Đề tài Sự sụp đổ của A&A và Enron

SỰ SỤP ĐỔ CỦA TẬP ĐOÀN NĂNG LƯỢNG ENRON KÉO THEO SỰ SỤP ĐỔ CỦA A&A 1. Diễn biến sự việc 1.1. Bắt đầu từ sự kiện sụp đổ của tập đoàn năng lượng số một của Mỹ 1.2. Diễn biến sự sụp đổ của Enron 1. Phân tích nguyên nhân 1. Trách nhiệm pháp lý - Đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên Đạo đức kinh doanh kiểm toán với công ty A&A Thế nào là ứng xử có đạo đức? Niềm tin của công chúng đối với kiểm toán viên hiện nay Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO KIỂM TOÁN VIỆT NAM

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 15345 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự sụp đổ của A&A và Enron, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra đi, cổ phiếu của Enron tụt giá thảm hại, lòng tin của khách hàng đã mất khiến họ không đầu tư nữa và công ty khánh kiệt. Theo các chuyên gia kinh tế, một công ty hoạt động lành mạnh phải công khai tài chính với các đối tác và ngược lại. Thế nhưng, nhiều đối tác của Enron đã không tuân theo các nguyên tắc kế toán khiến họ bất lực trong việc kiểm soát tình hình tài chính. Một công ty được đánh gí là có doanh thu trên 100 tỷ USD mà lợi nhân đạt ở mức khó tưởng 10tỷ USD. Đây chính là cơ sở nghi nhờ khiến vụ việc này bị phanh phui. Số nợ 1,2 tỷ USD bị che giấu đã gây hoảng loạn trên thị trường chứng khoán khi nó bị tiết lộ. Chính những thông tin sai lệch về khả năng quản lý, Enron được quảng cáo rất hiệu quả qua công ty kiểm toán Arthur Andersen và các nhà phân tích phố Wall, nhờ vậy số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục. Chi nhánh Houston của Arthur Andersen đã đưa ra những Báo cáo Kiểm toán sai lệch nhằm có lợi cho Enron nên đã nhận được 1 triệu USD/tuần còn tham gia cả việc tìm kiếm đối tác cho Enron. Số tiền kếch xù trên đã làm mờ mắt các nhân viên kiểm toán và họ dễ dàng bỏ qua nguyên tắc. Điều trần trước Quốc hội Mỹ trong tháng trước, Tổng giám đốc điều hành Arthur Andersen, ông Joe Berardino thừa nhận họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Tuy khẳng định rằng Arthur Andersen đã làm tất cả để hạn chế thấp nhất khả năng đổ vỡ của Enron, nhưng họ lại hủy hầu hết tài liệu có liên quan đến vụ việc, ngay cả khi Ủy ban Chứng khoán đã mở cuộc điều tra. Nhiều nhà phân tích chứng khoán hồi tháng 11/2001 còn tư vấn cho khách hàng mua cổ phiếu Enron. Nhiều người thừa nhận không hiểu sâu về công việc làm ăn của Enron nhưng tin rằng đây là công ty có triển vọng bởi cổ phiếu của họ liên tục tăng giá trong thời gian dài. Trong khi các chuyên gia phân tích phải đánh giá tình hình tài chính của Enron một cách độc lập thì họ lại phụ thuộc chủ yếu vào báo cáo tài chính do Arthur Andersen cung cấp. Đến khi công ty tuyên bố phá sản với số nợ 31,2 tỷ USD, không ít nhà đầu tư bị mất trắng. Mọi người cho rằng Enron là một công ty lâu đời với rất nhiều nhà máy thì họ có thể bán bớt tài sản. Tuy nhiên, điều này là vô vọng. Thực tế cả ông Bill Clinton, Tổng thống Bush và nội các đều có mối quan hệ chặt chẽ với giới chóp bu của tập đoàn Enron, nhưng tất cả đều phủ nhận có liên quan đến sự sụp đổ này. Hai năm trước, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Mỹ Arthur Levitt yêu cầu các công ty không nhận phí kiểm toán do lo ngại tiêu cực dễ nảy sinh, nhưng ông đã vấp phải sự phản đối quyết liệt. Sự cố đang xảy đến với Andersen có khả năng biến đề xuất của Levitt thành sự thật. Các chuyên gia cho rằng tình hình của Enron có thể khả quan hơn và rất có thể không dẫn tới sụp đổ nếu như những báo cáo tài chính của Enron không được bảo kê bởi một thương hiệu lớn: Công ty tư vấn và kiểm toán Arthur Andersen. Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng lượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn. Để che giấu việc công ty đã vay quá khả năng chi trả, lãnh đạo Enron đã lợi dụng kẽ hở luật pháp để lập ra các công ty con mà không khai báo tài chính. Bằng cách này, Enron vừa không phải công khai các khoản nợ, vừa che giấu được những khoản lỗ. Kết quả là Enron đã thổi phồng lợi nhuận của mình và giá cổ phiếu của công ty cũng theo đó tăng lên vun vút. Khi mà Enron phải thông báo chính thức rằng từ năm 1997 công ty đã thua lỗ trên 500 triệu USD, những người "trong cuộc" đã kịp thời thu những món lợi khổng lồ từ cổ phiếu của công ty. Cụ thể, ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc đã giữ 138 triệu cổ phiếu của công ty. Đầu năm 2001, Ken bán ra với giá 79 USD một cố phiếu. Hầu hết những vụ mua bán này đều không được công bố. Cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD. Những hoạt động tài chính của Enron đều được dựa trên sự thiết kế và vận hành của điều mà nhiều nhà phân tích đặt tên là "những liên minh ma quái". Một mạng lưới chằng chịt quan hệ giữa Enron, một số quan chức chính phủ và đặc biệt là Công ty kiểm toán Arthur Andersen đã giúp cho Enron. Kế toán trưởng của Enron là Richard Causey - Kiến trúc sư thiết kế ra hệ thống lừa dối cổ đông - nguyên là kiểm toán viên của Andersen chuyển sang. Điểm lý thú là Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó chính mình lại đóng vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của Enron. Phí tư vấn và kiểm toán đều là những con số khổng lồ. Ví dụ, năm 2000, phí tư vấn là 27 triệu USD và phí tư vấn là 25 triệu USD. Tin vào danh tiếng của Arthur Andersen (hoặc cố tin), đến lượt các công ty phân tích chứng khoán và ngân hàng đầu tư ở phố Wall cho đến trước cuộc khủng hoảng vẫn khuyên các nhà đầu tư mua cổ phiếu của Enron. 1.2. Diễn biến sự sụp đổ của Enron Trước năm 2002, thị trường tư vấn tài chính và kiểm toán thế giới chịu sự thống trị tuyệt đối của ngũ đại gia: KPMG, Deloitte & Touche, Ernst & Young, PriceWaterhouseCooper, và Arthur Andersen. Họ chiếm ba phần tư doanh số của thị trường tư vấn - kiểm toán trị giá hàng trăm tỉ đô la mỗi năm. Trong 100 công ty lớn nhất thế giới, 99 công ty sử dụng dịch vụ của ngũ đại gia.( Số liệu từ tạp chí Casablanca) Bắt đầu từ vụ vỡ lở vào cuối năm 2001 và đầu năm 2002, mọi người mới nhìn kỹ hơn đến nhà kiểm toán Arthur Andersen. Đây không phải lần đầu đại gia này bị lâm vào rắc rối. Nhưng tất cả các lần rắc rối trước, Andersen đều thoát ra bằng cách chi tiền "dàn xếp" với bên nguyên đơn. Luật pháp Mỹ cho phép bên bị đơn chi tiền để dàn xếp các vụ kiện dân sự trong khi vẫn không nhận lỗi. Nhưng đến vụ Enron thì Andersen không còn có thể dàn xếp, vì đây là vụ án hình sự. Ngoài các lỗi như không phát hiện được những bất thường trong hồ sơ kế toán của Enron, giúp Enron nổi danh trên thị trường trong khi thực chất đang thua lỗ nặng.. thì Andersen đã bị buộc một tội hình sự nghiêm trọng là cố ý cản trở công việc điều tra thông qua việc tiêu hủy hàng ngàn tài liệu có liên quan đến Enron. Enron - tập đoạn lớn thứ 7 nước Mỹ - bắt đầu sa lầy vào khủng hoảng từ cuối năm ngoái. Ngày 26-10-2001, công ty sụp đổ với khoảng nợ quyết đoán với 13 tỷ dollars và hàng tỷ dollars nợ vay, tái trả tín dụng và trả các hợp đồng năng lượng. Enron phải tuyên bố phá sản đánh dấu vụ thất bại kinh doanh lớn nhất ở Hoa Kỳ khiến hàng ngàn nhân viên đã đầu tư vào quỹ lương hưu của Enron giờ đã tay trắng hoàn toàn. Tuần qua Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ quyết định điều tra xem có phải các giới chức Enron đã phạm tội lừa đảo trước khi công ty phá sản hay không? Cổ phiếu của Enron bị ngừng giao dịch trên thị trường hôm 11-1. Tập đoàn Arthur Anderson chịu trách nhiệm kiểm toán của Enron vừa thú nhận rằng họ đã hủy bỏ khá nhiều tài liệu nói về sai phạm tài chánh ở Enron. Cuối năm ngoái, Enron đã cầu cứu các giới chức cao cấp của chính quyền Bush, trong đó có Bộ Trưởng Ngân Khố Paul Oneil và Bộ Trưởng Thương Mại Don Evans để tìm kiếm sự giúp đỡ. Lúc đó, ông O'neil đã không thông báo cho TT Bush về cuộc khủng hoảng của Enron và chính quyền cũng không làm gì để bảo vệ cho các nhân viên cũng như cổ đông của Enron khiến họ giờ đây bị mất tất cả. (Source:AP và AFP). Lời bào chữa duy nhất của Andersen là việc tiêu hủy tài liệu chỉ là "quy trình bình thường" và công ty vẫn lưu giữ những tài liệu ở mức tối thiểu theo luật định. Ngay sau khi bị kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt vụ kiện khác, với tổng số thiệt hại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD. Ngay sau khi vỡ lở vụ việc, Arthur Andersen bắt đầu thương lượng để sáp nhập vào Deloitte & Touche, công ty xếp thứ 5 thế giới trong lĩnh vực kiểm toán và từng là đối thủ cạnh tranh của Arthur. Cuộc đàm phán đầu tiên giữa hai hãng được bắt đầu với nội dung Deloitte sẽ đảm bảo thanh toán các khoản nợ của Arthur có nguồn gốc từ vụ phá sản Enron, và thương hiệu Arthur Andersen phải biến mất. Nhưng khi Deloitte nhận thức được qui mô của vấn đề, cuộc đàm phán đã không đi đến kết quả nào. Cuộc đàm phán thứ hai là với KPMG, đối thủ cạnh tranh truyền kiếp của Andersen. Cũng như Deloitte, công ty KPMG không sẵn lòng tiếp nhận cái thương hiệu quá tệ hại, trong khi rất muốn tiếp nhận một phần trong số 85,000 chuyên gia của Andersen, những người không chỉ mang theo chuyên môn mà còn mang theo mối quan hệ với khách hàng. Cuối cùng thì PKMG cũng đồng ý thu nạp 23 chi nhánh "ở ngoài nước Mỹ" của Andersen với cái giá rẻ mạt là 284 triệu USD. Một trong ngũ đại gia là Ernst & Young đã chiếm được phần lớn những khách hàng và chuyên gia của Andersen ở Mỹ. Các công ty nhỏ hơn cũng kiếm được phần chia. Công ty tư vấn Hitachi Consulting của Nhật thuê lại 400 chuyên gia của Andersen, một trong số đó đến nay đã trở thành Tổng Giám đốc của Hitachi Consulting. Đó là kết cục của Arthur Andersen, một công ty kiểm toán hàng đầu thế giới, với 85.000 chuyên gia và 89 năm lịch sử, đến nay chỉ còn không đầy 200 người, chủ yếu để hầu kiện trong các vụ kiện của cổ đông trong các công ty khách hàng trước đây. Nếu vụ tai tiếng Enron có thể minh chứng cho một điều gì đó thì đó là bản chất dính líu lẫn nhau của thế giới kinh doanh hiện đại. Sự kiện sụp đổ của Enron có liên quan tới rất nhiều người, đặc biệt là ở tiểu bang Texas. “Ở một mức độ nào đó thì rõ ràng là mọi người đều có dính líu với Enron”, Richard Murray, giám đốc trung tâm Chính sách Công cộng của viện đại học Houston, khẳng định. Dù sao, trong lúc tổ chức Enron có một tác động tiêu cực với cộng đồng kinh doanh Texas thì với những công ty trực tiếp dính líu đến Enron trong việc kinh doanh, hậu quả thật sự là thảm họa. Với công ty kiểm toán cho Enron, Arthur Andersen, việc dính líu này có một tác động chết người. Hơn nữa, vụ tai tiếng Enron có liên quan đến việc kiểm toán. Đặc biệt là việc che giấu hồ sơ liên quan đến tài khoản và những món nợ khổng lồ của Enron, một thực tế về sự đồng loã của công ty kiểm toán. Sự đồng loã này càng rõ ràng hơn khi David Duncan, kế toán trưởng của Enron ở Andersen, bị buộc phải có mặt trong cuộc điều tra đầu tiên đã từ chối nói chuyện để cố chạy tội cho bản thân. Ngay cả khi Joseph Beradino, trưởng ban điều hành của Andersen, ngang ngạnh bảo vệ cho vai trò của công ty ông trong việc này cũng không thể tránh được những tổn thương bắt buộc. Một khi họ đã bị cáo buộc là có tội trong việc huỷ hoại chứng cớ, công ty gánh chịu sự tổn thương thương hiệu nghiêm trọng và những chấn động vẫn còn cảm nhận được trong toàn ngành công nghiệp kiểm toán. Phân tích nguyên nhân Nguyên nhân sự sụp đổ của Enron, xuất phát chủ yếu từ ban giám đốc(BGĐ). Thứ nhất, do những mục tiêu đặt ra cho BGĐ là quá cao trong khi năng lực BGĐ có hạn. Thứ hai, BGĐ phải chịu một áp lực rất lớn trong việc báo cáo có lãi và gia tăng lãi trong khi công ty gặp bất lợi trong kinh doanh. Thứ ba, việc xác định tài sản, công nợ, doanh thu và cho phí thường dựa trên ước tính chủ quan của BGĐ (chẳng hạn đánh giá giá trị của các công cụ tài chính). Thứ tư, BGĐ không tuân thủ chính sách quản trị công ty đã đề ra. Việc BGĐ cấp cao gây áp lực lớn lên các nhà quản lý cấp trung và kiểm toán viên đã góp phần kéo Enron, công ty lớn thứ 7 ở Mỹ, xuống vực thẳm như: Với chiến lược tăng trưởng nhanh,BGĐ Enron tích cực mua thêm các công ty và tài sản khác. Một phần lớn vốn vay từ ngân hàng. Một phần vốn do công ty phát hành quyền chọn mua cổ phiếu của công ty (Mang lại quyền mua cổ phiếu cơ sở vào một thời điểm nhất định với mức giá định sẵn ( giá thực hiện)v ới dối tác enron. Người mua quyền chọn sẽ phải trả một khoản phí cho người bán quyền chọn); Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng lượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn; Sự độc quyền trong việc quản lý kiểm soát, điều hành công ty; lãnh đạo công ty quyết định sản xuất với mức cao hơn công suất tối ưu. Điều này cho phép công ty giảm giá thành đơn vị sản phẩm (nhờ tận dụng chi phí cố định), qua đó tăng lợi nhuận trong năm hiện tại. Tuy nhiên, mặt trái của việc làm này là máy móc thiết bị phải làm việc với công suất cao hơn mức tối ưu, ảnh hưởng tiêu cực tới năng suất và độ bền của thiết bị. Đồng thời, sản phẩm làm ra nhiều không bán được sẽ làm phát sinh chi phí bảo quản. Hàng tồn kho lâu ngày dẫn tới giảm giá trị. Các chi phí này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của công ty trong các năm tiếp theo. Hay là cắt giảm các khoản chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu phát triển (R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tu bảo dưỡng thiết bị. Các chi phí này có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của công ty trong dài hạn. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn ban lãnh đạo công ty có thể sẽ chọn giải pháp cắt giảm các chí phí này, đồng nghĩa với việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng lớn trong tương lai. Doanh thu: Giá cả trong ngành năng lượng dao động rất mạnh, trong khi khách hàngcó nhu cầu ổn định giá. Với tư cách là một nhà cung cấp, Enron đã ký những hợpđồng cố định giá với khách hàng trong tương lai và thu phí từ những hợp đồng này.Những phí này được tính vào doanh thu hiện tại, trong khi rủi ro trong tương laiEnron sẽ phải gánh chịu Các công ty con: còn gọi tắt là SPE (Special Purpose Entity) được Enron thành lập ra để đứng tên tài sản, đồng thời gánh chịu và cô lập các rủi ro tài chính. Ví dụ, khi Enron phát triển thêm đường ống, công ty có thể lập ra một SPE. Đơn vị SPE này sẽ làm chủ đường ống và thế chấp ngay ống này để vay tiền xây dựng. Enron vẫn đượcsử dụng đường ống này và lấy doanh thu từ đường ống để thanh toán cho chủ nợ.Theo cách này, bảng cân đối kế toán của công ty không thể hiện cả tài sản (đườngống) lẫn trách nhiệm nợ tương ứng. Luật kế toán liên quan đến SPE: Theo các qui định kế toán, trong tổng vốn củacông ty con phải có ít nhất 3% cổ phần của Enron. Nhưng nếu cổ phần của Enron chỉ ở dưới 50% tổng cổ phần của SPE, sổ sách của Enron không phải thể hiện tài sản vàtrách nhiệm nợ của SPE. Sự lạm dụng các SPE: Tuy số lượng các SPE đã tăng lên trong nhiều năm qua, một công ty có đến bốn hay năm đối tác như vậy đã là quá nhiều.Vào thời điểm sụp đổ, Enron có đến 900 SPE, hầu hết đặt ở các nước ưu đãi thuế haydễ dãi về luật kế toán. Enron sử dụng những SPE này để thao túng các báo cáo tàichính, che giấu các nhà đầu tư những thông tin lẽ ra phải công bố, và khai thác cáckhác biệt về luật kế toán tài chính cũng như luật kế toán thuế. Nợ của công ty con: Dù cho chỉ có rất ít vốn chủ sở hữu, các SPE có thể vay ngân hàng do hai lý do. Thứ nhất, các chủ nợ tin tưởng là Enron đã ký hợp đồng sử dụng tàisản của SPE nên hoạt động của SPE được bảo đảm. Thứ hai, họ tin là Enron đã bảolãnh rủi ro cho các khoản vay của SPE. Nợ của Enron: Bản thân Enron cũng đi vay để phát triển mở rộng, nhưng một côngty không thể vay quá nhiều do các điều khoản hạn chế của chủ nợ. Enron đã sáng tạora một xảo thuật hợp pháp trong đó Enron, SPE, và công ty JP-Morgan đã dùng cáchợp đồng hoán chuyển làm cho nợ dài hạn được thể hiện trên bảng cân đối như “tráchnhiệm chứng khoán”. Thổi phồng doanh thu và lợi nhuận: Enron bán tài sản cho các SPE với giá đã đượcthổi phồng lên để tạo ra lợi nhuận giả tạo. Công ty cũng mua qua bán lại với SPE đểtăng doanh số và giảm bớt mức độ dao động của lợi nhuận. Che dấu thua lỗ: Tuy đến quý 3/2001 công ty mới báo cáo lỗ, nhưng thực chất lỗ đãphát sinh từ các năm trước. Đặc biệt là vào cuộc khủng hoảng nhiên liệu năm 2000,khi giá nhiên liệu thế giới lên cao nhưng Enron vẫn phải bán ra với giá cố định theocác hợp đồng đã ký trước. Công ty đã dùng các thủ thuật hợp đồng để chuyển nhữngkhoản lỗ này sang các SPE.Tuy nhiên khi các SPE thua lỗ thì trị giá cổ phần của Enron trong SPE giảm xuốngdưới mức tối thiểu 3% theo yêu cầu. Việc Enron phải hợp nhất tình hình tài chính củaSPE vào báo cáo tài chính của công ty mẹ gây ra hai tác động: nợ của công ty mẹ tănglên và lợi nhuận của công ty mẹ giảm xuống. Phản ứng dây chuyền: Enron cũng cho các SPE “vay” các cổ phiếu của mình, khigiá cổ phiếu của Enron giảm xuống, tài sản của các SPE tiếp tục giảm xuống và tiếp tục vi phạm quy định về 3% đến mức phải hợp nhất vào báo cáo của Enron. Gian lận của các quản lý cao cấp diễn ra trong toàn công ty. Nhiều cán bộ điều hành hưởng lợi. Hàng loạt cán bộ quản lý của Tập đoàn năng lượng Enron dính líu đến gian lận kế toán, giao dịch nội bộ bất hợp pháp. Việc đặt ra các nguyên tắc kế toán chặt chẽ, chế độ báo cáo hàng quý, quy định trả phí quyền mua cổ phiếu trước tỏ ra vô hiệu. Nguyên nhân bắt nguồn từ một số vấn đề - các quy định, quy chế ban hành đã cản trở nhà đầu tư khi "thôn tính" một công ty được đưa ra các quyết định của mình, luật thuế bị lách theo hướng tiêu cực… các vị lãnh đạo chóp bu trong đó phải kể đến Giám đốc điều hành Andrew Fastow của Enron đã hưởng lợi trái phép trên 33 triệu USD từ các giao dịch Kẽ hở giúp các vị giám đốc kiếm lời ở đây chính là mức phí quyền mua cổ phiếu của nhân viên ở mức rất cao và tính độc quyền trong ban quản lý công ty. Chi phí trả cho quyền mua cổ phiếu là điều đương nhiên nhưng chi phí này chiếm tỷ lệ quá cao là điều vô lý, hay ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc đã giữ 138 triệu cổ phiếu của công ty. Đầu năm 2001, Ken bán ra với giá 79 USD một cố phiếu. Hầu hết những vụ mua bán này đều không được công bố. Cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD. Thủ tục kế toán không minh bạch đã che đậy tình trạng thua lỗ của tập đoàn bằng cách thành lập các công ty vỏ bọc bên ngoài.các bản báo cáo tài chính không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà lãnh đạo buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo cáo tài chính. Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đối phó nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện doanh nghiệp thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường. chính kỳ vọng quá lớn của thị trường đã đẩy các nhà lãnh đạo Enron tới hành vi gian lận tài chính. Sau khi bị phanh phui, giá trị của Enron(giá trị của các cổ phiếu tr ên thị trường chứng khoán =P x Q(tổng số cổ phiếu) nhanh chóng bị tụt xuống dưới mức 1 tỷ USD so với giá trị thực (Giá trị của các tài sản thuộc sở hữu công ty) 30 tỷ và kết cục sau cùng là phá sản. Trong quá trình lập báo cáo tài chính, công ty thường sử dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của công ty. Vì không có một tiêu chuẩn chính xác về giá trị các ước tính này, nên nó được xem là một công cụ đắc lực để phù phép lợi nhuận. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho (đánh giá lại tài sản), giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuấng dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện ( v í d ụ Chi phí đi vay không đủ điều kiện vốn hoá là chi phí không liên quan trực tiếp đến việc đầu tư xây dựng cơ bản hoặc sản xuất tài sản dở dang được tính vào giá trị của tài sản đó. Các chi phí đi vay chỉ được vốn hoá khi doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai do sử dụng tài sản đó và chi phí đi vay có thể xác định một cách đáng tin cậy. Chi phí đi vay được vốn hoá tính cho 2 trường hợp sau: Chi phí đi vay được vốn hoá liên quan đến từng khoản vốn vay riêng biệt được xác định là chi phí đi vay thực tế phát sinh từ các khoản vay trừ (-) đi các khoản thu nhập phát sinh từ hoạt động đầu tư tạm thời của các khoản vay này. Chi phí đi vay được vốn hoá liên quan đến các khoản vốn vay chung được tính toàn bộ chi phí đi vay thực tế phát sinh từ các khoản vốn vay chung vào giá trị tài sản dở dang. Khoản thu nhập phát sinh do đầu tư tạm thời từ khoản vốn vay chung được tính vào doanh thu hoạt động tài chính....) Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh khỏi. Ngoài phù phép thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp còn có thể phù phép lợi nhuận thông qua việc giàn xếp một số giao dịch thực (Real earnings management) nhằm tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi cho công ty về lâu dài. Mối quan hệ giữa Andersen với enron không chỉ là tư vấn và kiểm toán mà còn là nguồn cung cấp lãnh đạo tài chính. Kế toán trưởng Richard Causay của Enron nguyên làngười của Andersen. Giám đốc Tài chính của Enron trước Andrew Fastow là Jeffrey McMahon nguyên cũng từ Andersen chuyển sang. Ngoài ra công ty Andersen đã cản trở công việc điều tra, hủy những tài liệu lưu trữ của mình có liên quan đến Enron, chỉ giữ lại những tài liệu tối thiểu theo quy định của luật, Công ty tư vấn và kiểm toán Arthur Andersen cố tình làm sai lệch thông tin che mắt giới chức và lừa dối các nhà đầu tư Tháng 1/2001, một nhân viên kiểm toán của Andersen đã cực lực phản đối phương pháp kế toán của Enron. Vài tuần sau, nhân viên này bị Andersen chuyển sang bộ phận khác theo đề nghị của Enron. Một nhân viên của Merrill Lynch (công ty đánh giá xếp hạng chứng khoán) đã xếp hạng cổ phiếu của Enron vào loại “không có triển vọng”. Nhân viên này bị sa thải ngay sau đó. Trách nhiệm pháp lý - Đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên Chuẩn mực đạo đức là một khái niệm nhạy cảm của bất cứ ngành nghề nào trong xã hội, nhất là đối với nghề nghiệp có liên quan mật thiết với hoạt động kinh tế như kế toán, kiểm toán. "Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán đã được xây dựng trên nền tảng: "độc lập; khách quan và chính trực; bảo mật; năng lực chuyên môn và tính thận trọng; tư cách nghề nghiệp; tuân thủ chuẩn mực chuyên môn".Đạo đức nghề nghiệp – Tài sản "vô hình" quí giá của người hành nghề" Đạo đức kinh doanh kiểm toán với công ty A&A Đây không phải là trường hợp đầu tiên xảy ra việc làm sai lệch thông tin che mắt giới chức và lừa dối các nhà đầu tư. Các công ty kiểm toán khác cũng đã từng phải bồi thường những con số khổng lồ hàng trăm triệu đô la. Nhưng một khi chưa bị rút giấy phép kiểm toán, chưa ai phải đi đến kết thúc bi thảm như A&A Khi một bản báo cáo tài chính bị thể hiện sai sự thật, người thiệt hại là cổ đông khi họ mua bán cổ phiếu dựa theo những thông tin đó. Người được lợi là những kẻ "bên trong" biết rõ nội tình, biết rõ khi nào phải mua và khi nào nên bán cổ phiếu. Hội đồng định chuẩn kế toán của Mỹ đã đề ra một chuẩn kế toán, trong đó Enron và Andersen sẽ không thể che mắt cổ đông. Nhưng chuẩn này đã không được thông qua. Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Mỹ, ông Arthur Levitt, đã cực lực phản đối việc một công ty vừa làm tư vấn vừa làm kiểm toán cho một khách hàng. Ông đã thúc đẩy việc ban hành luật cấm công ty kiểm toán làm tư vấn. Nhưng luật này cũng không được thông qua.Có điều này đó là do sự lobby mạnh mẽ của các cong ty lon nhu Enron Về phần mình, có lẽ các công ty tư vấn kiểm toán sẽ phải xét đến một chuẩn đạo đức mới. Từ trước đến nay, trước bất kỳ một yêu cầu nào của khách hàng, thay vì nói "không", họ đã nói "để chúng tôi giúp quí vị làm điều đó". Thế nào là ứng xử có đạo đức? Sẽ có nhiều người phát triển quy tắc ứng xử riêng cho tổ chức, tuy nhiên điều quan trọng hơn là các quy tắc ứng xử đó thực sự tạo nên sự khác biệt và cái nhìn khác biệt giữa các tổ chức. Chúng ta cũng cần bảo đảm cho các kiểm toán viên và kế toán viên không cảm thấy bị áp lực cư xử trong lợi ích của công ty hơn là lợi ích của công chúng. Điều này cũng có nghĩa các tổ chức cần xem lại cách họ thưởng nhân viên như thế nào. Có bao nhiêu ông chủ sẽ tăng lương cho nhân viên nếu họ thực hiện công việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức, đem lại lợi ích cho công chúng nhưng lại làm ông chủ bị lỗ? Họ từ chối các việc làm sai trái hay hành xử có đạo đức có thể gây thiệt hại cho một tổ chức trong khoảng thời gian ngắn, tuy nhiên trong dài hạn thì có thể mang lại lợi ích lớn hơn về danh tiếng cũng như tài chính bằng các quyết định hướng tổ chức loại bỏ các hành vi như không trung thực hoặc gian lận. Trên đây là vấn đề lớn đối với các nhà quản lý cao cấp, các hội đồng quản trị, các kiểm toán viên cao cấp và các kế toán viên trong việc xây dựng một văn hóa dựa trên nền tảng giá trị đạo đức. Họ sẽ sống theo các quy định và áp dụng chúng ở mọi khía cạnh trong cuộc sống nghề nghiệp. Nó cũng rất cần thiết trong trường hợp "làm những gì chúng cần ta làm" chứ không "làm những gì chúng ta nói ra" khi nó trở thành giá trị đạo đức. Niềm tin của công chúng đối với kiểm toán viên hiện nay Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên với niềm tin của công chúng đang là vấn đề thách thức với nghề nghiệp của chúng ta trong thế kỷ 21 này – sau ảnh hưởng của các vụ bê bối tài chính làm rung chuyển thế giới trong những năm 2001 và 2002. Đây không phải là vấn đề mà chỉ một số nước gặp phải mà là vấn đề của tất cả các tổ chức ở tất cả các nước. Lòng tin của các bên có lợi ích liên quan (stakeholder) là chìa khoá của sự thành công cho hệ thống tài chính và các nền kinh tế để hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Đây là vấn đề cơ bản để xây dựng niềm tin vào hệ thống tài chính và sự phát triển của các nền kinh tế. Ai trong chúng ta có thể đoán trước được các sự kiện năm 2001 khi mà công ty kiểm toán và kế toán lớn nhất thế giới là Andersen lại có thể biến mất trong vòng sáu tháng kế theo sự sụp đổ của Enron. Có một câu nói nổi tiếng trong kinh doanh là "Phải mất nhiều năm để xây dựng niềm tin nhưng chỉ mất vài phút để đánh mất nó". Nó rất đúng trong trường hợp này – khi mà các chữ kí của Andersen trên các báo cáo tài chính của họ đã không còn làm các bên có lợi ích liên quan của công ty tin tưởng. Đấy là sự ác nghiệt không thể tránh khỏi. Sau các vụ bê bối trên, phản ứng của một số thị trường là tìm cách củng cố lại lòng tin bằng việc cố gắng đưa ra các quy định để ngăn chặn tham nhũng, gian lận và quản lý công ty tồi có thể xảy ra để tồn tại. Điều này cũng có nghĩa là các đánh giá và kỹ năng chuyên môn đang đối diện với sự chấm hết bởi các quy định vì cách tiếp cận "hộp kiểm tra" (tick box) đang được áp dụng ngày càng tăng. Tại Mỹ, một số quy định khắt khe của đạo luật Sarbanes - Oxley được đặt ra sau sự kiện Enron và WorldCom đã được giảm nhẹ đi hoặc loại bỏ do những tác hại của nó đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán New York – quan điểm này sau đó đã được nhiều nhà làm luật chấp nhận. Có các quan điểm hoan nghênh việc đưa ra nhiều quy định chặt chẽ hơn nữa. Trong một sự kiện tổ chức tại Singapore, một chuyên gia tài chính đã có một lời phát biểu như sau "đạo luật Sarbox đã làm thay đổi cuộc đời tôi, tôi là một kiểm toán viên nội bộ và lần đầu tiên - Hội đồng Quản trị không chỉ biết đến tên của tôi mà họ còn muốn trao đổi với tôi". Ý kiến trên chỉ ra sự thách thức và cơ hội hiện tại với các kiểm toán viên và kế toán viên. Sau hậu quả của những vụ bê bối và phản ứng của thế giới, các kiểm toán viên và kế toán viên bây giờ được đặt làm vai trò trung tâm trong các tổ chức. Họ không còn là "những nhà tiên phong" ít được công chúng biết tới nữa - đấy là những hình ảnh truyền thống của nghề nghiệp mà tất cả chúng ta đều quá quen thuộc. Những kế toán viên chuyên nghiệp không những chỉ có kỹ năng chuyên môn cao, quản lý trên những nguyên tắc rõ ràng mà còn phải làm việc trên lợi ích của công chúng. Kiểm toán viên và kế toán viên phải có mối quan tâm cao nhất khi họ giải quyết những thách thức về đạo đức và quản lý doanh nghiệp mà họ sẽ gặp phải trong tương lai Những điều nêu trên giờ đây đã trở thành vấn đề trung tâm và hàng đầu của kinh doanh. Giờ đây, kiểm toán viên và kế toán viên được đặt trong vị trí nổi bật hơn bao giờ hết; và các hoạt động và ứng xử của họ có ảnh hưởng quan trọng đến sức khoẻ của một quốc gia. Chắc hẳn mọi người còn nhớ một vài tháng cách đây, PwC đã bình chọn Việt Nam là nước dẫn đầu về đầu tư vào ngành công nghiệp sản xuất trong bản điều tra về các thị trường mới nổi của mình. Bản điều tra nói rằng, mặc dù vẫn còn có một số rủi ro nhưng Việt Nam hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận tiềm năng cho các nhà đầu tư. Chỉ cần một vài kinh nghiệm xấu cho các nhà đầu tư, cho Việt Nam là sẽ làm mất đi sự xếp hạng quý báu này. Đấy là lý do tại sao những nhà chuyên môn về tài chính lại đóng một vài trò quan trọng đến như vậy. Mọi tổ chức, mọi lĩnh vực phải đặt trong sức ép mạnh hơn bao giờ hết để chứng tỏ rằng chiến lược và kết quả hoạt động của họ phải đi song hành với sự mong đợi của các bên có lợi ích liên quan và lợi ích của công chúng rộng lớn hơn. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng khi doanh nghiệp có phương thức quản lý tốt, có chiến lược năng động gắn liền trách nhiệm công ty và xã hội và có đạo đức thì sẽ mang lại thành công trong kinh doanh. Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên Nhu cầu kiểm toán xuất phát từ việc các chủ sở hữu doanh nghiệp (cổ đông) bởi họ không thể và cũng không cần thiết tự kiểm tra mọi thông tin tài chính của doanh nghiệp do giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm lập và báo cáo cho họ, do vậy họ đã bổ nhiệm các kiểm toán viên – những người có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, khách quan - thay thế họ kiểm tra một cách độc lập và báo cáo lại theo ý kiến của mình về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính.Do vậy phải xuất hiện các kiểm toán viên độc lập. Có trách nhiệm đưa ra các ý kiến về sự trình bày trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính doanh nghiệp. Đồng thời trong một số trường hợp, kết quả kiểm toán cho thấy doanh nghiệp có hành vi không tuân thủ pháp luật ở mức độ nào đó mà theo qui định của pháp luật cần báo cáo cho các cơ quan chức năng, khi đó kiểm toán viên còn có nghĩa vụ báo cáo lại cho các cơ quan chức năng về hành vi vi phạm đó của doanh nghiệp. Về trách nhiệm phải thông báo cho các cơ quan chức năng về những hành vi phạm pháp của doanh nghiệp. Không phải mọi phát hiện của kiểm toán viên về hành vi không tuân thủ pháp luật đều phải thông báo cho các cơ quan chức năng mà chỉ những trường hợp cụ thể theo qui định của pháp luật. Mặc dù qui định như vậy trong chuẩn mực kiểm toán nhưng trong thực tế ở việt nam cũng như các nước khác trên thế giới cũng chưa có qui định nào chỉ rõ rằng những tình huống nào kiểm toán viên cần phải thông báo. Tuy nhiên trong các chuẩn mực kiểm toán hướng dẫn, khi phát hiện các hành vi không tuân thủ pháp luật hay gian lận của doanh nghiệp thì tuỳ từng tình huống mà kiểm toán viên có ứng xử thích hợp. Từ việc đánh giá mức độ ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, thông báo cho Ban giám đốc doanh nghiệp, thông báo cho những người sử dụng báo cáo kiểm toán và trong trường hợp pháp luật qui định cần thông báo cho cơ quan chức năng. Trong trường hợp này kiểm toán viên cần tham khảo ý kiến của chuyên gia pháp luật, hoặc kiểm toán viên có thể và cần thiết từ bỏ cuộc kiểm toán khi thấy rằng mức độ an toàn trong việc thực hiện hợp đồng kiểm toán này dưới mức cho phép. Trong thực tế luôn tồn tại khoảng cách giữa kiểm toán viên và những những người sử dụng kết quả kiểm toán về những mong muốn của những đối tượng này với phạm vi trách nhiệm của kiểm toán viên. Các mong muốn của này luôn vượt quá trách nhiệm và khả năng của kiểm toán viên. Trách nhiệm của kiểm toán viên là đảm bảo rằng trong báo cáo tài chính đó không có các sai sót trọng yếu, và nếu có các sai sót trọng yếu, kiểm toán viên phải hành động theo hướng dẫn của các chuẩn mực kiểm toán và pháp luật. Theo nguồn số liệu trong cuốn Auditing – Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow cho thấy kết quả khảo sát đối với những người sử dụng kết quả kiểm toán thì các yêu cầu, mong đợi của các đối tượng này đối với các kiểm toán viên xoay quanh các vần đề: - 93% những người được hỏi cho rằng kiểm toán viên cung cấp sự đảm bảo rằng không có bất cứ gian lận nào gây ra bởi các người lãnh đạo của công ty, - 92% cho rằng kiểm toán viên đảm bảo chắc chắn rằng Ban giám đốc công ty đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm của họ: - 71% Kiểm toán viên phải cảnh báo về bất cứ sự kém hiệu quả nào của Ban giám đốc công ty, - 81% cho rằng kiểm toán viên mang lại sự đảm bảo rằng Công ty có tình hình tài chính tốt và - 71% cho rằng kiểm toán viên đảm bảo rằng mọi hành vi của Ban giám đốc là phù hợp với lợi ích của các cổ đông. Kiểm toán viên rất khó và không thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu trên. Khoảng cách này tồn tại một phần do sự thiếu hiểu biết đầy đủ về bản chất, mục tiêu của kiểm toán của khách hàng và những người sử dụng kết quả kiểm toán. Về mặt pháp lý, trong chuẩn mực kiểm toán ban hanh theo QD 03/2005/QD BTC “kiểm toán viên không thể có và không phải chịu trách nhiệm ngăn ngừa những gian lận” tuy nhiên công tác kiểm toán chỉ có thể được coi là một biện pháp răn đe hữu hiệu. Theo nghi định 105/2004/ND-CP qui dinh "Nếu kiểm toán viên vị phạm pháp luật (như cố ý làm sai qui định, thông đồng bao che cho người phạm lỗi, dùng thủ thuật nghiệp vụ để che dấu sai sót, nhận hối lộ, báo cáo kiểm toán thiếu khách quan trung thực…) thì tuỳ theo mức độ nặng nhẹ có thể bị thu hồi chứng chỉ kiểm toán viên và bị xử lý theo pháp luật hiện hành; nếu vì những vi phạm và thiếu sót mà gây thiệt hại vật chất cho khách hàng thì kiểm toán viên phải bồi thường thiệt hại". Ở các nước có hoạt động kiểm toán phát triển thì qui định này chỉ cụ thể rằng, các kiểm toán viên chịu trách nhiệm về những thiệt hại do sự thiếu trách nhiệm hoặc đã không đủ năng lực khi thực hiện dịch vụ kiểm toán dẫn đến các thiệt hại cho những đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán. Trách nhiệm này chỉ có thể xẩy ra khi: - Có thiệt hại xẩy ra trực tiếp đến đối tượng cụ thể sử dụng báo cáo kiểm toán đó và đối tượng này yêu cầu kiểm toán viên thực hiện trách nhiệm bồi thường - Thiệt hại xẩy ra là hậu quả trực tiếp của việc sử dụng báo cáo kiểm toán có sai sót trọng yếu. - Kiểm toán viên chỉ chịu trách nhiệm trực tiếp với đối tượng bị thiệt hại. Khi xẩy ra các thiệt hại cần phải xác định rõ nguyên nhân gây ra. Các kiểm toán viên không thể bảo đảm cho các đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán khỏi các rủi ro tiềm tàng trong kinh doanh, đầu tư, cho vay... . Lý do của vấn đề này do sự khác biệt giữa rủi ro thông tin và rủi ro kinh doanh. Mặc dù kiểm toán viên không có trách nhiệm ngăn ngừa các sai sót khong cố ý hay gian lận hoặc các hành vi không tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, đồng thời kiểm toán viên cũng không thể đảm bảo rằng ban giám đốc doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng của mình và phù hợp với lợi ích của các cổ đông, nhưng trong quá trình kiểm toán, bằng các kỹ thuật nghiệp vụ kiểm toán thông thường, nếu phát hiện bất cứ sự yếu kém, thiếu hiệu quả trong hệ thống quản lý, thì đồng thời với báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến, nhận xét, đánh giá và các gợi ý hoàn thiện về từng nội dung cần sửa đổi thông qua thư quản lý. Thư quản lý được gửi cho Ban giám đốc công ty và có thể cần gửi cho các thành viên công ty – Hội đồng Quản trị. IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO KIỂM TOÁN VIỆT NAM 1. Gian lận trong các BCTC và Báo cáo Kiểm toán Một chuyên gia cho rằng: “Vấn đề lớn ở Enron chính là sự kém cỏi chết người đi trước gian lận. Enron chính là câu chuyện về việc đội ngũ quản lý, đứng đầu là Ken Lay, xây dựng một văn hóa hướng thành tích (performance-oriented culture) vừa thể chế hóa vừa dung hòa hành động lầm đường lạc lối. Đây là trường hợp mà đội ngũ quản lý tạo ra một thế giới mà chính họ cũng không hiểu, vì thế mà họ không thể điều khiển.” Chuyªn gia ®ã cho r»ng: “Đó là một xã hội tội lỗi- ¤ng dùng cụm từ này hoàn toàn có mục đích- phát triển trong một công ty, ở đây «ng muốn nói đến sự thông đồng giữa các nhà tư vấn của Enron và các trung gian kinh tế. Và quan trọng nhất, Enron là một ví dụ về yếu kém tổng thể đi trước gian lận: khi mà nguồn gốc của sự yếu kém này chính là sự thiếu kinh nghiệm, sự khờ khạo và một thái độ quá coi trọng kết quả... Và sau cùng là, là sự thiếu khả năng đối mặt với thực tế khi xuất hiện những vấn đề không như ý muốn. Trong số các bài học ông nhấn mạnh cho các nhà quản lý vẫn còn bị ảnh hưởng sau thất bại của Enron chính là tầm quan trọng của sự khiêm tốn và biết mình biết người. Ban điều hành của Enron chỉ là những kẻ nghiệp dư cố gắng chơi một trò chơi chuyên nghiệp. Họ đã sử dụng động cơ mà không cần đến điều khiển. Sự cách tân của họ đã thực sự thành công bước đầu, nhưng đã vượt quá tầm tay của họ. Là những kẻ nghiệp dư, Enron không biết gì về các lực lượng họ tạo ra và bị lệ thuộc vào những lực lượng họ không thể hiểu được. Từ điều này cho ta bài học khi nhìn lại nhành kiểm toán của Việt Nam. Ngành Kiểm toán ở nước ta còn khá mới mẻ do vậy sự điều chỉnh nó không theo kịp với tốc độ phát triển. Vậy chúng ta phải làm gì để hạn chế những tác động không tốt đó. Rút kinh nghiệm từ A&A các công ty kiểm toán của Việt Nam phải hiểu được ý nghĩa của những báo cáo kiểm toán họ đưa ra và kiểm soát thật tốt. 2. Minh bạch hoá thông tin tài chính Cảm nhận gần đây về nguy cơ khủng hoảng của các công ty cổ phần phát hành chứng khoán ra công chúng (public listed corporations) đã đặt ra nhiều câu hỏi cơ bản về thực chất của cơ chế Quản trị công ty (Corporate Governance) không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Trước hết chúng ta xem xét việc quản trị công ty cổ phần ở nhiều quốc gia, ở Việt Nam, dựa trên ba nguyên tắc sau: Thứ nhất, sử dụng các thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) độc lập (independent directors) để kiềm chế quyền lực của ban giám đốc, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các cổ đông. Thứ hai, sử dụng và tín nhiệm giới kế toán để trình báo cáo tài chính có tính xác thực nhằm giúp cổ đông có thông tin đầy đủ khi đầu tư vào công ty. Thứ ba, sử dụng và tín nhiệm các nhà phân tích tài chính để xem xét, phân tích các triển vọng kinh doanh và mức độ lành mạnh về tài chính của các công ty đang và sẽ phát hành chứng khoán ra công chúng nhằm cung cấp đầy đủ thông tin cho công chúng muốn đầu tư. Dịch vụ chuyên môn này rất cần thiết cho các nhà đầu tư cá nhân không đủ hiểu biết về tài chính, để đánh giá thông tin mà các công ty cổ phần bắt buộc phải công bố ra công chúng. Khi một công ty cổ phần hoạt động kém hơn mức trong ngành hay của thị trường, hoặc thiếu cơ chế quản trị thích đáng, các nhà đầu tư sẽ phản ứng bằng cách bán cổ phần của họ, là một hình thức áp đặt kỷ luật của thị trường lên ban giám đốc công ty. Nguyên tắc thứ hai và thứ ba dựa trên nguyên tắc công khai hóa thông tin. Chính công chúng đầu tư (chứ không phải những người có nhiệm vụ điều tiết, kiểm soát) có khả năng tốt nhất để tự quyết định lấy việc đầu tư của mình vì chỉ có họ mới biết rõ hoàn cảnh và mức độ sẵn sàng chịu rủi ro của mình. Tuy nhiên, họ chỉ có thể có quyết định xác đáng khi có tất cả thông tin cần thiết. Triết lý kinh doanh dựa trên việc công khai hóa thông tin đòi hỏi các công ty đang và sẽ phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện việc công bố thông tin đầy đủ và xác thực cho các nhà đầu tư tương lai và các cổ đông hiện hữu. Điều này ở Việt Nam thực hiện chưa tốt.Một điều đáng buồn mà kiểm toán Việt Nam cần khắc phục là khi có sự bắt tay giữa công ty kiểm toán và cống ty bị kiểm toán thì kết quả tất yếu là các báo cáo kiểm toán được đưa ra sẽ thiếu chính xác và không trung thực dẫn tới các quyết định sai lầm của các nhà đầu tư. Hơn nữa những quy định về trách nhiệm của kiểm toán viên khi xảy ra rủi ro, gây thiệt hại cho khách hàng chưa rõ ràng (bồi thường không quá 10 lần phí kiểm toán) nên chưa gắn trách nhiệm với kết quả công việc, dẫn đến tình trạng đóng dấu ăn tiền, ảnh hưởng tới sự minh bạch hóa hoạt động của doanh nghiệp nói riêng, nền tài chính quốc gia nói chung. 3. Các tiêu chuẩn của thành viên Hội đồng quản trị Độc lập Yêu cầu phải có các thành viên HĐQT độc lập nảy sinh vì khả năng xung đột lợi ích giữa những người cung cấp vốn, tức là cổ đông, và ban giám đốc. Do những người quản lý công ty thường không nắm giữ vốn góp đáng kể trong công ty, có nguy cơ họ dành ưu tiên cho các quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi của cổ đông. Vì thế, một trong những vai trò của thành viên HĐQT độc lập là giám sát ban giám đốc; nói đúng hơn, có lẽ đó là vai trò chính của họ. Về lý thuyết thì đây là một sáng kiến hay. Thành viên HĐQT độc lập là các thành viên không liên quan gì đến các thành viên HĐQT giữ chức vụ điều hành hay có vốn góp trong công ty. Hơn nữa, họ thường phải là những người không có quan hệ kinh doanh hay quan hệ gì khác với công ty hay với các quan chức của công ty. Có các thành viên HĐQT độc lập, ít nhất là trên lý thuyết, là để giảm nguy cơ ban giám đốc lạm dụng quyền hạn. Vì những thành viên HĐQT độc lập không tham gia trực tiếp vào việc quản lý nên không có các cơ hội như ban giám đốc để lạm dụng chức vụ vì lợi ích riêng thay vì bảo vệ lợi ích của công ty và cổ đông. Do vai trò của các thành viên HĐQT độc lập là giám sát hoạt động của ban giám đốc, để làm được điều này, bản thân họ phải độc lập với ban giám đốc. Ở Hoa Kỳ, nhiều công ty phát hành chứng khoán ra công chúng có đa số thành viên HĐQT là thành viên độc lập. Hiện tượng này thật hiếm ở Châu Á, một phần là do nhiều công ty phát hành chứng khoán ra công chúng tại Châu Á có các cổ đông chi phối (ưu thế); trên thực chất họ có thể kiểm soát công ty, vì vậy họ chẳng có động cơ bổ nhiệm nhiều thành viên độc lập trong HĐQT để không mất một phần quyền kiểm soát của mình. Hơn nữa, tại Châu Á hầu như không có các áp lực thị trường để thúc đẩy các công ty như thế cải tiến (hay ít nhất là ra vẻ cải tiến) cung cách quản trị, ví dụ, bằng cách bổ nhiệm một đa số độc lập trong HĐQT. Tuy vậy, trong chừng mực các thành viên HĐQT độc lập tiếp cận được thông tin và ban giám đốc, tham dự các buổi họp và nói chuyện của HĐQT, họ vẫn có khả năng thi hành chức năng giám sát dù không tạo thành đa số trong Hội đồng Quản trị. Đó là lý thuyết; thực tế lại hơi khác. Có nhiều lý do để giải thích sự không tương quan giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và thành tích hoạt động của công ty. Thứ nhất, mặc dù các thành viên HĐQT độc lập được bổ nhiệm để bảo vệ quyền lợi của cổ đông thông qua chức năng giám sát, họ có thể phải chịu ơn ban giám đốc về việc được bổ nhiệm hay vì một lý do khác nào đó. Đây là một thực tế thường thấy tại các công ty mà Tổng Giám đốc (CEO) cũng là cổ đông kiểm soát. Nếu không phải như vậy, thì các quan chức cao cấp trong công ty cũng thường được hỏi ý kiến về việc bổ nhiệm thành viên HĐQT, và Tổng giám đốc có thể chủ động đề nghị những người mà ông ta cho là phù hợp. Đến đây ta có thể đặt một câu hỏi cơ bản, là câu hỏi về mức độ độc lập của các thành viên HĐQT. Trong chừng mực ban giám đốc có ảnh hưởng trong việc bổ nhiệm các thành viên HĐQT, họ sẽ thường khuyến khích việc bổ nhiệm các thành viên mà họ cảm thấy sẽ không can thiệp nhiều vào các quyết định của họ. Thứ hai, nhiều thành viên độc lập được bổ nhiệm chủ yếu để làm vẻ vang và tăng thêm uy tín cho HĐQT. Họ thường là những cá nhân đã thành đạt, rất bận rộn và đang nắm giữ một số vị trí tương tự ở nhiều nơi khác. Thời gian họ có thể giành cho công ty hạn chế. Lại thêm vấn đề, đôi khi các công ty hoạt động trong các ngành rất kỹ thuật mà các thành viên HĐQT độc lập không am hiểu nhiều. Trong tình huống đó, sẽ cực kỳ khó khăn cho các thành viên độc lập đóng vai trò hữu ích trong những sự bàn tính của HĐQT. Thường thì, các thành viên độc lập không có lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào phán đoán của ban giám đốc. Thật ra, các số liệu thống kê và thông tin chỉ có thể giúp HĐQT đến mức nào đó thôi, tất nhiên, nếu chúng được công khai đầy đủ. Cuối cùng thì, khi phải đưa ra các quyết định có tính chiến lược, chỉ còn cách phải dựa lên sự phán đoán. Do các thành viên độc lập không có quá trình đào tạo hay kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực hay ngành của công ty, cái tối đa mà họ có thể làm trong quá trình HĐQT ra quyết định là ngăn chặn những ý kiến quá kém cỏi. Thứ ba, sự thiếu kiến thức và chuyên môn của các thành viên độc lập về hoạt động của công ty trao lợi thế đáng kể cho ban giám đốc. Ngoài ra, ban giám đốc có trong tay cả bộ máy điều hành của công ty. Vì thế, các thành viên độc lập không thể tránh khỏi tình trạng phải phụ thuộc vào ban giám đốc. Các thành viên độc lập nói chung chẳng có chọn lựa nào khác ngoài việc phải tin vào thiện chí của ban giám đốc và hoạt động trên cơ sở thông tin mà ban giám đốc cung cấp cho họ. Và tất nhiên, nếu ban giám đốc không có thiện chí thì các thành viên HĐQT độc lập sẽ bị bất lợi và không thể hoàn thành chức năng giám sát của họ một cách hiệu quả. Sau sự kiện Enron, vấn đề quản trị công ty hiệu quả được đưa lên hàng đầu. Trong đó, vai trò của các thành viên HĐQT độc lập được đặc biệt quan tâm. Ở Hoa Kỳ, Ủy Ban Giám Sát Việc Niêm Yết và Trách Nhiệm Giải Trình của doanh nghiệp trực thuộc NYSE đã kiến nghị việc sửa đổi một số điều luật liên quan đến quản trị công ty nhằm nâng cao tính chính trực và minh bạch của các công ty trong NYSE. Hội đồng Quản trị của NYSE đã chấp thuận kiến nghị này ngày 1 tháng 8 năm 2002. Ở Anh, Ông Derek Higgs được yêu cầu chỉ đạo một công trình nghiên cứu độc lập xem xét lại vai trò và tính hiệu quả của các thành viên HĐQT không giữ chức vụ điều hành. Trong một báo cáo có tính tư vấn, ông Higgs góp ý rằng, nên lấy phương thức hoạt động tốt nhất làm tiêu chuẩn xem xét thay vì chỉ dựa vào qui định hay luật lệ. Về phần mình, Singapore đã sửa đổi một số điều luật nhằm thiết lập một Hội đồng Công bố thông tin và Quản trị Công ty, đơn vị độc lập giám sát các qui tắc về tiêu chuẩn kế toán và quản trị công ty. Lĩnh vực kiểm toán ở Việt Nam mới phát triển trong một vài năm gần đây do vậy chúng ta không thể tránh được những hạn chế, những sai xót. Do đó Kiểm toán Việt Nam nói chung và bản thân mỗi kiểm toán viên nói riêng cần không ngừng trau rồi nghiệp vụ và tu dưỡng đạo đức để ngành ngày càng phát triển, tạo được uy tín và lòng tin các nhà đầu tư. 4. Việc phân tích và theo dõi tài chính do các tổ chức chuyên môn thực hiện Một cơ chế điều tiết dựa chủ yếu vào quá trình minh bạch hóa thông tin thay vì kê khai thành tích đơn thuần dẫn đến sự ra đời của các định chế tài chính chuyên môn theo dõi hoạt động của các công ty cổ phần, và sự phân tích của họ về thành tích hoạt động, vị thế tài chính, triển vọng của các công ty này có tác dụng kiềm chế ban giám đốc và cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư. Sự theo dõi tài chính mà các định chế này thực hiện có tác dụng áp đặt kỷ luật thị trường lên các công ty bằng cách trừng phạt các công ty nào không minh bạch và yếu kém trong quản trị Trong thời kỳ hậu-Enron, có sự hoài nghi đáng kể về sự “vô tư” của các nhà phân tích, đặc biệt những người gắn kết với các ngân hàng đầu tư hay các định chế cung cấp dịch vụ cho các công ty đang và sẽ niêm yết. Như thường lệ, thủ phạm chính là sự xung đột về lợi ích; sự xung đột phát sinh khi các định chế vừa muốn cung cấp thông tin khách quan cho công chúng nhưng đồng thời lại cung cấp một số dịch vụ cho các công ty họ đang xem xét và sinh lợi rất lớn từ đó. Trường hợp gây ác cảm nhất có lẽ là trường hợp của Henry Blodget, một trong những nhà phân tích tài chính của Merrill Lynch trước đây, người đã từng khuyên khách hàng đầu tư mua các cổ phiếu mà trong nội bộ ông ta mô tả là "rủi ro cao" và "rác rưởi". Trước những công kích của dư luận, các định chế tài chính này bắt đầu dựng lên những rào cản mà họ ví von là "vạn lý trường thành" giữa bộ phận phân tích và bộ phận giao dịch với khách hàng. Tuy nhiên, tác giả bài này quan niệm rằng, các rào cản là quá dễ bị xâm phạm để khách hàng có thể thực sự an tâm, và các biện pháp như thế chủ yếu chỉ để lấy lòng công chúng. Một số tổ chức khác có thể tách các bộ phận phân tích thành một đơn vị riêng biệt, được độc lập đáng kể. Ví dụ, Citigroup đã tuyên bố là sẽ chia tách hoạt động phân tích và hoạt động môi giới bán lẻ thành đơn vị riêng biệt. Thậm chí, luật hình sự cũng có thể được sử dụng rộng rãi hơn khi thích hợp, như Bộ trưởng Tư pháp bang New York đã làm khi khởi tố nhiều ngân hàng đầu tư; đến nay, đã có một số ngân hàng đồng ý dàn xếp qua thương lượng, ví dụ, Merril Lynch đồng ý trả khoản phạt 100 triệu USD để dàn xếp vụ kiện nói trên. KẾT LUẬN Trong khuôn khổ nhỏ của một bài luận ngắn nhóm thuyết trình hy vọng sẽ cung cấp những nét nổi bật nhất về sự kiện sụp đổ của tập đoàn năng lượng số một thế giới tập đoàn Enron dẫn tới sự sụp đổ của công ty Kiểm toán đứng thứ năm ở nước Mỹ Công ty Arthur Andersen. Để từ đó nêu ra những bài học thực tế sương máu cho đạo đức của các kiểm toán viên ngành kiểm toán trên toàn thế giới nói chung và ngành kiểm toán Việt Nam nói riêng. Đó là các bài học: Về gian lận trong các báo cáo kiểm toán để che giấu những sai lệch nghiêm trọng trong các Báo cáo tài chính nhằm thu được được các khoản tiền bất chính. Về sư giao kết giữa hai công ty được Kiểm toán và công ty Kiểm toán. Vấn đề về minh bạch hoá thông tin. Làm rõ hơn các tiêu chuẩn và trách nhiệm của các thành viên trong Hội đồng Quản trị độc lập. … Góp phần giúp các nhà đầu tư, các ngân hang, khách hàng, nhà cung cấp,… có nhưng quyết định đúng đắn khi tham gia hợp tác với các công ty được kiểm toán. Đòng thời làm trong sạch các BCTC, Báo cáo Kiểm toán và nâng cao đạo đức và uy tín của các công ty kiểm toán Việt Nam nói chung và mỗi kiểm toán viên nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu môn Lý thuyết kiểm toán của Thạc sỹ Lê Thị Thu - Trường Đại học ngoại Thương www.kiemtoan.com.vn www.vneconomy.vn Thời báo kinh tế Việt Nam www.vnn.vn Báo tuổi trẻ www.vietnamenterprises com.vn Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Tuần san Đại Chúng www.Taiwantrade.com.tw www.mof.gov.vn www.vnexpress.net Theo BBC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự sụp đổ của A&A và Enron.doc
Luận văn liên quan