Đề tài Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế - Thực trạng và giải pháp

Mặc dù hoạt động TTKDTM được đánh giá mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế và đang trong giai đoạn được phát triển tại Việt Nam tuy nhiên phương thức thanh toán này vẫn chưa thực sự được phổ biến, hiện đại và đạt được hiệu quả như mong muốn. Do vậy, để có thể thúc đẩy hoạt động TTKDTM phát triển sâu rộng và đem lại nhiều tiện ích cũng như lợi ích cho dân cư cũng như nền kinh tế, cần có một sự nỗ lực và thay đổi đồng bộ từ phía chính phủ, hệ thống ngân hàng cũng như cộng đồng dân cư trong việc đưa ra các lộ trình hợp lý trong từng giai đoạn, phát triển hệ thống thanh toán, công nghệ thông tin, máy móc hiện đại và thay đổi thói quen thanh toán. Hi vọng rằng, bài nghiên cứu “Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế - Thực trạng và giải pháp” có thể phản ánh phần nào thực trạng TTKDTM tại Việt Nam và đóng góp một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển hoạt động TTKDTM cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, từ đó mang lại động lực phát triển cho nền kinh tế nói riêng và đất nước nói chung.

docx18 trang | Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 20763 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế - Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP LỚN Môn: Kế toán ngân hàng I Chủ đề: Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế - Thực trạng và giải pháp Lớp: Kế toán ngân hàng I thứ 2 ca 1, 2 D7 Nhóm: Phạm Thị Yến Ngọc Nguyễn Trần Hồng Hạnh Nguyễn Hoàng Hiệp Nguyễn Thị Mai Mục lục LỜI NÓI ĐẦU Cùng với xu thế hội nhập kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng không ngừng phát triển, nó đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường. Để bắt kịp nhịp độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới, tất cả các ngành nghề đều phải không ngừng vận động để tồn tại và phát triển, việc trao đổi mua bán trong kinh doanh ngày càng phát triển, nhu cầu về thanh toán là rất lớn, đặc biệt là thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM). TTKDTM đã và đang trở thành phương tiện thanh toán phổ biến, được nhiều quốc gia khuyến khích sử dụng, đặc biệt là đối với các giao dịch thương mại, các giao dịch có giá trị và khối lượng lớn. Đó là một trong những cơ hội kinh doanh tốt cho ngân hàng. TTKDTM không chỉ thúc đẩy tăng trưởng cho hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế mà còn góp phần đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước. Hiện nay, các hình thức TTKDTM đã phổ biến hơn rất nhiều trong nền kinh tế Việt Nam, đã quen dần hơn đối với khu vực dân cư, các doanh nghiệp cũng đẩy mạnh việc thanh toán qua ngân hàng đối với khách hàng, trả lương cho cán bộ công nhân viên, thanh toán hóa đơn, nộp ngân sách,v.v Bài nghiên cứu của nhóm được thực hiện với mục đích tìm hiểu thực trạng của hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế Việt Nam và đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động TTKDTM về cả tính phổ biến cũng như hiệu quả, chất lượng của hoạt động TTKDTM. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Định nghĩa về TTKDTM Tiền mặt là gì? Tiền mặt được định nghĩa rất khác nhau trên mỗi khía cạnh (đối với các NHTM – đối với nền kinh tế nói chung, theo nghĩa rộng – theo nghĩa hẹp). Tuy nhiên, nhìn chung, trong nội dung đang nghiên cứu dưới đây, tiền mặt có thể được hiểu là một hình thức của tiền tệ, theo đó, trong thời gian giao dịch, chức năng lưu thông và cất trữ giá trị được thực hiện mà không cần sự tham gia của các định chế tài chính trung gian đặc thù. Thanh toán là gì? Thanh toán, trong các mối quan hệ kinh tế, được hiểu một cách khái quát nhất là việc thực hiện chi trả bằng tiền giữa các bên trong những quan hệ kinh tế nhất định. Tiền ở đây được hiểu là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. TTKDTM là gì? TTKDTM là cách thức thanh toán trong đó không có sự xuất hiện của tiền mặt mà việc thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển trên các tài khoản của các chủ thể liên quan đến số tiền phải thanh toán. TTKDTM còn được định nghĩa là phương thức thanh toán không trực tiếp dùng tiền mặt mà dựa vào các chứng từ hợp pháp như giấy nhờ thu, giấy ủy nhiệm chi, séc để trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản của đợn vị này sang tài khoản của đợn vị khác ở Ngân hàng. TTKDTM gắn với sự ra đời của đồng tiền ghi sổ. Các phương thức thực hiện TTKDTM Thanh toán bằng Séc Séc là lệnh trả tiền vô diều kiện của người phát hành lập trên mẫu in sẵn do NHNN Việt Nam quy định, yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiển gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc trả cho người cầm séc. Séc là công cụ lưu thông tín dụng được sử dụng rộng rãi( tổ chức và các cá nhân) ở tất cả các nước trên thế giới, quy tắc sử dụng séc đã được chuẩn hóa trên luật thương mại quốc gia và trên công ước quốc tế. Từ năm 1996, ở Việt Nam được phép lưu hành loại séc vô danh và séc ký danh, trong đó séc vô danh được chuyển nhượng tự do, còn séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng. Nhờ có quy định này,séc giờ đây không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai trò là công cụ lưu thông. Trong hình thức thanh toán bằng séc, việc trả tiền do người trả tiền khởi xướng và kết thúc bằng việc ghi số tiền trên tờ séc vào tài khoản của người nhận tiền. Ở Việt Nam hiện nay, séc có nhiều loại nhưng séc dùng trong TTKDTM gồm có séc chuyển khoản và séc bảo chi. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi - Lệnh chi Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng. Uỷ nhiệm chi được dùng để thanh toán các khoản tiền hàng, dịch vụ hoặc chuyển tiền trong cùng hệ thống hay khác hệ thống Ngân hàng. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu – Nhờ thu Uỷ nhiệm thu là giấy ủy nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào Ngân hàng phục vụ mình để nhờ thu hộ số tiền theo lượng hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng cho người mua. Uỷ nhiệm thu được áp dụng thanh toán tiền hàng, dịch vụ giữa các chủ thể mở TK trong cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng cùng hệ thống hay khác hệ thống. Các chủ thể thanh toán phải thoả thuận thống nhất dùng hình thức thanh toán ủy nhiệm thu với những điều kiện thanh toán cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ chủ thể thanh toán biết để làm căn cứ thực hiện các ủy nhiệm thu. Hình thức thanh toán thư tín dụng Thư tín dụng là lệnh của người trả tiền yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trả cho người thụ hưởng một số tiền nhất định theo đúng những điều khoản đã ghi trên thư tín dụng. So với các chứng từ thanh toán khác như séc, UNC, UNT... các điều kiện ghi trên thư tín dụng tương đối chặt chẽ, hầu như phản ánh đầy đủ những cam kết thanh toán trong hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng đã ký. Thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng dịch vụ giữa hai bên mua bán mở tài khoản ở hai Ngân hàng cùng hệ thống trong trường hợp thiếu tín nhiệm lẫn nhau về mặt tài chính, hoặc việc mua bán không xảy ra một cách thường xuyên. Thanh toán bằng thẻ Ngân hàng (thẻ thanh toán) Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các máy trả tiền mặt tự động( ATM). Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn với kỹ thuật tin học ứng dụng trong Ngân hàng. Thẻ thanh toán có nhiều loại, nhưng một số loại thẻ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam bao gồm:thẻ ghi nợ,thẻ ký quỹ thanh toán vàthẻ tín dụng. Các chủ thể tham gia thanh toán thẻ, gồm có:Ngân hàng phát hành thẻ, người sử dụng thẻ, người tiếp nhận thẻ và Ngân hàng đại lý thanh toán. Vai trò của TTKDTM TTKDTM là động lực tăng tốc độ chu chuyển vốn và thúc đẩy phát triển kinh tế TTKDTM thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ chu chuyển vốn rút ngắn chu kỳ sản xuất, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và tác động trực tiếp dến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó được coi là khâu đầu tiên và cũng là khâu cuối cùng của chu kỳ sản xuất và liên quan đến toàn bộ lĩnh vực lưu thông hàng hoá, tiền tệ của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nếu tổ chức công tác thanh toán nhanh chóng an toàn và chuẩn xác sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn và góp phần thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Giúp Ngân hàng huy động tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi TTKDTM giúp cho Ngân hàng huy động được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để tiến hành đầu tư, cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế để thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn, nếu có kế hoạch sử dụng tốt sẽ mạng lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho toàn bộ nền kinh tế. Giảm chi phí lưu thông tiền tệ TTKDTM góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông xã hội. Mặt khác, TTKDTM còn tạo ra sự chuyển hoá thông suất giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ. Nếu tổng chu chuyển tiền tệ không đổi mà tỷ trọng TTKDTM tăng lên sẽ làm giảm tỷ trọng tiền mặt một cách tương ứng, từ đó giảm chi phí lưu thông như: chi phí in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền, chi phí về thời gian thanh toán. Giúp Ngân hàng giám sát các khoản vay TTKDTM tạo những điều kiện tiền đề kinh tế thuận lợi để Ngân hàng kiểm soát các hoạt động kinh tế của các tác nhân kinh tế (đặc biệt là các doanh nghiệp) với mục đích củng cố kỷ luật thanh toán, đảm bảo nguyên tắc thu chi tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thu chi bằng tiền của các tác nhân thể hiện trên tài khoản tại Ngân hàng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, làm căn cứ cho vay hay thu hồi nợ. Đồng thời qua việc giám sát, Ngân hàng có thể có những kiến nghị, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phát triển II. THỰC TRẠNG TTKDTM Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Thanh toán qua thẻ Một trong các phương tiện thanh toán khá phổ biến và được sử dụng nhiều nhất hiện nay là thẻ thanh toán giao dịch qua máy ATM, máy POS. Theo thống kê của ngân hàng Vietinbank, hiện nay đã có 43 ngân hàng tham gia phát hành thẻ. Đến cuối tháng 6/2014, cả nước đã có trên 72 triệu thẻ, gấp 3.600 lần năm 2002; lượng ATM (máy rút tiền tự động) và POS (máy chấp nhận thẻ) lên gần 165.000 chiếc. Doanh số thanh toán thẻ nội địa năm 2013 cũng lần đầu tiên vượt một triệu tỷ đồng. Thống kê số lượng thẻ, số lượng máy POS và máy ATM trong toàn hệ thống tính đến tháng 6/2014 Số lượng thẻ (Đơn vị: triệu ) - Nguồn: NHNN Số lượng thẻ của các ngân hàng phát hành tăng lên nhanh chóng, chỉ mới qua 6 tháng đầu năm 2014 số lượng thẻ đã gia tăng gần 9% so với năm 2013, tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 5,9 triệu thẻ. Chất lượng kinh doanh của ngân hàng qua dịch vụ thẻ cũng được nâng cao, thể hiện trên doanh số thẻ nội địa tăng đều qua các năm, đến hết tháng 6 năm 2014, doanh số này đã đạt gần 60% doanh số của năm 2013, đạt trên 600.000 tỷ đồng. Doanh số thanh toán thẻ nội địa (Đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: NHNN Số lượng máy POS ( Đơn vị: chiếc) - Nguồn: NHNN Máy POS được sử dụng ngày càng nhiều hơn trong thanh toán hiện bởi nhiều tiện ích mà nó mang lại như nhỏ gọn và phù hợp với nhu cầu mua sắm tại các trung tâm thương mại, các siêu thị ngày càng gia tăng như hiện nay, POS gắn liền với ngành công nghiệp bán lẻ và dịch vụ. Tính đến tháng 6 năm 2014 trong cả nước đã có tới 147500 máy POS, tăng 15500 so với cuối năm 2013. Đầu tư cho máy POS thấp hơn rất nhiều so với đầu tư ATM mà lại đảm bảo an toàn, thuận tiện cho người sử dụng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, mặc dù số lượng máy POS lớn như thế nhưng doanh số thanh toán qua máy POS vẫn còn rất thấp do thiếu sự liên kết đồng bộ giữa các ngân hàng và các trung tâm mua bán, máy POS vẫn còn rất xa lạ với hầu hết người dân, cộng thêm với việc các ngân hàng lại thường đầu tư lắp đặt ATM tại các trung tâm này thay vì đầu tư máy POS, do đó người dân thường có thói quen rút tiền mặt để thanh toán hơn là quẹt thẻ để thanh toán. Số máy ATM (Đơn vị: chiếc) - Nguồn: NHNN Trong hệ thống các Ngân hàng thương mại thì Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện có số lượng máy ATM dẫn đầu ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với khoảng 710 máy, tiếp sau đó là Agribank với khoảng 600 máy, Vietinbank là 580 máy,v.v.. Mặc dù số lượng ATM đã tăng lên nhanh chóng, phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong nền kinh tế nhưng vẫn còn nhiều yếu kém như chất lượng không đồng đều, đôi khi còn gặp phải lỗi và các biện pháp bảo trì, sửa chữa còn chậm trễ, bên cạnh đó thì phần đa các ATM cũng chỉ chủ yêu phục vụ cho các cá nhân, sử dụng với mục đích rút tiền mặt để thanh toán, vì vậy lượng tiền mặt trong lưu thông còn khá lớn, hệ thống TTKDTM còn chưa đồng bộ và khó khăn trong việc hoàn thiện. 2. Thanh toán bằng Séc Ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ lâu nhưng đến nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm. Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và Chứng minh nhân dân ra ngân hàng là có thể nhận được tiền hoặc chuyển vào tài khoản nhưng hiện nay, tỷ lệ thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt; nguyên nhân thanh toán bằng séc bị hạn chế là do chưa có quy định bắt buộc về hạn mức phải thanh toán bằng séc mà hiện chỉ “động viên” dùng séc và một nguyên nhân khác là tâm lí lo ngại của người bán hàng sợ tài khoản của người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn đến rủi ro, thời gian để có thể thanh toán Séc thường lâu hơn các hình thức khác vì thường phải giao dịch thanh toán Séc với ngân hàng. Việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức nếu khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, buộc các Ngân hàng thương mại phải thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước nhưng hiện tại, Ngân hàng Nhà nước chưa có Trung tâm thanh toán bù trừ séc chính thức. 3. Một số hình thức thanh toán khác Thanh toán qua Internet banking: Các dịch vụ hiện đại như Internet Banking, Mobile Banking lần lượt ra đời từ năm 2004 đi kèm với các tiện ích như thanh toán hóa đơn điện, nước, cước viễn thông, mua vé máy bay và mới đây là thu hộ ngân sách khiến tỷ trọng TTKDTM ngày càng tăng, tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt giảm từ trên 20% năm 2004 về còn khoảng 12% hiện nay. Ví điện tử - một chiếc "ví" mở trên mạng dùng cho thanh toán trong thương mại điện tử xuất hiện tại Việt Nam năm 2008, đây là một trong những hình thức TTKDTM mới và có nhiều tiền ích trong thanh toán cho người dùng đối với các giao dịch mua bán hàng hóa. Từ chỗ chỉ có khoảng 70.000 ví sau một năm phát triển, đến cuối năm 2013 lượng ví điện tử trên cả nước lên tới hơn 1,8 triệu đơn vị, tổng giá trị giao dịch 23.300 tỷ đồng. Hiện đã có 9 tổ chức không phải là ngân hàng thí điểm dịch vụ ví điện tử thông qua 33 tổ chức tín dụng. Trong tương lai, các chuyên gia nhận định TTKDTM sẽ ngày càng nở rộ. Với Đề án “Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2011 – 2015” được Thủ tướng phê duyệt, Chính phủ cũng đặt mục tiêu tới năm 2015 tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt sẽ giảm về 11% để nhường chỗ cho các giao dịch phi tiền mặt, tỷ lệ người dân có tài khoản ngân hàng cũng sẽ tăng từ 20% lên 35-40%. Để đạt được mục tiêu đề ra trong đề án này, đòi hỏi Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cùng các Ngân hàng thương mại phải có kế hoạch hoàn chỉnh để hoàn thiện một cách đồng bộ hệ thống TTKDTM, cũng như có giải pháp để nâng cao nhận thức của người dân trong việc hạn chế thanh toán bằng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt tại các doanh nghiệp Hiện nay Việt Nam có khoảng 500.000 doanh nghiệp. Giá trị giao dịch của các doanh nghiệp này chiếm phần lớn trong tổng giá trị giao dịch của nền kinh tế và trong TTKDTM. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đều thanh toán các khoản chi mua nguyên vật liệu, tài sản, thanh toán chi phí qua tài khoản ngân hàng. Theo khoản 2 điều 15 thông tư Số: 219/2013/TT- BTC áp dụng từ ngày 01/01/2014 và nghị định Số: 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 quy định: điều kiện để được khấu trừ thuế VAT đầu vào và tính chi phí được trừ cho doanh nghiệp khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp là với các hóa đơn mua hàng hóa dịch vụ từng lần có giá trị từ hai mươi tiệu đồng trở lên thì phải có chứng từ TTKDTM. Nhờ có quy định này mà việc TTKDTM trở nên phổ biến tại các ngân hàng. Bên cạnh đó, cũng nhờ các lợi ích về tính nhanh gọn, tiện lợi, giảm thiểu rủi ro và có bên thứ ba làm chứng (Ngân hàng) mà TTKDTM được các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đều tiến hành kê khai và nộp thuế qua mạng. Việc thực hiện kê khai và nộp thuế qua mạng được tiến hành bằng các thao tác trên máy vi tính và qua tài khoản ngân hàng đã kết nối với hệ thống nộp thuế điện tử của Tổng cục Thuế. Việc nộp thuế qua mạng không chỉ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian giao dịch tại các cơ quan thuế mà còn tiết kiệm được một lượng tài chính đáng kể. Thương mại quốc tế hiện nay đang trở thành một xu hướng trong nền kinh tế Việt Nam. Rất nhiều các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu với các đối tác nước ngoài. Phần lớn việc thanh toán quốc tế đều được thực hiện bằng TTKDTM như qua thanh toán tín dụng chứng từ, thanh toán nhờ thu, Việc TTKDTM trong thương mại quốc tế không những giúp đẩy mạnh hoạt động TTKDTM trong toàn nền kinh tế nói chung mà còn giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro, tiết kiệm chi phí cũng như đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế. III. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TTKDTM Ở VIỆT NAM Kinh nghiệm mở rộng TTKDTM tại các nước khác Những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thanh toán rất được coi trọng, có tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sử dụng các phương tiện TTKDTM, giảm tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế. - Tại Đức, trong lĩnh vực mở và sử dụng tài khoản cá nhân, sau khi kết thúc chiến tranh Thế giới thứ II, đặc biệt là từ khi thống nhất nước Đức, kinh tế của họ được phục hồi và phát triển nhanh, đạt được những tiền đề quan trọng về thu nhập bình quân đầu người, về luật pháp, về công nghệ và mật độ ngân hàng. Vì vậy việc cải tạo, xoá bỏ tập quán dùng tiền mặt trong thanh toán của dân cư thực hiện tương đối dễ dàng, nhanh chóng: trong một ngày đã đồng loạt chuyển toàn bộ công việc trả lương của các doanh nghiệp, cơ quan vào tài khoản cá nhân do ngành ngân hàng đảm nhiệm. Đây là biện pháp hành chính, manh tính bắt buộc đối với mọi người dân phải có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ chung của đất nước. Séc là một trong những phương tiện TTKDTM được khách hàng sử dụng phổ biến nhất so với các phương tiện khác, bởi nó có những ưu điểm, lợi thế riêng và được thực hiện theo luật. Ngân hàng Trung ương hoặc Hiệp hội ngân hàng có nhiệm vụ tổ chức các Trung tâm xử lý và thanh toán séc. Quy trình tiếp nhận, xử lý và luân chuyển séc rất khoa học, chặt chẽ, thực hiện trên mạng máy tính thông qua việc truyền, nhận các bản chụp tờ séc giữa các ngân hàng liên quan với độ bảo mật cao. Hiện nay Hiệp hội ngân hàng đã tổ chức thanh toán séc bằng điện tử, rất nhanh chóng, chính xác. - Tại Hàn Quốc, thanh toán bằng tiền mặt chiếm tỷ lệ khoảng 20% trong tổng phương tiện thanh toán, TTKDTM chiếm 80%. Có được kết quả trên là do Hàn Quốc hoạch định được chiến lược tổng thể, dài hạn; đã xây dựng và tổ chức quản lý, vận hành được hệ thống thanh toán và các phương tiện thanh toán dựa trên nền tảng cơ sở pháp lý đồng bộ gồm. Đến năm 1995 Hàn Quốc đã có 50 trung tâm thanh toán bù trừ trên toàn quốc. Tham gia vào hệ thống này là ngân hàng Trung ương và những ngân hàng lớn cùng một số tổ chức phi tài chính. Tại các Trung tâm thanh toán bù trừ, các phương tiện séc, hối phiếu được thanh toán bù trừ cho nhau bằng các nghiệp vụ với sự hỗ trợ đắc lực của mạng máy tính. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, nhất là trong lĩnh vực thanh toán được ngân hàng Trung ương rất quan tâm, thành lập Vụ Công nghệ thông tin, có các phòng chuyên môn để quản lý, vận hành, bảo trì máy tính và hệ thống thông tin - Thái Lan, Thẻ ngân hàng được phát triển mạnh và sử dụng phổ biến trong những năm gần đây (có khoảng trên 10 triệu chủ thẻ). Việc sử dụng thẻ được phát triển mạnh là do các Ngân hàng thương mại đã trang bị một hệ thống với gần 10.000 máy ATM tại các trung tâm kinh tế trên phạm vi cả nước, được liên kết với nhau thông qua Trung tâm chuyển mạch ATM quốc gia. Nhờ sự liên kết đó, khi chủ thẻ rút tiền hoặc thanh toán tại máy ATM của bất cứ ngân hàng nào đã tham gia vào Trung tâm chuyển mạch quốc gia đều được xử lý nhanh chóng, thuận tiện. Ngân hàng Trung ương Thái Lan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống thanh toán và các phương tiện thanh toán nói chung, hệ thống ATM nói riêng. Giải pháp và khuyến nghị nhằm mở rộng TTKDTM tại Việt Nam Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong quá trình sử dụng và phát triển các phương tiện TTKDTM cũng như việc tổ chức hệ thống thanh toán trên các góc độ khác nhau. Mỗi nước nói trên đều có sự riêng biệt: ở Đức sử dụng séc, ở Hàn Quốc sử dụng đa dạng phương tiện, ở Thái Lan sử dụng Thẻ thanh toán Nhưng tựu chung là họ đều sử dụng công nghệ mới để phát triển. Ở Việt Nam, chưa định hình một hình thức cụ thể, song công nghệ thông tin đang thúc đẩy quá trình phát triển TTKDTM. Qua nghiên cứu, nhóm xin đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị như sau: a. Đối với Nhà nước - Cần gấp rút hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam: Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán không dùng tiền mặt. Trên cơ sở đó, việc tiến hành kiểm soát rủi ro pháp lý phải bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế; tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và dịch vụ của các chủ thể tham gia; hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng và bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp khách quan. - Nhà nước cần áp dụng các biện pháp mạnh, có quy định cụ thể đối với tổ chức và cá nhân được phép thanh toán bằng tiền mặt với mức tiền cụ thể, phù hợp với tình hình phát triển chung của nền kinh tế. Ví dụ, hiện nay nên quy định đối với cá nhân, thanh toán dưới 5 triệu đồng, đối với tổ chức dưới 10 triệu đồng được sử dụng tiền mặt, trên mức đó phải thanh toán KDTM. Đồng thời phải xử lý nghiên những trường hợp vi phạm. b. Đối với Ngân hàng Nhà nước - Cần xây dựng cơ chế chính sách về thanh toán một cách đồng bộ, nhất quán, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và công nghệ thông tin. Trong đó Ngân hàng Trung ương đóng vai trò quyết định trong việc ban hành cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi, thông thoáng cho quá trình sử dụng, phát triển các phương tiện thanh toán và hệ thống thanh toán; là người trực tiếp quản lý việc đầu tư xây dựng hệ thống thanh toán thống nhất giữa các ngân hàng; tổ chức, quản lý, kiểm tra giám sát hoạt động của hệ thống thanh toán liên ngân hàng. - Tiếp tục nghiên cứu và đề xuất những lộ trình phát triển các hệ thống thanh toán và giải pháp hỗ trợ phát triển thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam. c. Đối với Ngân hàng thương mại - Đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công bằng cách tăng phát triển thẻ trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp Nhà nước đồng thời khuyến khích đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức của cơ quan, đơn vị này tham gia tích cực việc thanh toán không dùng tiền mặt trong cuộc sống. - Đẩy mạnh việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp bằng cách lên kế hoạch nghiên cứu và định hướng chuyên sâu để từ đó có thể xác định nhu cầu và khả năng của các doanh nghiệp.  - Đẩy mạnh việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực cộng đồng dân cư, bằng cách tập trung triển khai phổ biến các giao dịch thanh toán định kỳ qua tài khoản như thanh toán tiền điện, nước, dịch vụ công cộng khác... và đồng thời phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại các trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn, nhà hàng. - Tích cực tuyên truyền lợi ích của thẻ thanh toán tới mọi tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận, để thẻ thanh toán được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống. Có thể đẩy mạnh việc TTKDTM trong dân cư bằng cách kết hợp với các siêu thị, rạp chiếu phim (các điểm chấp nhận thẻ nói chung) để xây dựng chương trình khuyến mãi khi thanh toán bằng thẻ của ngân hàng, - Cần xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại dựa trên nền tảng công nghệ thông tin gồm trung tâm xử lý quốc gia và các trung tâm xử lý khu vực; trang bị máy móc hiện đại và đồng bộ, được quản lý, vận hành bởi đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trình độ cao, có thể xử lý mọi tình huống, đảm bảo cho hệ thống thanh toán hoạt động thông suốt, không bị ách tắc. d. Đối với dân cư Thói quen thanh toán của cộng đồng dân cư có những ảnh hưởng không nhỏ trong việc tăng cường hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế. Thay vì dùng tiền mặt để phục vụ nhu cầu thanh toán hàng ngày, người dân nên thay đổi thói quen thanh toán bằng cách sử dụng thẻ thanh toán tại các điểm chấp nhận thẻ như siêu thị, nhà hàng, thanh toán hóa đơn điện, nước, cước viễn thông qua tài khoản ngân hàng, KẾT LUẬN Mặc dù hoạt động TTKDTM được đánh giá mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế và đang trong giai đoạn được phát triển tại Việt Nam tuy nhiên phương thức thanh toán này vẫn chưa thực sự được phổ biến, hiện đại và đạt được hiệu quả như mong muốn. Do vậy, để có thể thúc đẩy hoạt động TTKDTM phát triển sâu rộng và đem lại nhiều tiện ích cũng như lợi ích cho dân cư cũng như nền kinh tế, cần có một sự nỗ lực và thay đổi đồng bộ từ phía chính phủ, hệ thống ngân hàng cũng như cộng đồng dân cư trong việc đưa ra các lộ trình hợp lý trong từng giai đoạn, phát triển hệ thống thanh toán, công nghệ thông tin, máy móc hiện đại và thay đổi thói quen thanh toán. Hi vọng rằng, bài nghiên cứu “Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế - Thực trạng và giải pháp” có thể phản ánh phần nào thực trạng TTKDTM tại Việt Nam và đóng góp một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển hoạt động TTKDTM cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, từ đó mang lại động lực phát triển cho nền kinh tế nói riêng và đất nước nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Website Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam: www.vietinbank.vn Website Ngân hàng Nhà nước: www.sbv.gov.vn Quyết định số 2453/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015. Số từ trong bài viết: 4859 từ (không kể phần bìa, Mục lục, Lời nói đầu và Kết luận).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxthanh_toan_khong_dung_tien_mat_8356.docx
Luận văn liên quan