Vana Haeng Woon Industries. - Giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước: Các doanh nghiệp trong nước do kém lợi thế hơn so với các doanh nghiệp FDI nên quy mô sản xuất bị thu hẹp lại, dẫn đến trình trạng sản xuất khó khăn, thậm chí nhiều trường hợp đã bị phá sản. Điều này làm ảnh hưởng tới tình hình kinh tế xã hội trong đó làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp cho người lao động. - Sử dụng những mánh khóe kinh doanh để thu lợi bất chính: Một số doanh nghiệp thuộc các chi nhánh công ty đa quốc gia đã lợi dụng sơ hở trong công tác QLNN thực hiện việc chuyển giá bằng cách “lỗ công ty con, lãi công ty mẹ” nhằm chuyển lợi nhuận từ nước này sang nước kia để tránh thuế. Cùng sử dụng tài sản vốn góp chung giữa hai bên Việt Nam và đối tác nước ngoài trong hình thức liên doanh nhưng khi bên nước ngoài tìm cách hạch toán lỗ “ảo” do nâng khống giá nguyên, vật liệu; các khoản chi phí liên quan đến quảng cáo, tiếp thị thì khi trường hợp này kéo dài, những doanh nghiệp Việt Nam trong liên doanh sẽ không thể trụ nổi, đành ôm nợ, xin rút. Khi đó, phần liên doanh thuộc phia Việt Nam bị thôn tính thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Dưới những tác động tiêu cực của FDI đối với sự phát triển của đất nước đặc biệt trong thời kỳ mà nền kinh tế vừa trải qua “cơn bạo bệnh”, chưa thực sự phục hồi sau những tác động mạnh mẽ của suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế trong QLNN về FDI cũng được xét tới như là một trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những biểu hiện tiêu cực này: (1) Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và hệ thống chính sách, pháp luật: Những chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đề ra còn mang tính chung chung, lồng ghép với những chủ trương của lĩnh vực khác; chưa thật sự cụ thể, sâu sát và trực tiếp đối với riêng hoạt động FDI. Hệ thống chính sách, pháp luật mới chỉ tạo được một “sân chơi bình đẳng” về khung pháp lý mà còn chưa quan tâm đến những khác biệt về điều kiện, phạm vi hoạt động của các nhà ĐTNN. Mặc dù được liên tục hoàn thiện và sửa đổi, nhưng vốn dĩ ngay từ đầu đây đã là một hệ thống thiếu đồng bộ, thiếu tính minh bạch, vừa thừa lại vừa thiếu; thủ tục rườm rà, phức tạp; các văn bản hướng dẫn chưa kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường năng động và sự ứng phó trước tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu. Cho nên hoạt động xây dựng và hoàn thiện ở đây chỉ mang tính chắp vá, làm cho hệ thống càng mất đi sự thiếu đồng bộ, nhất quán. Chính sách, pháp luật còn chưa minh bạch nên trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp tìm đến “quan hê” nhiều hơn là tìm đến pháp luật, làm giảm hiệu quả thực thi của hệ thống pháp luật nước ta. (2) Tạo lập môi trường, quảng bá và xúc tiến đầu tư: Môi trường đầu tư cơ bản đã thông thoáng, ổn định và thể hiện sự nỗ lực cao của Nhà nước nhưng mức độ thuận lợi vẫn chưa được đánh giá cao. Công tác quảng bá và xúc tiến đầu tư còn thụ động, nặng về tuyên truyền chính sách, pháp luật mà còn chưa tiến hành theo các chương trình cụ thể, chưa hướng mạnh vào các dự án có vốn đầu tư lớn, các đối tác có tiềm lực mạnh như Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ. (3) Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức: Hiện tượng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc với doanh nghiệp vẫn còn tồn tại. Chế độ tiền lương chưa phản ánh đúng giá trị sức lao động cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức. Chưa có chính sách phù hợp để thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao đặc biệt là trình độ quốc tế phục vụ cho nền công vụ, dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực công sang khu vực tư. (4) Tổ chức bộ máy QLNN: Những nhược điểm trong cấu trúc bộ máy nhà nước như sự phân công giữa các bộ phận, phân cấp giữa Trung ương và địa phương vẫn còn tồn tại dẫn tới hiện tượng có nhiều cơ quan đảm nhận chức năng QLNN đối với một hoạt động nhưng cũng có những lĩnh vực lại không có hoặc ít được quan tâm, quản lý. Việc phân cấp QLNN cũng chưa thực sự rõ ràng, sự phối hợp hoạt động không chặt chẽ làm giảm thiểu hiệu lực của bộ máy quản lý. (5) Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật: Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân đã lợi dụng hoạt động này để gây khó dễ cho doanh nghiệp FDI. Sự phối kết hợp của các cơ quan nhà nước còn thiếu nhất quán, nhiều khi tùy tiện. Các hiện tượng tiêu cực như cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các tranh chấp phát sinh không được phát hiện kịp thời và chậm xử lý đã gây nhiều tác động xấu tới môi trường đầu tư. 2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế 2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan - Hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài và chính sách bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch là nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến sự thu hút ĐTNN vào Việt Nam. Cho dù chiến tranh đã qua đi hơn 30 năm nhưng hậu quả của nó vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn và cũng trong suốt thời gian đó, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách chống phá cách mạng Việt Nam, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của môi trường đầu tư Việt Nam với quốc tế. - Công cuộc đổi mới đã bước đầu thu được những kết quả, quan hệ quốc tế đang được mở rộng, dòng vốn FDI vào Việt Nam đang có bước tăng trưởng cao thì Việt Nam lại vấp phải những khó khăn từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu làm đảo lộn, suy giảm nghiêm trọng nền kinh tế quốc gia nói chung cũng như hoạt động FDI nói riêng. Đến nay, tuy đã bước đầu có dấu hiệu phục hồi nhưng vốn FDI thu hút vào Việt Nam vẫn thấp, tăng trưởng chậm và báo hiệu rất lâu nữa mới có những bước phát triển cao như năm 2008. - Nằm trong khu vực Đông Nam Á, bên cạnh những lợi thế về địa lý, Việt Nam lại gặp phải những tác động mạnh của quá trình cạnh tranh khu vực trong thu hút FDI với sự hiện diện của Singapore, Malaysia, Thái Lan và đặc biệt là Trung Quốc – một cường quốc lớn mạnh trên mọi mặt, đang có những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế. - Sự khôn khéo trong kinh doanh như hiện tượng chuyển giá, lách luật… của các doanh nghiệp FDI đã sinh ra nhiều phản cảm, làm cho khu vực kinh tế FDI có nhiều tiêu cực (điển hình là các cuộc đình công). Bên cạnh đó, do đây còn là khu vực kinh tế có yếu tố nước ngoài nên các vấn đề về chính trị, văn hóa.. luôn chứa đựng nhiều yếu tố nhạy cảm làm cho hoạt động QLNN gặp nhiều khó khăn. 2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan - Nền kinh tế Việt Nam luôn gặp phải những bất lợi so với nền kinh tế khác do có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội yếu kém; các ngành công nghệ bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Với tiềm lực kinh tế như vậy, sự hấp dẫn của môi trường đầu tư Viêt Nam gặp phải nhiều hạn chế. - Chưa đồng nhất về quan điểm phát triển khu vực kinh tế có vốn FDI trong các ngành, các cấp và địa phương mặc dù đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Từ đó dẫn đến việc hoạch định chính sách chưa đúng, chưa kịp thời, các quan điểm xử lý nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến FDI còn khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động của các nhà ĐTNN. - Hoạt động lập pháp và xây dựng chính sách còn nhiều hạn chế: thiếu luật, chậm có các văn bản hướng dẫn thi hành, chưa minh bạch, không nhất quán, xuất phát từ các nguyên nhân: + Chất lượng của đại biểu Quốc hội chưa cao, chưa có đủ trình độ năng lực tham gia vào việc góp ý xây dựng các dự luật, đảm nhận quyền lập hiến, lập pháp của Quốc hội. + Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng, các viện nghiên cứu, các nhà khoa học và các tổ chức liên quan trong quá trình xây dựng các dự án luật chưa cao. Các cơ quan hành chính thường lại là cơ quan trình dự án luật, Quốc hội thông qua rồi chính các cơ quan này lại hướng dẫn thực thi điều đó không thể tránh khỏi tình trạng thiếu khách quan. + Việc sửa đổi, bổ sung luật thường được thực hiện “đơn nhất” gây nên tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản và không nhất quán. + Các văn bản pháp quy thường được soạn thảo bởi nhiều cơ quan và ban hành ở nhiều thời điểm khác nhau, cùng với các hoạt động tuyên truyền, giải thích không kịp thời dẫn đến khó đồng thuận, vận dụng, xử lý không đúng. Nhiều khi do lợi ích cục bộ mà các văn bản hướng dẫn của ngành, địa phương hoặc xem xét lại hoặc có những quy định thêm tạo nên tình trạng “trên thoáng, dưới chặt”. + Thói quen sử dụng công văn như là nguồn của pháp luật hiện hữu đang phổ biến ở Việt Nam làm cho môi trường pháp lý kinh doanh không ổn định, tùy tiện, thiếu tính minh bạch, khó dự đoán và thiếu nhất quán vì công văn thường dễ bị thay đổi, khó tiếp cận và không được công bố công khai. - Những quy định về TTHC mặc dù được cải cách từ nhiều năm nay nhưng nhìn chung vẫn phức tạp, phiền hà cho nhà ĐTNN. Vẫn còn tồn tại khá phổ biến xu hướng cơ quan hành chính giành thuận lợi về cho mình, đẩy khó khăn về cho nhà đầu tư. Khi thực hiện cải cách đơn giản hóa TTHC theo Đề án 30, tự bản thân cơ quan hành chính kể cả cấp Trung ương đều có xu hướng ít quan tâm đến vấn đề rà soát TTHC theo thẩm quyền, trong khi làm tốt vấn đề này mới hạn chế được tận gốc những phiền hà mang lại cho nhà đầu tư. - Thói quen, tư duy, nếp nghĩ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bao trùm lên xã hội, đè nặng lên tâm lý của các nhà quản lý, cán bộ, công chức trong bộ máy QLNN. Cùng với đó là những hành vi sách nhiễu, tiêu cực của một số cán bộ, công chức đã làm biến dạng các chủ trương, chính sách của Nhà nước về đầu tư và làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư. Theo số liệu điều tra thì thuế vụ và hải quan là hai cơ quan gây nhiều khó khăn nhất (tỷ lệ tương ứng là 52,2% và 26,1%). - Công tác quy hoạch tổng thể được triển khai chậm dẫn đến các doanh nghiệp bị động trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư. Các KCN, dịch vụ; các dự án trồng rừng, cây nguyên liệu chưa được quy hoạch tốt, ngược quy trình: sau khi chọn địa điểm khảo sát nghiên cứu xây dựng đề án mới xin ý kiến thẩm định của Bộ Quốc phòng, nếu Bộ Quốc phòng không đồng ý dự án phải đổi địa điểm dự kiến gây lãng phí thời gian và tốn kém tiền bạc của nhà đầu tư. - Hiện vẫn còn quá nhiều các cơ quan thực hiện chức năng QLNN đối với FDI, trong khi đó việc phân định chức năng QLNN cho từng cơ quan không rõ, sự phối hợp hoạt động không chặt chẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, kém hiệu quả, giảm thiểu hiệu lực bộ máy quản lý. Các chính sách, quy định về đầu tư vẫn thể hiện cách tiếp cận “kiểm soát, can thiệp trực tiếp” theo tư duy của một nhà nước cai trị. Chính vì vậy, các cơ quan QLNN vẫn nhìn nhận vai trò của mình là được quyền “cho phép” các nhà ĐTNN chỉ được làm những gì mà Nhà nước đồng ý, nhiều khi còn là ý kiến chủ quan của nhà quản lý. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG BỐI CẢNH SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU 3.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đến năm 2010 3.2.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đến năm 2015 Theo Chỉ thị 751/CT-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì soạn thảo đã và đang được đưa ra tham vấn lấy ý kiến, trong đó đưa ra những định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 như sau: * Mục tiêu tổng quát: “Phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững; tăng cường tiềm lực phát triển của đất nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đổi mới mạnh mẽ khoa học và công nghệ; nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Cải thiện đời sống nhân dân đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội”. * Các chỉ tiêu chủ yếu: - Kinh tế: GDP bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 7,5-8%/năm. Cơ cấu GDP 2015: Nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 19%; công nghiệp và xây dựng khoảng 40,7%; dịch vụ 40,3%. Tốc độ tăng tổng kinh ngạch xuất khẩu bình quân: 12,2%/năm. Tỷ trọng đầu tư phát triển 5 năm 2011-2015 khoảng 41,1- 41,5% GDP; bội chi Ngân sách nhà nước 2015: 4,5%. - Xã hội: Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 đạt 55%. Quy mô dân số năm 2015 dưới 92 triệu người. Tuổi thọ dân cư đến cuối năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới: 2-3%. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị năm 2015 khoảng 4%. - Môi trường: Tỷ lệ che phủ rừng 2015 lên mức 42,5%; tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh: 96%; dân cư thành thị được cung cấp nước sạch: 98%. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 được xây dựng trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Bên cạnh những yếu tố không thuận, trong giai đoạn 2011 - 2015 nước ta cũng có nhiều thuận lợi từ việc phục hồi và phát triển kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng, quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước được nâng cao hơn trước. Sự ổn định về chính trị - xã hội của đất nước là nền tảng vững chắc cho sự phát triển. 3.2.2. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đến năm 2015 Theo dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011- 2015 và những mục tiêu và định hướng thu hút FDI của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông qua thì hoạt động này có thể có những định hướng phát triển như sau: * Chỉ tiêu phát triển: Xét về phía cung nguồn vốn FDI, Việt Nam có thể đạt mức 10 tỷ USD/năm vốn thực hiện trong giai đoạn tới. Trong kế hoạch 5 năm cần thu hút khoảng 12-15 tỷ USD vốn FDI và như vậy mỗi năm cần khoảng 2,5-3 tỷ USD vốn thực hiện. * Định hướng thu hút FDI - Khai thác tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước (vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý); xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. Khuyến khích đầu tư mạnh mẽ vào các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. - Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới để tận dụng tối đa các cơ hội để phát triển đất nước. Đẩy mạnh hợp tác song phương, đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực. Mở rộng và nâng cao rõ rệt hiệu quả kinh tế đối ngoại; tạo mọi điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Phát huy nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào xây dựng đất nước. - Thu hút ĐTNN có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh vực quan trọng: công nghệ cao; công nghiệp phụ trợ; phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực; chế biến nông sản, phát triển các vùng khó khăn, nông nghiệp và nông thôn; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng; các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; các ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn; các ngành có ý nghĩa về an sinh xã hội (khám chữa bệnh, công nghiệp dược và vắc-xin, sinh phẩm), bảo đảm môi trường và an ninh quốc gia,... - Các quy định pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư, đất đai, xây dựng, kinh doanh và các văn bản pháp luật chuyên ngành phải được rà soát, thống nhất đồng bộ; hệ thống các quy định về điều kiện đầu tư và kinh doanh chuyên ngành phải được xây dựng đầy đủ và công bố công khai nhằm minh bạch hóa các tiêu chuẩn, điều kiện tiếp cận thị trường, điều kiện tiến hành sản xuất, kinh doanh; cơ chế hậu kiểm, giám sát, quản lý đối với dự án ĐTNN phải được xây dựng và ban hành để tạo cơ sở cho các cơ quan QLNN thực thi chức năng quản lý, kiểm tra, giám sát. - Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phải được quy định và điều chỉnh trong một văn bản quy phạm pháp luật cấp đạo luật, nhằm tránh tình trạng mất cân đối, cấp phép tràn lan, gây dư thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp trong bối cảnh việc cấp phép và quản lý đầu tư đã được phân cấp về các địa phương. - Các yếu tố về điều kiện cơ sở hạ tầng gây cản trở tới hoạt động ĐTNN cần được tập trung giải quyết như: hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển; sự ổn định về cung cấp năng lượng, công tác giải phóng mặt bằng,... - Tập trung giải quyết các khó khăn về nguồn nhân lực phục vụ cho các dự án ĐTNN có quy mô lớn, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo; sự lạc hậu trong chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo, trường nghề; phòng ngừa và giải quyết các tranh chấp lao động nhằm hạn chế các cuộc định công có thể xảy ra. - Công tác xúc tiến đầu tư cần được đổi mới, nâng cao chất lượng và cần được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện hoạt động này. - Công tác QLNN, phối hợp giữa các cơ quan trung ương, giữa trung ương và địa phương cần được tăng cường, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng cơ quan. Xây dựng cơ chế báo cáo để tổng hợp thông tin kịp thời, đánh giá tình hình nhằm đề xuất các giải pháp điều hành của Chính phủ có hiệu quả. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh suy thoái kinh tế 3.2.1. Giải pháp về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài - Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút FDI tổng thể: + Thể hiện được quan điểm từ chối tiếp nhận FDI khi xét thấy dự án không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư. Đồng thời cũng phải biết tiếp nhận các dự án có thể bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung nhưng phải có sự chọn lọc và không phải bằng mọi giá. + Thực hiện thống nhất với các quy định của Luật Đầu tư trong công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chung đảm bảo việc văn bản được xây dựng phù hợp với những chính sách, pháp luật chung về đầu tư và các cam kết quốc tế. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các văn bản đã lạc hậu. + Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về FDI theo hướng tăng cường phân cấp thẩm quyền thẩm định và phê duyệt, quản lý theo lãnh thổ và ngành. Hoàn thiện nội dung, phương pháp, trình tự thiết lập; tiêu chuẩn hóa các tổ chức tư vấn tham gia dự thảo theo các cấp. - Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút FDI theo ngành: + Công nghiệp - xây dựng: Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản. Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. + Dịch vụ: Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính - viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác. Đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ đặc biệt là dịch vụ vận tải - là lĩnh vực tiềm năng của Việt Nam. + Nông - lâm - ngư nghiệp: Khuyến khích các dự án đầu tư về công nghệ sinh học; dự án đầu tư cho công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt xuất khẩu; khuyến khích FDI tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông nội đồng... - Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút FDI theo vùng lãnh thổ: + Khu vực miền Bắc: Mở rộng quy hoạch theo hướng Đông - Tây, lấy trục chính Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, mở rộng phát triển theo hướng Lào Cai sang Côn Minh (Trung Quốc). Phát triển dịch vụ cảng biển Cái Lân (Quảng Ninh) hướng sang Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc… + Khu vực miền Trung: Xây dựng trục kinh tế xuyên Á, lấy Đà Nẵng làm trung tâm, mở rộng liên kết kinh tế sang Đông Bắc Thái Lan và Xavanakhet (Lào). Phát triển cảng biển Đà Nẵng theo hướng sang Indonesia, Malaysia… + Khu vực miền Nam: Lấy tứ giác kinh tế trọng điểm thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương - Bà Rịa Vũng Tàu làm trung tâm mở rộng liên kết kinh tế sang Băng Cốc (Thái Lan), Phnôm Pênh (Campuchia). Lấy cảng biển Sài Gòn làm trung tâm mở rộng liên kết sang Singapore. Ngoài ra, để tăng cường thu hút FDI tại những vùng điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của Nhà nước đối với FDI tại các vùng này đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân. - Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút FDI vào các KCN: + Bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN gắn với quy hoạch các khu dân cư, khuyến khích đầu tư xây dựng nhà chung cư tại các KCN, bảo đảm không chỉ thuận lợi cho thu hút đầu tư xây dựng mà còn thuận lợi cho thu hút nguồn nhân lực chuyên môn cao. Việc cùng đưa các dự án trong nước và nước ngoài vào tiến hành sản xuất kinh doanh trong các KCN sẽ giúp tiết kiệm chi phí đầu tư cơ bản, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, tạo điều kiện cho hoạt động QLNN được tốt hơn. + Hình thành các KCN chuyên môn hóa theo ngành nghề, lĩnh vực tạo thuận lợi hơn cho các nhà ĐTNN đặc biệt cho dự án quy mô lớn. Cùng với việc quy hoạch các KCN cần xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp phụ trợ và dịch vụ vệ tinh tạo điều kiện cải thiện đời sống, sinh hoạt của người lao động trong KCN và người dân địa phương. + Giao cho các đơn vị xây dựng và phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút FDI vào các KCN tổ chức quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy hoạch, kế hoạch. Từ đó, đối với các dự án sai quy hoạch, triển khai chậm cơ quan nhà nước có thể dễ dàng xử lý kịp thời những vi phạm, tránh để quy hoạch những KCN tập trung chuyên môn bị phá vỡ. 3.2.2. Giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài - Cải cách quy trình xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến FDI: + Nâng cao chất lượng các đại biểu Quốc hội, tăng số đại biểu chuyên trách từ 25% hiện nay lên 35% do đây là đội ngũ thực sự có trình độ, có khả năng tham gia vào việc góp ý xây dựng các dự án luật; đảm nhận một trong ba quyền năng quan trọng của Quốc hội (quyền lập hiến, lập pháp; quyền giám sát tối cao và quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước). + Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng, các viện nghiên cứu, các nhà khoa học và tổ chức liên quan; sử dụng các đội ngũ chuyên gia cả trong và ngoài nước trong việc nghiên cứu, tư vấn, xây dựng, sửa đổi bổ sung các dự án, các văn bản quy phạm pháp luật về FDI nhằm nâng cao chất lượng các văn bản luật và tiến độ xây dựng luật. + Tăng cường cơ hội tham vấn khi dự thảo luật bằng cách tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia đóng góp ý kiến và tổ chức tập hợp ý kiến từ những chủ thể chịu sự điều chỉnh của văn bản theo quy mô và hình thức phù hợp. Các ý kiến đóng góp cho một đề án hoặc dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cần được thực hiện nghiêm túc, tránh việc thực hiện chỉ mang tính hình thức. Những ý kiến này phải đưa ra từ những cuộc thảo luận có tính phê bình; khuyến khích những tiếng nói phản biện và chấp nhận những ý kiến trái chiều có tính xây dựng chỉ có như vậy mới loại bỏ được những chính sách thiếu tính khả thi. + Việc sửa đổi luật phải được tiến hành đồng thời đối với tất cả các văn bản pháp luật khác có liên quan để tránh chồng chéo, mâu thuẫn, không đồng bộ giữa các văn bản luật. Sửa đổi luật và các quy định liên quan đến FDI phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu của WTO về rà soát pháp lý với các quyết định hành chính. Hạn chế việc sử dụng công văn như một loại nguồn của pháp luật. Vấn đề này sẽ được giải quyết tốt khi chất lượng các văn bản luật được nâng cao, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của nhà ĐTNN phải được dự liệu và luật hóa. - Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến FDI: + Rà soát, loại bỏ những ưu đãi đầu tư đầu tư không hợp lý gây thiệt hại tới lợi ích kinh tế xã hội; loại bỏ những văn bản không còn phù hợp và không tương thích với những quy định của các hiệp định thương mại và đầu tư mà Việt Nam ký kết và gia nhập. Để đảm bảo tính khách quan, nên giao cho tòa án các cấp chịu trách nhiệm rà soát các văn bản này. Đồng thời, có thể quy định chế tài đối với những chính sách ưu đãi bất hợp lý của địa phương, “xé rào” vượt qua các quy định chung. + Đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến hoạt động FDI để tạo nền khung pháp lý chuẩn và đồng bộ cho hoạt động này. Tiêu biểu là một số chính sách như sau: Với chính sách, pháp luật về thuế, cần tiến hành đánh giá lại tổng thể các loại thuế đặc biệt là các loại thuế ưu đãi đầu tư. Cải cách hệ thống thuế hiện hành, đơn giản hóa một số ưu đãi thuế và chỉ duy trì một số ít các loại hình ưu đãi nhằm phục vụ một số mục đích cụ thể. Riêng với chính sách chống chuyển giá, cần có các biện pháp thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, tin cậy về giá giao dịch cho các loại hàng hóa bị nghi ngờ. Khi có nghi ngờ về giá giao dịch, cơ quan thuế có quyền yêu cầu doanh nghiệp FDI giải trình về sự chênh lệch giá. Nếu không có lý do chính đáng, cơ quan thuế có thể định giá theo các phương pháp chuyên môn. Với chính sách đất đai, cần tiếp tục rà soát và xem xét lại giá cho thuê đất, miễn giảm thuê đất trong một số năm đầu kinh doanh để tạo thuận lợi cho các nhà ĐTNN. Thuế bất động sản nên được ấn định ở một tỷ lệ vừa phải, không thấp quá để ngăn chặn hành vi đầu cơ cũng không nên quá cao khiến những người đóng thuế tìm cách trốn thuế, tránh thuế. Với chính sách, pháp luật về hải quan, cần quy định rõ hơn về thời điểm tính thuế đối với hàng hóa thông quan; tăng mức xử phạt các hành vi vi phạm hải quan. Hành vi giả mạo niêm phong hải quan hoặc giả mạo giấy tờ là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng phải được coi là tội phạm hoặc bị truy tố trước tòa án. Bên cạnh đó, cũng nên tập trung hoàn thiện các chính sách về tuyển dụng lao động, chính sách đất đai, chính sách chuyển giao công nghệ, chính sách tài chính, tín dụng và ngoại hối, thực thi tốt các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… đảm bảo những ưu đãi cần thiết để thu hút FDI. - Minh bạch hóa chính sách, pháp luật về đầu tư: + Những thay đổi chính sách, pháp luật về đầu tư cần phải có lộ trình, công bố công khai và phải được chuẩn bị tâm lý trước cho nhà đầu tư, tránh ảnh hưởng tới niềm tin của nhà đầu tư với môi trường đầu tư của Việt Nam và các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Quá trình xây dựng, triển khai chính sách, pháp luật cần có các biện pháp tổ chức triển khai thực hiện và dự liệu thời gian, điều kiện để triển khai. + Các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư phải được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thực hiện liên kết website giữa các cơ quan QLNN với các nhà ĐTNN, các KCN, KCX. Liên quan tới minh bạch hóa chính sách, pháp luật, cần công khai công bố tất cả các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam liên quan tới việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực FDI. Đây là cơ sở để các nhà ĐTNN tham khảo và tự điều chỉnh hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời thể hiện tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam. - Đẩy mạnh cải cách TTHC trong QLNN về FDI: + Cần nghiên cứu soạn thảo quy trình tổng hợp về thủ tục từ khâu đăng ký, thẩm tra đầu tư, đánh giá tác động môi trường, cấp đất, giao đất hoặc thuê đất, cấp giấy phép xây dựng… trên phạm vi cả nước, nhằm khắc phục tình trạng mâu thuẫn, trùng lặp và thực hiện khác nhau giữa các địa phương như hiện nay. + Với thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư cần thiết công bố công khai các thủ tục và điều kiện cấp; xác định rõ khung thời gian cấp phép quy định cho từng cơ quan hữu quan; các loại phí phải được tính công khai; cơ quan quản lý phải có trách nhiệm thông báo cho người nộp hồ sơ biết về tình trạng hồ sơ đã được coi là đầy đủ hay chưa. + Giảm thiểu và đơn giản hóa tối đa các TTHC liên quan đến đầu tư theo Đề án 30 (Quyết định 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010. Cụ thể hóa quy chế phối hợp giữa các Bộ, ngành trung ương và địa phương trong thực hiện rà soát, đơn giản hóa các TTHC, tăng cường giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện. + Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt cơ chế “một cửa” trong thực hiện CCHC đặc biệt là với thủ tục hải quan. Thống nhất trong các cơ quan hành chính nhà nước xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO trong quản lý hành chính công, đồng thời rà soát các kết quả thực hiện Chương trình CCHC tổng thể giai đoạn 2001-2010 trong cơ quan hành chính nhà nước. + Thực hiện tin học hóa trong quản lý TTHC; nghiên cứu, đầu tư, xây dựng phần mềm thông tin doanh nghiệp FDI; cung cấp thông tin kịp thời, chuẩn xác và đồng bộ, thực hiện đối thoại trực tuyến với các nhà ĐTNN qua internet, qua trung tâm tư vấn về các vấn đề mà nhà đầu tư quan tâm. + Để cải cách TTHC thành công cần thiết phải đảm bảo đủ nguồn lực phục vụ cho công cuộc quan trọng này. Bên cạnh việc cần xây dựng một thang lương đặc biệt áp dụng cho đội ngũ cán bộ, công chức chung và cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan QLNN liên quan tới FDI, cần phải thực hiện tốt Nghị định 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước và Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ để đảm bảo thực hiện phương thức quản lý khoán biên chế và chi phí hành chính - một trong những biểu hiện chống tệ tham nhũng, lãng phí tài sản công, đảm bảo tiết kiệm trong việc sử dụng nguồn lực phục vụ cho cải cách TTHC. + Từ kinh nghiệm của Đồng Nai - địa phương đi đầu thực hiện “Chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp” đã đem lại cho tỉnh những thành tựu đáng kể trong thu hút FDI, cần tổ chức triển khai đồng bộ khẩu hiệu này rộng khắp trong cả nước. Thực hiện hoạt động này chủ yếu hướng vào quan tâm tháo gỡ khó khăn nảy sinh thường ngày của doanh nghiệp FDI, giải quyết những bức xúc của doanh nghiệp và thể hiện sự quan tâm của chính quyền đối với các nhà đầu tư đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thuế, hải quan, TTHC. 3.2.3. Giải pháp về đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Ở Trung ương, để tiến hành đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy QLNN trước hết cần xây dựng đề án phân cấp để loại trừ những công việc mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện, xác định rõ chức năng, thẩm quyền và mối quan hệ giữa các bộ phận. Quá trình phân cấp cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau đây: + Trước hết, phải rà soát lại toàn bộ những công việc cho đến nay được coi là QLNN về kế hoạch và đầu tư, đánh giá mức độ cần thiết và sau đó mới xác định cấp chính quyền thực hiện hoạt động được giao. Trên cơ sở phân tích thực trạng của những hoạt động QLNN về đầu tư ở các cấp, cần xác định các bước đi trong quá trình phân cấp một cách đồng bộ từ phân cấp hành chính, phân cấp tài khóa tới việc đổi mới bộ máy tổ chức tương ứng. + Hoàn thiện hệ thống quy hoạch, kế hoạch đầu tư các cấp trên cơ sở đó phân định rõ trách nhiệm các cấp trong các khâu lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Quá trình phân cấp sẽ liên quan đến việc sửa đổi điều chỉnh một số Luật, Pháp lệnh và Nghị định, vì thế cần thiết phải xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật về phân cấp. + Làm rõ chức năng QLNN trong đầu tư để xác định rõ phạm vi và nội dung phân cấp trong từng lĩnh vực, từng khâu quản lý quá trình đầu tư. Xác định rõ tiêu chí, tiêu chuẩn phân cấp trong các khâu: thẩm định, phê duyệt quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư. - Ở địa phương, nên tiếp tục tiến hành phân cấp toàn diện cho chính quyền các địa phương đặc biệt là chính quyền tỉnh, thành phố với những mặt sau: + Giao quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động FDI trước đây thuộc thẩm quyền của Ban quản lý KCN cho UBND cấp tỉnh. Đồng thời cũng cho phép chính quyền cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận và quản lý các dự án có quy mô vốn đầu tư lên mức dưới 500 tỷ đồng thay vì mức dưới 300 tỷ đồng như quy định trong Luật Đầu tư năm 2005. + Nghiên cứu phân cấp cho cấp huyện, xã trong việc xem xét chủ trương, thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư trên cơ sở đảm bảo theo đúng quy hoạch phát triển được duyệt và tạo lập cơ chế đảm bảo cho các dự án hoạt động có hiệu quả. Việc phân cấp cho cấp huyện, xã phải được tiến hành thận trọng, gắn liền với việc tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn đang yếu kém về trình độ chuyên môn và năng lực QLNN đặc biệt là về chuyên ngành đầu tư tại cấp này. + Trong khi phân cấp cho địa phương, các Bộ cần chú ý đến cân đối nghành, liên ngành, vùng lãnh thổ để hướng dẫn các địa phương bảo đảm các cân đối đó của nền kinh tế quốc dân để thực hiện mục tiêu thống nhất phát triển bền vững. Đồng thời gắn với chủ trương tăng cường phân cấp cho địa phương, Nhà nước phải tạo ra các điều kiện bảo đảm để nâng cao hiệu quả QLNN trong hoạt động FDI. 3.2.4. Giải pháp về đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Về rà soát, chuẩn hóa số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: + Xây dựng, chuẩn hóa các yêu cầu về trình độ bắt buộc đối với đội ngũ cán bộ QLNN trong khu vực kinh tế có vốn FDI: trình độ chuyên môn; trình độ ngoại ngữ, tin học; trình độ tư duy và khả năng quản lý… Về lâu dài, khi đào tạo, tuyển chọn cán bộ quản lý kinh tế, cần chú trọng thêm các tiêu chuẩn như có thể sử dụng thành thạo nhiều ngoại ngữ trong công việc chính có liên quan đến pháp luật và thông lệ quốc tế. + Rà soát, đánh giá đội ngũ công chức hành chính theo năng lực và trình độ chuyên môn thực tế để cơ cấu lại cán bộ, công chức, bố trí lại theo từng vị trí, rõ chức trách. Sau đó, từng bước thực hiện tiêu chuẩn hóa theo tiêu chuẩn chức danh bảo đảm xếp đúng năng lực, thể hiện đúng chuyên môn. - Về đánh giá năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức: + Xây dựng và đưa vào thực hiện phương pháp khoa học đánh giá kết quả công tác của cán bộ công chức. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; xây dựng và áp dụng chế độ thanh tra, kiểm tra công vụ ở các cấp, kể cả chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. + Để đấu tránh và loại trừ hiện tượng tham nhũng, có thể tạo cơ chế kiểm soát chặt chẽ tiền lương của cán bộ, công chức bằng hai cách. Một là kiểm soát thu nhập qua thẻ tín dụng, tiền lương và mọi thu nhập được chuyển vào tài khoản mở tại ngân hàng nhà nước. Hai là trích lại phần trăm để bảo đảm cơ chế (chẳng hạn, người dưới 10 năm công tác trích lại 50% lương, công tác từ 10 đến dưới 20 năm trích lại 30% ; công tác từ 20 năm trở lên trích lại 20% lương đưa vào quỹ quản lý chung). Nếu cán bộ, công chức vi phạm pháp luật hoặc nội quy làm việc tùy thuộc mức độ mà có thể lấy một phần hoặc tất cả quỹ bị xung vào quỹ nhà nước. - Về khuyến khích và hỗ trợ nhằm nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức: + Xây dựng chính sách khuyến khích thu hút nhân tài và hỗ trợ cho công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực vào làm việc trong khu vực công tạo động lực cho cán bộ, công chức làm việc có hiệu quả. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định về đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc đối với cán bộ, công chức trước khi bổ nhiệm, khuyến khích tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu cầu công việc. + Tiếp tục cải cách tiền lương của cán bộ, công chức để họ có thu nhập ổn định, yên tâm công tác. Mức lương cán bộ, công chức được trả phải đủ để tái sản xuất sức lao động và khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước liên quan tới ĐTNN. Cần có sự hỗ trợ kinh phí phục vụ công tác đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức tham gia học tập chuyên ngành kinh tế và QLNN về kinh tế. 3.2.5. Giải pháp về tạo lập môi trường đầu tư - Phát triển đồng bộ các loại thị trường, tạo lập môi trường đầu tư bình đẳng giữa các nhà đầu tư + Nhận dạng đúng những khu vực kinh tế tiềm năng và tạo mọi điều kiện để các khu vực này phát triển. Thực tế cho thấy, khu vực FDI và khu vực dân doanh luôn là hai khu vực kinh tế năng động nhất Việt Nam, có thể giúp nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng một cách bền vững. Do vậy cần phải tiếp tục tạo dựng những điều kiện thuận lợi để phát triển khu vực kinh tế này đồng thời nhanh chóng xóa bỏ và tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư. + Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường đặc biệt là thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường dịch vụ, thị trường sản phẩm khoa học công nghệ. Với việc phát triển thị trường bất động sản, phải giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Nhằm tránh đẩy giá thuê đất thực tế lên cao, giá cả đền bù, giải phóng mặt bằng phải hợp lý, không phân biệt giữa dự án FDI của các nhà ĐTNN và các nhà đầu tư trong nước. Quản lý chặt chẽ việc mua bán đất đai trên thị trường “chợ đen” cũng như những hoạt động đầu cơ về đất đai mà không phải vì mục đích sản xuất kinh doanh và xây dựng cơ sở hạ tầng. Với việc tạo lập và phát triển thị trường lao động cho các doanh nghiệp FDI, trước tiên cần phải đẩy mạnh chất lượng của hệ thống giáo dục quốc dân; nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật Lao động sửa đổi, bổ sung vào thực tế cuộc sống xây dựng chế độ bảo hộ và trợ cấp cho người lao động làm việc trong khu vực kinh tế FDI để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động. Với thị trường hàng hóa, dịch vụ, mở rộng hơn nữa quy mô của thị trường bằng cách đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu sang các nước có tiềm năng thị trường tiêu thụ rộng rãi như Mỹ, Trung Quốc, các nước ASEAN, Liên minh châu Âu… Đồng thời, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa bằng việc quan tâm hơn nữa vấn đề bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm và đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ cũng như uy tín thương hiệu đã tạo dựng được trên thường trường quốc tế. - Củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội: + Tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển về cơ sở hạ tầng. Trong việc thực hiện quy hoạch, tập trung đa dạng hóa nguồn vốn và tăng tính minh bạch trong việc huy động vốn đặc biệt là ở cấp cơ sở để tránh sự thất thoát của nguồn vốn đầu tư hay những biểu hiện tham nhũng trong quá trình thực hiện dự án của các cán bộ, công chức. + Về hạ tầng kỹ thuật, cần đẩy mạnh nâng cấp và phát triển một cách đồng bộ các hệ thống giao thông trển cả nước. Chú trọng giao thông đến các huyện miền núi và hải đảo; hệ thống đường bộ cao tốc, trước tiên là tuyến Bắc - Nam và các tuyến nối Việt Nam với Trung Quốc, Lào, Campuchia; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt trước hết là đường sắt cao tốc Bắc - Nam, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia… Xây dựng và mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, kêu gọi vốn đầu tư vào các cảng lớn của khu vực kinh tế trung tâm như cảng Hiệp Phước, Thị Vải, Lạch Huyện… Ngoài hệ thống giao thông, cũng cần phải nhanh chóng hiện đại hóa mạnh lưới bưu chính - viễn thông; khẩn trương hoàn thành các dự án về cấp nước sạch và thoát nước thải, xử lý rác thải tại các khu đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; cải tạo và phát triển lưới điện, phấn đấu đưa lưới điện tới tất cả các vùng đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. + Về kết cấu hạ tầng xã hội, cần xây dựng nhiều hơn nữa các trung tâm thương mại hiện đại, các khu vui chơi giải trí đặc biệt tại các địa phương có thế mạnh về dịch vụ và du lịch. Ngoài ra, Nhà nước cần có kế hoạch đầu tư và thu hút đầu tư xây dựng nhà ở giá rẻ, giảm giá đất đô thị. Giải quyết thỏa đáng và nhanh chóng khắc phục tình trạng tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường và gia tăng mật độ dân số ở các thành phố lớn. 3.2.6. Giải pháp về đẩy mạnh quảng bá và xúc tiến đầu tư - Tăng cường vai trò của Chính phủ và các Bộ, ngành trong việc tạo lập môi trường quảng bá và xúc tiến đầu tư: + Để có thể thu hút được các nhà ĐTNN lớn, cần tăng cường vai trò của Chính phủ thông qua các hoạt động ngoại giao để xóa bỏ những rào cản về chính trị, cơ chế, chính sách, sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ của các nhà đầu tư giữa các quốc gia. Đồng thời, qua đó cũng thể hiện và củng cố tinh thần hợp tác, mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước về mặt văn hóa, chính trị. + Các cơ quan QLNN như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Công thương tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, của TNCs, các công ty lớn để có chính sách vận động, thu hút đầu tư phù hợp, có đối sách ngoại giao hợp lý, tương thích với tình hình kinh tế - chính trị các nước. - Hướng vào các khu vực đầu tư nhiều tiềm năng và tạo lập thị trường đầu tư mới: + Hướng hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư vào việc duy trì và phát triển các thị trường tiềm năng quen thuộc như các đối tác ở Đông Á, ASEAN, các nước EU, Mỹ, các quần đảo thuộc Vương quốc Anh… đồng thời cũng tạo lập thêm các đối tác mới là các tập đoàn kinh tế lớn có tiềm lực về vốn, công nghệ như các nước Trung Đông, các đối tác ở Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ theo kinh nghiệm của Thái Lan và một số nước trong khu vực. Đặc biệt với những hậu quả mà cuộc suy thoái kinh tế để lại trong thời gian vừa qua, có thể dễ dàng nhận thấy một trật tự thế giới mới đang chuyển động. Sự nổi lên của các nền kinh tế khác tiêu biểu là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ sẽ tạo sự cân bằng với kinh tế Mỹ. Việt Nam cần hướng mạnh thu hút FDI từ những thị trường này để nhận được những lợi thế đầu tư của những nền kinh tế có sự phát triển mạnh mẽ. + Vận động xúc tiến đầu tư vào các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và có tiềm năng đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ. Hướng các hoạt động xúc tiến vào các quỹ đầu tư, vào các ngành công nghiệp đầu ngành và chế tạo máy móc với công nghệ nguồn thuộc các nước có công nghiệp và công nghệ phát triển. + Nâng cao chất lượng các cuộc hội thảo quảng bá và xúc tiến đầu tư cả trong và ngoài nước. Tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành hoặc các cuộc hội thảo về lĩnh vực đầu tư với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành. Đặc biệt với các địa phương và các ngành, cần chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp với từng dự án, từng tập đoàn, công ty và các nhà đầu tư có tiềm năng rót vốn vào ngành, địa phương mình. + Sử dụng các công ty tư vấn ĐTNN nhằm hoạch định chiến lược thu hút FDI dài hạn, nâng cao chất lượng của các dự án kêu gọi đầu tư. Việc sử dụng các công ty tư vấn chuyên nghiệp còn tạo niềm tin cho các nhà ĐTNN và cũng là cơ hội để các nhà quản lý, các nhà chuyên môn học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng quảng bá, xúc tiến đầu tư ra nước ngoài. + Tăng cường tiếp cận và liên kết với đại diện các hiệp hội, các Phòng đại diện Thương mại và Công nghiệp của các quốc gia và vùng lãnh thổ nước ngoài tại Việt Nam (như Đại diện Thương mại và Công nghiệp Đức, Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu – EUROCHAM, Phòng Thương mại và Công nghiệp Hoa Kỳ - AMCHAM…) và các đại diện Thương mại Việt Nam ở nước ngoài, để tìm hiểu nguyện vọng các nhà ĐTNN và thu hút mạnh sự đầu tư từ các nước phát triển ở châu Âu, châu Mỹ. - Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào TNCs: Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc với những kết quả thu hút FDI đáng kể từ TNCs giai đoạn 2001-2005, Việt Nam cần phải tiếp tục vận động xúc tiến đầu tư vào TNCs đặc biệt là các TNCs từ các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và các nước EU với mục đích tập trung thu hút các kỹ thuật tiên tiến, quản lý hiện đại của các tập đoàn này. Mục tiêu có thể đặt ra đến năm 2020 là thu hút được khoảng 50% số TNCs lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam. 3.2.7. Giải pháp về đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Xây dựng quy định chế độ kiểm tra của các cơ quan QLNN đối với hoạt động FDI. Chấm dứt tình trạng kiểm tra tùy tiện, tránh hình sự hóa các quan hệ kinh tế; tránh tình trạng lợi dụng thanh tra, kiểm tra để gây khó dễ cho các nhà ĐTNN. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra bảo đảm mọi hoạt động FDI được thực thi đúng pháp luật. - Xây dựng cơ chế “giám sát hai chiều” nhằm giảm bớt tốt đa hiện tượng nhũng nhiễu, gây khó khăn với doanh nghiệp FDI của cán bộ kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh hoạt động giám sát từ bên ngoài, tăng cường tính chịu trách nhiệm trong hệ thống giám sát; tạo dựng không gian rộng lớn hơn để công chúng có thể tham gia phân tích khách quan đối với các cơ chế thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cũng như hành vi của cán bộ, công chức trong khi thực hiện công vụ. - Điều chỉnh những quy định liên quan đến thời gian kháng cáo và thủ tục giải quyết khiếu nại đối với đương sự khi vi phạm xảy ra. Bởi thực tế đã cho thấy, để tạo điều kiện cho các bên liên quan có thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp và tiến hành các thủ tục giải quyết một cách tốt nhất nên mở rộng thời hạn kháng cáo lên 30 ngày thay vì 15 ngày như Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 quy định. Đồng thời cũng nên cho phép đương sự được chọn một trong hai cách hoặc khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính khi xảy ra vụ việc liên quan đến thương mại hóa trong nước và quốc tế hơn là áp dụng cả hai phương thức như một trình tự bắt buộc như được quy định tại Luật khiếu nại, tố cáo. - Tổ chức thanh tra, kiểm tra kết hợp với tổ chức phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật về đầu tư và đổi mới cách xử lý vi phạm pháp luật nhằm khắc phục tình trạng chỉ nhà đầu tư mới có lỗi, cấp dưới có lỗi với cấp trên; khi xảy ra vi phạm chỉ có nhà đầu tư chịu nhiều thiệt thòi. PHẦN KẾT LUẬN Trước cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế thế giới đã bị ảnh hưởng nặng nề. Theo ước tính của UNCTAD thì sau 4 năm tăng trưởng liên tiếp, dòng vốn FDI toàn cầu từ mức kỷ lục với tốc độ tăng trưởng 30% trong năm 2007 đã giảm 10% trong năm 2008 - một con số trầm trọng nhất so với nhiều thập niên qua. Mặc dù sự sụt giảm này là hệ quả của cuộc suy thoái nhưng cũng chính việc phục hồi, đẩy mạnh hoạt động FDI sẽ là một trong những đầu tàu quan trọng kéo nền kinh tế thế giới đi lên. Hơn bao giờ hết, những diễn biến và xu hướng của hoạt động FDI đã và đang tạo ra những ảnh hưởng nhất định trong nền kinh tế thế giới. Ở phương diện quốc gia, nắm bắt được những hiện tượng này rất cần thiết trong việc hoạch định chính sách để đưa nền kinh tế tiến sâu vào quá trình hội nhập toàn cầu một cách có hiệu quả. Với việc tăng cường QLNN đối với FDI trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2007 đến nay, Việt Nam đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong hoạt động QLNN bao gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật; tạo lập môi trường đầu tư cho nhà đầu tư; tổ chức hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư; tổ chức bộ máy QLNN đối với FDI, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về FDI; thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về FDI. Khi hoạt động QLNN được tăng cường, sự phục hồi của nguồn vốn FDI cũng có những biểu hiện khả quan sau những diễn biến của cuộc suy thoái kinh tế vừa qua. Riêng trong quý I năm 2010, FDI vào Việt Nam đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi đặc biệt là số vốn thực hiện tăng lên đáng kể với 2.500 triệu USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2009, số vốn đăng ký là 2139,4 triệu USD bằng 29,3%, số dự án là 139 dự án bằng 59,1% so với cùng kỳ năm 2009. Sự tăng trưởng này đã góp phần không nhỏ vào những thành tựu tăng trưởng và chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay, QLNN đối với FDI tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, thực hiện chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt là những tồn tại trong việc xây dựng chính sách, pháp luật thiếu đồng bộ, nhất quán; TTHC rườm rà, thiếu tính minh bạch; việc tổ chức bộ máy nhà nước QLNN về FDI còn nhiều bất cập trong sự phân cấp và mối quan hệ giữa các bộ phận chưa thật sự chặt chẽ… đã trở thành “căn bệnh” cố hữu, khó chữa của môi trường đầu tư Việt Nam. Điều đó cũng cho thấy những hạn chế trong hoạt động QLNN về FDI đã làm giảm đáng kể hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI trên toàn bộ lãnh thổ. Trong tiến trình phục hồi, phát triển kinh tế sau suy thoái và hướng tới xây dựng một xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh theo định hướng chung của Đảng, Nhà nước, Việt Nam đã, đang và sẽ cần tới sự trợ lực về vốn, công nghệ từ hoạt động FDI cũng như những hiệu quả được nâng cao trong hoạt động QLNN đối với FDI. Từ những nghiên cứu thực tiễn hoạt động QLNN đối với FDI trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay, khóa luận đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả QLNN về FDI trong giai đoạn tới với mong muốn đóng góp những ý kiến và hướng đi mới về một trong những vấn đề kinh tế mang tính thời sự hiện nay - hoạt động FDI trong thời suy thoái kinh tế toàn cầu. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay.doc
Luận văn liên quan