Đề tài Quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: QUẢN LÝ RỦI RO TRONG TIẾN TRÌNH 1.1. Quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan 1.1.1. Khái quát chung về quản lý rủi ro 1.1.1.1. Khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro 1.1.1.2. Nội dung thực hiện quản lý rủi ro 1.1.2. Quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan 1.1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro 1.1.2.2. Nội dung quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan 1.2. Hiện đại hóa Hải quan và quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan 1.2.1. Nội dung cải cách, hiện đại hóa Hải quan 1.2.1.1. Khái quát chung về Cải cách, hiện đại hóa hải quan 1.2.1.2. Nội dung cơ bản của cải cách, hiện đại hóa hải quan 1.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro đối với nâng cao hiệu quả quản lý Hải quan trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan 1.2.2.1. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước của cơ quan Hải quan trong quản lý hoạt động xuất nhập khẩu 1.2.2.2. Tiết kiệm chi phí, nguồn lực 1.2.2.3. Nâng cao tính tự tuân thủ pháp luật Hải quan nói riêng và pháp luật nói chung của người khai hải quan 1.2.2.4. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan 1.3. Quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan tại một số quốc gia trên thế giới 1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc: 1.3.2. Kinh nghiệm của Braxin 1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 1.3.4. Bài học kinh nghiệm thực hiện quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan có thể áp dụng ở Việt Nam CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Quản lý rủi ro trong quá trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam 2.1.1. Tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam từ năm 2004 đến nay 2.1.2. Quản lý rủi ro trong quá trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam 2.1.2.1. Quản lý rủi ro trong thủ tục Hải quan truyền thống 2.1.2.2. Quản lý rủi ro trong thủ tục Hải quan điện tử 2.1.2.3. Nội dung thực hiện quản lý rủi ro của ngành Hải quan Việt Nam 2.2. Những kết quả đạt được và những tồn tại của việc thực hiện quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan của Việt Nam 2.2.1. Những kết quả đạt được 2.2.2. Những tồn tại hiện nay của việc thực hiện quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan tại Việt Nam 2.2.2.1. Thực trạng về nội dung thực hiện quản lý rủi ro 2.2.2.2. Thực trạng việc khai thác các nguồn thông tin phục vụ công tác quản lý rủi ro 2.2.2.4. Thực trạng về tổ chức bộ máy, cơ chế điều hành quản lý rủi ro 2.2.2.5. Thực trạng về cơ sở hạ tầng và các điều kiện đảm bảo thực hiện công tác quản lý rủi ro 2.2.3. Nguyên nhân khách quan và chủ quan 2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan 2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ 3.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện quản lý rủi ro của Hải quan Việt Nam 3.1.1. Hệ thống pháp luật, chính sách nói chung và pháp luật, chính sách, quy trình thủ tục hải quan nói riêng 3.1.3. Các yếu tố từ phía cộng đồng doanh nghiệp 3.1.4. Các yếu tố nội bộ ngành Hải quan 3.2. Các yêu cầu đối với công tác quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan 3.2.1. Đảm bảo tạo thuận lợi thương mại nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả kiểm tra, kiểm soát hải quan 3.2.2. Tiết kiệm chi phí 3.2.3. Nâng cao tính tự tuân thủ pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp 3.3. Các giải pháp tăng cường quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác của Hải quan Việt Nam 3.3.1. Xây dựng hệ thống tiêu chí quản lý rủi ro hiệu quả hơn 3.3.2. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý rủi ro 3.3.3. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro thống nhất cho các đối tượng quản lý của cơ quan Hải quan 3.3.4. Các giải pháp điều kiện 3.3.4.1. Bổ sung, hoàn thiện lý luận quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan 3.3.4.2. Tăng cường sự phối hợp từ các đơn vị trong và ngoài ngành và hợp tác quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro 3.3.4.3. Khắc phục những bất cập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động 3.3.4.4. Thực hiện đánh giá hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro đúng chất lượng và thường xuyên 3.3.4.5. Tăng cường hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra hoạt động xây dựng, quản lý, áp dụng quản lý rủi ro 3.3.4.6. Coi trọng vai trò của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động hải quan trong công tác quản lý rủi ro. 3.3.4.7. Đảm bảo đáp ứng các điều kiện cơ sở hạ tầng, vật chất, tài chính và các điều kiện đảm bảo phục vụ công tác quản lý rủi ro của ngành Hải quan. KẾT LUẬN

doc89 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4657 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hồng chéo. Do việc phân cấp trách nhiệm không rõ ràng dẫn đến các đơn vị tại cấp Cục Hải quan tỉnh, thành phố và chi cục Hải quan không nhận thức được đầy đủ vai trò, nhiệm vụ trong công tác hồ sơ quản lý rủi ro. Năm là, chế độ quản lý, áp dụng hồ sơ quản lý rủi ro còn nhiều thiếu sót; đặc biệt là vấn đề bảo mật thông tin. Điều này đã dẫn đến những bức xúc phản ứng từ phía doanh nghiệp vì họ cho rằng cơ quan Hải quan đối xử không công bằng hoặc có chủ ý đối với họ; đồng thời dẫn đến tính trạng tìm cách đối phó, né tránh sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan hải quan. 2.2.3.4. Thực trạng về tổ chức bộ máy, cơ chế điều hành quản lý rủi ro Mặc dù được đã nhiều lần kiến nghị và đã có những thay đổi nhất định, nhưng tổ chức bộ máy thực hiện quản lý rủi ro vẫn trong tình trạng không thống nhất, thiếu tính chuyên trách và chuyên sâu về nghiệp vụ. Hiệu lực chỉ đạo, điều hành của đơn vị cấp trên với đơn vị cấp dưới chưa hiệu quả, nhiều ý kiến chỉ đạo của đơn vị cấp trên không được các đơn vị cấp dưới thực hiện nghiêm túc. Thời gian qua, ngành Hải quan đã có những quy định cho việc xử lý những vi phạm này; nhưng thực tế công tác quản lý này vẫn đang bị buông lỏng và mang tính hình thức. Thực trạng hiện nay cho thấy, đơn vị thực hiện nhiệm vụ quản lý rủi ro tại cấp Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Chi cục Hải quan chưa được quan tâm đúng mức, thiếu nguồn lực, yếu về chuyên môn nghiệp vụ; trong khi đảm nhận nhiều công việc khác như tham mưu xử lý, thực thi sở hữu trí tuệ, thực thi cưỡng chế thuế... Điều này đã làm dàn trải nguồn lực của đơn vị này; dẫn đến tính trạng vốn đã thiếu nay càng thiếu hơn. Nhiều địa phương, đơn vị và công chức kể cả cấp lãnh đạo đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa quan trọng của công tác quản lý rủi ro, chưa nắm chắc và đầy đủ những vấn đề cơ bản trong công tác quản lý rủi ro dẫn đến sự thiếu quan tâm trong chỉ đạo, điều hành thực hiện công tác này. Lãnh đạo các cấp thiếu chỉ đạo thường xuyên và tập trung giải quyết, thiếu kiểm tra đôn đốc, hướng dẫn cụ thể, sự phối hợp trao đổi thông tin giữa các cấp, đơn vị thiếu chặt chẽ và thường xuyên. Một số công chức chưa được hướng dẫn, chỉ dẫn chu đáo, cặn kẽ phương pháp và quy trình tiến hành công tác quản lý rủi ro, nên còn nhiều lúng túng, nhất là trong các trường hợp rà soát, phát hiện rủi ro mới, phân tích, đánh giá rủi ro và xác định tình huống rủi ro. Do công tác quản lý, chỉ đạo của lãnh đạo các cấp về công tác quản lý rủi ro còn ít được quan tâm nên một số cán bộ trực tiếp làm công tác này tại cấp Cục và Chi cục còn lúng túng trong các hoạt động cụ thể nhất là trong xác định đối tượng rủi ro và tình huống rủi ro. Nhiều cán bộ, công chức còn có sự nhầm lẫn giữa rủi ro, đối tượng rủi ro, tình huống rủi ro và tiêu chí quản lý rủi ro. Chính vì vậy, đã dẫn đến tình trạng trùng dẫm và bỏ sót trong công tác quản lý rủi ro. Cũng do nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau mà công tác tổ chức quản lý, kiểm tra đánh giá kết quả, chất lượng công tác quản lý rủi ro theo định kỳ hoặc đột xuất của lãnh đạo các cấp, đơn vị hải quan còn hạn chế, ít được tổ chức, nên đã dẫn đến tình trạng chỉ quản lý trên hệ thống, chứ chưa có điều kiện để kiểm tra thực tế việc phân tích, đánh giá rủi ro, lựa chọn đối tượng rủi ro cũng như theo dõi quá trình xử lý rủi ro. Công tác chỉ đạo phối hợp giữa các cấp, đơn vị hải quan còn thiếu tính đồng bộ, thống nhất. Một số đơn vị hải quan chưa thực hiện đúng trách nhiệm được phân công. Trong khi chưa có một cơ chế chịu trách nhiệm cụ thể mang tính bắt buộc cho các cấp, đơn vị trong thực hiện công tác quản lý rủi ro; chế độ khen thưởng, kỷ luật không rõ ràng, dẫn đến việc các đơn vị, cá nhân thực hiện tốt không khác gì với những đơn vị, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không đúng. Công tác đào tạo, tập huấn về công tác quản lý rủi ro chưa được quan tâm đúng mức; còn tình trạng đào tạo không đúng đối tượng hoặc một số trường hợp cán bộ, công chức sau khi được cử đi đào tạo ở trong nước hoặc nước ngoài nhưng lại bố trí công việc khác. Chế độ chính sách và các điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện công tác chưa được đáp ứng đầy đủ; tình trạng nhiều cán bộ, công chức không chuyên tâm công việc, có tâm lý ngồi chờ hết thời gian để luân chuyển sang các đơn vị khác là hiện tượng khá phổ biến tại một số Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Chi cục Hải quan. 2.2.3.5. Thực trạng về cơ sở hạ tầng và các điều kiện đảm bảo thực hiện công tác quản lý rủi ro Hệ thống quản lý rủi ro không đảm bảo trực tuyến, các tiêu chí và thông tin không được cập nhật, đáp ứng kịp thời giữa các cấp đơn vị. Nhiều chức năng cần thiết phục vụ cho công tác quản lý rủi ro như theo dõi, kiểm tra việc xử lý rủi ro, báo cáo thống kê toàn diện kết quả quản lý rủi ro...chưa được thực hiện. Phần mềm quản lý rủi ro còn nhiều hạn chế, nhiều lỗi kỹ thuật phát sinh trong quá trình vận hành, đặc biệt có nhiều lỗi gây ra việc lợi dụng để làm sai lệch tính chính xác của hệ thống, làm kết quả phân luồng bị sai lệch. Hệ thống quản lý rủi ro chưa có sự tích hợp với các hệ thống cơ sở dữ liệu khác của ngành nên nhiều khi việc cập nhật không kịp thời. Hiện nay, hệ thống đang trong quá trình nâng cấp, chỉnh sửa, vừa sử dụng vừa phát hiện sai sót, sửa chữa nên chưa được hoàn chỉnh. Ngoài ra cơ sở hạ tầng phục vụ công tác quản lý rủi ro còn nhiều yếu kém. Hệ thống thông tin quản lý rủi ro còn thiếu và yếu, hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý phân tán, nội dung không đầy đủ, kém chất lượng, dữ liệu không đảm bảo xử lý tập trung. Bên cạnh đó, chất lượng đường truyền còn quá tải, thường bị tắc nghẽn, trang thiết bị phục vụ quản lý rủi ro chưa được đáp ứng đầy đủ. 2.2.3. Nguyên nhân khách quan và chủ quan 2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan Quản lý rủi ro là một phương pháp mới và khó, lần đầu tiên được áp dụng trong lĩnh vực Hải quan tại Việt Nam. Tuy đã có các tài liệu hướng dẫn của tổ chức WCO, và tài liệu về công tác quản lý rủi ro tại một số quốc gia trên thế giới nhưng các tài liệu này chỉ mang tính chất hướng dẫn chung, việc áp dụng vào thực tế Việt Nam đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ về thực trạng ngành Hải quan và các yếu tố thực tế trong và ngoài ngành tác động đến quy trình quản lý rủi ro. Các điều kiện thiết yếu cho việc áp dụng quản lý rủi ro như công nghệ thông tin, máy móc, hệ thống cơ sở hạ tầng về đường truyền mạng...còn thiếu, kém chất lượng, không được nâng cấp. Trong khi việc truy cập, khai thác thông tin, sử dụng thông tin, truyền nhận thông tin giữa các đơn vị, các cấp ngày càng phát triển, dẫn đến hiện tượng quá tải về đường truyền và xử lý dữ liệu trên hệ thống. Mặt khác, việc thu thập thông tin để đánh giá, phân tích rủi ro chủ yếu dựa vào cơ sở dữ liệu ngành Hải quan, nhưng hệ thống này đã được xây dựng nhiều năm trước, và phân tán nên việc xử lý dữ liệu không được tập trung. Các hệ thống chức năng tuy đã được nâng cấp nhưng vẫn không đáp ứng được các yêu cấu cập nhật, và kết xuất thông tin. Ngoài ra, việc cập nhật thông tin vào các hệ thống không thường xuyên, và kịp thời, làm cho các thông tin trên các hệ thống cơ sở dữ liệu này mang tính lịch sử, không đảm bảo chất lượng thông tin để sử dụng trong quá trình thu thập, phân tích phục vụ cho công tác quản lý rủi ro, làm cho các kết quả phân tích, đánh giá rủi ro còn chưa chính xác, và không kịp thời. Hệ thống pháp luật, chính sách luật hải quan hiện nay còn chưa đầy đủ, nhiều văn bản quy định không thống nhất, chồng chéo, tạo ra những vướng mắc trong quá trình triển khai áp dụng quản lý rủi ro. Một số quy định của pháp luật và quy trình thủ tục hải quan có nhiều điểm thực hiện thông thoáng vượt quá, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát thực tế hải quan khi thực hiện quản lý rủi ro, không đảm bảo việc thực hiện tuân thủ. Trong khi đó, lại có một số thủ tục rườm rà, gây tắc nghẽn cho hoạt động thông quan hàng hóa, hành khách, phương tiện xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh tại cửa khẩu. 2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan Các nguyên nhân chủ quan xuất phát từ nội bộ đội ngũ cán bộ thực hiện công tác quản lý rủi ro tại các cấp từ cấp lãnh đạo đến các cán bộ trực tiếp thực hiện. Trước tiên là sự nhận thức chưa đúng và đầy đủ về công tác quản lý rủi ro, thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan, dẫn đến sự thiếu quan tâm chỉ đạo, điều hành, và triển khai quản lý ro tại các cấp, đặc biệt là cấp cục và chi cục. Ngoài ra, việc thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử trong tiến trình hiện đại hóa hải quan, sử dụng phương pháp quản lý hải quan hiện đại làm cho cán bộ thực hiện công tác quản lý rủi ro còn gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn. Mặt khác, do cơ chế luân chuyển cán bộ của ngành Hải quan, nên chưa xây dựng được một đội ngũ cán bộ thực hiện công tác quản lý rủi ro một các chuyên sâu, cơ bản, dẫn đến việc thực hiện công tác này chưa đảm bảo hiệu quả do chất lượng cán bộ thực hiện. Khi xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ quản lý rủi ro RISKMAN, bên cạnh việc kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ hải quan về quản lý rủi ro còn yếu thì đơn vị thực hiện xây dựng phần mềm là đơn vị trong nước (FPT) chưa có kinh nghiệm về lĩnh vực này. Do đó, hệ thống được xây dựng một cách chắp vá, mang tính chất vừa làm, vừa sửa nên có nhiều hạn chế. Do quản lý rủi ro là một kỹ thuật mới, để hiểu sâu và có thể xây dựng các biện pháp, kế hoạch để thực hiện, các cán bộ phải thường xuyên nghiên cứu, nắm bắt thực tế, gặp nhiều khó khăn, xuất hiện tâm lý trì trệ, không nhiệt huyết, chuyên tâm với công việc, làm cho chất lượng công tác quản lý rủi ro bị hạn chế rất nhiều. Vấn đề liêm chính hải quan cũng là một vấn đề đáng quan tâm hiện nay. Đã có những một số dấu hiệu vi phạm của cán bộ, công chức hải quan như tiết lộ các thông tin quản lý mật như nội dung các tiêu chí, sự vận hành của hệ thống RISKMAN, hoặc cố tình can thiệp vào hệ thống thay đổi kết quả phân luồng, hướng dẫn người khai hải quan khai báo sai mã hàng để tránh rủi ro cao, bị phân vào luồng đỏ, hoặc chuyển luồng sai quy định... gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM 3.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện quản lý rủi ro của Hải quan Việt Nam Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra sự gia tăng mạnh mẽ các dòng lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn công nghệ, nguồn nhân lực lao động... giữa Việt Nam với nước trên thế giới và khu vực. Quá trình này cũng đòi hỏi Việt Nam phải từng bước thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; trong đó bao gồm việc dỡ bỏ hàng rào thương mại và thuế quan. Điều này đồng nghĩa với việc làm cho thị trường quốc gia mất dần biên giới. Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực tạo cho nước ta có những cơ hội mới trong việc phát triển nền kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức rất lớn. Yêu cầu tạo thuận lợi, thông thoáng trong hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh đang là thời cơ cho các đối tượng lợi dụng để buôn lậu, gian lận thương mại. Sự phát triển của các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia đang đe doạ mục tiêu, khả năng kiểm soát của lực lượng Hải quan. Nước ta với đặc điểm đa dạng về địa hình, đã tạo lên sự hội tụ đầy đủ của các phương thức vận tải quốc tế như: đường biển, đường bộ, đường sông và hàng không. Ngoài ra còn bao gồm các hình thức đặc thù như đường sắt liên vận quốc tế, chuyển phát nhanh và vận tải đa phương thức. Với mỗi phương thức vận tải, thường hình thành các cơ cấu về tổ chức và cách thức quản lý khác nhau trong cơ quan hải quan. Chính quá trình này cũng làm phát sinh những vi phạm do việc lợi dụng các đặc điểm các loại hình cũng như tuyến, địa bàn để buôn lậu, gian lận thương mại. Những vấn đề trên đây đặt ra yêu cầu cho cơ quan hải quan cần phải có tích cực, chủ động trong công tác điều tra nghiên cứu nắm tình hình, tổ chức công tác hồ sơ quản lý rủi ro nhằm chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính chị của ngành. Công tác quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan được thực hiện trên cơ sở theo lộ trình và bước đi thích hợp nhằm phát triển, mở rộng phạm vi áp dụng quản lý rủi ro, nhằm đạt mục tiêu tạo sự cân bằng giữa tạo thuận lợi thương mại và đảm bảo tính tuân thủ pháp luật Hải quan nói riêng, pháp luật Việt Nam nói chung, thực hiện kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động thương mại quốc tế. Do đó, công tác quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan chịu tác động của rất nhiều yếu tố từ môi trường bên ngoài cũng như những yếu tố rủi ro bên trong nội bộ ngành, đặc biệt là tiến trình cải cách, hiện đại hóa Hải quan. 3.1.1. Hệ thống pháp luật, chính sách nói chung và pháp luật, chính sách, quy trình thủ tục hải quan nói riêng Với hệ thống pháp luật và các quy định không phù hợp với năng lực quản lý, còn chưa đầy đủ, nhiều văn bản quy định không thống nhất, chồng chéo, tạo ra những vướng mắc trong quá trình triển khai áp dụng quản lý rủi ro hiện nay của ngành Hải quan là khó khăn rất lớn cho việc triển khai có hiệu quả công tác quản lý rủi ro. Trong những năm tới, hệ thống pháp luật, chính sách, quy trình thủ tục hải quan sẽ có nhiều thay đổi theo hướng minh bạch, tạo thuân lợi thương mại hơn, kéo theo sự thay đổi của các quy tắc quản lý rủi ro. Điều này đặt ra yêu cầu cho việc xây dựng các chương trình ứng dụng phải đảm bảo tính mở, linh hoạt đáp ứng cho việc điều chỉnh, bổ sung phù hợp tình hình mới. Ngoài ra, công tác quản lý rủi ro còn chịu tác động, ảnh hưởng từ các Bộ, ngành liên quan. Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan hải quan là thực hiện quản lý nhà nước về hải quan, chịu sự chi phối từ chính sách, cơ chế của nhiều Bộ, ngành liên quan. Chính vì vậy, việc áp dụng quản lý rủi ro trong lĩnh vực nghiệp vụ hải quan cũng chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ các Bộ, ngành này; bao gồm một số tác động chủ yếu sau đây: Một là, cơ chế, chính sách quản lý từ các Bộ, ngành liên quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh đặt ra yêu cầu cho việc kiểm tra, kiểm soát đối với từng loại hàng hoá, phương tiện cụ thể. Sự thay đổi trong định hướng quản lý đối với một nhóm hàng hoá cũng có thể tạo ra sự thay đổi trong định hướng quản lý rủi ro. Hai là, chính sách thuế và quản lý thuế đối với doanh nghiệp và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có thể tác động rất lớn đến việc thực nhiệm vụ thu thuế của ngành Hải quan. Để đạt được mục tiêu đảm bảo nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; cơ quan hải quan phải tính toán đến những rủi ro liên quan đến lĩnh vực này, trong đó bao gồm cơ chế thực hiện chính sách thuế xuất nhập khẩu; việc tuân thủ pháp luật về thuế của các đối tượng có liên quan; các cơ chế chính sách ưu đãi về hạn ngạch thuế quan... để định hướng nguồn lực quản lý một cách phù hợp. Ba là, việc trao đổi, cung cấp thông tin giữa cơ quan hải quan với các Bộ, ngành liên quan có ý nghĩa quan trọng cho việc triển khai áp dụng có hiệu quả các chương trình quản lý rủi ro. Hiện nay, ngành Hải quan mới thực hiện được việc kết nối hệ thống, trao đổi thông tin về doanh nghiệp với Tổng cục Thuế; còn lại hầu hết các thông tin từ các Bộ, ngành liên quan chưa có cơ chế trao đổi cung cấp thông tin, nếu có những thông tin được trao đổi thì chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức văn bản. Việc này đã hạn chế rất lớn đến hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro. 3.1.2. Các yếu tố kinh tế, chính trị Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này mở ra những cơ hội cho Việt Nam trong việc hội nhập phát triển nền kinh tế, đồng thời cũng mang lại những nguy cơ, thách thức trong cuộc cạnh tranh trong khuôn khổ các cam kết quốc tế mà Việt Nam phải thực hiện. Mặc dù hiện nay thế giới đang phải đối phó với cơn khủng hoảng tài chính, nhưng theo đánh giá chung trong những năm tới kinh tế thế giới sẽ lại tiếp tục khởi sắc. Là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng rất lớn do phản ứng dây chuyền. Theo dự đoán của các nhà phân tích, trong những năm tới, Việt Nam sẽ có những sẽ có gia tăng đột biến về lưu lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, hành khách và phương tiện xuất nhập cảnh. Sự phát triển của thương mại quốc tế đang ngày một gia tăng cả về nội dung và hình thức. Toàn cầu hoá và các hiệp định tự do thương mại thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh đó là việc xuất hiện các hình thức bảo hộ mới, như hàng rào kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, môi trường, chống bán phá giá, độc quyền... trong khi hàng rào thuế quan được giảm dần theo lộ trình đã cam kết. Yêu cầu về vận chuyển, trao đổi hàng hoá trong thương mại quốc tế phải nhanh chóng và đa dạng các loại hình vận chuyển đa phương thức. Trong khi đó thương mại điện tử và các hình thức kinh doanh qua mạng đã phát triển nhanh chóng và trở nên phổ biến. Sự xuất hiện các nguy cơ khủng bố quốc tế, buôn lậu, vận chuyển trái phép các chất ma tuý, vũ khí, rửa tiền dưới nhiều hình thức khác nhau, dẫn đến những nguy cơ bất ổn cho nền kinh tế và lợi ích của cộng đồng. Các yếu tố trên có tác động và ảnh hưởng mục tiêu, định hướng quản lý của ngành Hải quan nói chung, và công tác quản lý rủi ro nói riêng. Đặc biệt là việc xác định các rủi ro mới phát sinh từ các yếu tố trên. 3.1.3. Các yếu tố từ phía cộng đồng doanh nghiệp Cộng đồng doanh nghiệp được đề cập ở đây bao gồm các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, đại lý khai thuê hải quan và các hãng, đại lý vận tải, là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những hoạt động quản lý hải quan của cơ quan Hải quan. Thứ nhất, doanh nghiệp tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, trong toàn quốc có khoảng trên 57 ngàn doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Số lượng doanh nghiệp được đánh giá chấp hành tốt pháp luật hải quan có khoảng 27 ngàn, chiếm tỷ lệ khoảng 58%. Qua nghiên cứu, phân tích cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam tham gia hoạt động xuất nhập khẩu phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ; hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ. Một số doanh nghiệp trên danh nghĩa là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhưng thực chất làm đại lý cho các đối tác nước ngoài. Khả năng và ý thức tuân thủ của phần lớn số doanh nghiệp này được đánh giá là còn hạn chế. Thứ hai, đại lý khai hải quan. Hệ thống đại lý khai hải quan đã được triển khai trong nhiều năm, nhưng cho đến nay đội ngũ này chưa phát triển. Bên cạnh hệ thống đại lý khai hải quan còn tồn tại một hệ thống các doanh nghiệp được lập ra để làm dịch vụ xuất nhập khẩu. Số lượng các doanh nghiệp loại này lớn hơn nhiều so với số lượng đại lý khai hải quan. Về nội dung, hoạt động của các doanh nghiệp này được thực hiện trên cơ sở một thoả thuận uỷ thác. Nhưng thực tế họ không xuất trình hợp đồng uỷ thác khi làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu mà đứng tên khai là người xuất khẩu, người nhập khẩu. Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan, các bên giao nhận hàng thông qua hợp đồng mua bán và xuất hoá đơn giá trị gia tăng. Theo phản ánh của các doanh nghiệp làm đại lý khai hải quan, việc tìm kiếm đối tác của các doanh nghiệp loại này thường gặp nhiều khó khăn hơn so với doanh nghiệp xuất nhập khẩu uỷ thác như nêu trên. Nguyên nhân chủ yếu do hiện nay Hải quan chưa có quy định ưu tiên đối với lô hàng làm thủ tục qua đại lý khai hải quan. Thứ ba, là các hãng, đại lý vận tải tham gia hoạt động vận tải thương mại quốc tế. Đánh giá chung về hoạt động vận tải quốc tế thấy rằng, phần lớn các tuyến vận tải lớn (tuyến đường biển, hàng không) do các hãng vận tải nước ngoài thực hiện thông qua các đại lý vận tải tại Việt Nam. Các đơn vị vận tải của Việt Nam tham gia hoạt động vận tải thương mại quốc tế còn rất hạn chế về quy mô và phạm vi hoạt động. Việc áp dụng quản lý rủi ro đối với phương tiện vận tải về cơ bản chưa được triển khai thực hiện. Hiện nay, ngành Hải quan chưa có hệ thống thông tin dữ liệu để phục vụ việc quản lý đối với phương tiện vận tải. Các thông tin dữ liệu về lịch sử, quá trình hoạt động của phương tiện vận tải, chủ phương tiện và hãng vận tải chưa được lưu trữ, sử dụng một cách tập trung thống nhất. Do vậy thời gian qua việc áp dụng các biện pháp kiểm tra, kiểm soát đối với phương tiện vận tải chủ yếu dựa trên thông tin về dấu hiệu vi phạm do các đơn vị kiểm soát thu thập hoặc do các đơn vị nghiệp vụ trong và ngoài ngành chuyển giao. 3.1.4. Các yếu tố nội bộ ngành Hải quan Một là, cơ cấu tổ chức, bố trí nguồn lực... còn nhiều hạn chế, đang cản trở cho quá trình xây dựng và phát triển quản lý rủi ro. Ngành Hải quan thực hiện quản lý trên 04 tuyến địa bàn vận chuyển gồm đường biển, đường bộ, đường hàng không, và đường sắt liên vận quốc tế. Các đơn vị Hải quan hoạt động trên các tuyến địa bàn khác nhau có nhiều điểm khác nhau cơ bản, do vậy, việc bố trí nguồn lực hợp lý cũng rất khó khăn. Đặc biệt là sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong cơ chế điều hành của ngành Hải quan đang tạo ra sự níu kéo, hạn chế lẫn nhau giữa việc xây dựng và triển khai các quy trình nghiệp vụ với việc xây dựng và áp dụng quản lý rủi ro. Các công việc này không được thực hiện đồng thời dẫn đến tình trạng nhiều khi quy trình nghiệp vụ đi trước quản lý rủi ro và đôi khi ngược lại, quản lý rủi ro không có quy trình nghiệp vụ để áp dụng. Hai là, do quản lý rủi ro là một phương pháp quản lý mới nên việc nghiên cứu, nắm bắt công tác quản lý rủi ro của cán bộ còn gặp nhiều hạn chế, chưa có một đội ngũ cán bộ chuyên sâu về công tác này. Điều này gây cản trở lớn cho quá trình cách, hiện đại hoá hải quan nói chung, cũng như quá trình áp dụng quản lý rủi ro nói riêng. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, để triển khai chương trình cải cách, hiện đại hoá hải quan, các quốc gia luôn quan tâm đến việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; một trong những yếu tố quyết định sự thành công của chương trình cải cách, hiện đại hoá hải quan. Trong những năm qua, ngành Hải quan đã có nhiều cố gắng trong công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhưng kết quả của quá trình này còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của ngành Hải quan trong tình hình mới. Ba là, năng lực kiểm tra kiểm soát của ngành Hải quan chưa theo kịp với những thay đổi về cải cách, hiện đại hóa của hệ thống pháp luật và quy trình thủ tục hải quan, dẫn đến những thiếu sót để các đối tượng lợi dụng vi phạm. Ngành Hải quan chưa thực hiện được cơ chế tiếp nhận thông tin dữ liệu điện tử về phương tiện, hàng hóa, hành khách trước thông quan, và chưa trở thành thành viên của tổ chức giao thông/ an ninh quốc tế (ATA, FIA/AIT). Do vậy khả năng thu thập thông tin, phân tích đánh giá rủi ro trước đối với hàng hóa rất hạn chế. Bốn là, tình trạng thiếu liêm chính hải quan vẫn còn là vấn đề phải quan tâm trong đội ngũ cán bộ, công chức hải quan. Hiện tượng cán bộ, công chức hải quan gây phiền hà sách nhiễu hoặc tiếp tay cho các đối tượng trong việc lợi dụng cơ chế áp dụng quản lý rủi ro, tìm cách đối với việc phân luồng trên hệ thống ... vẫn còn diễn ra trong một bộ phận công chức làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu. Tình trạng này đã và đang kéo theo những ảnh hưởng xấu và đang có nguy cơ làm vô hiệu hoá ngay chính hệ thống quản lý rủi ro của ngành Hải quan. 3.2. Các yêu cầu đối với công tác quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan 3.2.1. Đảm bảo tạo thuận lợi thương mại nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả kiểm tra, kiểm soát hải quan Trong bối cảnh toàn cầu hoá, áp lực về sự gia tăng của khối lượng công việc, ngành Hải quan Việt Nam vừa phải không ngừng tìm kiếm các giải pháp tạo thuận lợi thương mại, đồng thời kiểm soát chặt chẽ đối tượng quản lý, trong điều kiện nguồn lực không thay đổi, thậm chí bị thu hẹp.Với mục tiêu thực hiện công tác cải cách, hiện đại hóa Hải quan, chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, thì việc áp dụng phương pháp quản lý rủi ro đặt ra yêu cầu phải góp phần đơn giản hóa thủ tục hải quan, giảm thiểu thời gian thông quan, giải phóng hàng hóa, đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế, thực hiện các cam kết mở rộng theo đúng lộ trình đã cam kết, nhưng đồng thời phải đảm bảo mức độ tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật hải quan nói riêng. Cơ quan Hải quan phải nâng cao chất lượng việc xác định đối tượng có rủi ro cao, ưu tiên tập trung nguồn lực vào quản lý đối với số đối tượng này, công tác quản lý sẽ không bị dàn trải. Từ đó giảm bớt áp lực công việc, cân bằng giữa tạo thuận lợi thương mại với kiểm soát chặt chẽ quá trình tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. 3.2.2. Tiết kiệm chi phí Thực hiện phương pháp quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan nhằm làm cho công tác quản lý hải quan phù hợp với sự phát triển của hệ thống thương mại hiện đại, đồng thời làm cho hoạt động quản lý hải quan đạt hiệu quả cao hơn. Nhưng đồng thời một trong những mục tiêu khi thực hiện quản lý rủi ro là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi phí và đảm bảo sự tuân thủ. Cơ quan Hải quan không những phải làm giảm chi phí cho doanh nghiệp mà còn phải tính đến việc giảm chi phí, nâng cao tiết kiệm cho Chính phủ. Bên cạnh việc giảm chi phí, cơ quan hải quan cũng phải nâng cao mức độ tuân thủ của người tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Do đó, cơ quan hải quan phải thực hiện đồng thời mục tiêu tuân thủ và giảm chi phí (Sơ đồ 3.1) Sơ đồ 3.1: Mục tiêu “win-win” A Tuân thủ thấp Chi phí cao B Tuân thủ thấp Chi phí thấp D Tuân thủ cao Chi phí thấp C Tuân thủ cao Chi phí cao Nguồn: Michael H.Lane “Customs Modernization & the International Trade Superhigh Way” 3.2.3. Nâng cao tính tự tuân thủ pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp Một yêu cầu quan trọng nữa đối với công tác quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan là phải nâng cao tính tự tuân thủ pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan. Hiệu quả của việc áp dụng quản lý rủi ro phải cho thấy được những lợi ích mà doanh nghiệp có được nếu tuân thủ pháp luật như giảm thời gian thông quan, giải phóng hàng; thủ tục hải quan đơn giản, nhanh gọn; tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp... Thực hiện quản lý rủi ro tạo ra cơ chế cạnh tranh công bằng cho doanh nghiệp trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Như vậy, khi nhận biết được những lợi ích đạt được từ việc tuân thủ pháp luật, cũng như hiệu quả của việc áp dụng quản lý rủi ro đem lại, thì cộng đồng doanh nghiệp sẽ tự nâng cao tính tự tuân thủ pháp luật. 3.3. Các giải pháp tăng cường quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác của Hải quan Việt Nam 3.3.1. Xây dựng hệ thống tiêu chí quản lý rủi ro hiệu quả hơn Đối với các doanh nghiệp lớn thì các vi phạm pháp luật hải quan cũng khác các doanh nghiệp nhỏ và vừa, dẫn đến các rủi ro trong lĩnh vực hải quan đối với doanh nghiệp lớn cũng khác. Tuy trong Bộ tiêu chí đánh giá doanh nghiệp đã có tiêu chí đánh giá doanh nghiệp lớn, nhỏ, vừa với mức độ rủi ro, nhưng trọng số tính điểm của tiêu chí tính điểm cho doanh nghiệp quá trình tính điểm làm sự phân biệt doanh nghiệp trở nên không rõ ràng. Một doanh nghiệp lớn, hoạt động xuất nhập khẩu với kim ngạch lớn khi vi phạm thường với giá trị vi phạm rất lớn, do đó, nên xác định rủi ro thường xảy ra với các doanh nghiệp này, và xây dựng tiêu chí rủi ro phân tích để có thể lọc ra các lô hàng vi phạm với giá trị lớn, đảm bảo tránh thất thoát nguồn thu của nhà nước. Ngoài ra, các thủ đoạn gian lận, buôn lậu ngày càng tinh vi hơn, nên ngành Hải quan cần có sự chỉ đạo thống nhất và chặt chẽ; cần thường xuyên tổ chức các đợt tổng kết, rút kinh nghiệm, trao đổi tình hình, phương thức thủ đoạn hoạt động của các hệ loại đối tượng; qua đó cập nhật, bổ sung và đưa vào hệ thống tiêu chí những tiêu chí mới, hiệu quả, có thể phát hiện các giao dịch gian lận, vi phạm pháp luật. 3.3.2. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý rủi ro Trong công tác quản lý rủi ro thì hệ thống cơ sở dữ liệu đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Với một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, kịp thời, được mã hóa quản lý hiện đại sẽ là yếu tố cần cho việc thực hiện phân tích, đánh giá rủi ro một cách chính xác, hiệu quả. Như vậy, để hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý rủi ro thì cần phải thực hiện nâng cấp một cách toàn diện các hệ thống thông tin của ngành Hải quan như hệ thống mã số doanh nghiệp (T2C), hệ thống thông tin quản lý tờ khai, hệ thống thông tin quản lý vi phạm, hệ thống thông tin kế toán thuế (KTT559), hệ thống thông tin giá ...với các modul chức năng đầy đủ, đặc biệt là modul chức năng cập nhật và kết xuất số liệu. Ngoài ra, cần có sự tích hợp trực tiếp giữa các hệ thống này với hệ thống RISKMAN để việc cập nhật thông tin được nhanh chóng, kịp thời, một cách tự động. Cần phải có các khóa đào tạo đầy đủ cho đội ngũ cán bộ thực hiện tại địa phương về việc cập nhật thông tin vào hệ thống để đảm bảo các thông tin cập nhật chính xác, đồng bộ, tránh tình trạng một thông tin mà lại có nhiều thông tin cập nhập khác nhau. Các dữ liệu thông tin trong cơ sở dữ liệu cũng cần quản lý mã hóa để đảm bảo tính thống nhất, dễ sử dụng, dễ tra cứu. Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu là việc làm quan trọng, đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư của các cấp lãnh đạo, cũng như của tất cả các cán bộ, công chức ngành Hải quan Việt Nam. 3.3.3. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro thống nhất cho các đối tượng quản lý của cơ quan Hải quan Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, lưu lượng hàng hoá, phương tiện đang ngày càng gia tăng nhanh chóng thì việc tập trung kiểm tra trong quá trình thông quan sẽ là rào cản rất lớn cho hoạt động thương mại quốc tế. Do đó, trong tiến trình hiện đại hóa hải quan, cơ quan Hải quan đang thực hiện chuyển dần từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, kết hợp giữa quản lý rủi ro và kiểm tra sau thông quan. Tuy nhiên, hiện nay ngành Hải quan mới chỉ áp dụng thực hiện quản lý rủi ro đối lô hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong quá trình thông quan. Ngành hải quan cần tiếp tục xây dựng quy trình quản lý rủi ro áp dụng cho các đối tượng quản lý khác như phương tiện vận tải, hành khách xuất cảnh, nhập cảnh. Đồng thời, cũng phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro chính thức, và thống nhất trong việc lựa chọn đối tượng kiểm tra sau thông quan, và có sự kết hợp giữa việc thực hiện quản lý rủi ro trong thông quan và quản lý rủi ro trong kiểm tra sau thông quan về thông tin rủi ro, các kết quả phân tích, đánh giá rủi ro, kết quả xử lý rủi ro, thông tin phản hồi...Thực hiện quy trình quản lý rủi ro thống nhất, đồng bộ, đảm bảo sự gắn kết và hỗ trợ giữa các lĩnh vực nghiệp vụ hải quan là mục tiêu phải đạt được của ngành Hải quan. 3.3.4. Các giải pháp điều kiện 3.3.4.1. Bổ sung, hoàn thiện lý luận quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan Hệ thống lý luận hướng dẫn về phương pháp, quy trình, cách thức tổ chức thực hiện công tác quản lý rủi ro như đã trình bày trong Chương 1 Đề tài cần phải được thường xuyên bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn phát triển của của ngành Hải quan. Cần xác định rõ mục đích tiến hành công tác quản lý rủi ro là nhằm xác định ra các rủi ro tiềm ẩn trong lĩnh vực hải quan; xác định tính chất, mức độ, vai trò, vị trí của các đối tượng rủi ro; qua đó tạo thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ phù hợp với từng loại rủi ro và từng loại đối tượng cụ thể. Một là, bổ sung, hoàn thiện danh mục rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. Danh mục rủi ro cần đảm bảo xác định một cách đầy đủ, toàn diện cũng như việc định danh, định diện rủi ro một cách khoa học và hợp lý. Rủi ro trong danh mục cần được sắp xếp, phân loại theo các lĩnh vực rủi ro gắn với các hoạt động nghiệp vụ hải quan. Hai là, xây dựng, triển khai áp dụng có hiệu quả quy trình thực hiện quản lý rủi ro. Trước hết cần xác định đối tượng rủi ro và các thông tin liên quan đến đối tượng rủi ro là cơ sở cho việc nhận diện đối tượng rủi ro, cần làm rõ những đối tượng tiềm tàng mà đối tượng rủi ro có thể lợi dụng để vi phạm pháp luật hải quan. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng phương án, kế hoạch xử lý rủi ro cần hết sức lưu ý đến kỹ thuật xây dựng tình huống rủi ro và lựa chọn biện pháp xử lý rủi ro phù hợp, hiệu quả. Với từng loại rủi ro được đánh giá có thể được xử lý bằng nhiều biện pháp khác nhau như: cảnh báo rủi ro; kiểm tra chi tiết hồ sơ; biện pháp kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh; biện pháp kiểm tra sau thông quan... Ngoài ra, cần phải chú trọng việc thu thập thông tin phản hồi để phục vụ việc theo dõi đánh giá hiệu quả công tác quản lý rủi ro. Ba là, ban hành quy trình hướng dẫn thống nhất về trình tự, thủ tục mở và đăng ký một hồ sơ quản lý rủi ro, cách thức thể hiện các tài liệu trong hồ sơ. Xây dựng và ban hành biểu mẫu thống nhất trong toàn ngành về hồ sơ quản lý rủi ro. Trong đó hồ sơ quản lý rủi ro phải thực sự được coi trọng và quản lý theo chế độ hồ sơ nghiệp vụ. Thông tin trong hồ sơ quản lý rủi ro được quản lý theo chế độ mật. 3.3.4.2. Tăng cường sự phối hợp từ các đơn vị trong và ngoài ngành và hợp tác quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro Công tác quản lý rủi ro tạo cơ sở nền tảng cho các hoạt động nghiệp vụ hải quan, đồng thời để nâng cao hiệu quả của công tác này, cần sự phối hợp chặt chẽ từ các đơn vị trong và ngoài ngành và sự tham gia của từng công chức hải quan trong việc thu thập, cung cấp thông tin, phối hợp xử lý có hiệu quả đối với các rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. Một là, sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị quản lý rủi ro với đơn vị thu thập xử lý thông tin là điều kiện quan trọng đảm bảo hiệu quả của công tác quản lý rủi ro. Trong cơ cấu tổ chức, hoạt động hiện nay của ngành Hải quan hình thành hệ thống đơn vị TTXLTTNVHQ tồn tại và hoạt động song song với hệ thống đơn vị quản lý rủi ro tại cả ba cấp: Tổng cục, Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Chi cục Hải quan. Qua theo dõi thực tế cho thấy, mô hình này chưa thực sự hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả trong việc phối hợp giữa hai hệ thống đơn vị này, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của hệ thống các đơn vị TTXLTTNVHQ là tiến hành công tác thu thập, phân tích thông tin nghiệp vụ hải quan nhằm đáp ứng cho các yêu cầu chống buôn lậu và gian lận thương mại; Tăng cường trao đổi cung cấp thông tin giữa đơn vị TTXLTTNVHQ và đơn vị quản lý rủi ro Hai là, tăng cường sự phối hợp, hỗ trợ từ các hoạt động nghiệp vụ kiểm soát hải quan. Công tác quản lý rủi ro thường tập trung vào rà soát, phát hiện các đối tượng có dấu hiệu rủi ro, trong khi công tác kiểm soát đi sâu vào việc tìm ra những đối tượng đang “ẩn” dưới các hình thức hoạt động hợp pháp, “chấp hành tốt pháp luật hải quan” ... Việc phối hợp chặt chẽ giữa hai mặt công tác này có ý nghĩa quan trọng trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan. Ba là, tăng cường sự phối hợp, hỗ trợ từ các hoạt động kiểm tra trong và sau thông quan. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro, một trong những nhiệm vụ cần thực hiện trong thời gian tới đó là: tổ chức, kiện toàn hoạt động kiểm tra trong và sau thông quan dựa trên nền tảng quản lý rủi ro, trong đó chú trọng đến chất lượng công tác kiểm tra đảm bảo phản ánh đúng tình trạng rủi ro được đánh giá; kiên quyết loại trừ các hành vi tuỳ tiện, qua loa hoặc vì lợi ích cá nhân cố tình làm sai lệch kết quả kiểm tra. Đồng thời tổ chức tốt hệ thống cập nhật, thu thập thông tin phản hồi từ quá trình làm thủ tục hải quan và kiểm tra sau thông quan. Bốn là, chủ động thu thập thông tin liên quan rủi ro từ các đơn vị chức năng liên quan, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp trong việc xử lý đối với các rủi ro trong lĩnh vực hải quan. Các đơn vị chức năng thuộc các bộ ngành liên quan như: Công an, Biên phòng, Quản lý thị trường, Cảnh sát biển, cơ quan thuế có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp quản lý, kiểm tra, điều tra về hoạt động của các đối tượng có liên quan đến hoạt động hải quan. Đây là nguồn thông tin quan trọng giúp cơ quan hải quan cập nhật, bổ sung hồ sơ quản lý rủi ro. Ngành Hải quan cần có kế hoạch cụ thể, phân công phân cấp rõ ràng cho đơn vị quản lý rủi ro tại từng cấp trong việc phối hợp thực hiện cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin và phối hợp xử lý các nguy cơ vi phạm trên địa bàn. Đồng thời từng cấp đơn vị chủ động xây dựng quy chế phối hợp tạo hành lang cho việc triển khai có hiệu quả các mặt công tác trên. Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về trao đổi thông tin tình báo và hợp tác về quản lý rủi ro. Quá trình này cung cấp cho Hải quan Việt Nam những kiến thức, kinh nghiệm cùng với các thông tin cho việc tổ chức công tác quản lý rủi ro. Việc tăng cường hợp tác quốc tế giúp cơ quan hải quan cập nhật kịp thời thông tin về tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn ra trên thế giới và khu vực, đồng thời có điều kiện tiếp nhận các thông tin về các đối tượng buôn lậu tại Việt Nam hoặc có liên quan đến hoạt động thương mại tại Việt Nam. Các thông tin này có ý nghĩa quan trọng trong việc cập nhật, điều chỉnh, bổ sung hồ sơ quản lý rủi ro. Trong quá trình hợp tác quốc tế về quản lý rủi ro, Việt Nam với tư cách là thành viên tham gia các chương trình do các quốc gia trên thế giới hoặc khu vực đề xướng, như Chương trình hỗ trợ kiểm soát xuất khẩu và an ninh biên giới có liên quan (EXBS) do Mỹ đề xướng, Chương trình phục hồi thương mại do Singapore đề xướng. Ngoài ra, Việt Nam còn là đối tác trong các dự án do các quốc gia tài trợ về quản lý rủi ro, như: Dự án hỗ trợ về quản lý rủi ro các nước tiểu vùng sông Mê Kông (JICA), chương trình đào tạo ngắn ngày về quản lý rủi ro do Pháp, Trung Quốc tài trợ... Việc tham gia các dự án hoặc chương trình hợp tác nêu trên cung cấp, bổ sung kiến thức, kinh nghiệm cho Hải quan về hồ sơ quản lý rủi ro, qua đó giúp Việt Nam từng bước phát triển hoàn thiện công tác này. 3.3.4.3. Khắc phục những bất cập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động Tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành quản lý rủi ro được đánh giá là vấn đề bức xúc hiện nay, đặt ra yêu cầu cấp thiết cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành quản lý rủi ro theo định hướng hình thành hệ thống chuyên trách với đội ngũ cán bộ công chức được đào tạo chuyên sâu về quản lý rủi ro; phân công, phân cấp nhiệm vụ cụ thể tới từng cấp, đơn vị và cá nhân, đảm bảo trách nhiệm thực thi công việc; đồng thời, phát huy tối đa nội lực của các cấp, đơn vị và cá nhân này trong thực hiện quản lý rủi ro: Một là, kiện toàn đơn vị quản lý rủi ro tại cấp Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Chi cục Hải quan theo hướng chuyên trách, chuyên sâu về nghiệp vụ. Kiện toàn đơn vị chuyên trách về quản lý rủi ro, tách và chuyển giao các nhiệm vụ kiêm nhiệm cho các đơn vị chức năng khác (hoặc có thể thành lập riêng đơn vị đảm nhận các công việc này). Căn cứ vào khối lượng công việc, bố trí, sắp xếp số lượng công chức thực hiện quản lý rủi ro một cách phù hợp; lựa chọn những công chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ chuyên môn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Xây dựng và áp dụng quy chế luân chuyển cán bộ một cách phù hợp; đảm bảo bố trí sắp xếp cán bộ theo đúng đối tượng. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác đào tạo và bố trí cán bộ trên cơ sở một chiến lược chung của toàn ngành. Hai là, phân cấp nhiệm vụ và quy định cụ thể trách nhiệm của các cấp, đơn vị trong việc tổ chức thực hiện công tác quản lý rủi ro; trong đó tập trung phân quyền trách nhiệm cho đơn vị cấp Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Chi cục Hải quan trong việc tổ chức công tác quản lý rủi ro nhằm đảm bảo việc điều phối phân luồng kiểm tra trong phạm vi cấp Cục. Cấp Tổng cục chỉ thực hiện xây dựng các chương trình quản lý rủi ro phạm vi cấp nghành; hướng dẫn, kiểm tra các cấp đơn vị triển khai thực hiện; phân cấp áp dụng các tiêu chí rủi ro trên cơ sở mục tiêu quản lý của ngành về áp dụng tỷ lệ kiểm tra để làm rõ trách nhiệm đảm bảo số lượng tiêu chí áp dụng, cũng như đảm bảo tỷ lệ kiểm tra của từng cấp. 3.3.4.4. Thực hiện đánh giá hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro đúng chất lượng và thường xuyên Đánh giá hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro có vai trò rất quan trọng trong quy trình quản lý rủi ro. Chỉ có đánh giá đúng chất lượng, hiệu quả của hệ thống quản lý rủi ro và các yếu tố liên quan, chúng ta mới có thể xây dựng được một hệ thống quản lý rủi ro hoàn chỉnh và có hiệu quả. Để đáp ứng yêu cầu trên, cần thiết phải thiết lập hệ thống đảm bảo việc thu thập thông tin phản hồi và chuẩn hóa nội dung, tiêu chí đánh giá việc áp dụng quản lý rủi ro: Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin phản hồi. Cơ quan Hải quan phải đưa ra các quy định cụ thể về nội dung, trình tự và trách nhiệm trong việc phản hồi thông tin tại các khâu trong quy trình nghiệp vụ, nhằm thiết lập cơ chế mỗi cán bộ công chức đều phải thực hiện báo cáo phản hồi về kết quả thực hiện; đồng thời cũng phải quy định cụ thể về việc cập nhật, phản hồi kết quả kiểm tra sau thông quan và thực hiện nâng cấp các hệ thống theo hướng đáp ứng các yêu cầu mới. Thứ hai, thực hiện chuẩn hóa các chỉ số đánh giá hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro. Cơ quan Hải quan phải xây dựng danh mục chỉ số đánh giá cụ thể, có sự so sánh giữa các kỳ, nêu bật kết quả, hiệu quả thực hiện công tác quản lý rủi ro như số thu đạt được, số lượng và tỷ lệ phân luồng...Để nâng cao hiệu quả đánh giá cần xây dựng các biểu mẫu báo cáo, thống nhất đầu mối báo cáo trong hoạt động thu thập, xử lý thông tin quản lý rủi ro. 3.3.4.5. Tăng cường hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra hoạt động xây dựng, quản lý, áp dụng quản lý rủi ro Việc tăng cường hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá cần được chú ý cả về nhận thức lẫn công việc cụ thể: Thứ nhất, kiểm tra, theo dõi trên hệ thống quản lý rủi ro đây là hoạt động được tiến hành thường xuyên đối với cấp Tổng cục và cấp Cục. Nội dung kiểm tra bao gồm việc xác định số lượng các đối tượng rủi ro theo tiêu chí được cập nhật xử lý trên hệ thống; tính hợp lệ, tính phù hợp và phạm vi áp dụng của từng trường hợp cụ thể. Các thông tin được cập nhật, bổ sung trên hệ thống quản lý rủi ro. Thứ hai, kiểm tra, đánh giá trên hồ sơ, trên thống kê báo cáo phân tích. Nội dung kiểm tra bao gồm trình tự, thủ tục và điều kiện xác lập hồ sơ; quá trình đăng ký, theo dõi và quản lý hồ sơ; các biểu mẫu thực hiện; kết quả rà soát, phân tích, đánh giá đối với rủi ro và đối tượng rủi ro; phương án, kế hoạch xử lý rủi ro, tình huống rủi ro được xác lập có phù hợp với thông tin được thu thập, phân tích; quá trình cập nhật thông tin hồ sơ rủi ro. Thứ ba, kiểm tra kiến thức trình độ và cách thức thực hiện phân tích, đánh giá rủi ro, xây dựng phương án kế hoạch và tình huống rủi ro của công chức hải quan; kinh nghiệm xử lý các tình huống rủi ro đối chiếu với thực tế công tác quản lý rủi ro để đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu công tác quản lý rủi ro. Thứ tư, kiểm tra quá trình tiến hành xử lý rủi ro tại các đơn vị tác nghiệp, bao gồm các nội dung: kiểm tra kiến thức của công chức tác nghiệp về rủi ro và tình huống rủi ro; kiểm tra việc giải quyết thực tế các tình huống rủi ro; cách thức tiến hành; kiểm tra việc cập nhật thông tin sau khi xử lý tình huống rủi ro; ý thức trách nhiệm, kỹ năng của từng công chức trong việc thực hiện các hoạt động trên qua đó đánh giá mức độ đáp yêu cầu xử lý rủi ro. Thứ năm, tổ chức rút kinh nghiệm và khắc phục ngay những tồn tại, sau đó tổ chức kiểm tra đánh giá lại phần đã bổ khuyết. Việc tổ chức kiểm tra đánh giá không chỉ tập trung ở trọng điểm yếu kém mà còn ở cả các đơn vị tiên tiến, có nhiều thành tích trong công tác quản lý rủi ro để tổ chức học tập, rút kinh nghiệm, tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho các đơn vị còn yếu trong công tác quản lý rủi ro. 3.3.4.6. Coi trọng vai trò của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động hải quan trong công tác quản lý rủi ro. Những năm trước đây, ngành Hải quan chủ yếu chú tâm đến những rủi ro về tuân thủ trong các chương trình thực thi pháp luật. Các chiến lược can thiệp ứng phó truyền thống, ví dụ như kiểm tra toàn bộ, kiểm tra sau thông quan theo thông tin hoặc dấu hiệu vi phạm... Cách tiếp cận này không còn hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Nếu chỉ tập trung vào rủi ro, cơ quan Hải quan mới đạt được một mục tiêu đó là kiểm soát rủi ro. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần chú trọng nhiều hơn đến đến việc tìm hiểu những yếu tố tạo thành hành vi tuân thủ của tổ chức, cá nhân, bồi dưỡng sự tuân thủ đối với các quy định về pháp luật hải quan; đồng thời qua đó mở rộng quan hệ hợp tác trong việc trao đổi thông tin phục vụ quản lý rủi ro. Một số giải pháp về vấn đề này cần được thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro như sau: Một là, phân loại đối tượng để áp dụng chính sách quản lý rủi ro một cách phù hợp và có hiệu quả. Trong đó ngành Hải quan cần triển khai áp dụng cơ chế cam kết, tự nguyện tuân thủ, trong đó bao gồm một loạt các hoạt động được xúc tiến như: đơn giản hoá thủ tục hải quan dựa trên việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro; hỗ trợ cung cấp thông tin liên quan đến chính sách, quy trình thủ tục hải quan; cảnh báo rủi ro để doanh nghiệp tự nguyện chấm dứt tình trạng vi phạm hoặc chủ động khắc phục những nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật hải quan. Việc áp dụng các biện pháp này được thực hiện chủ yếu đối với các tổ chức cá nhân mới tham gia hoạt động hải quan hoặc do những hạn chế về trình độ, năng lực tham gia hoạt động hải quan dẫn đến những vi phạm nhưng không nghiêm trọng. Việc áp dụng các biện pháp này tiết kiệm rất lớn về nguồn lực trong việc thực hiện các biện pháp kiểm tra kiểm soát, trong khi có thể đem lại những hiệu quả rất lớn. Hai là, áp dụng một cách hiệu quả những biện pháp kiểm tra, kiểm soát phù hợp và kịp thời phát hiện xử phạt đối với những trường hợp vi phạm. Đối với những tổ chức, cá nhân cố ý không tuân thủ hoặc đã được thông báo nhưng vẫn còn tình trạng vi phạm kéo dài cần áp dụng những biện pháp kiểm tra, kiểm soát một cách phù hợp; thậm chí cần áp dụng biện pháp kiểm tra hàng hoá, phương tiện trong thông quan trong một thời gian nhất định để ngăn chặn, bắt buộc tổ chức, cá nhân phải tuân thủ pháp luật hải quan. Ba là, tăng cường quan hệ hợp tác với doanh nghiệp trong việc trao đổi cung cấp thông tin phục vụ phân tích, đánh giá rủi ro. Quá trình này cần được thực hiện dựa trên một có chế thống nhất, bao gồm việc ký kết các thoả thuận, cam kết trong việc: doanh nghiệp trao đổi cung cấp thông tin về hàng hoá, trị giá hàng hoá giao dịch trong từng thời điểm, các phương thức, thủ đoạn gian lận về thuế, vi phạm sở hữu trí tuệ… Đổi lại, cơ quan hải quan cung cấp các thông tin cần thiết liên quan đến chính sách hàng hoá, chính sách thuế, và cung cấp các điều kiện tạo thuận lợi trong quá trình làm thủ tục hải quan. 3.3.4.7. Đảm bảo đáp ứng các điều kiện cơ sở hạ tầng, vật chất, tài chính và các điều kiện đảm bảo phục vụ công tác quản lý rủi ro của ngành Hải quan. Cơ sở hạ tầng, vật chất, tài chính là những điều kiện cần thiết đảm bảo tổ chức thành công công tác quản lý rủi ro trong bối cảnh hiện nay. Một là, nâng cấp phát triển hạ tầng công nghệ thông tin cùng với việc xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ, đảm bảo việc xử lý dữ liệu tập trung và vận hành trên hạ tầng công nghệ thông tin hoàn chỉnh; đảm bảo việc truyền nhận, trao đổi, cung cấp thông tin thông suốt, kịp thời từ Tổng cục đến các Cục Hải quan tỉnh, thành phố và các Chi cục Hải quan trong phạm vi toàn quốc; đảm bảo an ninh, an toàn dữ liệu hệ thống. Hai là, nâng cấp hệ thống thông tin quản lý rủi ro, đáp ứng yêu cầu áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. Trong đó, hệ thống cần đảm bảo việc cập nhật, quản lý, lưu trữ, khai thác sử dụng hồ sơ quản lý rủi ro trong phạm vi toàn ngành; là nguồn dữ liệu quan trong phục vụ cho việc đánh giá rủi ro trong các lĩnh vực nghiệp vụ hải quan. Ba là, nâng cấp một số cơ sở dữ liệu đáp ứng yêu cầu quản lý rủi ro như cơ sở dữ liệu quản lý tờ khai, quản lý vi phạm, khai báo thuế và trị giá, cơ sở dữ liệu tiếp nhận và xử lý thông tin do các Bộ, ban ngành khác chuyển giao…Hiện nay, các cơ sở dữ liệu này còn thiếu, cập nhật không liên tục, cũng như không có sự kết nối trực tiếp làm cho kho dữ liệu phục vụ việc phân tích thông tin, đánh giá, đo lường rủi ro còn nhiều hạn chế. Bốn là, cung cấp đầy đủ hệ thống hồ sơ, biểu mẫu phục vụ công tác quản lý rủi ro cùng với các công cụ, phương tiện thiết yếu khác như mạng máy tính, hệ thống mã hoá, điều kiện nhà cửa, văn phòng phục vụ việc quản lý, lưu trữ hồ sơ quản lý rủi ro. Ngoài ra, cần thực hiện việc hoàn thiện cơ sở pháp lý phục vụ quản lý rủi ro. áp dụng quản lý rủi ro đồng nghĩa với việc chuyển đổi phương thức quản lý, đi kèm với nó là việc thay đổi khung pháp lý, điều kiện đảm bảo cho việc triển khai áp dụng phương pháp này. Do đó, cơ sở pháp lý phải quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, ngành Hải quan, cán bộ công chức Hải quan và cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực hiện quản lý rủi ro; pháp lý hóa dữ liệu đánh giá phân loại rủi ro phục vụ cho công tác phân luồng; thực hiện ưu tiên và có các ưu đãi thích hợp cho những đối tượng tuân thủ. KẾT LUẬN Trước sự đòi hỏi của tình hình thực tiễn áp dụng quản lý rủi ro, công tác quản lý rủi ro hiện nay một mặt phải được tiến hành trên một phạm vi rộng, mặt khác phải tổ chức theo hướng chuyên sâu nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động kiểm tra, kiểm soát hải quan. Công tác quản lý rủi ro là một hoạt động nghiệp vụ cơ bản có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nghiệp vụ hải quan hiện nay. Việc nhận thức đúng và khai thác có hiệu quả công tác nghiệp vụ này sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát nói chung, áp dụng quản lý rủi ro nói riêng. Đề tài đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác quản lý rủi ro, dựa trên hướng dẫn Tổ chức Hải quan, kết hợp với kiến thức, kinh nghiệm của Hải quan một số nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực; phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý rủi ro hiện nay của Hải quan Việt Nam; phân tích và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro trên cơ sở phù hợp với điều kiện đặc thù của Hải quan Việt Nam. Với kết quả nghiên cứu, cùng với những giải pháp, kiến nghị được đưa ra, tác giả hy vọng sẽ cung cấp, bổ sung kiến thức và hỗ trợ định hướng phát triển công tác quản lý rủi ro; đóng góp cho sự thành công của chương trình quản lý rủi ro nói riêng cũng như chương trình cải cách, phát triển, hiện đại hoá ngành Hải quan. Xin chân thành cảm ơn PGS. Nguyễn Thị Liên đã tận tình hướng dẫn để tác giả có thể hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam.doc
Luận văn liên quan