Đề tài Sử dụng nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro và đầu cơ trên thị trường ngoại hối

Thị trường ngoại hối trên thế giới ngày càng phát triển nhanh chóng cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Đây là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư kinh doanh kiếm lời, cũng là nơi tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nhu cầu phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối tất yếu dẫn đến sự ra đời của các công cụ ngoại hối phái sinh, trong đó có hoán đổi tiền tệ. Với đặc tính linh hoạt, đơn giản, dễ ứng dụng, hoán đổi tiền tệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trên thị trường ngoại hối, được các nhà đầu tư ưa dùng để phòng ngừa rủi ro cũng như kinh doanh kiếm lời. Trái ngược với xu hướng của thị trường ngoại hối thế giới, hoán đổi tiền tệ chưa thực sự phát triển trên thị trường ngoại hối Việt Nam bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan.Với nền tảng cơ sở lý luận về hoán đổi tiền tệ được giới thiệu trong chương I và việc nghiên cứu thực trạng thị trường hoán đổi tiền tệ cũng như nguyên nhân khiến sản phầm này chưa được sử dụng như một công cụ để phòng ngừa rủi ro hay kinh doanh hiệu quả ở Việt Nam trong chương II, tác giả đã đưa ra một số giải pháp mang tính vĩ mô và vi mô nhằm xây dựng và phát triển thị trường hoán đổi tiền tệ ở Việt Nam.

pdf97 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3191 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro và đầu cơ trên thị trường ngoại hối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩm này. Thay đổi nhận thức của doanh nghiệp vốn chưa quen với các sản phẩm mới là tương đối khó khăn và cần nhiều thời gian, tuy nhiên thực tế cho thấy là ngay chính các ngân hàng Việt Nam cũng còn yếu trong khâu tiếp cận khách hàng, marketing sản phẩm tới khách hàng. Hiện nay mới chỉ có một số ngân hàng lớn, nhất là ngân hàng quốc doanh và ngân hàng nước ngoài cung cấp sản phẩm hoán đổi tiền tệ, nhưng chỉ tập trung vào đồng USD chứ chưa mở rộng ra các ngoại tệ khác như EUR, GBP, JPY… Các ngân hàng cũng 63 mới chỉ cung cấp sản phẩm hoán đổi tiền tệ như giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Còn ngay trong thị trường liên ngân hàng, giao dịch hoán đổi cũng chỉ được sử dụng giữa NHTM và NHNN khi NHTM khan hiếm USD, nên môi trường để các ngân hàng giao dịch hoán đổi thường xuyên với nhau chưa được phát triển. Tóm lại, hầu như các NHTM vẫn chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích thanh toán, cho vay ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểm tỷ giá. Vì vậy, trong kinh doanh tiền tệ ở Việt Nam, ngân hàng đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập thị trường. Cũng chính vì tư tưởng trên nên nhìn chung các ngân hàng rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là yếu về phân tích kĩ thuật biến đổi cấu trúc dự trữ giữa các loại ngoại tệ. Hầu như rất ít ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít ngân hàng ở Việt Nam mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các ngân hàng chỉ kinh doanh không công cho khách hàng.  Công nghệ ngân hàng chưa phát triển: các công cụ phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng được xây dựng trên cơ sở sử dụng các thuật toán phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái trong trương lai, đòi hỏi phải có các phần mềm hiện đại để xử lý giao dịch cũng như quản lý và tính phí. Nhưng hiện tại, công nghệ ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, gây khó khăn cho việc triển khai sản phẩm hoán đổi tiền tệ ở nhiều ngân hàng. Một điểm bất lợi khác của các NHTM Việt Nam so với các ngân hàng ở những nước phát triển như: Singapore, Hồng Kông là tại Việt Nam chưa có hệ thống EBS (Electronic Brokerage System) nên giá mà các ngân hàng được cung cấp bởi Reuters hay các hãng tin khác cũng chỉ là tỷ giá tham khảo chứ chưa phải là tỷ giá giao dịch thật sự trên thị trường. 64  Trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng chưa cao: Thị trường hoán đổi và công cụ hoán đổi tiền tệ rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực ngoại hối, am hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối. Đặc biệt, cán bộ ngân hàng phải có khả năng vận dụng linh hoạt các loại hình hoán đổi tiền tệ để phòng chống rủi ro tỷ giá đối với danh mục đầu tư bằng ngoại tệ của bản thân ngân hàng. Ngoài ra, cán bộ ngân hàng chính là người tư vấn cho doanh nghiệp về việc sử dụng sản phẩm hoán đổi tiền tệ. Nhưng trên thực tế, trình độ hiểu biết cũng như chuyên môn của cán bộ ngân hàng về lĩnh vực kinh doanh ngoại hối nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng vẫn chưa cao. Đây cũng là một cản trở lớn khiến các ngân hàng e ngại, không thể phát triển sản phẩm của mình.  Về phía doanh nghiệp:  Kiến thức và hiểu biết về kinh doanh ngoại hối trong các doanh nghiệp còn thấp: Trình độ kinh doanh quốc tế, cán bộ quản trị tài chính hiện đại của doanh nghiệp trong nước, nhất là khu vực vừa và nhỏ vừa yếu vừa thiếu nên doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với các dịch vụ phái sinh như hoán đổi tiền tệ. Trên thực tế, phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt ngay cả những doanh nghiệp lớn của nhà nước cũng không có giám đốc tài chính, người chuyên lo, tính toán và dự báo biến động của thị trường, biến động của lãi suất, tỷ giá và giá cả để xử lý trong hoạt động kinh doanh mà mới chỉ có kế toán trưởng chuyên lo về vấn đề tài chính cho công ty. Hiển nhiên, với cơ chế làm việc, trình độ của một kế toán trưởng không thể tư vấn tài chính hay đề xuất các giải pháp cơ cấu luồng tiền cũng như sử dụng các dịch vụ bảo hiểm đồng vốn như nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn làm theo lối kinh doanh truyền thống, khi nào cần USD thì mua, khi nào có nhu cầu thì bán. Còn hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về công cụ phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng vẫn còn rất nhiều hạn chế. 65  Trở ngại văn hoá trách nhiệm trong các doanh nghiệp: Ví dụ, một chủ doanh nghiệp nếu biết có rủi ro về lãi suất và đang vay tiền với lãi suất thả nổi trong điều kiện lãi suất đang tăng lên mạnh, và cũng biết, nếu làm hoán đổi chuyển sang lãi suất cố định sẽ giúp tránh rủi ro lãi suất tăng. Nhưng tâm lý sợ rằng nếu quyết định hoán đổi, lỡ sang năm, lãi suất sẽ xuống, lúc đó mọi người trong công ty sẽ chất vấn rằng tại sao anh lại làm giao dịch đó, tại sao không để nguyên... khiến nhiều doanh nghiệp vẫn còn ngại ngần trong việc thực hiện hoán đổi tiền tệ. Điều này từ sâu xa là do việc phân định trách nhiệm trong doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện không cho người lãnh đạo quyền và chính sách thoả đáng, rõ ràng. Một số công ty đa quốc gia có chính sách quản lý rủi ro rất cụ thể. Họ luôn khoanh vùng cho một vị trí lãnh đạo được chịu rủi ro tài chính đến mức bao nhiêu và nếu tới bao nhiêu thì lãnh đạo phải làm các giao dịch phòng chống. Còn ở Việt Nam thì chưa có. Những doanh nghiệp thường xuyên có các dự án tính bằng vài trăm triệu USD và chỉ với những biến động nhỏ của thị trường tiền tệ, họ sẽ phải gánh chịu những tổn thất không nhỏ về vốn. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp trên dù biết là sẽ gặp rủi ro, nhưng do công ty chưa có chính sách nên không dám làm. Đa số các doanh nghiệp có thói quen chấp nhận rủi ro hơn là sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro. Với một số nguyên nhân chính kể trên, thị trường hoán đổi tiền tệ đã không thể phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam như nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, những rủi ro trên thị trường ngoại hối ngày càng lớn dần khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Bên cạnh những lợi thế như mở rộng môi trường kinh doanh, nắm bắt nhiều cơ hội phát triển thì các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những rủi ro trong hoạt động thanh toán khi có sự góp mặt ngày càng lớn của những ngoại tệ mạnh, không chỉ tập trung ở đồng 66 USD. Bên cạnh đó, sự “bảo hộ” của NHNN đối với đồng USD trong tương lai sẽ nới lỏng hơn nữa. Và khi biên độ tỷ giá USD/VNĐ càng nới rộng, rủi ro sẽ càng lớn. Trước tình hình đó, việc phát triển các công cụ phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng là điều không thể tránh khỏi. 67 CHƢƠNG III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CHO VIỆC SỬ DỤNG HOÁN ĐỔI TIỀN TỆ NHẰM PHÒNG NGỪA RỦI RO TRÊN THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM 1. Định hƣớng phát triển thị trƣờng ngoại hối Việt Nam trong thời gian tới: Thị trường hối đoái được hình thành và hoạt động từ rất lâu trên thế giới. Nó thực sự tối cần thiết cho sự phát triển kinh tế cũng như sự tăng trưởng trong tương lai của một nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa với những đặc trưng tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ, đã và đang chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của thị trường tài chính từng quốc gia. Ở hầu hết các nước trên thế giới, thị trường giao dịch ngoại hối đã được tự do hóa, các NHTM, các nhà kinh doanh hối đoái chủ động giao dịch trao đổi, mua bán các loại ngoại tệ với nhau tùy theo diễn biến của thị trường. NHTW của các quốc gia đó chỉ can thiệp khi thực sự cần thiết, thực hiện việc mua vào hay bán ra một loại ngoại tệ nào đó, nhằm chống sự lên giá hay xuống giá quá mức của đồng nội tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và chiến lược phát triển nền kinh tế. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng ấy, đặc biệt kể từ khi gia nhập WTO. Chính vì vậy, việc mở cửa, tự do hóa thị trường ngoại hối Việt Nam, chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế chính là định hướng cho việc phát triển của thị trường này trong thời gian tới. Định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam thể hiện trong các mặt sau:  Thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai: Việc tự do hóa các giao dịch vãng lai là một xu hướng chung trong điều kiện thị trường tài chính, ngoại hối phát triển. Tự do hóa các giao dịch vãng 68 lai được qui định tại Điều VIII, Điều lệ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng là một trong những điều kiện tiên quyết, quan trọng để Việt Nam gia nhập WTO.  Từng bước nới lỏng các giao dịch vốn: Các hạng mục cơ bản của cán cân vốn bao gồm: đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam (trực tiếp, gián tiếp); đầu tư của Việt nam ra nước ngoài; vay, trả nợ nước ngoài, cho vay, thu hồi nợ nước ngoài; phát hành chứng khoán trong và ngoài nước. Pháp lệnh ngoại hối Việt Nam đã xác lập những nguyên tắc chung nhất về quản lý ngoại hối bao trùm toàn bộ các hạng mục cơ bản của cán cân vốn đồng thời áp dụng các cơ chế quản lý riêng cho từng loại hình giao dịch vốn theo hướng từng bước nới lỏng.  Hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam, nâng cao vị thế và tính chuyển đổi của đồng Việt Nam: Việc từng bước hạn chế, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hiện tượng đô la hoá, chống việc sử dụng ngoại tệ tràn lan trên lãnh thổ Việt nam, đảm bảo vị thế của đồng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam là điều cần thiết cho việc phát triển thị trường ngoại hối lành mạnh và bền vững.  Xây dựng một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn,phù hợp với diễn biến của thị trường ngoại hối Điều 30 Chương V của Pháp lệnh ngoại hối qui định: “Tỷ giá hối đoái của đồng Việt nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước” và “Ngân hàng Nhà nước Việt nam xác định cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể trong từng thời kỳ”. Mặc dù vậy, việc điều hành chính sách tỷ giá của NHNN vẫn còn mang nặng tính hành chính, chưa theo kịp diễn biến của thị trường, khiến nhiều khi tạo ra sự căng thẳng trên thị trường ngoại hối. Chính 69 vì vậy việc hướng tới một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn sẽ là điều kiện cần thiết giúp thị trường ngoại hối vận hành hiệu quả hơn.  Phát triển thị trường ngoại hối theo hướng mở cửa, chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế: Thể hiện rõ mức độ mở cửa và lộ trình hướng tới một thị trường hối đoái hiện đại, chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế, với đầy đủ các công cụ giao dịch, công cụ phòng ngừa rủi ro phức hợp, tạo điều kiện nâng cao thanh khoản cho thị trường ngoại hối, giảm bớt các quy định hành chính trong giao dịch hối đoái. Khi thị trường ngoại hối nước ta dần được tự do hóa theo thông lệ quốc tế, thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tự chủ hơn, nhưng cũng sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động chuẩn bị cho bước phát triển mới đánh dấu một trình độ cao hơn của hội nhập quốc tế. Việc hội nhập đó đòi hỏi hệ thống ngân hàng, các nhà xuất, nhập khẩu Việt Nam phải có quan hệ kinh doanh thực sự trên thị trường hối đoái. Để có được thành công, các nhà kinh doanh Việt Nam cần nắm chắc được kỹ thuật nghiệp vụ, các thông lệ quốc tế được áp dụng trên thị trường này và có lẽ trước hết là các kỹ thuật về phòng tránh rủi ro. Các kỹ thuật nghiệp vụ và các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro cho thị trường này đã không ngừng được hoàn thiện và đạt tiêu chuẩn quốc tế hóa đến mức cao độ. Việc nghiên cứu và áp dụng các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối là điều kiện tối cần thiết để đảm bảo cho thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển mạnh mẽ nhưng an toàn, hiệu quả. 70 2. Triển vọng đối với việc ứng dụng hoán đổi tiền tệ trên thị trƣờng ngoại hối Việt Nam: 2.1. Điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng hoán đổi tiền tệ trên thị trường ngoại hối Việt Nam:  Kinh tế đất nước đang trên đà phát triển, mở ra nhiều cơ hội cho các thành viên tham gia trên thị trường ngoại hối: Đất nước ta đã có hơn 25 năm chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính-tiền tệ-ngân hàng. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhà nước ta đã có nhiều chính sách đối nội thích hợp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững cán cân thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại tệ, kiểm soát lạm phát, đẩy mạnh xuất khẩu. Về đối ngoại, Việt Nam không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập kinh tế, tham gia tích cực ASEAN, APEC, tăng cường hợp tác với các nước phát triển, các tổ chức khu vực và quốc tế. Ngày 26/6/2003 Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 683/QĐ-NHNN “về kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế của ngành Ngân hàng”. Đây là chủ trương lớn, vừa đáp ứng yêu cầu cấp thiết trước mắt, vừa đáp ứng yêu cầu lâu dài nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng Việt Nam lớn mạnh, ổn định để phát triển và có đủ khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. Và những chính sách đổi mới, kích thích nền kinh tế phát triển của nhà nước ta đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển nhanh chóng của đất nước. Mặc dù chịu nhiều tác động từ suy thoái kinh tế thế giới như thu hẹp thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, lao động… nhưng Việt nam vẫn đạt mức tăng trưởng 5,32% năm 2009, đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao. Không những vậy, lạm phát được 71 kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm chỉ là 6,88%, thấp hơn mục tiêu 7% mà Quốc hội thông qua và là thấp nhất trong 6 năm gần đây. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, cắt giảm đơn hàng giá xuất khẩu giảm dẫn đến kim ngạch xuất khẩu năm 2009 ước đạt 6.400 triệu USD, đạt 88,2% kế hoạch. Nhưng nhìn chung, dù nền kinh tế thế giới vừa trải qua cuộc khủng hoàng tài chính toàn cầu, nhưng Việt Nam với những chính sách hỗ trợ kịp thời đã nhanh chóng ổn định nền kinh tế, và giữ vững đà tăng trưởng của mình. Đặc biệt, Việt Nam giờ đây đã trở thành điểm đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài với lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam ngày càng tăng. Mặc dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song Việt Nam đã vượt mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2009, theo kế hoạch ban đầu chỉ là 20 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 30% của năm 2008 nhưng con số 21,48 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam trong cả năm 2009 vẫn là một kết quả đáng khích lệ. Ngoài ra, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam cũng ngày càng nhiều. Trong đó, số tiền dành cho đầu tư, kinh doanh trong nước chiếm tỷ lệ không nhỏ. Với lượng tiền ngoại tệ đổ vào Việt Nam ngày càng lớn như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam sẽ có điều kiện để hoạt động sôi nổi và tích cực hơn.  Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường ngoại hối phát triển:  Hiệp định Thương mại Việt-Mĩ (BTA) kí kết vào ngày 13/7/2000 đã đánh dấu việc bình thường hóa quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Hoa Kì. Hiệp định này có ý nghĩa quan trọng đối với việc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Hiệp định gồm 7 chương, trong đó chương III đề cập đến vấn đề thương mại và dịch vụ, trong đó có cam kết về lĩnh vực dịch vụ ngân hàng như sau: 72  Loại hình dịch vụ tài chính-ngân hàng được phép tiến hành tại Việt Nam: Ngoài các dịch vụ NHTM thuần túy, phía Hoa Kỳ được phép kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh, gồm cả giao dịch quyển chọn, tương lai, hoán đổi và kì hạn.  Hình thức tổ chức pháp lý để xúc tiến kinh doanh dịch vụ đa dạng và đầy đủ bao gồm chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn Hoa Kỳ, công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ và liên doanh.  Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11/1/2007. Sự kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới của Việt Nam. Việc gia nhập WTO đã và sẽ mang lại những cơ hội to lớn sau:  Xuất khẩu của Việt Nam không còn bị bó hẹp trong các hiệp định song phương, đa phương hay khu vực mà đã mở ra thị trường toàn cầu.  Hệ thống chính sách cũng như khuôn khổ pháp lý của Việt Nam sẽ được điều chỉnh phù hợp theo qui định của WTO, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư an tâm đầu tư vào Việt Nam; phát triển khả năng thu hút vốn, công nghệ và học hỏi kinh nghiệm đầu tư, kinh doanh từ những nước phát triển. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh hệ thống pháp lý, chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nghiệp vụ mới mẻ như nghiệp vụ phái sinh ngoại hối phát triển ở Việt Nam.  Việt Nam buộc phải tháo gỡ các rào cản, cho phép các ngân hàng, doanh nghiệp thuộc các nước WTO tự do hoạt động cạnh tranh trên thị trường tài chính Việt Nam. Ngày càng nhiều Ngân hàng, công ty tài chính nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh, thúc 73 đẩy hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải thay đổi, phát triển để thích nghi với môi trường kinh tế mới.  Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm cũng như áp dụng những công nghệ, kỹ thuật mới từ các nước phát triền, hỗ trợ cho việc triển khai và phát triển các nghiệp vụ tài chính mới mẻ nhưng phức tạp như các công cụ phái sinh.  Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc phải chấp nhận nhiều rủi ro hơn đối với nền kinh tế. Sẽ có nhiều nhà đầu tư lẫn nhà đầu cơ tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam với cách thức kinh doanh đa dạng, tạo ra nhiều thách thức với những doanh nghiệp còn khá non trẻ của Việt Nam. Tuy nhiên, đây lại là một yếu tố thuận lợi giúp phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro như hoán đổi tiền tệ khi nhu cầu bảo hiểm rủi ro của các doanh nghiệp Việt Nam tăng cao. Nhìn chung, việc Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt kể từ khi gia nhập WTO sẽ làm cho hoạt động thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung chuyển mình sang một thời kì mới. Đồng thời sự vận động, phát triển của thị trường tài chính, kinh tế tăng trưởng sẽ là nền tảng cho thị trường ngoại hối hoàn thiện hơn về hệ thống và đa dạng về cơ cấu sản phẩm. Các loại hình dịch vụ như giao dịch hoán đổi sẽ ngày một nâng cao và trở nên phổ biến hơn dựa trên nền tảng sự gia tăng về nhu cầu sử dụng các nghiệp vụ bảo hiểm khi môi trường kinh doanh ngày càng chứa nhiều rủi ro hơn.  Khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngoại hối nói chung, và hoán đổi tiền tệ nói riêng đang dần được hoàn thiện: Hiện tại, sự phát triển nghiệp vụ phái sinh nói chung, và hoán đổi tiền tệ nói riêng trên thị trường ngoại hối Việt Nam đang có thuận lợi cơ bản. Đó là sự ủng hộ của Chính phủ về sự cần thiết của thị trường ngoại hối phái sinh, 74 đặc biệt là việc nâng cao và mở rộng chất lượng các sản phẩm ngoại hối phái sinh, đưa chúng đi vào đời sống kinh tế một cách có hiệu quả. NHNN đã dần đưa ra các quyết định, quy định phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo điều kiện phát triển công cụ phái sinh như mở rộng đối tượng sử dụng nghiệp vụ phái sinh, quy định về cách tính tỷ giá trong giao dịch kỳ hạn, hoán đổi; thời hạn giao dịch; rút ngắn thời gian thực hiện nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ xuống còn 1 ngày làm việc, giảm 3 ngày so với trước kia; miễn phí giao dịch… khiến cho giao dịch như hoán đổi tiền tệ trở nên hấp dẫn hơn, thu hút các chủ thể là các nhà kinh doanh, xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư, cho vay trong và ngoài nước.  Sự hỗ trợ từ NHNN đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất định cho việc phát triển dịch vụ hoán đổi tiền tệ: Nhận thức được vai trò của giao dịch hoán đổi tiền tệ cũng như những tồn tại và bất cập còn tồn tại trong việc phát triển giao dịch hoán đổi tiền tệ, tuy vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác quản lý điều hành song NHNN cũng đã có một số những hỗ trợ đối với việc mở rộng và nâng cao cả số lượng và chất lượng loại hình giao dịch này. Ngoài việc ban hành những quyết định, quy định hướng dẫn việc thực hiện giao dịch hoán đổi, NHNN cũng tham gia thị trường hoán đổi như một thành viên với các NHTM nhằm tạo điều kiện cho thị trường phát triển.  Việt Nam bắt đầu sử dụng hợp đồng khung ISDA cho giao dịch hoán đổi, phù hợp với thông lệ quốc tế: Khi dịch vụ hoán đổi chính thức bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, các công ty và ngân hàng thường tiến hành giao dịch phái sinh mà không ký hợp đồng khung ISDA 15 do đó cả hai bên đều có nguy cơ về pháp lý khi có tranh chấp và vụ 15 Hợp đồng khung ISDA là hợp đồng khung pháp lý do Hiệp hội Quốc tế về Hoán đổi và Phái sinh (tên viết tắt là ISDA) đưa ra nhằm chuẩn hóa và hợp lý hóa các giao dịch phái sinh. Hợp đồng bao gồm những quy định chặt chẽ về tín dụng giữa hai bên tham gia và được ký trước khi tiến hành các giao dịch phái sinh, từ đó tiết kiệm nhiều thời gian cho các hợp đồng cụ thể, đồng thời giảm thiểu nguy cơ xảy ra tranh chấp pháp lý cũng như rủi ro từ biến đổi của thị trường. 75 việc được đưa ra trước toà án. Do tính chất phức tạp cũng như còn rất mới mẻ của loại hình phái sinh như hoán đổi đối với thị trường tài chính Việt Nam, việc ký kết hợp đồng khung ISDA là điều cần thiết để đảm bảo việc thị trường hoạt động hiệu quả và an toàn, tạo tâm lý an tâm cho các thành viên tham gia giao dịch. Ngày 14/2/2008, tại Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cùng Ngân hàng Hồng Công và Thượng Hải (HSBC) đã ký kết hợp đồng khung ISDA đầu tiên để chuẩn hoá các giao dịch phái sinh giữa hai ngân hàng cũng như đưa lại những cơ hội kinh doanh cho cả hai bên. Trên cơ sở hợp đồng ISDA, hai bên đã thực hiện hai giao dịch phái sinh hoán đổi tiền tệ chéo USD/VND trị giá 60 triệu USD. Với bối cảnh cả ISDA và các sản phẩm phái sinh đều còn mới mẻ với thị trường Việt Nam, việc ký kết Hợp đồng khung ISDA giữa một ngân hàng thương mại trong nước với một ngân hàng nước ngoài đã góp phần nâng cao chuẩn mực của lĩnh vực ngân hàng trong nước về lĩnh vực phái sinh. 2.2. Những khó khăn cho việc ứng dụng hoán đổi tiền tệ trên thị trường ngoại hối Việt Nam: Dù Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế, hội nhập với thế giới nhưng những khó khăn, cản trở với sự phát triển dịch vụ hoán đổi tiền tệ trên thị trường ngoại hối Việt Nam vẫn còn rất nhiều khi xét về mọi mặt.  Chế độ pháp lý cho nghiệp vụ phái sinh như hoán đổi tiền tệ dù đã được thay đổi, cải thiện khá nhiều nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Sự thiếu hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ của khung pháp lý đã khiến các nhà đầu tư, kinh doanh trên thị trường ngoại hối còn khá e dè trong việc thực hiện các giao dịch phái sinh như hoán đổi tiền tệ. Các qui định về thuế hay chế độ kế toán cũng chưa rõ ràng, cụ thể, gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cả các NHTM khi thực hiện giao dịch phái sinh. 76  Việc gia nhập WTO cũng như việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng là một thử thách không nhỏ đối với thị trường tài chính nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng của Việt Nam. Nếu như không có những điều chỉnh kịp thời, thích ứng nhanh chóng từ Nhà nước đến các ngân hàng, doanh nghiệp Việt Nam với môi trường kinh tế cạnh tranh mới, thì tất yếu sẽ dẫn đến những bất ổn, thiệt hại cho nền kinh tế nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng, ngăn cản việc triển khai và phát triển các dịch vụ mới mẻ như hoán đổi tiền tệ.  Sự non trẻ cũng như yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam là một trở ngại lớn cho phát triển dịch vụ hoán đổi tiền tệ. Hầu như các NHTM Việt Nam mới chỉ quen thuộc và tập trung vào các sản phẩm ngoại hối truyền thống mà vẫn còn khá e ngại đối với việc áp dụng và phát triển những sản phẩm mới như hoán đổi tiền tệ dù đã bắt đầu cung cấp sản phẩm này. Thêm vào đó, quy mô các NHTM còn khá nhỏ bé nếu so với các ngân hàng nước ngoài, làm giảm lợi thế cạnh tranh của các NHTM khi triển khai những sản phẩm phái sinh như hoán đổi tiền tệ. Trình độ cán bộ ngân hàng cũng như kỹ thuật, công nghệ phục vụ cho các giao dịch phái sinh còn nhiều yếu kém, chưa được đầu tư hiệu quả, gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện các giao dịch phái sinh.  Tâm lý là yếu tố không nhỏ, gây cản trở việc phát triển dịch vụ hoán đổi ở Việt Nam. Hầu như thị trường Việt Nam chưa trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề nào. Thậm chí khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra, kinh tế Việt Nam cũng không chịu ảnh hưởng mạnh mẽ mà nhanh chóng lấy lại được sự tăng trưởng của mình. Thị trường ổn định đã tạo tâm lý chủ quan cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, khiến họ không quan tâm đến việc sử dụng các sản phẩm bảo hiểm rủi ro cho hoạt động kinh doanh của mình. Đặc biệt, ở Việt Nam, văn hóa “sợ chịu trách 77 nhiệm” còn khá nặng nề, cản trở các doanh nghiệp tiếp cận với những sản phẩm mới như dịch vụ ngoại hối phái sinh. 3. Giải pháp cho việc triển khai và phát triển hoán đổi tiền tệ trên thị trƣờng ngoại hối Việt Nam: 3.1 . Giải pháp mang tính vĩ mô:  Áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt hơn, “bất ổn” hơn: NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, kết hợp với các giải pháp nới rộng biên độ dao động so với tỷ giá bình quân, nhằm hình thành một thị trường ngoại hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ phù hợp với thị trường giao dịch. Việc áp dụng tỷ giá linh hoạt hơn, bất ổn hơn sẽ giúp cho thị trường phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng có điều kiện phát triển. Lí do đầu tiên là do sức ép từ bên ngoài. Việt Nam được đánh giá là một trong số những nền kinh tế đáng chú ý trong thời gian sắp tới trong mắt các nhà đầu tư và các đối thủ cạnh tranh về thương mại. Và như vậy, chắc chắn không ít nước sẽ xem chúng ta là “đối thủ tiềm năng” của họ trên đấu trường kinh tế. Điều quan trọng hơn sức ép từ nước ngoài chính là áp lực phải thay đổi của chính nền kinh tế trong nước. Như cảnh báo từ Ngân hàng Thế Giới (World Bank), các nước đang phát triển hiện đang đứng trước một rủi ro rất lớn của việc các dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ vào ào ạt. Đó chính là rủi ro tiềm ẩn của việc các dòng vốn này sẽ chảy ra nhanh gấp nhiều lần chảy vào, và gây ra khủng hoảng tài chính. Nếu giữ mãi việc bảo đảm tỷ giá sẽ “ổn định” trong một khung quá hẹp 1-2% trong một năm, thì sẽ làm thị trường chủ quan và dựa dẫm vào Nhà nước, “không thèm” sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro, đến lúc xảy ra “sự cố” sẽ trở nên hoang mang và phản ứng thái quá. Muốn cho tỷ giá linh hoạt (có lên có xuống), NHNN nên ưu tiên mua vào lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu. Giải pháp này có thể giúp giải quyết phần nào tốc độ lên giá quá mức của VNĐ. Hơn nữa để cho VNĐ lên giá liên tục và lên giá mạnh mẽ càng khiến cho dòng vốn ngoại ngắn hạn 78 chảy vào rất nguy hiểm cho nền kinh tế. Với cách điều hành chính sách tỷ giá như trong thời gian qua có thể tạo cho các doanh nghiệp cú sốc mạnh vượt quá sức chịu đựng của các doanh nghiệp trong khi các doanh nghiệp chưa sẵn sàng về tâm lý và chiến lược quản trị rủi ro. Chẳng hạn như diễn biến hiện tại, có tới 4 cú sốc liên tục dội vào các doanh nghiệp xuất khẩu (1) lạm phát làm cho chi phí đầu vào cao (2) xuất khẩu mất thị phần và (3) không bán được USD và (4) không vay được vốn ngân hàng hoặc vay với lãi suất quá cao. Vấn đề là cần phải có một sự chuẩn bị tâm lý tốt hơn cho doanh nghiệp. Như vậy họ sẽ biết cách mà điều chỉnh chính sách phòng ngừa rủi ro cho phù hợp. Có thể lấy Trung Quốc là một ví dụ điển hình trong việc chuyển đổi chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá linh hoạt. Trung Quốc trước khi thả nổi nhiều hơn đã thông báo là doanh nghiệp và người dân cần làm quen với công cụ phòng ngừa, là một cách bắn đi tín hiệu rõ ràng là: rủi ro tỷ giá sẽ lớn hơn, và các doanh nghiệp không thể chủ quan trong việc tự quyết định có nên phòng ngừa rủi ro hay không.  Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động hoán đổi tiền tệ: Điều quan trọng nhất để phát triển thị trường hoán đổi tiền tệ là hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Vì vậy, Chính phủ và các ban ngành có liên quan cần chuẩn bị xây dựng một cơ sở pháp lý chặt chẽ và hợp lý, tạo nên những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của thị trường ngoại hối, đồng thời là cơ sở quan trong cho nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ phát triển. Đồng thời NHNN cũng cần nghiên cứu và ban hành những quy tắc cơ bản nhất, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phái sinh nói chung và cụ thể là hoán đổi tiền tệ phù hợp với điều kiện thị trường của Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của các NHTM, tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một cách riêng lẻ, dẫn đến tình trạng không thống nhất, dễ gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy ra, cũng như hạn chế những rủi ro có thể cho các NHTM và cho cả doanh nghiệp. Bên cạnh đó, do tính đơn giản và linh hoạt nên nghiệp vụ hoán đổi 79 tiền tệ rất nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực. Đặc tính đó khiến thị trường hoán đổi tiền tệ dễ xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, mua bán tay trong, hoặc những hành vi tiêu cực như lừa đảo, trốn thuế, làm sai lệch thông tin… gây thiệt hại cho các thành viên tham gia thị trường; Vì vậy, trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho giao dịch này, Chính phủ, Bộ Tài chính và các ban ngành liên quan cần xây dựng các quy định ràng buộc, các yêu cầu cụ thể về: nội dung hợp đồng hoán đổi tiền tệ, điều kiện tham gia giao dịch hoán đổi, điều kiện công bố thông tin, đảm bảo tính chuẩn xác và minh bạch trên thị trường…  Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của sản phẩm hoán đổi tiền tệ: Hiện tại, vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt động hoán đổi tiền tệ được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng hoá cho thị trường – sản phẩm hoán đổi tiền tệ. Ở đây, chính là tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro của công cụ hoán đổi tiền tệ. Như đã nêu ở trên, một trong những vấn đề cấp bách tạo điều kiện để hội nhập Quốc tế về lĩnh vực tài chính – ngân hàng, để phát triển công cụ phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng là hoàn thiện chế độ kế toán Việt Nam, hướng theo thông lệ, Chuẩn mực Quốc tế. Việc hài hòa này được thực hiện theo các nội dung sau: - Các nội dung trọng yếu, nền tảng và nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt, phù hợp với nội dung Chuẩn mực kế toán Quốc tế. - Những nội dung không trọng yếu, không phải là nền tảng, đồng thời kỹ thuật xử lý kế toán lại quá phức tạp thì Việt Nam không áp dụng, không quy định. Ví dụ, đối với công cụ tài chính, không áp dụng nội dung kế toán phòng ngừa rủi ro. 80 - Đối với những nội dung không phù hợp với mức độ phát triển thấp của thị trường Việt Nam, cần có quan điểm thận trọng hơn. Ví dụ, đối với những thị trường còn non yếu, nhiều yếu tố phi kinh tế tác động đến giá cả thị trường (yếu tố bầy đàn, thông tin chưa trung thực, minh bạch...), chế độ tài chính-kế toán không nên cho phép đánh giá lại giá trị tài sản khi giá trị thị trường lớn hơn giá trị ghi sổ để ghi nhận vào kết quả kinh doanh. - Doanh nghiệp tuân thủ theo Hệ thống Chuẩn mực kế toán trong nước, đồng thời sẽ có bản đối chiếu, bổ sung những điều chỉnh cần thiết để lập thêm báo cáo tài chính theo Hệ thống Chuẩn mực kế toán Quốc tế. - Đồng thời, cần có yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính. Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau. Tóm lại, để có được chế độ kế toán Việt Nam chất lượng cao đặc biệt là các chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính- điều kiện cần cho việc phát triển thị trường công cụ tài chính phái sinh, các chuyên gia kế toán hàng đầu của Việt Nam từ Bộ Tài chính; Ngân hàng Nhà nước;Hiệp hội kế toán, kiểm toán; Hiệp hội ngân hàng; các Công ty kiểm toán; các trường đại học... cần phải hợp tác chuyên môn tốt hơn nữa.  Yêu cầu về tái phòng ngừa rủi ro: NHNN cần đưa ra các yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, đặc biệt khi giao dịch với thị trường ngoại hối quốc tế. Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước không được gánh chịu những rủi ro từ các hợp đồng phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó 81 đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết các nước phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam, chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm từ các giao dịch phái sinh trong nước.  Mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng, để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên sự bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này.  Tăng cường mối quan hệ giữa thị trường ngoại hối và các thị trường khác: Thị trường ngoại hối và các thị trường khác như thị trường tiền tệ, thị trường vốn cần có sự liên kết chặt chẽ hơn nữa thông qua tương quan giữa các yếu tố tỉ giá và lãi suất. Do sự biến động về lãi suất trên thị trường tiền tệ có thể tác động đến sự di chuyển vốn giữa hai thị trường, ảnh hưởng đến cung- cầu tín dụng và ngoại tệ, làm tỉ giá trên thị trường ngoại hối thay đổi. Việc 82 phát triển các thị trường khác bằng cách phát triển đa dạng hóa các công cụ tài chính như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, tín phiếu kho bạc…sẽ giúp cung cấp cho nền kinh tế nhiều hình thức huy động vốn và đầu tư vốn hơn, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối tích cực hơn. Bên cạnh đó, phát triển thị trường khác như thị trường trái phiếu chính phủ sẽ giúp cung cấp thêm nhiều thông tin về biến động lãi suất, tỷ giá, làm căn cứ cho các thành viên tham gia thị trường ngoại hối xác định mức độ rủi ro khi tham gia các giao dịch kinh doanh ngoại hối như hoán đổi tiền tệ.  Phát triển và nâng cao nguồn nhân lực tương lai: Giải pháp này tập trung chủ yếu vào các bạn sinh viên, học viên ở các trường cao đẳng, đại học, các trung tâm đào tạo – nguồn nhân lực tương lai để phát triển thị trường ngoại hối nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng. Cần có chương trình giảng dạy quy mô và chuyên sâu trong các trường để vừa phục vụ công tác đào tạo tại trường vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ của những người trong tương lại sẽ làm việc trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, khuyến khích các bạn sinh viên thực hành những kiến thức đã học vào thực tế qua các sân chơi, như các cuộc thi tìm hiểu kiến thức, hay các mô hình thực tế. 3.2. Giải pháp mang tính vi mô:  Về phía NHNN:  Tăng lượng dự trữ ngoại hối, trên cơ sở đó NHNN có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối chủ động hơn, nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường liên ngân hàng. Đồng thời đổi mới trong cơ chế quản lí dự trữ ngoại hối, tích cực tập trung khai thác các nguồn ngoại tệ, thay đổi cơ cấu dự trữ, giảm bớt sự phụ thuộc của VNĐ vào USD, tiến tới xác định tỷ giá VNĐ theo rổ ngoại tệ. 83  Thực hiện hoán đổi ngoại hối hai chiều với NHTM, nghĩa là bổ sung nghiệp vụ bán giao ngay và mua kì hạn USD cho các NHTM.  Tăng cường các biện pháp hỗ trợ đối với các NHTM như cho phép các NHTM tăng vốn điều lệ, bổ sung vốn tự có; nới lỏng chính sách quản lý ngoại hối, tạo điều kiện cho các NHTM kinh doanh ngoại hối một cách hiệu quả và giảm tình trạng mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do đang phát triển mạnh và khó kiểm soát; hạ thấp hơn nữa tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ nhằm giúp các NHTM tăng lượng vốn ngoại tệ khả dụng…  Về phía các NHTM:  Cần có định hướng kinh doanh cụ thể: Các NHTM cần có chiến lược kinh doanh hợp lí, cân đối mục tiêu lợi nhuân – thị phần – uy tín và an toàn vốn. Chính sách khách hàng và các hoạt động marketing cần được xúc tiến hơn nữa nhằm thu hút khách hàng, đặc biệt là nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ bằng cách triển khai các sản phẩm hoán đổi tiền tệ nhanh chóng hơn, từng bước tiếp cận khách hàng, đẩy mạnh hoạt động marketing giới thiệu sản phẩm hoán đổi tiền tệ của ngân hàng đến khách hàng. Bên cạnh việc giải thích rõ đặc điểm và lợi ích của sản phẩm hoán đổi tiền tệ, cần có chính sách giá cả dịch vụ hợp lí, vẫn có đảm bảo về lãi nhưng lại kích thích được khách hàng về mặt kinh tế, từ đó doanh nghiệp sẽ có những quyết định đúng đắng trong việc đầu tư của mình. Ngoài ra NHTM nên có chiến lược mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng ra thị trường ngoại hối quốc tế.  Nâng cao uy tín của các NHTM trên thị trường ngoại hối: Uy tín của ngân hàng là yếu tố quan trọng khiến khách hàng quyết định tham gia giao dịch với ngân hàng, đặc biệt khi quyết định tham gia vào các loại hình giao dịch còn khá mới mẻ như giao dịch hoán đổi tiền tệ. Do đó, để nâng cao để 84 nâng cao hình ảnh của mình cũng như thu hút khách hàng tìm đến những sản phẩm mới, các NHTM cần:  Tăng cường vốn điều lệ cũng như dự trữ ngoại hối của ngân hàng. Đồng thời đa dạng hóa dự trữ ngoại hối với các loại tiền khác, đặc biệt với những đồng tiền mạnh như Euro, Yên nhật, Bảng Anh.  Xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế.  Tổ chức hoạt động ngân hàng ở vị trí thuận lợi, trang thiết bị hiện đại, đặc biệt có bộ phận kinh doanh ngoại hối riêng với những cán bộ nhân viên có chuyên môn cao.  Khai thác triệt để nguồn ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối: hiện nay giao dịch hoán đổi ngoại hối luôn gồm một vế giao ngay (mua hoặc bán) nên khả năng ngoại tệ của các ngân hàng là rất quan trọng và ảnh hưởng đến việc phát triển giao dịch hoán đổi tiền tệ cả về qui mô lẫn số lượng. Các nguồn ngoại tệ NHTM có thể khai thác gồm: nguồn thu từ xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; nguồn ngoại tệ tiền mặt nắm giữ trong dân cư; lượng kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm; nguồn ngoại tệ đầu tư từ nước ngoài; hay nguồn ngoại tệ từ các chi nhánh cùng hệ thống và các ngân hàng khác… Để khai thác hiệu quả các nguồn vốn trên, NHTM cần có chính sách cụ thể, thích hợp với từng nguồn vốn.  Không ngừng nâng cao, cải thiện trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng: cần có những chính sách tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ trực tiếp kinh doanh trên thị trường hối đoái quốc tế về các công cụ phái sinh ngoại hối nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng, vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng. Ngoài ra cần trang bị thêm những kiến thức và kinh nghiệm về thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ năng phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin để dự đoán xu hướng diễn biến 85 của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh nói chung và hoán đổi tiển tề nói riêng một cách hiệu quả nhất. Với các chính sách bồi dưỡng, đào tạo và trang bị đầy đủ cho cán bộ ngân hàng về kiến thức nghiệp vụ sẽ giúp việc tiến hành nghiệp vụ hoán đổi được linh hoạt, nhanh chóng, tạo sự tin tưởng cho khách hàng, mặt khác có thể tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ cho khách hàng của mình hiểu biết hơn về thị trường ngoại hối cũng như sản phẩm ngoại hối phái sinh này. Bên cạnh đó, những chính sách như bổ sung thêm cán bộ lao động trẻ có chất lượng, bố trí nhân lực đúng năng lực, sở trường, chế độ lương thưởng thỏa đáng cũng là những biện pháp cần thiết để nâng cao mặt bằng trình độ cán bộ ngân hàng hiện nay.  Tăng cường hiểu biết của khách hàng về giao dịch hoán đổi: Hiện nay, nhiều khách hàng vẫn chưa biết đến sản phẩm hoán đổi tiền tệ, hoặc biết đến nhưng chưa hiểu rõ bản chất cũng như lợi ích của nghiệp vụ này. Doanh nghiệp có thể ứng dụng nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ để tuần hoàn trạng thái tiền tệ trong thanh toán quốc tế; xử lý trạng thái luồng tiền đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn; giảm bớt chi phí hoạt động kinh doanh; tránh rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi suất hay thậm chi kinh doanh kiếm lời. Do đó, các NHTM cần có biện pháp giúp nâng cao nhận thức của khách hàng về những rủi ro trên thị trường ngoại hối, đồng thời hiểu hơn về sản phẩm hoán đổi tiền tệ của ngân hàng thông qua các hoạt động marketing; tổ chức các buổi hội thảo để giới thiệu và tư vấn; các bài viết giới thiệu sản phẩm hoán đổi tiền tệ trên báo và tạp chí phổ thông hay phương tiện thông tin đại chúng; xây dựng các bản tin, chuyên mục về ngoại hối và hoán đổi tiền tệ trên website ngân hàng…  Hiện đại hóa trang thiết bị và cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin: Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, SowJones News hay Metastock, cần trang bị thêm phần mềm xử lý, quản lý rủi ro và tính phí đối với các nghiệp vụ phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng. Mô hình phòng kinh doanh ngoại hối cần được tổ chức theo xu 86 hướng hiện đại. Thành lập phòng Dealing Room gồm hai bộ phận: Front Office làm nhiệm vụ mua bán trực tiếp với khách hàng, còn Back Office hoàn thành các lệnh, xử lí các luồng tiền ra vào tài khoản. Đồng thời, mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với các công cụ phái sinh nói chung và công cụ hoán đổi tiền tệ nói riêng.  Về phía các doanh nghiệp:  Chế độ phân chia trách nhiệm rõ ràng: Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam hầu như vẫn chưa có sự phân định trách nhiệm rõ ràng trong việc quản lý doanh nghiệp, dẫn đến tâm lý “sợ chịu trách nhiệm”. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp cần có chế độ phân chia trách nhiệm rõ ràng hơn trong việc quản lý doanh nghiệp, như có giám đốc tài chính chuyên lo quản lý tài chính, đưa ra các chiến lược kinh doanh. Việc phân chia trách nhiệm rõ ràng trong doanh nghiệp sẽ giúp giảm vấn đề “sợ chịu trách nhiệm” đã tồn tại từ lâu trong doanh nghiệp Việt Nam.  Tự nâng cao ý thức phòng ngừa rủi ro cũng như trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối: Doanh nghiệp Việt Nam cần bỏ thói quen chấp nhận rủi ro của mình, thay vào đó doanh nghiệp cần tự nâng cao trình độ hiểu biết cũng như khả năng sử dụng các công cụ phái sinh nói chung và hoán đổi tiền tệ nói riêng vào việc phòng ngừa rủi ro trong các hoạt động giao dịch ngoại hối của mình. Để được như vậy, việc tuyển và đào tạo các cán bộ có trình độ hiểu biết cao và nhiều kinh nghiệm về việc sử dụng công cụ phái sinh như hoán đổi tiền tệ là rất cần thiết. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, nâng cao kiến thức và chuyên môn cho những nhân viên phụ trách về vấn đề tài chính nói chung và kinh doanh ngoại hối nói riêng của công ty. 87 KẾT LUẬN Thị trường ngoại hối trên thế giới ngày càng phát triển nhanh chóng cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Đây là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư kinh doanh kiếm lời, cũng là nơi tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nhu cầu phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối tất yếu dẫn đến sự ra đời của các công cụ ngoại hối phái sinh, trong đó có hoán đổi tiền tệ. Với đặc tính linh hoạt, đơn giản, dễ ứng dụng, hoán đổi tiền tệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trên thị trường ngoại hối, được các nhà đầu tư ưa dùng để phòng ngừa rủi ro cũng như kinh doanh kiếm lời. Trái ngược với xu hướng của thị trường ngoại hối thế giới, hoán đổi tiền tệ chưa thực sự phát triển trên thị trường ngoại hối Việt Nam bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan.Với nền tảng cơ sở lý luận về hoán đổi tiền tệ được giới thiệu trong chương I và việc nghiên cứu thực trạng thị trường hoán đổi tiền tệ cũng như nguyên nhân khiến sản phầm này chưa được sử dụng như một công cụ để phòng ngừa rủi ro hay kinh doanh hiệu quả ở Việt Nam trong chương II, tác giả đã đưa ra một số giải pháp mang tính vĩ mô và vi mô nhằm xây dựng và phát triển thị trường hoán đổi tiền tệ ở Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu với nền kinh tế khu vực và thế giới, việc phát triển các công cụ phái sinh như hoán đổi tiền tệ là rất cần thiết để bảo vệ các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, hệ thống NHTM và thị trường ngoại hối còn non trẻ của Việt Nam. Với bản khóa luận tốt nghiệp này, tác giả hy vọng những nội dung và vấn đề đã được trình bày sẽ là một đóng góp nhỏ, hữu ích cho việc phát triển công cụ hoán đổi tiền tệ trong tương lai, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phần tài liệu Tiếng Việt: PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2006, “Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối”, Nhà xuất bản Thống kê, xuất bản lần thứ 5, trang 15-18, 293-366. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 430/1997/QĐ/NH13 về việc thực hiện giao dịch swap giữa NHNN và các ngân hàng thương mại, ngày 24/12/1997. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN 7 ban hành Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái, ngày 10/1/1998. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN về việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối giữa NHNN với các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam cho các ngân hàng, ngày 17/7/2001. Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Quyết định 1289/2001/QĐ-NHNN sửa đổi Quyết định 893/2001/QĐ-NHNN về thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam cho các ngân hàng, ngày 11/10/2001. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về việc giao dịch hối đoái của tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối, ngày 10/11/2004. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN ban hành quy đinh liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ của, ngày 01/07/2002. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ sung Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN, ngày 28/05/2004. 89 Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Quyết định số 29/2006/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một số tài khoản trong Hệ thống tài khoản kế toán các Tổ chức tín dụng theo Quyết định 479/2004/QĐ-NHNN và Quyết định 807/2005/QĐ-NHNN, ngày 10/07/2006. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN ban hành Chế độ báo cáo tài chính đối với các Tổ chức tín dụng, ngày 18/4/2007. Các tài liệu từ website: “Nghiệp vụ tài chính phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam”, truy cập ngày 02/04/2010, . Ngân hàng Liên Việt, “Bản tin kinh tế tháng 7,8,9,10,11,12”, truy cập ngày 07/04/2010, . ThS. Ngô Nguyễn Đoan Trang, “Công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại Việt Nam”, truy cập ngày 31/3/2010, < et_nam.html>. ThS. Phạm Thị Hoàng Anh, “Ứng dụng công cụ phái sinh tiền tệ trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, truy cập ngày 07/04/2010, < te-trong-phong-ngua-rui-ro-ty-gia-tai-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam>. Trần Thị Thuận Thành, “Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam – mới hay cũ”, Tạp chí Kinh tế phát triển, truy cập ngày 02/04/2010, < viet-nam-moi-hay-cu>. 90 “Thị trường công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam - Những tác động đến phát triển kinh tế và giải pháp về kế toán”, truy cập ngày 05/04/2010, . Phần tài liệu tiếng Anh Arturo Alonso và Sylvia Huang, 2007, “Introduction to Cross Currency Swap”, Bank of America, trang 1-5. Bergljot B.Barku và Li Lian Ong, 2010, “FX swaps: Implications for Financial and Economic stability”, IMF, trang 6-9, 22-26. BIS Quarterly Review, December 2009, “International banking and finance market development”, BIS, trang 34-45, 106-132. Leonardo Bartolini, 2002, “Foreign exchange swaps”, Federal Reserve Bank of New York. Michael Melvin và Mark P.Taylor, 2009, “The crisis in the foreign exchange market”, trang 8-14. Naohiko Baba và Frank Packer, 2009, “From turmoil to crisis: dislocations in the FX swap market before and after the failure of Lehman Brothers”, BIS, trang 5-13, 72-93. Patrick McGuire và Goetz von Peter, March 2009, “The US dollar shortage in global banking”, BIS Quarterly Review, trang 49-52. Philip Gray và Timothy Irwin, 2003, “Exchange rate risk”, The world bank Triennial Central Bank Survey, 2007, “Foreign exchange and derivatives market activity in 2007”, BIS, trang 4-21, 57-62, 87-90.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5006_83.pdf