Đề tài Thực trạng triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU PHẦN MỘT: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI 1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi 2. Đối tượng và đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi 3. Phạm vi bảo hiểm tiền gửi 4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm PHẦN HAI: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 3. Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 4. Kết quả đạt được của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 5. Những vấn đề còn tồn tại của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 1. Về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm 2. Hình thức Bảo hiểm 3. Phí bảo hiểm 4. Hình thức nộp phí 5. Việc tổ chức gíam sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham gia BHTG là vấn đề cần phải xem xét trên các khía cạnh 6. Những hạn chế ngay trong cơ quan bảo hiểm tiền gửi 7. Khó khăn trong công tác thanh lý QTDND bị giải thể 8. Về Bảo hiểm tiền gửi và bảo toàn tiền gửi PHẦN III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM. I. Định hướng hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt Nam II. Giải pháp và kiến nghị phát triển bảo hiểm tiền gửi Việt Nam A. Giải pháp 1. Về phía bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 2. Về phía đối tượng tham gia bảo hiểm 3. Về phía nhà nước B. Kiến nghị KẾT LUẬN

doc39 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3274 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là tiền gửi. Tiền gửi là số tiền của các cá nhân, các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng( như ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân,…) trong một thời gian nhất định. Như chúng ta đều biết, tiền gửi thông thường chia làm hai loại: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không có kỳ hạn. 3.Phạm vi bảo hiểm tiền gửi. Trong bảo hiểm tiền gửi các rủi ro sau đây được bảo hiểm: a.Sự phá sản quỹ tín dụng Phá sản là trường hợp quỹ tín dụng không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc quỹ tín dụng không thể tiếp tục kinh doanh vì bị thiếu vốn. Trong trường hợp này, các công việc kinh doanh của quỹ phải được giao cho ban thanh lý tài sản xử lý các tài sản còn lại theo đúng quy định pháp lý về phá sản của nhà nước b.Sự giải thể bắt buộc của quỹ tín dụng Giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của Nàh nưứoc hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bó giả thể vì quỹ tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có cách này mới hy vọng thu hồi được tiền. c.Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một khác với việc phá sản hay mất khả năng thanh toán của quỹ tín dụng. Trong trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng khng đúng mục đích đã đề ra, không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý không cho hoạt động tiếp. Trong trường hợp này, bảo hiển sẽ giải quyết bồi thường cho những người gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền thanh lý tài sản hay đòi nợ. d.Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của quỹ tín dụng. Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của quỹ tín dụng là tình trạng quỹ tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, không muốn toà án can thiệp, các cổ đông của quỹ chấp nhận tuyên bó giải thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm tiền gửi có kỳ hạn mà quỹ không thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể. e.Không thể thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một mệnh lệnh của tòa án đối với quỹ tín dụng 4.Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm a.Sồ tiền bảo hiểm số dư tiền gửi có kỳ hạn trong báo cáo số dư có tiền gửi của mỗi quỹ tín dụng b.Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là số tiền quỹ tín dụng phải trả cho người bảo hiểm để bảo hiểm số dư tiền gửi có kỳ hạn của quỹ tại thời điểm cuối cùng mỗi quỹ. Phí bảo hiểm theo từng quý được tính theo công thức : P=m*R/365*90 Trong đó: P: Phí bảo hiểm theo quý m: Số dư tiền gửi có kỳ hạn R: Tỷ lệ phí bảo hiểm c.Giám định và chi trả bảo hiểm Khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, quỹ tín dụng phải thông báo cho người bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ: +Giấy yêu cầu bồi thường +Giấy chứng nhận bảo hiểm +Báo cáo thực trạng đến ngày xẩy ra rủi ro +Lệnh của tòa án tuyên bố phá sản +Bản kê khai danh sách những người gửi tiền có kỳ hạn chưa được thanh toán tính đến ngày xảy ra rủi ro +Bản kê khai chi tiết chủ nợ cho vay Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan đến việc trả tiền bồi thường cho quỹ tín dụng và người gửi tiền đến và nếu thuộc phạm vi bảo hiểm thì bảo hiểm sẽ trả tiền cho người gửi tiền. Số tiền bồi thường cao nhất là số dư tiền gửi có kỳ hạn thực tế vào thời điểm quỹ tín dụng xảy ra rủi ro nhưng không vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng bảo hiểm. PHẦN HAI THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 1.Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập và khai trương hoạt động ngày 07/07/2000, trên cơ sở Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Quyết định số 218/1999/QĐ-TTG ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước có tư cách pháp nhân , có bảng cân đối riêng, được mở tài khoản ở các Ngân hàng trong nước và nước ngoài, có vốn điều lệ ban đầu 1000 tỷ đồng, địa bàn hoạt động trên phạm vi cả nước. Trụ sỏ chính tại thủ đô Hà Nội và 6 chi nhánh trực thuộc đặt tại các tỉnh, thành phố. Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh trong quá trình hoạt động đảm bảo an toàn vốn, tự bù đắp chi phí, không vì mục tiêu lợi nhuận. 2.Vai trò của bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam a.Đối với các tổ chức tín dụng Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình dịch vụ nên ảnh hưởng đầu tiên của nó là sẽ làm tăng chi phí trung gian tài chính của tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm. Mặt khác tính mạo hiểm có thể có thể tăng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm vì những lo sợ về tình trạng hoạt động không tốt có thể ảnh hưởng tới hoạt động đầu vào không còn nữa. Chính vì vậy cùng với sự ra đời của hoạt động bảo hiểm tiền gửi việc thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng cũng được tăng cường. Những tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ tạo niềm tin cho người gửi tiền, người dân cũng thấy yên tâm rất nhiều và không lo sợ những thông tin gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng đóa, tạo ra sự an toàn cho hệ thống ngân hàng. Qua đó sẽ là kênh huy động vốn có hiệu quả cho ngân hàng. Tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi còn có lợi ích nữa là thường xuyên được bảo hiểm tiền gửi giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định bảo hiểm tiền gửi về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Thông qua việc kiểm tra giám sát này, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những ý kiến tham gia thiết thực, phát hiện những dấu hiệu làm sai chế đọ, những hiện tượng có xu hướng không lành mạnh, những nguyên nhân gây nên sự yếu kém của hoạt động tổ chức tín dụng. b.Đối với người gửi tiền Từ đầu năm đến nay, cú 5 quỹ tín dụng ở phía Nam bị giải thể, trong đó 1 quỹ tín dụng mất khả năng chi trả. Thi thoảng, người dân gửi tiền tiết kiệm cũng nghe vài "tin đồn" gây hoang mang về hoạt động của ngân hàng này nọ… Chính sự hoang mang đó sẽ tạo ra một tâm lý nghi ngờ trong người dân, họ không biết nếu chẳng may số tiền của mình rơi đúng vào ngân hàng bị phá sản thì sẽ bị mất hết ? Đặc biệt trong tình trạng nền kinh tế của đất nước chưa ổn định, đang trong giai đoạn hoàn thiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Do vậybảo hiểm tiền gửi luôn tạo ra niềm tin, tạo sự an toàn cho người gửi tiền. Người dân cảm thấy yên tâm hơn mỗi khi gửi tiền của mình vào tổ chức tín dụng. Họ không phải hốt hoảng lo sợ các tổ chức tín dụng bị phá sản bởi vì đằng sau họ luôn luôn có bảo hiểm tiền gửi đi kèm. c.Đối với nền kinh tế Bảo hiểm tiền gửi tạo ra sự an toàn, tạo niềm tin cho người dân gửi tiền vào các tổ chức tín dụng, làm tăng nguồn vốn đầu tư, mở rộng sự phát triển kinh tế đất nước. Đây là một vai trò rất quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện theo nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước cần rất nhiều vốn để đầu tư phát triển trong đó nguồn vốn huy động từ nhân dân chiếm số lượng lớn. Mặt khác, kể từ khi có Bảo hiểm tiền gửi , Nhà nước có công cụ để giám sát, xử lý hậu quả ở các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các quỹ tín dụng nhân dân khi các quỹ tín dụng này mất khả năng thanh toán. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hiện nay pháp luật về phá sản các tổ chức tín dụng còn chưa hoàn thiện. 3.Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế thị trường, rủi ro tiềm ẩn tương đối cao,trong khi đó hoạt động tiền tệ trong giai đoạn sơ khai, tình hình tài chính của đa số các trung gian tài chính thực sự đang ở trong tình trạng thiếu lành mạnh, do đó việc cho ra đời bảo hiểm tiền gửi là rất cần thiết. Chính vì vầy, ngày 01/9/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ- CP về bảo hiểm tiền gửi a.Đối tượng và đối tượng tham gia Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là TCTD được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo qui định của Luật các Tổ chức tín dụng(bắt buộc phải tham gia); phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Các cá nhân gửi tiền băng đồng Việt Nam tại các tổ chức tham gia bảo hiểm. b.Về tổ chức bảo hiểm tiền gửi Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động dưới sự điều tiết của Thủ tướng chính phủ, được nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, có tư cách pháp nhân và được miễn nộp các loại thuế.Trong trường hợp thiếu vốn tạm thời, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải báo cáo NHNN để NHNN trình thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi được vay từ các TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính Phủ c.Phí bảo hiểm tiền gửi Mức phí hiện hành là 0,15%/năm trên số dư tiền gửi bình quân tại các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, được nộp làm 4 lần trong năm tài chính. Phí phạt đối với các trường hợp nộp chậm/ ngày; nếu tình trạng tiếp tục kéo dài tới 30 ngày, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu NHNN trích tài khoản tiền gửi của các tổ chức TD để chuyển nộp phí bảo hiểm và các khoản tiền phạt d.Số tiền bảo hiểm Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ tiến hành chi trả tiền gửi được bảo hiểm với giới hạn tối đa là 30 triệu đồng/cá nhân , căn cứ vào chứng từ hợp lệ và danh sách do tổ chức bảo hiểm và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lập : số tiền gửi vượt quá mức tối đa sê được thanh toán theo quy định của luật phá sản d.Loại tiền gửi cần được bảo hiểm và hình thức áp dụng Như chúng ta đều biết, tiền gửi chia làm 2 loại: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không có kỳ hạn, bảo hiểm tiền gửi lại là một việclàm hoàn toàn mới mẻ ở nước ta , chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong khâu quản lý kinh doanh bảo hiểm tiền gửi, mặt khác do tính chất luân chuyển vốn, tiền gửi không kỳ hạn mang tính thất thường nên việc tính toán phức tạp. Do đó ở thời kỳ đầu chúng ta chỉ nên bảo hiểm tiền gửi loại có kỳ hạn. Để thực sự đảm bảo niềm tin cho khách hàng khi gửi tiền, khai thác tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư phù hợp với thưc tế ở nước ta hiện nay, việc tham gia Bảo hiểm tiền gửi mang tính chất bắt buộc. e.Giám sát rủi ro và các biện pháp xử lý Các kênh thông tin về hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có quyền tiếp cận, bao gồm: Báo cáo định kỳ theo qui định của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, các báo cáo đột xuất khi tổ chức tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về khả năng chi trả, thay đổi thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát tổng giám đốc.Ban kiểm soát đặc biệt báo cáo tình hình hoạt động của tổ chức( trong trường hợp tổ chức này bị đặt dưới sự kiểm soát đặc biệt); Trực tiếp kiểm tra việc chấp hành các qui định tại nghị định này của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. d. Quyền quản lý và thanh lý tài sản của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản Tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trở thành chủ nợ với tổ chức tham gia bảo hiểm bị phá sản trên cơ sở số tiền đã chi trả cho người gửi tiền, do đó được tham gia vào quá trình quản lý và thanh lý tài sản của các tổ chức bị phá sản theo luật phá sản. 4.Kết quả đạt được của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Trên địa bàn 11 tỉnh phía Nam do chi nhánh BHTG TP Hồ Chí Minh phụ trách hiện có 160 TCTD tham gia BHTG và số tiền được bảo hiểm chiếm 52,11% so với tổng vốn huy động bằng tiền đồng, đạt hơn 20.496 tỉ đồng. Số tiền không đựoc bảo hiểm khoảng 18.83 tỉ đồng là từ trái phiếu vô danh, tiền gửi của các tổ chức Sau hơn 4 năm hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đã chi trả bảo hiểm với tổng số tiền là 14 tỷ 668 triệu đồng cho 1.351 người đến gửi tiền tại 32 quỹ tín dụng nhân dân bị chấm dứt hoạt động và khả năng thanh toán ở 10 tỉnh, thành phố. Bảo hiểm Tiền Gửi Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, các cấp chính quyền sở tại và từng hội đồng thanh lý QTDND tổ chức theo dõi sát tình hình thanh lý các QTDND giải thể được chi trả tiền bảo hiểm, phân tích thực trạng các khoản phải thu và các khoản phải trả trong thanh lý của từng quỹ, tìm biện pháp thu hồi các khoản nợ để có nguồn chi trả cho các chủ nợ theo trật tự ưu tiên thanh toán. Công tác chi trả tiền chi những người gửi tiền được tiến hành nhanh gọn, chính xác an toàn theo đúng quy định của pháp luật, tạo niềm tin của nhân dân địa phương, tạo tâm lý an toàn an tâm cho người dân gửi tiền vào các Quỹ tín dụng nhân dân chấm dứt hoạt động cũng như các địa phương khác có Quỹ tín dụng nhân dân khác hoạt động bình thường. Quá trình chi trả tiền gửi cho người dân không xảy ra bất cứ hiền tượng tiêu cực nào, được cấp uỷ, chính quyền địa phương đồng tình, ủng hộ. Đặc biệt là hoạt động Bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện cho các Tổ chức tín dụng thu hút được hàng trăm nghìn tỉ đồng vốn của dân, an tâm gửi vào các ngân hàng và Quỹ tín dụng… để đầu tư cho các mục tiêu phát triển quốc gia, các dự án và các nhu cầu vay của mọi thành phần kinh tế Về công tác thanh lý tái 31 quỹ tín dụng nhân dân bị giải thể, số tiền phải thu là 49 tỷ 794 triệu đồng, trong 3 năm đã thu được 28%, trong đó thu nợ cho vay đạt 28,5% thu nợ cho vay có đảm bảo bằng tài sản đạt 22,2%. không có tài sản đảm bảo đạt 21,2%, các khoản thu khác đạt 3,6%. 5.Những vấn đề còn tồn tại của Bảo hiểm tiền gửi Viêt nam Bảo hiểm là một loại hình cần thiết cho rất nhiều hoạt động xã hội và nó ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Riêng về Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) ở nước ta mới được hình thành về mặt tổ chức và mới đi vào hoạt động (tháng 7/2000). Quá trình nghiên cứu và cho ra đời BHTG cũng là quá trình tiếp cận với những vấn đề mới trong điều kiện hệ thống ngân hàng ở nước ta đang thực hiện việc chấn chỉnh và sắp xếp lại (trước đó các Quỹ tín dụng nhân dân đã tham gia bảo hiểm trong hệ thống bảo hiểm Việt Nam). BHTG cũng là một loại hình bảo hiểm nói chung (tương tự như bảo hiểm tàu thuyền , bảo hiểm nhân thọ…) nhưng là một loại hoạt động đặc thù và có ý nghĩa đặc biệt trong việc bảo đảm lòng tin của người gửi tiền vào ngân hàng và cũng vì vậy mà các ngân hàng sẽ có điều kiện tăng khả năng huy động vốn để mở rộng kin doanh. Bảo hiểm nói chung và BHTG nói riêng đã hình thành và hoạt động phổ biến ở các nước trên thế giới. Có một số nước, BHTG và bảo toàn tiền gưỉ (BTTG) cùng song song tồn tại hoặc có nước chỉ có loại hình BTTG (như ở Cộng hòa liên bang Đức). Khi cả hai tổ chức này cùng được hoạt động, thì các Ngân hàng thương mại được chủ động trong việc lựa chọn cho mình một loại hình hoặc là bảo hiểm hoặc là bảo toàn, cũng có thể vừa bảo hiểm vừa bảo toàn. Các quy định của Chính phủ tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/01/1999, Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 của NHNN hướng dẫn thực hiện điều 23 Nghị định số 89-1999/ND-CP trên là cơ sở pháp lý để tổ chức Bảo hiểm tiền gưỉ Việt Nam đi vào hoạt động và sẽ góp phần làm sôi động thêm các hoạt động Ngân hàng ở nước ta. Tuy nhiên, hoạt động Bảo hiểm Tiền Gửi vẫn còn tồn tại những điểm đáng lưu ý sau: Về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm Theo quy định của chính phủ thì đối tượng tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi của cá nhân (cả tiền gửi trên tài khoản) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi . Trong khi đó mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền nhỏ.Nhưng thực tế thời gian qua quy định trên lại được hiểu là bao gồm tất cả các loại tiền gửi của cá nhân, tiền gửi của hộ gia đình và của cả các hàng kinh doanh.Từ đó gây ra sự phức tạp trong việc phân loại tiền gửi đươc bảo hiểm và không được bảo hiểm. 2.Hình thức Bảo Hiểm Đây là loại hình bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc và là tổ chức BHTG duy nhất, điều này sẽ nảy sinh sự bất bình đẳng trong cơ chế thị trường và sự độc quyền. 3, Phí Bảo Hiểm Tỉ lệ phí bảo hiểm 0,15%/năm tính trên số tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Theo nhiều ý kiến (cả những người quan tâm và những người tổ chức tín dụng) là cao, ảnh hưởng đến hoạt động, đặc biệt là trong điều kiện các tổ chức tín dụng vừa phải xử lý tồn tại cũ, vừa phải trích dự phòng rủi ro và như vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thu chi tài chính và đời sống cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng. Đối với các TCTD Nhà nước hiện nay thì phí đóng bảo hiểm tiến gửi là lớn nhất, nhưng việc BHTG phải can thiệp thì hầu như ít xảy ra do có những đặc thù riêng (năng lực huy động vốn thường xuyên dồi dào, do là ngân hàng nhà nước…) 4. Hình thức nộp phí Những quy định về trích và nộp phí bảo hiểm còn cứng (do là bảo hiểm bắt buộc). Mặt khác, một tổ chức tài chính của Nhà nước (thực chất như là một công ty) Không có chức năng quản lý nhà nước (vừa thực hiện hoạt động bảo hiểm, vừa có tính kinh doanh) nhưng lại được phép xử lý vi phạm hành chính đối với các đơn vị tham gia BHTG (cảnh cáo, phạt tiền…). 5, Việc tổ chức giám sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham gia BHTG là vấn đề cần phải xem xét trên các khía cạnh. (1)- Xuất phát từ chức năng của BHTG, có cần tổ chức giám sát đến mức như các quy định hiện có không? hay là trước mắt có thể phối hợp với thanh tra ngân hàng để cung cấp kết quả giám sát rui ro, theo yêu cầu của BHTG (có trong quy định hiện hành), vì hiện tại Thanh tra Ngân hàng đã và đang tổ chức giám sát thường xuyên (cả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ). Các tiêu chí tài chính, yêu cầu về mẫu biểu và nội dung báo cáo của các tổ chức tín dụng (nếu tham gia BHTG) đều có trong hệ thống báo cáo chung của NHNN và hầu như các số liệu hoạt động của hệ thống Ngân hàng nước ta đều có trên mạng chung trong hệ thống truyền dẫn số liệu… của Cục công nghệ tin học Ngân hàng. Nên chăng trước mắt chỉ yêu cầu báo cáo và giám sát những nội dung có tính đặc thù phù hợp với chức năng của BHTG để phục vụ các yêu cầu về hỗ trợ khi đối tượng tham gia BHTG gặp khó khăn về khả năng chi trả (ngay) và thực hiển bảo hiểm khi đối tượng tham gia BHTG có nguy cơ phá sản. (2)- Song song với việc này là tiến hành xây dựng một hệ thống giám sát riêng của BHTG tương tự như hệ thống giám sát từ xa của thanh tra NHNN hiện nay. 6.Những hạn chế ngay trong cơ quan bảo hiểm tiền gửi. Do mới thành lập và đi vào hoạt động nên các tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không thể không có sai sót. Những sai sót này có thể kể đến là: Thứ nhất: Trong công tác kiểm tra giám sát. -Do kết hợp với thanh tra ngân hàng nhà nước trong quá trinh kiểm tra, giám sát nên còn có sự chồng chéo giữa bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và thanh tra ngân hàng nhà nước. -Chưa tích cực đôn đốc các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp phí và các loại báo cáo theo quy định. - Trong quá trình kiểm tra phát hiện thấy có những tổ chức tiến dụng vi pham nhưng chỉ nhắc nhở và xử phạt nhẹ đã làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của luật. -Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi rất rộng từ trung ương đến cơ sở nhưng tổ chức bảo hiểm tiền gửi mới chỉ có 6 chi nhánh cơ sở nên việc kiểm tra giám sát còn bị hạn chế. Thứ hai: Trong công tác chi trả. Thời gian qua bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã chi trả một khoản tiền khá lớn và việc chi trả cho những người gửi tiền tại các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở nằm rải rác trên 9 tỉnh, nên việc tiến hành thẩm định hồ sơ và tiến hành chi trả đã gặp rất nhiều khó khăn.Hơn nữa việc chi trả lại toàn bằng tiền mặt thông qua UBND xã phường hoặc tổ chức tiến dụng tại nơi bị phá sản. Thứ ba: Về trình độ cán bộ. Do mới được tách ra từ ngân hàng nông nghiệp nên hầu hết các cán bộ của tổ chức BHTGVN là cán bộ từ nghành ngân hàng chuyển sang và lại chưa được đào tạo kịp thời về nghiệp vụ bảo hiểm .Vì vậy nên họ đã gặp rất nhiều khó khăn trong công việc kiểm tra giám sát bởi họ vẫn còn chuyên về những nghiệp vụ ngân hàng hơn , từ đó làm ảnh hưởng đến hoạt động của cả tổ chức.Hơn thế vì không nắm rõ nghiệp vụ bảo hiểm nên họ đã gặp không ít khó khăn trong việc tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu đúng về bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh những khó khăn, hạn chế ngay trong phạm vi hoạt động của mình,bảo hiểm tiền gửi còn gặp phải những hạn chế khác từ phía các tổ chức tiến dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi.Về việc chấp hành những quy định chung của nhà nứoc, về nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tiền gửi của mình.Không những vậy mà các quỹ tín dụng đã tham gia bảo hiểm tiền gửi thì lại không quản lý chặt chẽ các khoản cho vay, chưa giám sát được mục tiêu sử dụng vốn vay của người đi vay, từ đó tạo ra những rủi ro tiến dụng và dẫn đến nguy cơ giải thể quỹ tiến dụng. 7.Khó khăn trong công tác thanh lý QTDND bị giải thể Công tác thanh lý tại 31 QTDND bị giải thể, số tiền phải thu là 49 tỷ 794 triệu đồng, thu nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản đạt 22,2%, thu nợ cho vay không có tài sản đảm bảo đạt 36,1%, thu cho vay các tổ chức tín dụng khác đạt 100, thu thanh lý tài sản đạt 21,2%, thu các khoản phải thu khác đạt 36%. Đáng chú ý là việc thu hồi bồi thường vật chất và quy trách nhiệm chỉ đạt 3,8%. Một số hạn chế tồn tại của công tác thanh lý các QTDND bị giải thể được BHTGVN đánh giá là hiệu quả thấp, có dấu hiệu của sự trì trệ tại Hội đồng thanh lý dẫn đến kết quả thu hồi chỉ đạt 28% tổng các khoản phải thu và 27% tổng các khoản phải trả không đạt tiến độ thanh lý theo phương án được duyệt. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trên cũng được dánh giá là một số cán bộ tham gia thành viên Hội đồng thanh lý chưa nhận thức đúng ý nghĩa của công tác thanh lý đối với việc củng cố chấn chỉnh hoạt động của hệ thống QTDND nên chưa tập trung quan tâm chỉ đạo thực hiện; nhiều cán bộ địa phương kiêm nhiệm công tác, trình độ năng lực thấp, nên không phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập đối với những khoản nợ không còn khả năng thu, qui định về chi phí thanh lý hay hướng dẫn về trình tự và thủ tục kết thúc thanh lý khi khong còn khả năng thu nợ và thanh toán nợ. Bảo Hiểm Tiền Gửi Với Tâm Tư Người Trong Cuộc. Sau khi Thông tư số 03/2000/TT-NHNN ngày 16/3/2000 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành nghị địng 89/1999/ND-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi được ban hành, đã có không ít ý kiến trao đổi giữa các nhà ngân hàng. Những người chủ yếu có liên quan tới việc thực thi chế độ BHTG nói trên trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hàng ngày. Sau đây là một số trong những ý kiến phản ánh tâm tư của những người trong cuộc: 1-Nếu chế độ bảo hiểm tiền gửi được thực thi, điều này có hấp dẫn được khách hàng hay không? Sự hấp dẫn ở đây cần được hiểu theo 2 khía cạnh: BHTG có hấp dẫn được các khách hàng của mình (là các tổ chức tham gia BH), và TC tham gia BH, đến lượt nó, có hấp dẫn được khách hàng (gửi tiền) nhờ việc tham gia vao BHTG hay không? Xin được đề cập đến khía cạnh thứ nhất: Bất cứ chế độ bảo hiểm nào nói chung sẽ có sức hấp dẫn và khả năng bắt rễ, hòa nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế – xã hội một quốc gia, khi và chỉ khi nó chứng minh được rằng những thủ tục và biểu hiện của nó đã tạo thuận lợi tối đa (với những chi phí tối thiểu nhất có thể) để các đối tượng tham gia, người được bảo hiểm và các bên liên quan khác, nếu có, thực sự được hưởng các tiện ích và quyền lợi mà nó hứa hẹn mang lại. Theo quy định hiện của Thông tư hướng dẫn nói trên về bảo hiểm tiền gửi, thì khả năng Tổ chức tham gia bảo hiểm nhận được sự hỗ trợ của BHTG trong trường hợp cần thiết cấp bách, điều kỳ vọng lớn lao mà các TCTD chờ đón từ BHTG (nhằm ngăn ngừa và cứu vãn nguy cơ mất khả năng thanh toán và đổ vỡ do hoảng loạn dây chuyền) vẫn còn tỏ ra quá mơ hồ và phụ thuộc vào thiện chí chủ quan của phía cơ quan BHTG, điều này chưa thể hiện tính chất bình đẳng, sòng phẳng và công khai về quyền lợi và nghĩa vụ cần có giữa hai chủ thể trong một quan hệ kinh tế và đã làm giảm đi tính hấp dẫn của BHTG đối với các khách hàng của nó. Phải chăng do tính chất bắt buộc “phải tham gia” bảo hiểm (tựa như hiện nay người ta buộc phải “mua điện” của Ngành điện lực) mà cơ quan BHTG chẳng cần quan tâm đến tính hấp dẫn của sản phẩm trong cơ chế thị trường? Khía cạnh thứ hai: Vẫn còn quá sớm để đánh giá về hiệu quả của chế độ BHTG mới ban hành đối với khách hàng, dân cư cứ gửi tiền tại các TCTD. Song, xét dưới góc độ của người đi huy động vốn, thì có thể thấy ngay được rằng với quy định giới hạn tối đa số tiền được bảo hiểm (30triệu VNĐ/người, cả gốc và lãi) như hiện nay, thì các NH cũng không có thêm cơ may để gia tăng được đối tượng khách hàng cá nhân thường xuyên có số dư tiền gửi lớn. Thậm chí, nếu các khách hàng thuộc đối tượng này mà đồng loạt vận dụng cách đối phó theo kiểu đánh “du kích” (như một khách hàng đã thổ lộ: chia tách số tiền lớn ra làm nhiều món đứng tên người gửi khác nhau, hoặc chia ra gửi ở nhiều nơi, nhằm tối đa hóa số tiền được BH bồi thường, nếu có bất trắc xảy ra), thì tất yếu sẽ làm tăng thêm chi phí ấn chỉ, chứng từ và phí quản lý của một hoặc nhiều TCTD đối với cùng một số tiền gửi mà thôi. Đó là sự lãng phí, mà lãng phí thì đồng nghĩa với giảm hiệu quả kinh tế, nó “bào mòn” khả năng tài chính – một trong những yếu tố sống còn trong hoạt động kinh doanh của hệ thống TCTD – và từ đó đe dọa tính an toàn cho tiền gửi của dân cư. Vô hình dung kết quả này sẽ đi ngược lại mục đích tư thân của BHTG. 2- Với việc các ngân hàng phải tham gia đóng BHTG, liệu lãi suất tiền gửi sắp tiền gửi sắp tới của các ngân hàng có bị giảm đi không? Đó là mối băn khoăn hòa trộn với niềm hy vọng vừa le lói của người gửi tiền, khi nghe nói các ngân hàng sắp tới sẽ mua bảo hiểm cho tiền gửi của dân cư tại ngân hàng. Với mức phí bảo hiểm hiện hành (0,15%/năm) thì chi phí đóng bảo hiểm của mỗi kỳ 3 tháng sẽ tương đương với việc lãi suất huy động vốn bị tăng thêm 0,0375% so với trước kia tính trên cùng một số dư vố huy động bình quân trong kỳ. Có nghĩa là chi phí đầu vào sẽ càng trở lên tốn kém nếu TCTD càng nỗ lực huy động tiền gửi của cá nhân, trong khi mà “đầu ra” còn nhiều quản ngại. Qua đó có thể tiên liệu khả năng một số TCTD càng lỗ lực huy động tiền gửi của cá nhân, trong khi mà đầu ra còn nhiều quả ngại. Qua đó có thể tiên liệu khả năng một số TCTD buộc phải có động thái điều chỉnh giảm lãi suất huy động tiền gửi của dân cư, khi không còn khả năng nào khác để cân đối thu chi. 3- Sức hấp dẫn của Ngân hàng TMCP so với Ngân hàng quốc doanh sẽ như thế nào nếu áp dụng BHTG? BHTG ra đời, thoạt nhìn tưởng như chí ít cũng đã đặt được các TCTD cổ phần vào một “sân chơi bình đẳng”, thậm chí còn tăng được sức hấp dấn so với các ngân hàng quốc doanh. Tuy nhiên, do mức vốn tự có và đặc biệt là mức độ uy tín còn “mong manh”, liệu các TCTD cổ phần có đủ lực để chơi bình đẳng hay không, lại là chuyện khác. Thật vậy, với việc phải tăng thêm chi phí cho hoạt động nguồn vốn của mình, thì TCTD nào mà cơ cấu nguồn vốn có tỷ trọng lớn về tiền gửi của khách hàng là TCKT, pháp nhân (với lãi suất huy động thấp) thì vẫn có khả năng cân đối thu chi nguồn vốn cho phép, giữ nguyên lãi suất huy động tiền gửicá nhân, kể cả khi áp dụng BHTG, từ đó sẽ thực sự tạo thêm được một lợi thế cạnh tranh thu hút khách hàng. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, lợi thế này vẫn đang nghiêng về phía các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Mặt khác, BHTG áp dụng một mức phí “khoán chung” cho tất cả các đối tượng tổ chức nhận tiền gửi dân cư, chưa có tiêu chí phân loại, đánh giá lựa chọn các TCTD hoạt động an toàn, có hiệu quả để đề ra được và công khai hóa chế độ khuyến khích ( về mức phí, về các nghĩa vụ khác, nếu có) cho phù hợp với mức độ rủi ro của TCTD đó, nên dưới con mắt của cộng đồng dân cư, cho dù một Ngân hàng thương mại cổ phần nào đó hoạt động rất tốt thì cũng chẳng có gì để phân biệt hơn so với một Ngân hành thương mại quốc doanh, khi mà cả hai cùng tham gia bảo hiểm tiền gửi. 8.Về Bảo Hiểm Tiền Gửi Và Bảo Toàn Tiền Gửi Bảo tòan tiền gửi - Là tổ chức tài chính do bản thân chủ ngân hàng lập lên, mang tính tự nguyện, liên kết nhằm hỗ trợ nghề nghiệp, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh vừa cho ngân hàng, vừa cho người gửi tiền. - Là sở hữu chung của các thành viên tham gia BTTG và đặt dưới sự giám sát của của Hiệp hội ngân hàng. - vì là chủ sở hữu, hơn nữa lại là vì mục đích tương hỗ, liên kết nghề nghiệp nên BTTG dễ dàng có các hình thức hỗ trợ, ứng cứu kịp thời, linh hoạt và thích hợp mà không sợ phải lệ thuộc vào các nguyên tắc hành chính. - Góp phần chống độc quyền, đa dạng hóa các hình thức đảm bảo tiền gửi. Nâng cao tính cạnh tranh và chủ động hội nhập với khu vực và quốc tế. - Góp phần chống ỷ lại vùa dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước. Điều đó cũng góp phần nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh và chống rủi ro đạo đức. Nêu lên nhưng đặc trưng đó, và từ kinh nghiệm nhiều năm của các nước có nền kinh tế thị trường ông Oánh cho rằng cần thiết lập mô hình Quỹ bảo toàn tiền gửi trong quá trình triển khai Luật các TCTD và đưa ra mô hình mẫu mang tính nguyên tắc sau: TCTD bắt buộc tham gia BTTG hoặc tham gia BHTG, hoặc cả hai. Quỹ BTTG hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn thuế. Đối tượng tham gia: các TCTD trong nước và nước ngoài, kể cả các QTDND. Phạm vi bảo toàn: Tiền gửi bằng VND và ngoại tệ bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn của dân cư, kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng đích danh, các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng đích danh. Hình thức sở hữu: Tài sản Quỹ BTTG thuộc sở hữu chung của các thành viên tham gia, khi không tham gia nữa, thành viên có quyền rút phần tài sản tương ứng hiện có của Quỹ với một số điều kiện nhất định. Nguồn vốn của Quỹ BTTG: Vốn tự có: Đó là vốn điều lệ do thành viên đóng góp được trích từ vốn tự có. Vốn này dùng để xây dựng trụ sở và mua sắm phương tiện làm việc của Quỹ. Vốn bảo toàn: Bao gồm: - Vốn góp: Trích từ vốn huy động của thành viên tham gia (tính theo tỷ lệ % trên số tiền gửi được bảo toàn). Vốn này vẫn thuộc sở hữu của người góp và người được trả lãi (với mức thấp hơn thị trường). - Lệ phí bảo toàn: được ghi vào chi phí. Nếu TCTD tham gia BHTG và BTTG thì lệ phí cũng được phân chia theo 1 tỷ lệ nhất định. Nguyên tắc lệ phí: * Số tiền gửi được bảo toàn càng lớn lệ phí càng thấp. * Mức rủi ro càng lớn, phí càng cao (Quỹ dự phòng rủi ro/tài sản có càng lớn, lệ phí càng thấp). * Thành viên mới tham gia phải đóng góp phí lần đầu cao hơn so với thành viên cũ. * Quỹ càng lớn, phí càng thấp. - Tiền lời: Tiền gửi do sủ dụng vốn nhàn rỗi chủa Quỹ đem lại. - Phí bảo toàn: do người gửi tiền mua bảo đảm tiền gửi (hình thức này được áp dụng ở một số nước. Việt Nam có thể áp dụng khi có điều kiện). 6-Sử dụng vốn của Quỹ BTTG: Quỹ BTTG chỉ được sử dụng trong trường hợp thành viên mất khả năng trả nợ (Slovency). a- Tạm thời mất khả năng trả nợ: Khi thành viên tạm thời mất khả năng trả nợ sẽ được Quỹ BTTG: Cho rút phần vốn đã đóng góp. Cho vay: thông thường là khoản cho vay ngắn hạn từ tháng 6 tới 1 năm với lãi suất thấp. Tài trợ: Nếu 2 biện pháp trên chưa giải quyết được khó khăn tạm thời của thành viên thì Quỹ sẽ hỗ trợ vốn không lấy lãi, nhưng áp đặt một chế độ quản lý chặt chẽ. Khi tình hình ổn định kinh doanh có lãi thì người được hỗ trợ nộp cho Quỹ BTTG 10% số lợi nhuận thu được trong một vài năm. Phá sản: Khi thành viên phá sản Quỹ sẽ chi trả tiền gửi theo tỷ lệ, hoặc mức quy định. Lúc này quỹ sẽ trở thành chủ nợ đối với các khế ước cho vay của thành viên. Ta có mô hình so sánh BHTG và BTTG Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi nhà nước Quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội Ngân hàng 1- Tính chất - Nhà nước can thiệp trực tiếp, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với người gửi tiền nhỏ(nhứng người không đủ thông tin và khả năng đánh giá). - Thuộc sở hữu Nhà nước, Nhà nước cấp vốn ban đầu và giám sát thanh tra. - Can thiệp có tính chất hành chính- kinh tế. - Nhà nước không can thiệp trực tiếp, chỉ tạo điều kiện pháp lý cho thành lập và họat động. - Đây là sự quan tâm trực tiếp của từng thành viên Hiệp hội đến người gửi, với tư cách họ là thân chủ của ngân hàng. - Tương hỗ vì lợi ích chung của Hội viên, không vì mục đích kinh doanh chia lời. 2.Tư cách pháp nhân - là 1 pháp nhân - Quỹ bảo toàn tiền gửi không phải là 1 pháp nhân.Đây là tài sản chung của Hiệp hội, của hội viên 3.Sử dụng tài chính và vai trò quyết định - Để giải quyết tình huống; hoàn toàn do quyết định của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Hiệp hội có thể quyết định một cách chủ động cứu vãn tình hình hoặc chủ động can thiệp trước khi 1 ngân hàng xảy ra tình trạng mất khả năng thanh trả nợ. Phần sinh lời của Quỹ bảo toàn được nhập lại Quỹ, làm cho Quỹ nhanh chóng phát triển. 4.Quy mô can thiệp - Có giới hạn phụ thuộc vào thuộc vào thực lực tài chính của Bảo Hiểm tiền gửi và chỉ có giới hạn theo pháp luật Có giới hạn tùy theo mức độ phát triển của Quỹ, song có cơ hội mở rộng đối tượng, mức độ trong sự chủ động của hiệp hội và khả năng phát triển của hội viên. 5- Tâm lý - có thể tạo nên tâm lý ỷ lại Nhà nước - Không tạo tâm lý ỷ lại Nhà nước. Mỗi hội viên ý thức được việc”tự mình cứu trước khi trời cứu” 6- Giám sát xử lý - Hỗ trợ, giám sát, xử lý, với tư cách Nhà nước. - Hỗ trợ, tự giám sát trong Hiệp hội là tự cứu mình. PHẦN III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM I.ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM. Để tiến tới hòa nhập nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới, để phù hợp với xu hướng phát triển nhanh hệ thống ngân hàng, của các tổ chức tín dụng và của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là tất yếu khách quan. Đồng thời do đặc điểm cụ thể của Việt Nam, trong giai đoạn đầu chỉ nên bảo hiểm loại tiền gửi có kì hạn của QTD – ND. Trách nhiệm mua bảo hiểm thuộc về QTD – ND và cần có sự tài trợ của Nhà nước. Nhà nước cũng nên quy định mức phí đóng bảo hiểm tương ứng với mức của các nước trên thế giới và cũng cần phải quy định mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm với người gửi tiền. Việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải đi đôi với việc mở rộng bảo hiểm sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm kinh doanh nông sản và bảo hiểm tai nạn cho nông dân. Tiếp theo việc thực hiện đối với hệ thống QTDND, Chính phủ quy định bảo hiểm tiền gửi đối với hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay cả nước có 30 NHTM cổ phần đô thị, 10 NHTM cổ phần nông thôn và 2 công ty tài chính,, các tổ chức tín dụng cổ phần này đang có xu hướng phát triển nhanh trong thời gian tới. Để dảm bảo an toàn và khuyến khách mọi ngưòi dân gửi tiền vào các tổ chức tín dụng cổ phần, nhà nước nên xem xét qui định bảo hiểm tiền gửi bắt buộc đối với họ. Trong thời gian tới, Bảo hiểm tiền gửi sẽ phối hợp với các đơn vị chức năng của NHNN Việt Nam để trình Thống đốc và Thủ Tướng chính phủ chỉnh sửa các văn bản quy phạm pháp luật về BHTG phù hợp với thực tế. Để người dân an tâm hơn khi gửi tiền vào các TCTD có tham gia BHTG và hoạt động của BHTGVN sẽ đảm bảo duy trì sự phát triển ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm trong cơ chế thị trường. Mặt khác BHTG tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trên các cơ quan thông tin đại chúng để mọi người am hiểu nội dung hoạt động của BHTF để trong tương lai không xa BHTGVN thực sự góp phần duy trị sự ổn định, phát triển an toàn lành mạnh của các TCTD. Đặc biệt là khối lượng vốn huy động tiền gửi trong dân cư ngày một tăng, góp phần đắc lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội nước nhà. Tổ chức kinh doan bảo hiểm tiền gửi hình thành dưới dạng một liên doanh giữa Tổng Công ty bảo hiểm Viêt Nam với một tổ chức kinh doanh bảo hiểm của Ngân hàng Nhà nước. Bởi lẽ NHNN là cơ quan cấp giâý phép họat động cho các tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng, theo dõi và quản lý hoạt động các tổ chức đó; am hiểu về nghiệp vụ và có mối liên hệ thường xuyên với các tổ chức tín dụng,….. có thể dễ dàng vận dụng giữa tính tự nguyện tham gia bảo hiểm với tính bắt buộc của bảo hiểm tiền gửi. Nếu có sự liên kết giưã Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam với NHNN trong việc bảo hiểm tiền gửi thì có nhiều thuận lợi và hiệu quả sẽ cao hơn trong quá trình xây dựng và thực thi đề án bảo hiểm tiền gửi. II.GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM. A.Giải pháp Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời có vai trò rất lớn đối với hoạt động kinh tế đất nước nói chung và hoạt động Bảo Hiểm nói riềng. Những tổ chức tín dụng tham gia BHTG sẽ tạo niềm tin cho người gửi tiền, người dân cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều và không lo sợ khi có những thông tin gây thất thiệt cho TCTD đó, tạo sự an toàn co hệ thống ngân hàng. Qua đó sẽ là kênh huy động vốn có hiệu quả cho ngân hàng. TCTD tham gia BHTG còn có lợi ích nữa là thường xuyên được BHTG giám sát, thanh tra các hoạt động nên tạo sự an toàn cho TCTD. Trong quá trình hoạt động, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động BHTGVN còn có rất nhiều mặt hạn chế cần phải khắc phục. Sau đây là một số giải pháp để nâng cao hoạt động BHTGVN: 1.Về phía Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam. Thứ nhất. Mức phí Mức phí 0,15%/năm là cao, trong khi chênh lệch lãi suất đầu ra đầu vào hiện nay chỉ khoảng 0,12%. Mức phí không tính tới nguyên tắc: hoạt động càng an toàn, mức phí càng thấp. Nên chăng mức phí năm sau chỉ đóng phần bổ sung cho số dư tiền gửi tăng thêm. Thứ hai. Mức bảo Hiểm Tối đa là 30 triệu đồng là thấp. Thu phí trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm, nhưng chỉ bảo hiểm cho 30 triệu đồng là không hợp lý Do vậy mức bảo hiểm nên được quy định theo tỷ lệ số tiền gửi được bảo hiểm. Thứ ba. Loại tiền được Bảo Hiểm Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, quan hệ giao lưu nước ngoài ngày càng nhiều. Những nguồn thu ngoại tệ chiếm số lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước. Theo số liệu thống kê của Quỹ Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam tại chi nhánh TP Hồ Chí Minh, trong số vốn huy động bằng ngoại tệ là 1.206,9 tỷ đồng, số tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ là 1.124,37 tỷ đồng, chiếm 74% số vốn huy động bằng ngoại tệ và chiếm 49,3 tổng số vốn huy động. Số tiền này khá lớn, nhưng theo quy định hiện nay chie bảo hiểm cho đồng nội tệ nên trong trường hợp các ngân hàng mất khả năng thanh toán, số tiền này sẽ không được chi trả bảo hiểm. Vậy BHTG nên bảo hiểm cả đồng nội tệ Thứ tư. Về công tác chi trả. Cần có một tổ chức chi trả riêng biệt để kết hợp với các chi nhánh BHTG cơ sở kịp thời chi trả cho người gửi tiền tại các quỹ tín dụng bị mất khả năng chi trả. Cần tăng cường đội ngũ cán bộ nhằm hướng dẫn cụ thể cho đối tượng được chi trả làm đúng những thủ tục nhận tiền. Nhanh chóng thúc đẩy việc thanh lý tài sản đồng thời giám sát tổ chức thanh lý để thu hồi khoản tiền đã chi trả từ các quỹ tín dụng bị phá sản một cách có hiệu quả. Nâng tỷ lệ thu hòi lên sau đó xác định quyền ưu tiên hưởng từ tiền thanh lý tài sản đúng quy định và thực hiện chi trả nhanh chóng . Phối hợp chặt chẽ với các cán bộ địa phương nơi diễn ra công tác chi trả để thục hiện công tác chi trả một cách có hiệu quả hơn. Thứ sáu. Mạng lưới hoạt động. Về nguyên lý, BHTG là một tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận, kinh phí hoạt động do các TCTD tham gia bảo hiểm đóng góp. Vì vậy, bộ máy của tổ chức BHTG nên thu gọn, việc mở rộng mạng lưới cần cân nhắc sao cho hợp lý.Ở các nước, BHTG ít có mạng lưới tại các tỉnh, địa phương, công việc thu phí của các TCTD tham gia BHTG ủy quyền cho các ngân hàng giữ tài khoản của BHTG, công tác chi trả tiền bảo hiểm khi TCTD bị phá sản cũng ủy quyền cho một hoặc mốt số NHTM thực hiên theo đúng quy định của BHTG, để giảm chi phí không cần thiết cho BHTG Thứ bảy. Về công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra các tổ chức tín dụng Cần phải thực hiện thanh tra giám sát thường xuyên liên tục với các tổ chức tín dụng. Kiểm tra việc chấp hành các quy định của BHTG, tỷ lệ an toàn vốn, huy động vốn và việc chấp hành kỷ luật trong công tác cho vay, quy trình hạch toán kế toán. Tăng cường công tác giám sát từ sa, phối hợp chặt chẽ với thanh tra NHNN Trung ương và các Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố để khai thác triệt để các thông tin đặc biệt là tình hình hoạt động của một số quỹ tín dụng tham giam BHTG thuộc diện yếu kém, từ đó đi sâu kiểm tra, phân tích đánh giá và có các biện pháp xử lý . Thứ tám.Về mô hình Bảo hiểm. Chúng ta áp dụng hình thức BHTG là cơ quan nhà nước nhưng được sự đóng góp kinh phí của các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm. Mô hình này có nhiều điểm thuận lợi trong hoạt động BHTG vì vừa tận dụng được sự quan tâm, hỗ trợ của nhà nước, mà các TCTD lại phải có trách nhiếm san sẻ, tương hỗ lẫn nhau và hỗ trợ khẩn cấp được kịp thời khi cần thiết, do đó cùng góp sức với NHNN giữ được độ an toàn cho cả hệ thốngTCTD. Thứ chín. Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ . Bảo hiểm tiền gửi Việt Namcần thường xuyên mở nhưng lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ của tổ chức từ ngân hàng chuyển sang để họ kịp thời nắm bắt và triển khai nghiệp vụ một cách co hiệu quả đồng thời fgiả thích những thắc mắc của khách hàng. Ngoài ra tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần thường xuyên tuyển chọn bổ sung vào đội ngũ cán bộ nhũng người có trình độ chuyên môn về bảo hiểm từ trung ương đến cơ sở để ngày một nâng cao chất lượng hoạt động của mình Bên cạnh những giải pháp trên ,Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần tăng cường hơn nữa về quản lý việc tham gia bảo hiểm và việc đóng phí bảo hiểm của các quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức mà Chính phủ có quy định phải tham gia bảo hiểm .Kịp thời hỗ trợ các tổ chức tín dụng có tham gia bảo hiểm gặp khó khăn để tổ chức đó trở lại hoạt động bình thường , bên cạnh đó cần phải thường xuyên phối hợp kiển tra ,giám sát hướng dẫn các tổ chức tín dụng nhằm góp phần giúp các đơn vị này hoạt động theo quỹ đạo ,đúng luật từ đó có kết quả kinh doanh tốt hơn.Đối với những tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán thì cần xem xét lại vầ phối hợp với ngân hàng Nhà nước để có biện pháp nên hỗ trợ hay cương quyết giải giải thể , nếu tiếp tục để tồn tại thì phải có các biện pháp tổ chhức lại và khắc phục nhanh nhất các hậu quả. Thứ mười. Trang bị cơ sở vật chất Tăng cường chuyên môn hóa, đẩy nhanh những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào quá trình hoật động. Đặc biệt sử dụng hệ thống công nghệ thông tin trong quá trình thu phí, kiểm tra giám sát hoạt động của các đại lý, công tác chi trả Bảo Hiểm…… Giúp giảm chi phí hoạt động, tăng nhanh năng suất lao động, giúp cho công tác kiểm tra giám sát được dễ dàng, chính xác. Thứ mười một. Hình thức áp dụng BHTG Để thức sự đảm bảo niềm tin cho khách hàng khi gửi tiền, khai thác tối đa vốn nhàn rỗi trong dân cư phù hợp với thực tế nước ta hiện nay là QTD – ND mới ra đời, cần áp dụng hình thức bảo hiểm bắt buộc tiền gửi mà không nên dùng cơ chế tự nguyện mua bảo hiểm tiền gửi. 2.Về phía đối tượng tham gia bảo hiểm . Để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam ,thì ngay bản thân các tổ chức tham gia bảo hiểm và người gửi tiền phải có những trách nhiệm thực sự. Trước hết phải taan thủ đầy đủ nhữnh quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng và về những quy định của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Cần nâng cao nhận thức về sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi ,cũng như những thuận lợi mà bảo hiểm tiền gửi mang lại cho tổ chức tham gia bảo hiểm . Từ đó thực hiện nghĩa vụ đóng phí cùng với những báo cáo khác có liên quan một cách kịp thời đầy đủ . Có trách nhiệm hơn nữa về việc kinh doanh ,điều hành nhằm tránh những thất thoát vốn và tài sản cho tổ chức tín dụng .Từ đó giảm bớt được gánh nặng cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam . Về phía người gửi tiền , đây là đối tượng trực tiếp nhận tiền chi trả bồi thường từ nhà bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra đối với quỹ tín dụng mà họ đã gửi tiền , vì vậy khi gửi tiền người gửi cần phải kê khai đầy đủ và hợp lệ vào những giấy tờ có liên quan để tránh gặp phải những rắc rối khi nhận tiền chi trả từ nhà bảo hiểm. Nếu uỷ quyền nhận tiền cho người khác thì cần phải có những giấy tờ cần thiết theo đúng quy định của nhà bảo hiểm. 3.Về phía nhà nước. -Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần sớm chỉnh sửa và bổ sung một số điểm trong Nghị định số 89/2000 NĐ- CP và Thông tư số 03/2000/TT – NHNN có liên quan đến việc xác lập quyền chủ nợ của BHTG đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền trong trường hợp giải thể do chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán. - Tăng cường công tác thanh tra giám sát Tổ chức Bảo Hiểm Tiền Gửi, nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời các vụ vi phạm, tham ô. Đảm bảo cho các sự hoạt động lành mạnh cho các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. - Nhà nước nên quy định , tổ chức bảo hiểm tiền gửi có tư cách pháp nhân, được phép tham gia các hoạt động nhằm bù đắp chi phí và bảo tòan vốn, bao gồm: Các hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động vay nợ và hoạt động bảo hiểm( tái bảo hiểm). -Nhà nước cần cung cấp thêm vốn để mở rộng các chi nhánh của BHTGVN tại mỗi tỉnh thành phố trong cả nước. - Dựa vào đặc điểm của tổ chức bảo toàn tiền gửi, nhà nước nên cho ra đời loại hình Bảo Toàn Tiền Gửi, tồn tại song song hai loại hình bảo hiểm, hai loại hình này sẽ hỗ trợ nhau và đảm bảo cho hệ thống bảo hiểm tiền gửi được phát triển mạnh mẽ. B. Kiến Nghị Dựa trên những điểm bất cập còn tồn tại của Bảo Hiểm Tiền Gửi em đưa ra một số kiến nghị sau: - Tổ chức BHTG nên hình thành dưới dạng một liên doanh giữa Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam với một tổ chức kinh doanh bảo hiểm của Ngân hàng Nhà nước.Bởi lẽ, NHNN là cơ quan cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng, theo dõi và quản lý hoạt động các tổ chức đó; am hiểu về nghiệp vụ và có mối liên hệ thường xuyên với các tổ chức tín dụng,… có thể dễ dàng vận dụng giữa tính tự nguyện tham gia bảo hiểm với tính bắt buộc của bảo hiểm tiền gửi. Nếu có sự liên kết giữa Tổng Công Ty Bảo Hiểm với NHNN trong việc bảo hiểm tiền gửi thì có nhiều thuận lợi và hiệu quả sẽ cao hơn trong quá trình xây dựng và thực thi đề án BHTG được dễ dàng. - Nên quy định mức phí đóng bảo hiểm chỉ tương ứng với mức của các nước trên thế giới và cũng cần phải quy định mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm đối với người gửi tiền. -Nhà nước không nên thu thuế đối với Công ty bảo hiểm tiền gửi loại này. Phần lợi nhuận của Công ty này cần được đầu tư trở lại cho chính các QTD – ND. - Cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát các rủi ro và các biện pháp xử lý các kênh thông tin về hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền tiếp cận, bao gồm: Báo cáo định kỳ theo qui định của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, các báo cáo đột xuất khi tổ chức tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về khả năng chi trả, thay đổi thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc; Các kết quả thanh tra, giám sát của thanh tra NHNN. Trực tiếp kiểm tra việc chấp hành các quy định tại nghị định này của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. -Để kích thích các yếu tố thị trường trong hoạt động ngân hàng cần phải có những mức phí khác nhau , linh hoạt theo chất lượng hoạt động ,mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, thay cho tỷ lệ phí quy định chung cho tất cả các đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi là 0,15%/năm , để đạt được sự công bằng giữa các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Về tiềm lực tài chính của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế, vì vậy Nhà nước cần bổ sung thêm vốn điều lệ cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để từ đó Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có thể sớm thành lập được hệ thống tiền gửi cơ sở. Đồng thời đề nghị chính phủ cho phép bổ sung khoản mục chi phí trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất dự kiến có thể xẩy ra trong nghiệp vụ hỗ trợ tài chính. Kết luận Tóm lại, có thể nói, mặc dù mới ra đời vẫn còn có những điểm hạn chế song BHTG Việt Nam đã phát triển rất nhanh chóng với những kết quả đáng khích lệ cho thấy tiềm năng phát triển trong tương lai.Công tác chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được tiến hành nhanh gọn, đảm bảo chính xác an toàn tài sản theo đúng các quy định của Pháp luật, tạo được niềm tin về chính sách bảo hiểm tiền gửi, vào sự ổn định và phát triển hệ thống QTDND, hệ thống ngân hàng. Nguyên nhân chính góp phần làm nên kết quả này Thứ nhất, BHTG đã quán triệt tốt việc triển khai nghiệp vụ chi trả tiền bảo hiểm phải tiến hành với tiến trình củng cố , chấn chỉnh các tổ chức tín dụng; đặc biệt là QTDND. Thứ hai, Công tác tập huấn nghiệp vụ bảo hiểm được coi trọng đáp ứng các yêu cầu về qui định chi trả bảo hiểm. Thứ ba, Nghiệp vụ chi trả bảo hiểm đã đựơc tổ chức thực hiện nghiêm túc, tuân thủ qui định của Pháp luật và của BHTG Trong tương lai không xa, BHTG sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ, chất lượng đội ngũ nhân viên sẽ được nâng cao hơn để đóng góp vào sự phát triển thị trường bảo hiểm nước nhà, góp phần đẩy mạnh công cuộc Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa đất nước. Danh mục tài liệu tham khảo Tạp chí bảo hiểm Giáo trình kinh tế bảo hiểm. Giáo trình QTKDBh Thới báo kinh tế Việt Nam Tạp chí thời báo kinh tế Việt Nam. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM Thực trạng triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 PHẦN MỘT: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI 2 1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi 2 2. Đối tượng và đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi 5 3. Phạm vi bảo hiểm tiền gửi 5 4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 6 PHẦN HAI: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 8 1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 8 2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 8 3. Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 10 4. Kết quả đạt được của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 12 5. Những vấn đề còn tồn tại của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 13 1. Về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm 14 2. Hình thức Bảo hiểm 14 3. Phí bảo hiểm 14 4. Hình thức nộp phí 15 5. Việc tổ chức gíam sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham gia BHTG là vấn đề cần phải xem xét trên các khía cạnh 15 6. Những hạn chế ngay trong cơ quan bảo hiểm tiền gửi 16 7. Khó khăn trong công tác thanh lý QTDND bị giải thể 17 8. Về Bảo hiểm tiền gửi và bảo toàn tiền gửi 20 PHẦN III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 25 I. Định hướng hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 25 II. Giải pháp và kiến nghị phát triển bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 26 A. Giải pháp 26 1. Về phía bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 27 2. Về phía đối tượng tham gia bảo hiểm 30 3. Về phía nhà nước 30 B. Kiến nghị 31 KẾT LUẬN 33 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan