Đề tài Quản trị rủi ro pháp lý ngành dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào EU

Đây là một loạt bài tiểu luận nhóm của lớp mình môn Quản trị rủi ro . Chúc bạn thu được những kiến thức bổ ích. File word - 34 trang THỰC TRẠNG Quan hệ thương mại Việt Nam – EU không ngừng phát triển cùng với tiến trình hợp tác của phía EU và đà lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam do chính sách” Đổi mới” mang lại. Hiện nay EU là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Quy mô thương mại ngày càng được mở rộng. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU phát triển mạnh và có nhiều triển vọng.Việt Nam có 15 thị trường xuất khẩu trong khối EU kể từ năm 1995, khi EU mở rộng thành 15 nước thì tất cả 15 nước thành viên đều có mối quan hệ buôn bán với Việt Nam tuy ở mức độ khác nhau.

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5074 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị rủi ro pháp lý ngành dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất cả các sản phẩm trên thị trường trừ phi có những luật định Châu Âu khác đã được áp dụng để khống chế an toàn cho sản phẩm có liên quan.  Anh đã ban hành luật về an toàn cho sản phẩm đồ mặc ngủ. Luật của Anh liên quan đến hóa chất có trong vải chống cháy sử dụng trong may mặc: Anh đã ban hành luật của EU liên quan đến hóa chất có trong vải chống cháy sử dụng trong may mặc bao gồm những chất sau: Tri-(2,3,-dibromopropyl)-phosphate (TRIS), Tris-(aziridinyl)-phosphineoxide (TEPA) và Polybromobiphenyles (PBB). Sử dụng kim loại Nikel trong trang trí sản phẩm may mặc: Anh đã ban hành luật về giới hạn lượng nikel được sử dụng trong sản phẩm có tiếp xúc trực tiếp với da (những dụng cụ nhọn như hoa tai và những sản phẩm có tiếp xúc trực tiếp với da khác).  Luật của Anh: liên quan đến vật liệu gỗ dùng để đóng gói (những sinh vật có hại như vi khuẩn, côn trùng, ve, nấm...): Luật của Anh về việc giảm tác động của các chất thải từ đóng gói: Anh đã ban hành chỉ thị 94/62/EC về việc đóng gói và chất thải đóng gói ở cấp độ quốc gia. Khía cạnh quan trọng nhất của luật này đối với các nhà sản xuất ở các nước không thuộc khối EU là việc không được sử dụng vật liệu đóng gói có hàm lượng kim loại nặng.   Đóng gói, nhãn hiệu và ghi nhãn Cần phải quan tâm đến bao bì đóng gói sản phẩm khi xuất khẩu sang EU. Các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ vấn đề bao bì để bảo vệ hàng hoá trong quá trình vận chuyển qua nhiều quốc gia. Các sản phẩm phải được bảo vệ chống lại thời tiết, những thay đổi nhiệt độ, xử lý không cẩn thận và ăn cắp. Một số nhà nhập khẩu có những nhu cầu đặc biệt liên quan đến bao bì. Vì những lý do về môi trường, bao bì đóng gói từ những vật liệu như PVC… ít thông dụng đối với người tiêu dùng và trong vài trường hợp, chính phủ có thể cấm sử dụng loại vật liệu này. Các nhà xuất khẩu từ những quốc gia đang phát triển cần phải thảo luận về vấn đề này với các khách hàng tiềm năng của mình và nên dự trù trước các chi phí đóng gói đặc biệt trong giá bán sỉ nếu được yêu cầu.  Kích thước sử dụng để ghi : 3 số đo cơ bản là  chiều dài, vòng ngực, vòng hông.  Ghi nhãn: Việc ghi nhãn phải đảm bảo thông tin cho người tiêu dùng về tương lai và sản phẩm thực sự mua được. Thông tin cung cấp được ghi trên nhãn từ thành phần sợi vải chính tạo nên sản phẩm cho đến thông tin an toàn tiêu dùng. Thông thường có 2  phương pháp ghi: - Các yêu cầu bắt buộc như xuất xứ, thành phần sợi, khả năng cháy; - Các yêu cầu tự nguyện như nhãn hiệu quan tâm/hướng dẫn giặt tẩy và kích cỡ của nhãn. Chương trình nhãn hiệu quan tâm tự nguyện được sử dụng trên nhiều quốc gia tại EU. Chương trình sử dụng 5 loại biểu tượng là mã mầu; các biểu tượng liên quan đến tính bền vững của mầu sắc, ổn định về kích cỡ, ảnh hưởng của cloren (trong chất tẩy), nhiệt độ ủi an toàn nhất và một vài đặc tính khác. Các nhãn sinh thái - Ecolabel Nhu cầu cho các sản phẩm mang tính môi trường ngày càng tăng, đặc biệt trong lãnh vực hàng tiêu dùng; người tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm dễ dàng được nhận diện và được gắn nhãn theo sự khuyến khích của luật pháp. Những dấu xác nhận tiêu chuẩn cho sản phẩm mang tính môi trường thường được biết đến như một nhãn sinh thái. Những dấu xác nhận chỉ ra rằng sản phẩm ít ảnh hưởng đến môi trường so với các sản phẩm tương tự. Các nhãn sinh thái mang tính chất tự nguyện tuy nhiên có thể cho rằng đây là một công cụ cạnh tranh mạnh. 4 nhãn hiệu quan trọng tại EU được áp dụng cho các sản phẩm may mặc thông thường là EU Ecolabel, nhãn OKO-Tex, SKAL EKO và nhãn SG 2.4.2. Những quy tắc RoO hiện hành của Ủy ban châu Âu đối với ngành dệt may: (Những quy tắc xuất xứ của ngành dệt may) Kể từ khi RoO Châu Âu phân biệt RoO ở cấp độ sản phẩm hay ngành không có sự khác biệt nào đối với ngành dệt may theo chương 50 - 63. Mỗi chương bắt buộc phải tuân theo quy tắc RoO. RoO Châu Âu cho ngành này điển hình sử dụng phương pháp SP, áp đặt một yêu cầu xử lý cụ thể đối với người sản xuất, một số mặt hàng được cấp cho một lựa chọn thay thế những yêu cầu của RoO. Như ví dụ minh họa dưới đây, vải dệt phải được sản xuất trong nước từ sợi, chỉ hay một loại tương đương có đủ tiêu chuẩn bằng việc hoàn tất những yêu cầu xử lý trong nước nhất định giúp tạo thêm giá trị cho nguyên liệu thô được sử dụng miễn là giá trị của sợi chưa in được sử dụng không vượt quá 47.5% giá sản phẩm cũ. Ví dụ dưới đây minh họa cho RoO trong thế giới thực như được sử dụng cho các hiệp định của Ủy ban châu Âu. Theo ví dụ, những nguyên liệu thô cụ thể không cần xuất xứ nội địa nhưng có thể được đưa về nước xuất xứ tại bất cứ đâu trên thế giới. Qúa trình xử lý thêm nữa theo mỗi kế hoạch cần hỏi ý kiến của nước xuất xứ. Hơn nữa các quy tắc này chỉ được áp dụng cho những hàng hóa và nguyên liệu phi gốc. Khi đưa ra những quy tắc này, người sản xuất và xuất khẩu chỉ cần áp dụng các luật đối với phần sản phẩm phi gốc đó và nhớ rằng các điều khoản về độ sai biệt giá trị có thể vẫn gây mất thời gian cho các nhà xuất khẩu. Ví dụ 10% hay 15% quy tắc về độ sai biệt giá trị (2 ngưỡng phổ biến nhất tại các hiệp định châu Âu) cho phép các nhà sản xuất may mặc sử dụng sợi phi gốc ở một ngưỡng cho phép, thường dựa trên giá cả sản phẩm cũ. Trong khi ví dụ dưới đây được xem xét như một minh họa cho RoO GSP của châu Âu, những yêu cầu tương tự có thể được tìm thấy ở hầu hết các hiệp định thương mại châu Âu được ưu tiên khác. 2.4.3. Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 Tổng quan về SA 8000. Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 (Social Acountability 8000) được đưa ra lần đầu tiên vào tháng 10/1997 do Tổ chức Quốc tế về Trách nhiệm xã hội (Social Acountability International - SAI) xây dựng và ban hành dựa trên nền tảng các công ước và khuyến nghị của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) cũng như các công ước về quyền con người. Ngày 123/12/2001, SAI đã công bố phiên bản mới của SA 8000 (SA8000:2001) để thay thế SA 8000: 1997. Những điểm chính của SA 8000 là: Không sử dụng lao động trẻ em; không cưỡng bức lao động; đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh an toàn lao động; đảm bảo quyền tự do công đoàn, thoả ước tập thể; không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc,thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, không được áp dụng các hình phạt về thể xác, lạm dụng lời nói; đảm bảo thời gian làm việc không quá 60giờ/tuần, trong đó, giờ làm thêm là tự nguyện, trong chu kỳ 7 ngày, người lao động được nghỉ trọn một ngày; đảm bảo tiền lương thu nhập, không áp dụng kỷ luật bằng cách cúp lương; có hệ thống quản lý, hình thành cơ chế thực thi kiểm soát sự đáp ứng các đòi hỏi trong suốt quá trình. Tình hình thực hiện SA 8000 ở Việt Nam.  Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có 551 đơn vị đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000, 21 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 140000, nhưng mới chỉ có rất ít doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý trách nhiệm xã hội và điều kiện lao động SA 8000. Đây là một thực trạng đáng lo ngại, vì hiện tiêu chuẩn SA 8000 là một trong 3 tiêu chuẩn (ISO 9000, ISO 140000 và SA 8000) được xem là bắt buộc để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá (đặc biệt là hàng dệt - may) sang thị trường Mỹ và Châu Âu. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam có chính sách với người lao động tốt hơn so với yêu cầu của SA 8000. Thu nhập của người lao động tại nhiều doanh nghiệp còn cao hơn mức tối thiểu không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khu vực. Nhưng hiện tại, số doanh nghiệp Việt Nam được chứng nhận đạt SA 8000 chỉ đếm được trên đầu ngón tay. E Những khó khăn chủ yếu trong việc áp dụng SA 8000 tại Việt Nam hiện nay là: - Nhận thức của doanh nghiệp về SA 8000. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam đều nhìn nhận SA 8000 như một vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu tạo cắt giảm chi phí để tăng lợi nhuận, không phù hợp với mục tiêu kinh doanh. - Các doanh nghiệp không muốn tiết lộ các ghi chép tài chính, đặc biệt trong các doanh nghiệp tư nhân. - Không có khả năng chi trả chi phí áp dụng SA 8000 (chi phí đánh giá, chi phí thực hiện những thay đổi để áp dụng SA 8000). Nhiều công ty muốn được giám định công khai, nhưng không đủ chi phí cho việc giám định. - Sự cách biệt văn hoá giữa khách hàng và nhà cung cấp. Do các quy định đạo đức của từng công ty thường được các công ty đa quốc gia áp đặt một chiều đối với các đơn vị gia công, nên nội dung thực hiện của các tiêu chuẩn không phản ánh được nhu cầu và giá trị địa phương. Việc này sẽ dẫn đến những khó khăn trong áp dụng SA 8000. - SA 8000 là mục tiêu ít được ưu tiên, đặc biệt trong những thời điểm kinh tế suy thoái. Ngay cả khi hệ thống SA 8000 hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn về lâu dài, nhưng nhiều công ty vẫn không muốn đầu tư phục vụ nhu cầu trước mắt để thực hiện SA 8000. - Thực tế của hoạt động gia công gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định khối lượng công việc giám sát. Các công ty đa quốc gia sẽ đòi hỏi tất cả các nhà cung cấp và đơn vị gia công thực hiện tiêu chuẩn SA 8000. Nhưng bản chất của hoạt động gia công đảm đương phần lớn công đoạn sản xuất khác nhau tại các doanh nghiệp độc lập, làm cho việc giám sát các hoạt động của doanh nghiệp và đòi hỏi các đơn vị gia công áp dụng SA 8000 trở nên khó khăn. Nhận xét: Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều thử thách trong việc tìm kiếm và thực hiện những chính sách phát triển, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập khu vực và tiến tới hội nhập toàn cầu. Một trong những phương thức hữu hiệu luôn được các nhà sản xuất và người bán lẻ áp dụng và ghi nhớ là chú trọng bảo vệ uy tín và giá trị của các thương hiệu nhằm giữ vững thế cạnh tranh. Trên các thị trường lớn như Mỹ, Canađa và EU, người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến giá cả, chất lượng, mẫu mã, bao bì... mà ngày càng quan tâm hơn đến điều kiện làm việc của công nhân tạo ra các sản phẩm này và luôn bị lôi kéo vào các chiến dịch quảng cáo, nhằm bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Do vậy, SA 8000 được xem là tiêu chuẩn “khẳng định giá trị đạo đức” của sản phẩm mà doanh nghiệp Việt Nam cần thiết phải trang bị cho “hành trang” hội nhập của mình. 2.5. Kết luận rút ra từ nghiên cứu thị trường hàng dệt may EU: 2.5.1 Điểm mạnh: Ø      EU là thị trường lớn về nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Ø      Năng lực sản xuất của ngành rất lớn: nhiều doanh nghiệp đã xuất khẩu thành công vào các thị trường lớn mang tính cạnh tranh cao của thế giới, trong đó có EU. Ø      Trong 3 năm qua, nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế đầu tư đổi mới công nghệ trang thiết bị của ngành. Ø      Nhiều doanh nghiệp ngành dệt sản xuất phụ kiện, tăng cường đầu tư, đáp ứng một phần nhu cầu cung cấp nguyên liệu cho ngành. Ø      Nhân công rẻ, người lao động cần cù khéo léo cũng là thế mạnh của ngành. 2.5..2 Điểm yếu: Ø      Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU chủ yếu vẫn dưới dạng gia công (70% kim ngạch), hiệu quả thấp, bị động trong xuất khẩu. Các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam vẫn chưa sản xuất được, hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ. Vì thế mà lợi nhuận Việt Nam thu về thường rất nhỏ. Ø      Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu sang EU vẫn chiếm tỷ trọng cao (80%) ảnh hưởng đến giá thành và tính ổn định của sản xuất. Ø Ngành dệt vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên phụ liệu cho ngành may. Ø      Năng suất lao động của ngành may còn thấp so với các nước trong khu vực. Ø      Các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm dệt may nổi tiếng trên thị trường EU. Ø      Công nghệ thiết kế thời trang chưa được quan tâm thỏa đáng. Ø      Phân bổ hạn ngạch bất hợp lý làm hạn chế khả năng xuất khẩu sang EU và làm giá thành sản phẩm may mặc của một số doanh nghiệp tăng lên (chi phí cho chạy quota) GIẢI PHÁP 3.1. Giải pháp trong quá khứ, hiện tại, tương lai: 3.1.1 Giải pháp trong quá khứ: - Giải pháp cho từng loại thị trường: Giải pháp đầu tiên ta đã thực hiện là đánh giá lại nhu cầu về hàng dệt may Việt Nam tại các thị trường thông qua việc thiết lập hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ và các thị trường tiềm năng khác như Trung Đông, châu Phi. Để làm được việc này, Hiệp hội Dệt may, Tổng công ty Dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp trong ngành đã tự mình đưa ra các cơ chế nhằm khai thác các kênh thương mại khác nhau hiện đang có mặt trên thị trường đó. Những kênh thương mại phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần phải thiết lập nhiều đầu mối tại một thị trường. Đồng thời, chú trọng thiết lập nhiều đầu mối trên sân nhà của mình. Đặc biệt, sử dụng các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn cho hoạt động xuất khẩu. Việc đánh giá nhu cầu của thị trường nhằm mục đích nhận định xem các nhu cầu này có ăn khớp với năng lực sản xuất của ngành hay không, bởi sự cân đối giữa cầu và cung sẽ cho phép ngành đạt mức khu biệt hớp sản phẩm (product differentiation) cao nhất so với các đối thủ cạnh tranh. +Đối với các thị trường hạn ngạch: Việt Nam đề xuất những biện pháp làm cho việc thực hiện hạn ngạch của các doanh nghiệp dệt may được thuận lợi. Ví dụ, việc phân bổ hạn ngạch hợp lý, giảm bớt các loại phí hạn ngạch, tăng cường việc cấp giấy phép xuất khẩu tự động cho các doanh nghiệp, cần xúc tiến các cuộc đàm phán, thương thuyết thương mại, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước thuộc những thị trường có hạn ngạch này để họ gia tăng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng phi hạn ngạch khác. Trong đó: Với thị trường EU, các doanh nghiệp tăng cường phát huy tính chuyên môn hóa trong sản xuất là những mặt hàng có sức cạnh tranh khá lớn như: các loại gối, vỏ chăn và đồ jean, áp dụng công thức nhà sản xuất Việt Nam + nhà bán lẻ châu Âu, thay vì nhà sản xuất Việt Nam + nhà sản xuất châu Âu nhằm giảm bớt khâu trung gian, tăng cường nhận thức hơn nữa về thị trường này. Đồng thời, phải tìm cách sử dụng được một cách tối đa lực lượng người Việt Nam ở EU để họ làm đầu mối cho mình. Ở giai đoạn 2005, tại 15 nước thành viên EU cũ đã có khoảng chừng 70.000 người Việt Nam làm thương mại tại đây; EU đã mở rộng thành 25 nước thành viên, tạo ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, cần đưa hàng Việt Nam vào các chợ đầu mối, các hệ thống bán lẻ của người Việt Nam tại Ba Lan, Séc, Hungary... thay vì từ trước tới nay chợ của người Việt Nam lại lấy hàng Trung Quốc để bán. Ngoài ra, các công ty ở Việt Nam còn liên kết với các công ty khai thác thị trường của nước ngoài để tạo được sự hợp tác thương mại hai bên cùng có lợi. + Đối với thị trường phi hạn ngạch: Ngành dệt may Việt Nam cần phải nâng cao chất lượng, nhưng không chỉ đơn thuần hiểu là chất lượng sản phẩm, mà cần phải hiểu theo một nghĩa bao quát hơn là chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ đi kèm, giá, yếu tố con người, các yếu tố đạo đức mà khách hàng quan tâm, hình ảnh đất nước, hình ảnh công ty bán hàng. Cụ thể, đối với thị trường Nhật Bản, các mặt hàng dệt kim, khăn bông, các loại quần ka ki và áo sơ mi Việt Nam là những mặt hàng có sức cạnh tranh khá lớn. Như vậy, theo phân tích ở trên, trong các thông tin cần tìm hiểu, các doanh nghiệp dệt may cần chú trọng tới chi phí phức vụ khách hàng. Điều này không chỉ liên quan đến việc lựa chọn thị trường có chi phí phục vụ thấp, mà còn liên quan đến thông nỗ lực giảm các chi phí này như thế nào. Chi phí phục vụ khách hàng trên một sản phẩm có thể thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố như: khối lượng đặt hàng trực tiếp so với bán qua kênh phân phối, thời hạn giao hàng và tính sẵn sàng của luồng đặt hàng cho mục đích kế hoạch và cung ứng, chi phí vận chuyển, chi phí bán hàng, yêu cầu riêng của khách hàng hoặc yêu cầu sửa đổi lại sản phẩm. Những chi phí này dễ bị việc phân bổ chi phí cố định che lấp hoặc chúng có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm. - Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại hơn nữa, tận dụng các thông tin từ các cơ quan đại diện, tận dụng tính linh hoạt và hiệu quả của các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài. Tất cả nhằm tạo dựng uy tín cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đồng thời, khai thông con đường buôn bán trực tiếp với các bạn hàng quốc tế. - Việc kết hợp giữa các doanh nghiệp của chúng ta có nhu cầu xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp của chúng ta có nhu cầu nhập khẩu trên cùng một khu vực thị trường nên là một vấn đề được ưu tiên, vì không phải ở mọi nước trên thế giới, những vấn đề thanh toán đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đều được thực hiện dễ dàng. Do đó, việc đổi hàng hay việc thực hiện mậu dịch tam giác có thể giúp các sản phẩm của chúng ta thâm nhập được thị trường. - Các biện pháp đẩy mạnh cạnh tranh lành mạnh: ngành dệt may Việt Nam là một ngành kinh tế nhiều thành phần, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (100% vốn và liên doanh), các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần, công ty tư nhân, các tổ hợp, các hợp tác xã. Để đẩy mạnh cạnh tranh lành mạnh, ngành dệt may cần tăng cường khả năng phối hợp đầy đủ và đồng bộ giữa các đơn vị thành viên trong Tổng công ty Dệt may Việt Nam, xóa bỏ sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp cùng phát triển và đổi mới các qui chế để hấp dẫn đầu tư nước ngoài, tạo nên môi trường cạnh tranh phong phú và đa dạng. Nhờ đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm sản xuất, quản lý, cũng như thực hiện chuyển giao công nghệ với đối tác nước ngoài. -Để phát triển ngành Dệt May, Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu tư; trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý. Đồng thời, xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt May có đủ điều kiện hạ tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và lao động có khả năng đào tạo. 3.1.2 Giải pháp trong hiện tại: - Để nâng cao khả năng cạnh tranh khi hội nhập quốc tế, mỗi doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình những hiểu biết về luật pháp quốc tế. Đó là những vấn đề như các hoá chất cấm, tiêu chuẩn lao động, môi trường... và sẽ còn nhiều hạn chế khác mà do không nắm bắt kịp thời sẽ dẫn đến thiệt hại và làm giảm sút tính cạnh tranh. Ngoài ra cần thay đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng gia tăng các sản phẩm trung và cao cấp. - Căn cứ vào những hạn chế áp đặt lên các nhà sản xuất, các doanh nghiệp phải sản xuất các sản phẩm theo cách hợp lý nhất về chi phí và năng suất để giữ vững cơ hội cạnh tranh trên trường quốc tế tại các thị trường xuất khẩu mang tính cạnh tranh như Châu Âu và Mỹ. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có các quy tắc (RoO) cho phép họ biết được xuất xứ các sản phẩm nhập của họ từ các khách hàng cạnh tranh nhất có thể. Đối với một số nhà sản xuất giữ vững cơ hội cạnh tranh quốc tế thì RoO đối với các thị trường xuất khẩu phải được chú trọng, không hạn chế quyết định kinh doanh của họ và phù hợp với những thực tế thương mại họ phải đối mặt. - Phân tích xu hướng tiêu dùng trong tương lai của khách hàng, giúp nhận thức cơ hội cho ngành dệt may để tổ chức sản xuất hiệu quả hơn. Đặc biệt, các doanh nghiệp nên nhận thức rằng, thái độ thân thiện hơn với môi trường sẽ chi phối hành vi mua sắm trong tương lai của khách hàng, đặc biệt khách hàng của những nước phát triển, khiến họ ưa thích sản phẩm may mặc làm từ chất liệu thiên nhiên như lụa, vải lanh, sợi bông... Do đó, các doanh nghiệp nên triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm; xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái Dệt May và Trung tâm phát triển các mặt hàng vải. - Tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt đầu tư vào thị trường Campuchia, để tận dụng lợi thế thị trường rộng lớn của một quốc gia thành viên WTO gần gũi về địa lý với Việt Nam, có nguồn nhân công dồi dào và rẻ, để tránh tình trạng bị động về thị trường trong trường hợp Việt Nam chưa gia nhập tổ chức WTO vào năm 2005. - Các cơ quan quản lý Nhà cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện chính sách chung nhằm hạn chế tối đa thiệt hại từ các rủi ro pháp lý liên quan đến thương mại dệt may. Cụ thể cần tiếp tục chủ trương đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa chủng loại mặt hàng xuất khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền, phổ biến cho cộng đồng doanh nghiệp kiến thức pháp lý liên quan đến xuất khẩu của các đối tác nhập khẩu lớn, các thông tin giá cả thị trường, đối thủ cạnh cạnh…có cơ chế theo dõi xuất khẩu, khuyến khích doanh nghiệp tiếp nhận các đơn hàng có đơn giá xuất khẩu cao, giá trị gia tăng, hạn chế các đơn hàng có giá trị xuất khẩu thấp. - Các bộ, ngành liên quan cần phối hợp xây dựng cơ chế cảnh báo sớm và phối hợp xử lý các rủi ro pháp lý về tranh chấp thương mại quốc tế. Xây dựng ban hành chuẩn mực quốc gia về nước thải ngành dệt nhuộm với những chỉ tiêu ô nhiễm phù hợp, khả thi. - Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh vào các cụm Công nghiệp Dệt may theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt - nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30% lên 60%, giảm dần tỷ lệ hàng gia công; Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng sản xuất tại các địa phương có tiềm năng, có nguồn nhân lực dồi dào; phối hợp liên doanh - liên kết và giúp đỡ các địa phương phát triển ngành dệt may và cùng thực hiện các đơn hàng lớn; hỗ trợ các doanh nghiệp may địa phương đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có tiềm năng khác. - Thực hiện chuyên môn hoá các sản phẩm và xác định quy mô sản xuất của các doanh nghiệp lớn theo mô hình “công ty mẹ, công ty con” đủ mạnh về tài chính, công nghệ, khả năng điều hành nhằm đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa dạng hoá (sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật liệu thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ, ứng dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao động và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. - Bên cạnh những nỗ lực của doanh nghiệp thf Hiệp hội Dệt may sẽ nỗ lực hơn trong các hoạt động như: thường xuyên cập nhật tình hình thị trường, xúc tiến thành lập trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư sản xuất vải và nguyên phụ liệu tại chỗ... 3.1.3 Giải pháp cho tương lai: - Giải pháp để vượt qua các rào cản kĩ thuật: Ngành Dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ thuật mới trong việc bảo vệ môi trường cho người tiêu. Ví dụ theo đạo luật của Mỹ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, các lô hàng xuất khẩu vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ 3 xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng dùng. Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng. Theo rào cản kỹ thuật này, Việt Nam phải có phòng thí nghiệm hiện đại đủ tiêu chuẩn để được phía Mỹ công nhận và cấp giấy chứng nhận. Bên cạnh đó phải tiếp tục tăng tỷ lệ sản xuất nguyên vật liệu trong nước, giảm nhập siêu. Tuy đây mới chỉ là vấn đề gặp phải ở tị trường Mỹ nhưng những tiêu chuẩn kỹ thuật của các thị trường xuất khẩu của ngành dệt may ngày càng cao hơn, đặc biệt là ở EU, do đó ngành dệt may Việt Nam phải sớm nâng năng lực làm hàng chất lượng cao, nếu không sẽ khó cạnh tranh được với các đối tác khác đến từ các nước Châu Á. Áp lực này khiến ngành Dệt may phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời đầu tư nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. Được biết, theo Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt May thống kê, phần lớn các thiết bị nghiên cứu, thử nghiệm chất lượng hàng dệt may được đầu tư từ những năm 90, nay đã cũ và lạc hậu. - Giải pháp về môi trường: Ngành dệt may còn cần phải quan tâm đến việc bảo vệ môi trường nơi sản xuất, xây dựng thêm các khu công nghiệp dệt nhuộm có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn tại một số địa phương như Thái Bình, Nghệ An, Trà Vinh... Ðồng thời xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái tại Viện dệt may, làm cơ sở cấp chứng chỉ an toàn cho hàng xuất khẩu và kiểm tra các loại hàng hóa, bảo đảm an toàn cho người sử dụng tại Việt Nam cũng như tại các thị trường nhập khẩu. Ngoài ra là việc xây dựng và quản lý các tiêu chuẩn an toàn sản phẩm và các hàng rào kỹ thuật cần thiết, nhằm bảo vệ người tiêu dùng và thị trường trong nước. Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành dệt may theo hướng thân thiện với môi trường kết hợp với tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường.    3.2.Các giải pháp theo phạm vi giới hạn (khuôn khổ WTO): Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động thương mại của doanh nghiệp Việt Nam sẽ được áp dụng các nguyên tắc pháp lý chung như nguyên tắc Tối huệ quốc (hàng hóa được đối xử bình đẳng với hàng hóa từ các nước xuất khẩu khác), đối xử quốc gia (hàng hóa được đối xử bình đẳng với hàng hóa nội địa nước nhập khẩu), Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các quy tắc xương sống của WTO này đều có ngoại lệ (vì mục tiêu an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường…). Do đó, doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến những biện pháp áp dụng quyền ngoại lệ này của các quốc gia khi xuất khẩu hàng hóa. 3.2.1 Những rủi ro pháp lý “hữu hình”: 3.2.1.1 Các hàng rào kỹ thuật (TBT): E Các biện pháp hạn chế rủi ro: - Tập hợp thông tin về các tiêu chuẩn kỹ thuật và biện pháp kiểm dịch của nước nhập khẩu (để biết trước các điều kiện đối với hàng hóa trước khi xuất khẩu). - Thiết lập hệ thống chất lượng ổn định (để đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn ngay trong quá trình sản xuất sản phẩm). - Hiểu biết đầy đủ về các hạn chế của WTO đối với quyền quyết định các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ của các quốc gia để tự khiếu kiện hoặc thông qua Nhà nước khiếu kiện bảo vệ quyền lợi khi cần thiết. 3.2.1.2 Các biện pháp thương mại công bằng: Hiệp định về chống bán phá giá và chống trợ cấp. E Các biện pháp hạn chế rủi ro: - Hiểu biết đầy đủ về bản chất của các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp. - Tham gia tích cực vào các vụ kiện (để có được kết luận điều tra có lợi). - Có biện pháp chủ động (điều chỉnh thị phần, giá, tốc độ gia tăng khối lượng nhập khẩu tại các thị trường…) ngay khi ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu tạo sức ép hay có nguy cơ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp. 3.2.1.3 Biện pháp tự vệ: E Các biện pháp hạn chế rủi ro: Trên thực tế, các nước thường ít sử dụng biện pháp tự vệ (mặc dù họ vẫn có toàn quyền điều tra, quyết định như trong các vụ kiện chống bán phá giá, trợ cấp) bởi hệ quả kéo theo thường khá lớn (bởi họ phải dự kiến đến các cách thức bồi thường thương mại đối với các nước có hàng hóa bị áp đặt biện pháp tự vệ). Tuy nhiên, đây vẫn là một rủi ro mà doanh nghiệp phải tính đến khi xuất khẩu hàng hóa (bằng cách có hiểu biết đầy đủ về các nguyên tắc tự vệ, có biện pháp điều chỉnh thị trường thích hợp trong trường hợp bị áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu…). 3.2.2 Những rủi ro pháp lý “vô hình”: 3.2.2.1 Rủi ro từ nhận thức: - Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về các quyền của mình: WTO buộc các quốc gia phải hành xử (bằng các quy định và thủ tục) theo cách hạn chế tối đa các rào cản thương mại. Cơ hội cũng từ đó mà mở ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tiếp cận thị trường và cạnh tranh với hàng nội địa nước nhập khẩu. Vì thế, nếu không biết về các nghĩa vụ của các quốc gia theo quy định của WTO (tương ứng với đó là quyền của doanh nghiệp) cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp bỏ qua các cơ hội mà mình lẽ ra được hưởng. - Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về các nghĩa vụ của mình: WTO quy định các nghĩa vụ của quốc gia, nhưng đồng thời cũng gián tiếp quy định về “nghĩa vụ” của các doanh nghiệp (đặc biệt trong các biện pháp có liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thương mại công bằng). Doanh nghiệp sẽ phải trả giá rất đắt trong trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ (dù rằng việc đó xuất phát từ cố ý vi phạm hay đơn giản là vi phạm do không hiểu biết). - Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về hệ thống pháp luật thương mại nước nhập khẩu: hoạt động thương mại trên lãnh thổ một nước phải tuân thủ hệ thống pháp luật nội địa nước đó. Ở các quốc gia nơi mọi vấn đề được xử lý theo pháp luật, không hiểu biết về pháp luật và hoặc thiếu ý thức tôn trọng pháp luật sẽ là nguy cơ lớn khi tiến hành hoạt động thương mại. E Các biện pháp hạn chế rủi ro: các doanh nghiệp cần tìm hiểu và nhận thức đầy đủ, cặn kẽ về các quyền cũng như nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ các quy định, hiệp định của WTO. 3.2.2.2 Rủi ro từ cách hành xử: - Rủi ro từ việc không thực hiện đúng cam kết, đúng pháp luật (pháp luật thương mại quốc tế hoặc pháp luật quốc gia): Cách hành xử tuỳ tiện, không tuân thủ hợp đồng hay pháp luật có thể kéo theo những thiệt hại vật chất lớn cho doanh nghiệp, bởi doanh nghiệp có thể phải chịu các hình thức bồi thường, phạt vi phạm… rất nghiêm khắc. - Rủi ro từ việc không sử dụng, không tham gia các phương thức giải quyết tranh chấp: ứng xử theo thói quen, bỏ qua nguyên tắc, coi thường pháp luật trong trường hợp này có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề bởi (1) nếu không sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp thì doanh nghiệp không thể bảo vệ quyền lợi của mình; (2) nếu không tham gia tích cực vào các quá trình giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp sẽ tự làm mất cơ hội chứng minh cho mình. - Rủi ro từ việc không thực hiện các bản án, quyết định giải quyết tranh chấp: Trong các tranh chấp, phán quyết của Toà hay quyết định của trọng tài có giá trị bắt buộc phải tuân thủ và pháp luật các nước có những cơ chế hữu hiệu để thực thi các phán quyết/quyết định này. Việc từ chối, bất hợp tác hay trốn tránh các nghĩa vụ này có thể phải trả những cái giá rất đắt. E Các biện pháp hạn chế rủi ro: các doanh nghiệp Việt Nam phải : Thực hiện đúng các cam kết, đúng pháp luật (pháp luật thương mại quốc tế hoặc pháp luật quốc gia). Tham gia tích cực vào các quá trình giải quyết tranh chấp. - Tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ các bản án, quyết định khi có tranh chấp. 3.3. Giải pháp cấp vĩ mô, vi mô: 3.3.1 Giải pháp cấp vĩ mô: 3.3.1.1 Giải pháp về phía nhà nước: - Khi gia nhập WTO, mỗi doanh nghiệp Việt Nam trở thành một tổ chức kinh doanh trong thị trường và môi trường pháp lý toàn cầu, vì thế các doanh nghiệp phải được tổ chức và hoạt động theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam lại chưa đạt được các tiêu chuẩn này. Hệ quả là có rất ít doanh nghiệp Việt Nam đạt được sự tin cậy với các đối tác nước ngoài; không đủ tiêu chuẩn để tiếp cận tín dụng quốc tế hay ghi danh ở thị trường chứng khoán quốc tế. Một trong những nguyên nhân là do hệ thống pháp luật hiện hành chưa có thực sự phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu theo thông lệ quốc tế. Vì thế, hoàn thiện một hệ thống luật pháp minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ là yếu tố cốt lõi giúp doanh nghiệp hoàn thiện hơn và đáp ứng được các tiêu chuẩn trong quan hệ thương mại quốc tế. - Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin về pháp luật, thị trường của các quốc gia khác, thu thập thông tin về sự thay đổi của thị trường, pháp lý của các quốc gia đó. Các cơ quan đại diện cho Nhà nước ở các thị trường phải trực tiếp nắm bắt thông tin về các doanh nghiệp, pháp lý, thị trường để cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính những nguồn thông tin này là một kênh quan trọng để doanh nghiệp trong nước phòng tránh, giảm thiểu được rủi ro khi tham gia các hoạt động thương mại quốc tế. - Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ như tổ chức các lớp tập huấn, các lớp học ngắn hạn cho các doanh nghiệp về pháp luật thương mại quốc tế. Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành dệt may và các quy định pháp luật về môi trường.    - Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt - May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp.    - Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành dệt may, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000. - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đặc biệt thực hiện nhanh gọn các thủ tục liên quan tới quản lý hạn ngạch, quản lý xuất nhập khẩu và thuế quan để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Đàm phán mạnh mẽ với các nước nhập khẩu để nới rộng hạn ngạch, giảm hoặc bỏ thuế nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam như các nước khác. - Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn. - Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Công thương và Hiệp hội Dệt May Việt Nam hướng dẫn, tư vấn cho các doanh nghiệp trong ngành Dệt May giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế. - Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về nhập khẩu của ngành dệt may trên các website và các bản tin hàng tháng. Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường. - Thành lập Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hoá, tổ trưởng - chuyền trưởng… - Nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành. 3.3.1.2 Giải pháp về phía Hiệp hội dệt may Việt Nam: - Thông tin : bên cạnh việc cung cấp, cập nhật thông tin chiến lược, thông tin về sản xuất kinh doanh, XNK, hiệp hội còn là cầu nối trong hợp tác sản xuất, kinh doanh, đầu tư giữa các DN trong ngành, giữa các đối tác trong và ngoài nước. - Hiệp hội Dệt may sẽ nỗ lực hơn trong các hoạt động như: thường xuyên cập nhật tình hình thị trường, xúc tiến thành lập trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư sản xuất vải và nguyên phụ liệu tại chỗ... - Kiến nghị với cơ quan nhà nước cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đặc biệt thực hiện nhanh gọn các thủ tục liên quan tới quản lý hạn ngạch, quản lý xuất nhập khẩu và thuế quan để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Đàm phán mạnh mẽ với Mỹ để nới rộng hạn ngạch, giảm hoặc bỏ thuế nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam như các nước khác. - Kiến nghị với chính phủ cho áp dụng thuế VAT bằng 0% cho vải sản xuất trong nước và cung cấp cho may xuất khẩu. Chỉ đạo hệ thống ngân hàng không cắt giảm định mức tín dụng đối với các doanh nghiệp dệt. - Xây dựng chiến lược phát triển ngành, thông qua hợp tác quốc tế và hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng và quảng bá hình ảnh 1 ngành dệt may VN năng động, chất lượng, có uy tín cao đối với khách hàng. - Hỗ trợ và tăng cường năng lực doanh nghiệp thông qua việc hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho các doanh nghiệp trong ngành. - Là đại diện của ngành dệt may trước các cơ quan Nhà nước và trên trường quốc tế, Hiệp hội có tiếng nói mạnh mẽ với các cơ quan Nhà nước trong việc kiến nghị cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành phát triển, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy mở cửa thị trường, đấu tranh chống lại các rào cản thương mại quốc tế. Tham gia tích cực, có hiệu quả vào hoạt động của các tổ chức khu vực và quốc tế như Liên đoàn dệt may Đông nam á AFTEX, Hiệp hội các nước xuất khẩu dệt may thế giới ICTB, Liên đoàn may mặc thế giới IAF, Liên đoàn may mặc châu Á AAF...để vận động và bảo vệ quyền lợi của ngành dệt may Việt Nam trong chính sách thương mại khu vực và quốc tế. 3.3.2 Giải pháp cấp vi mô: - Những rủi ro xảy ra trước hết là do các doanh nghiệp của Việt Nam chưa hiểu biết đẩy đủ về hệ thống luật pháp và chính sách của nước ngoài, luật pháp và thông lệ quốc tế cũng như các thoả thuận song phương giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều dạng rủi ro xảy ra có khi chỉ do chưa hiểu biết đầy đủ về pháp luật Việt Nam. Điều này tưởng như không thể nhưng lại xảy ra khi không ít doanh nghiệp Việt Nam thiếu quan tâm đến việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật Việt Nam. Trong khi đó, đối tác nước ngoài lại có sự chuẩn bị chu đáo khiến chúng ta rơi vào cảnh thua thiệt.    Cũng có thể rủi ro xảy ra do không tiên liệu trước được sự thay đổi của luật pháp chính sách của nước ngoài cũng như Việt Nam. Chính sách pháp lý sẽ có những thay đổi để phù hợp với thực tiễn, nếu doanh nghiệp không cập nhật có thể vấp phải những thiệt hại lớn, thậm chí là phá sản. Điều này không chỉ xảy ra khi chính sách nước ngoài thay đổi mà có thể đến từ việc thay đổi những chính sách của Việt Nam.    Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh khi hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp phải tự nâng cao nhận thức của mình về pháp luật thương mại quốc tế, tập quán thương mại quốc tế;  chủ động tìm hiểu về những quy định pháp lý liên quan đến xuất nhập khẩu tại thị trường EU để đưa ra cho mình những đối sách hợp lí. Đồng thời phải luôn luôn cập nhật thông tin về sự thay đổi của luật pháp chính sách của nước ngoài cũng như Việt Nam để có những giải pháp thích ứng kịp thời. Cụ thể: Đó là những vấn đề như các hoá chất cấm, tiêu chuẩn lao động, môi trường... - Các doanh nghiệp cần có kế hoạch, phòng chống rủi ro pháp lý bằng các xây dựng pháp chế doanh nghiệp chuyên nghiệp với những nhân viên đủ năng lực, trình độ để ký kết hợp đồng giao thương với nước ngoài. - Tạo thói quen sử dụng tư vấn của luật sư, chuyên gia pháp lý trong hoạt động thương mại quốc tế, trong hợp đồng nên chọn luật (gắn liền nhất với quyền và nghĩa vụ các bên) để áp dụng. Các rủi ro pháp lý đối với doanh nghiệp khi tham gia giao thương quốc tế là luôn tiềm ẩn. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh lại luôn diễn ra. Vì vậy, việc sử dụng luật sư trong các hoạt động kinh doanh có yếu tố nước là điều rất cần thiết. Mặc dù doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra một số chi phí để thuê luật sư nhưng bù lại doanh nghiệp sẽ tránh được nhiều rủi ro pháp lý có thể gây ra những thiệt lớn về uy tín cũng như vật chất. Các doanh nghiệp nên sử dụng cả những văn phòng luật sư nước ngoài, nơi có các quan hệ làm ăn. Bởi, thông thường luật sư của nước nào thì sẽ nắm vững hệ thống pháp luật của nước đó, từ đó hiệu quả tư vấn sẽ cao hơn. Về việc tiếp cận với các văn phòng luật sư nước ngoài, hiện nay các văn phòng luật sư ở Việt Nam đã có quan hệ với rất nhiều văn phòng luật sư của các nước trên thế giới, vì vậy khi có nhu cầu thuê luật sư nước ngoài các doanh nghiệp có thể thông qua văn phòng luật sư ở Việt Nam để giảm bớt chi phí liên hệ và tìm được luật sư phù hợp. - Một rủi ro mà doanh nghiệp Việt Nam hay gặp phải trong thời gian qua là liên quan đến việc thẩm định tư cách pháp lý, tài chính của đối tác cũng như người đại diện đối tác nước ngoài. Trên thực tế khi không ít doanh nghiệp Việt Nam bị lừa đảo do thiếu thông tin của đối tác. Điều này cũng bộc lộ một thực tế ở Việt Nam chưa có một cơ quan tổ chức nào có khả năng thẩm định tư cách pháp lý cũng như tài chính của đối tác nước ngoài cũng như người đại diện của họ.   Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải kiểm tra xác minh tư cách pháp lý và năng lực tài chính của đối tác nước ngoài trước khi chính thức ký hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hoặc khi thiết lập các quan hệ hợp tác khác với đối tác nước ngoài. - Riêng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam nên sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng lớn trong nước để thực hiện phương thức thanh toán với nước ngoài. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu thì doanh nghiệp nên thoả thuận trong tín dụng thư hồ sơ bộ chứng từ hàng xuất được chiết khấu... Trên cơ sở đó doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn một phương thức thanh toán quốc tế để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tuy nhiên cũng cần có một vài phương thức thanh toán dự phòng trong trường hợp không thỏa thuận được với đối tác phương thức tối ưu có lợi cho mình. - Doanh nghiệp nên đưa vào các hợp đồng giải quyết tranh chấp, nếu có, bằng con đường trọng tài. Lí do rất đơn giản là giải quyết bằng con đường tòa án thì hầu hết doanh nghiệp Việt Nam... vô vọng do không đủ công sức, tài chính hầu tòa. - Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành dệt may theo hướng thân thiện với môi trường: Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường nhằm đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế - Doanh nghiệp Việt Nam phải biết hợp tác chặt chẽ với nhau không những chỉ trong nước mà ngay cả các nước khu vực lân cận. Vì đối với các nước trong khu vực tuy một mặt là đối thủ cạnh tranh, nhưng mặt khác lại bổ sung cho doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề cung cấp nguyên phụ liệu. Ví dụ, chi phí vải của một cái áo sơ mi dệt tại Banglades chỉ mất 59%, phụ liệu 16%, chi phí quản lý là 8%, 7% chi phí khác và 10% còn lại là lợi nhuận. Do đó nếu tiết kiệm được 10% chi phí xuất khẩu thì lợi nhuận thu được tăng lên 16%. Nhưng nếu giảm được 10% chi phí nhập khẩu vải thì chi phí lợi nhuận tăng lên chóng mặt 60% KẾT LUẬN 1. Những điều làm được, chưa làm được của ngành dệt may Việt Nam: 1.1 Làm được: - Nhiều doanh nghiệp trong ngành may được tổ chức tốt, đáp ứng được các tiêu chuẩn xã hội, xây dựng được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các nhà nhập khẩu, bán lẻ nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ. - Ngành dệt may Việt Nam đã tận dụng được trong việc hấp dẫn các thương nhân và nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư và làm ăn khi được đánh giá là điểm đến ổn định về chính trị, an toàn về xã hội. - Hiệp hội Dệt May Việt Nam đã góp phần đưa tiếng nói của doanh nghiệp đến với các cơ quan quản lý, tham gia tích cực vào công tác xây dựng cơ chế chính sách phát triển dệt may, kiến nghị với Chính phủ các giải pháp phù hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ngành  Dệt may Việt Nam phát triển và thực hiện tốt công tác tìm hiểu thị trường để phổ biến thông tin cho doanh nghiệp. - Tại thị trường EU, các doanh nghiệp đã cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho nhà nhập khẩu cũng như tuân thủ quy chế mới về an toàn cho người tiêu dùng. Nhờ đó, giá trị xuất khẩu năm 2009 đạt xấp xỉ 1,7 tỉ USD. - Tại thị trường nội địa, nhiều doanh nghiệp đã tập trung đổi mới toàn diện chiến lược phục vụ cho người tiêu dùng. Các biện pháp đã và đang được thực hiện bao gồm đầu tư mạnh hơn vào nghiên cứu thị trường, thị hiếu, tăng cường công tác thiết kế thời trang và sản phẩm mới, tổ chức dây chuyền sản xuất chuyên biệt phù hợp, đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị tại các thành phố lớn kết hợp với chương trình đưa hàng về nông thôn và tăng uy tín thương hiệu. Những biện pháp này cũng thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp trong việc thực hiện chiến lược lấy nội địa làm thị trường cơ bản để tồn tại và vượt qua suy thoái của nhiều doanh nghiệp. 1.2 Chưa làm được: Bên cạnh những kết quả đạt được do tận dụng được cơ hội cũng như vượt qua được những thách thức do hội nhập mang lại ngành dệt may vẫn còn những hạn chế: -Ngành công nghiệp dệt và phụ trợ còn yếu, dẫn đến 70% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, giá trị gia tăng không cao, thiếu linh hoạt và hạn chế khả năng đáp ứng nhanh. May xuất khẩu phần nhiều vẫn theo phương thức gia công, thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB còn thấp, hiệu quả sản xuất thấp. -Hầu hết các doanh nghiệp là vừa và nhỏ, khả năng huy đọng vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. -Kỹ năng quản lý sản xuất còn kém, năng lực quảng cáo tiếp thị hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu, các sản phẩm xuất khẩu phải sử dụng nhãn mác nước ngoài, chưa xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn cho doanh nghiệp. -Cải cách hành chính còn chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia về hạ tầng cơ sở còn thấp so với các đối thủ cạnh tranh, một số chi phí chung như vận chuyển, cảng khẩu… còn khá cao so với các nước. -Thiếu công nhân cục bộ tại các thành phố lớn. Mối quan hệ lao động, tiền lương đang có chiều hướng phức tạp. Nhiều cuộc đình công tự phát đã xảy ra tại các thành phố và khu công nghiệp tập trung đã ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh. Thiếu lao động kỹ năng trung cao cấp về công nghệ, thương mại, quản trị. - Môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ xây dựng và thực thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến thương mại còn yếu, đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng. - Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn có quy mô nhỏ và vừa, không đủ tiềm lực để theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp thương mại. Các rào cản thương mại trên đã được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. 2. Đề xuất trong tương lai: Bước vào năm 2010, bên cạnh những thuận lợi được mở ra, khó khăn, thách thức và sức ép cạnh tranh ngày một lớn đối với ngành dệt may Việt Nam. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành dệt may Việt Nam phải nhanh chóng phân tích lại nội lực của mình và tìm cách vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của các quốc gia khác, để từ đó xây dựng những bước đi đúng đắn trong việc phát triển và hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới. Yếu tố quan trọng nhất là yêu cầu các doanh nghiệp dệt may phát huy nội lực, tạo sức cạnh tranh thông qua việc mở rộng thị trường, song song với nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Đây cũng chính là xu thế phát triển bền vững của ngành và cũng là cách thức duy nhất để ngành dệt may Việt Nam có thể vững bước vào một cuộc chơi không cân sức trên thị trường dệt may thế giới. Ở cấp vĩ mô, Nhà nước cần đề ra nhiều hơn nữa các chính sách để hỗ trợ cho các doanh nghiệp: Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đặc biệt thực hiện nhanh gọn các thủ tục liên quan tới quản lý hạn ngạch, quản lý xuất nhập khẩu và thuế quan để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Đàm phán mạnh mẽ với các nước nhập khẩu để nới rộng hạn ngạch, giảm hoặc bỏ thuế nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam như các nước khác. Thêm vào đó, các Hiệp hội của ngành dệt may cũng cần nhanh chóng cập nhập và nắm bắt những thay đổi về mặt pháp lý trong nước cũng như của các nước nhập khẩu để phổ biến và đề ra phương hướng ứng biến cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những tiêu chuẩn về kỹ thuật và tiêu chuẩn về môi trường của các nước nhập khẩu không nhừng được nâng cao nên các doanh nghiệp dệt may ngoài việc tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp thì còn cần triển khai chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành dệt may, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000 và xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May theo hướng thân thiện với môi trường, tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường. Về hướng các doanh nghiệp cũng không nên chỉ biết ỷ lại vào các cấp chính quyền vì nước ta vừa bước vào quá trình hội nhập, kinh nghiệm, nguồn lực và khả năng còn hạn hẹp do đó bản thân mỗi doanh nghiệp bên cạnh việc nắm bắt rõ các quy định chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp mình thì đều cần phải nhanh chóng và chủ động cập nhập tin tức để có thể phản ứng kịp thời những thay đổi, đặc biệt là những thay đổi về mặt pháp lý cả trong nước và các nước nhập khẩu. Tóm lại, phải đáp ứng các yêu cầu pháp lý về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Diệp Thị Mỹ Hảo - Học viện Quan hệ Quốc tế, Những thuận lợi và khó khăn của dệt may Việt Nam Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 323, tháng 4/2005. 2.PGS-TS Đoàn Thị Hồng Vân, Quản trị rủi ro và khủng hoảng, NXB Lao động – xã hội, 2007. 3.Ảnh hưởng của WTO và các Hiệp định thương mại đến dệt may Việt Nam, www.viettrade.gov.vn 4.Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường EU, www.viettrade.gov.vn 5.Tình hình xuất khẩu của ngành dệt may kể từ khi gia nhập WTO, www.viettrade.gov.vn 6. 7.www.Dantri.com 8.www.Chungkhoan247.vn 9.www.Mof.gov.vn 10.www.Tinkinhte.com 11.www.vnexpress.net 12.www.quangninhtrade.gov.vn 13.www.exporters.com.vn 14.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản trị rủi ro pháp lý ngành dệt may VN khi xk vào EU.doc
Luận văn liên quan