Đề tài Thực trạng về sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam

Xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững theo hướng nền nông nghiệp sinh thái, thực hiện đa canh đa dạng hoá sản phẩm, kết hợp nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh nông sản hàng hoá, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước với nhu cầu ngày càng cao và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, nâng cao nhanh đời sống nông dân, xây dựng nông thôn mới”. Xuất phát từ định hướng phát triển trên mà vấn đề sử dụng hợp lý quỹ ruộng đất trong nông nghiệp là bài toán để đưa nền nông nghiệp nước ta phát triển lâu dài và bền vững, bảo đảm nguồn lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu dự trữ và cho xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho gần 80% dân số trong nông thôn và 70% lực lượng lao động đang làm trong trong lĩnh vực nông nghiệp. Ta có thể kết luận việc sử dụng hợp lý và khoa học đối với đất nông nghiệp là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với quá trình thúc đẩy, phát triển nền nông nghiệp nước ta, tạo nền móng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên em rất mong sự giúp đỡ của thầy và góp ý kiến cho bài viết của em thực sự thiết thực và khoa học hơn.

doc32 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 17537 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân tố ảnh hưởng tới việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. a.Khách quan. *.Điạ hình: Nước ta có địa hình phức tạp chủ yếu là đồi núi vì vậy ảnh hưởng trực tiép đến việc sử dụng đáat nông nghiệp. Do đòi núi nhiều dẫn tới diện tích sử dụng cho đất nông nghiệp Ýt.§Þa hình phức tạp ảnh hưởng tới việc vận chuiển sản phẩm nông nghiệp :vận chuiển khó khăn,chi phí vận chuiển cao .Đây là nguyên nhân dẫn tới việc sử dụng đất nông nghiệp chưa cao. *.Khí hậu: việtNam có điều kiện khí hậu cận nhiệt đới gió mùa cho lên trong quá trình sản xuất nông nghiệp phải thoe mùa vụ khong liên tục. ảnh hưởng tới các ngành chế bién nông sản . b.Chủ quan. *.Dân sè: Đây là một vấn đề đáng quan tâm đối với quá trínhử dụng đất nông nghiệp .Ơ nước ta hiện nay dân số là7633900 chiếm 78%dân số trong cả nước với số liệu này thì mật độ dân số ở nông nghiệp là quá đông. Mặt khác sự phân bố dân số dữa các vùng không đồng đều dẫn tới việc sử dụng đất nông nghiệp không hiệu quả ,ví dụ như khu vưc đồng bằng Sông Hồng Đòng bằng Sông Cử Long mật đọ dân số quá đông ,còn khu vực miền núi dân số thưa thít . *. Tác động của quá trình đô thị hóa. Do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nên quá trình đô thị hóa dẫn tới đất nông nghiệp bị thu hẹp khá lớn để phục vụ cho nhu cầu xây dựng nhà ở đô thị của dân cư, của các đơn vị cơ quan Nhà nước và xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật. Do vậy gây ảnh hưởng rất lớn tới công tác quản lý đất đai bởi các lý do chủ yếu là: * Do tác động của quá trình đô thị hóa, dân cư biến động cơ học dẫn đến tăng nhu cầu về đất xây dựng, tình trạng mua bán đất trái phép, mua bán đất nông nghiệp để xây dựng nhà ở phát sinh rất phức tạp. Hiện tượng vi phạm pháp luật đất đai của các cá nhân, tổ chức... kèm theo đó là tình trạng vi phạm về công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị. * Quá trình đô thị hóa đòi hỏi phải sử dụng diện tích đất ngày càng nhiều để xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị và các công trình phục vụ đời sống văn hóa, phát triển sản xuất trong khi đó quỹ đất đai lại có hạn. 2.Biện phá khắc phục. +Xây dựng hệ thống giao thông vận tải đảm bảo cho việc vận chuyển nông nghiệp tới nơi tiêu thụ, chế biến . +Cần phải có biện pháp làm giảm việc tăng dân số ,và đưa ra các chính sách nhằm chuiển dịch cơ cấu dân số giữa các vùng sao cho cân đối giữa các vùng ,ví dụ chính sách khuyến khích người dân di cư tới các vùng kinh tế mới. +Cần phải đưa các giống cây trồng cho năng suất cao và chịu đươc sự biến đổi khí hậu của từng vùng nhằm đảm bảo cung cấp sản phẩm nông nghiệp một cách liên tục .Khuyên khích phat triển cây công nghiệp,cây ăn quả,cây lâu năm. III. Quỹ đất nông nghiệp ở nước ta. Đất nước chúng ta trải dài từ Bắc đến Nam với việc phân thành 7 vùng kinh tế để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Quỹ ruộng đất là tổng thể về diện tích ruộng đất trên một vùng lãnh thổ theo mét ranh giới nhất định, nằm trong phạm vi một đơn vị sản xuất (hộ gia đình, doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp ....) của một địa phương như xã, huyện, tỉnh hay cả nước. Tổng quỹ đất nông nghiệp ở Việt Nam là: 7.637.710 ha, đối với mỗi đơn vị sản xuất, mỗi địa phương quỹ đất nông nghiệp là có giới hạn về mặt diện tích. Đặc trưng của các loại quỹ đất được quy định bởi đặc điểm của đ. Trong đó, đặc điểm có tính hữu hạn về số lượng đất đai và tính vô hạn về sự sinh lời của đất đai chi phối một cách rõ rệt nhất. Tuy nhiên, trong các quỹ đất, quỹ đất tự nhiên mang tính bao trùm và được phân thành các loại khác nhau. Mỗi loại đất hình thành mỗi quỹ riêng (trong đó có quỹ đất nông nghiệp). Vì vậy, quỹ đất nông nghiệp và một số quỹ đất chuyên dùng khác có sự biến động nhất định. Sự biến động của quỹ đất nông nghiệp sẽ diễn ra theo hai hướng. Hướng thứ nhất: Thu hẹp quỹ đất nông nghiệp do quá trình đô thị hoá, do sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, do sự hình hành các trung tâm công nghiệp mới, .... chỉ tính riêng ở Thủ đô Hà Nội trong khoảng 4 năm từ 1994 đất nông nghiệp giảm 1.300 ha. Việc hình thành nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp đã làm giảm quỹ đất nông nghiệp. Bởi vậy, việc bố trí quy hoạch để sử dụng đất đạt hiệu quả sử dụng cao và tránh tình trạng xây dựng, quy hoạch trên đất nông nghiệp. Hướng thứ hai: Tăng quỹ đất nông nghiệp bởi vì nhu cầu về lao động và thu nhập, do nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng, dân số ngày càng Đông nên việc khai khẩn đất hoang hoá để đưa vào sản xuất nông nghiệp tăng lên. Đây là xu hướng vận động theo chiều rộng là vấn đề cần được khuyến khích và thực hiện theo những chính sách, tính toán của Nhà nước, theo những định hướng, những mục tiêu đã đề ra. Quỹ đất nông nghiệp được cấu thành từ các loại đất khác nhau, tuỳ theo mục đích sử dụng của chúng. Nói cách khác, quỹ đất nông nghiệp được phân thành các loại khác nhau. Khi mục đích sử dụng đất nông nghiệp thay đổi làm cho số lượng loại đất này tăng lên, loại đất kia giảm đi. Quỹ đất nông nghiệp có sự biến động trong nội bộ của nó cùng với sự biến động các loại quỹ đất trong tổng quỹ đất tự nhiên, ở từng loại quỹ đất cũng có sự biến đổi. Đối với quỹ đất nông nghiệp, sự biến động trong nội bộ của nó thương theo xu hướng: Giảm dấn diện tích trồng cây lương thực để chuyển sang trồng các loại cây khác. Xu hướng biến động này do trình độ sản xuất ngày càng cao, nhờ thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng xanh năng suất cây lương thực đã tăng lên đảm bảo an toàn lương thực, từ một nước thiếu ăn, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo của đất nước ta chiếm ưu thế về số lượng nhưng chất lượng thì còn kém và thua so với chất lượng gạo của các nước như Thái, Mỹ. Đòi hỏi phải thay thế, chuyển đổi các loại cây trồng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế của cây trồng. Mặt khác, do sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt là của hệ thống giao thông đã mở ra khả năng giao lưu hàng hoá làm cho việc chuyển sang trồng các loại cây trồng khác mang tính thiết thực hơn như cây ăn quả và cây công nghiệp. Vấn đề giao thông phải thật sự cải thiện tốt, đảm bảo cho sự vận chuyển thuận lợi nhanh chóng để đưa ccc sản phẩm ra thị trường trao đổi thì mới tránh được hình thức sản xuất tự cung - tự cấp tại mỗi địa phương. Trong quỹ đất trồng cây lương thực cũng như quỹ đất trồng các loại cây trồng khác đã dần dần thay thế những cây trồng có chất lượng thấp bằng cây có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao theo hướng khai thác lợi thế của vùng. Ví dụ: Ngay trong ngành trồng lúa xu thế thay các loại lúa có năng suất cao nhưng chất lượng thấp bằng các loại lúa cổ truyền có chất lượng cao ngày càng tăng. Trong quỹ đất đai của cả nước, quỹ đất nông nghiệp đứng thứ 3 về tỷ trọng và có xu hướng tăng trong thời kỳ 1980 trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của cơ chế quản lý và sử dụng đất đai đã tạo động lực để người nông dân tích cực khai hoang, tăng vụ mở rộng diện tích... đưa đất đai vào hoạt động nông nghiệp. Với những chính sách của Nhà nước đã từng bước cải tạo Đồng Tháp Mười, cải tạo đất ở Đồng bằng sông Cửu Long đã làm tăng quỹ đất nông nghiệp. Quỹ đất nông nghiệp có sự biến động theo xu hướng tỷ trọng đất trồng cây hàng năm giảm dần từ 86,4% năm 1980 xuống còn 72,5% năm 1997; tỷ trọng đất trồng cây lâu năm tăng dần từ 7,9% năm 1980 lên 18,98% năm 1997. Biến động quỹ đất nông nghiệp từ 1980-1997 Đơn vị: 1.000 ha Các loại đất 1980 1985 1990 1994 1997 Đất nông nghiệp trong cả nước 6.913,4 6.942,2 6.993,2 7.367,2 7.367,72 Đất trồng cây hàng năm 5.974,2 5.615,8 5.339,0 5.463,8 5.553,80 Đất trồng cây lâu năm 549,5 804,8 1.045,2 1.347,7 1.449,60 Đất trồng cỏ 272,2 328,6 342,3 221,0 132,50 Đất có mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp. 117,5 169,8 266,7 334,7 ...... Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng cục Địa chính. Tuy nhiên, so với quỹ đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ hơn còn lượng lớn đất đai chưa được khai thác. Việc đầu tư khai thác đất nông nghiệp một cách đầy đủ và hợp lý đã và đang được đặt ra một cách cấp thiết. 2. Phân bố đất nông nghiệp Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội. Vì vậy việc phân bổ quỹ đất đai đặc biệt là quỹ đất nông nghiệp bị chi phối của hai yếu tố đó rất mạnh. Phân bố đất đai theo vùng bị chi phối bởi các điều kiện tự nhiên gắn với đất đai mạnh hơn, còn phân bố theo hai loại cây trồng lại bị chi phối bởi các yếu tố về mặt xã hội mạnh hơn. 2.1. Phân bố đất nông nghiệp theo vùng kinh tế Phân bố đất nông nghiệp theo vùng kinh tế trước hết được thể hiện theo tính tự nhiên của đất đai. Tức là trong quỹ đất nông nghiệp của cả nước, đất nông nghiệp thuộc phân bố theo các vùng như thế nào phụ thuộc vào đặc tính tự nhiên của đất đai. Trong đó, các yếu tố địa hình, nông hoá, thổ nhưỡng đóng vai trò quyết định. ở Việt Nam căn cứ vào các yếu tố tự nhiên của đất đai là chủ yếu, người ta phân quỹ đất đai thành 7 vùng lãnh thổ. Đất Nhà nước phân theo 7 vùng đó như sau: * Vùng Trung du miền núi phía Bắc: Đất nông nghiệp có 1.201.437 ha chiếm 11,67% so với tổng quỹ đất tự nhiên của vùng. Đất nông nghiệp ở đây chủ yếu trồng cây hàng năm (lúa rẫy, sắn, đậu, đỗ....). Phần lớn đất nông nghiệp ở vùng này là cây công nghiệp dài ngày (chè, cà fê, ....) và cây ăn quả. Nhờ thành tựu phát triển sản xuất lương thực của cả nước, nhờ các cơ sở hạ tầng của vùng đang từng bước được củng cố và xây dựng nên khả năng chuyển đổi cây trồng và khai thác nông nghiệp của vùng còn rất lớn. * Vùng Đồng bằng sông Hồng: Đất nông nghiệp có 664.638 ha, chiếm 56,56% so với tổng diện tích toàn vùng. Đất trong vùng được hình thành và bồi tụ thường xuyên bởi phù sa của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình nên địa hình tương đối bằng phẳng, chất lượng đất tốt, rất phù hợp cho việc trồng lúa. Vì vậy, vùng Đồng bằng sông Hồng được coi là vựa lúa ở các tỉnh phía Bắc. Do quá trình đô thị hoá, dân số Đông nên đất nông nghiệp bị giảm mạnh. * Vùng Khu Bốn cũ: Đất nông nghiệp 676.707 ha chiếm 13,1% diện tích toàn vùng. Đất đai ở đây chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Bởi vậy, việc mở rộng quỹ đất nông nghiệp của vùng gắn với đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng, nhất là các cơ sở hồ, đập đã và đang trở thành cần thiết. * Vung duyên hải miền Trung: Đất nông nghiệp chiếm 604.956 ha chiếm 12,05% so với quỹ đất tự nhiên của vùng. Vùng này có sự biến động đất nông nghiệp tương đối lớn theo hướng giảm cây hàng năm, tăng các loại cây lâm nghiệp bảo vệ môi trường. Từ năm 1980 đến 1994, đất nông nghiệp giảm 45.587 ha để chuyển sang đất lâm nghiệp. Đất trồng cây hàng năm giảm 93.495 ha, đất bồi tụ từ các con sông lớn đa số đất nông nghiệp là đất rẫy có độ dốc lớn, dễ bị rửa trôi khi gặp mưa kéo dài. * Vùng Tây Nguyên: Đất nông nghiệp là 798.358 ha, chiếm 11,2% so với quỹ đất tự nhiên của vùng. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đất của vùng Tây Nguyên là đất đỏ bazan màu mỡ nên rất thích hợp với các loại cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như: cà fê, cao su, hạt điều, .... Đất chưa sử dụng 1.580.342 ha, đất có khả năng nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Vì vậy, tiềm năng về nông nghiệp ở vùng này rất lớn. * Vùng Đông Nam Bé: Diện tích đất nông nghiệp là 1.029.375 ha, chiếm hơn 41,22% quỹ đất của vùng. Vùng này chủ yếu là đất bazan màu mỡ thuận lợi cho phát triển các cây công nghiệp dài ngày và các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, đây là một trong những vùng kinh tế trù phú, là miền đất có sức hấp dẫn đối với những người làm nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện tại trong vùng vẫn còn 35.087 ha đất chưa sử dụng, trong đó đất có khả năng nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể. ĐâY là nguồn lực quý giá cần được khai thác. * Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Đây là vùng đất nông nghiệp chiếm thành phần lớn đất nông nghiệp 2.620.238 ha trong tổng số 3.955.550 ha, chiếm 73,77% diện tích đất nông nghiệp. Hệ thống đất đai của vùng này được hệ thống sông Cửu Long bồi tu phù sa thường xuyên nên rất màu mỡ. Vì vậy, đấy được coi là vựa lúa của cả nước, vùng có sản lượng lương thực và sản lượng lương thực hàng hoá lớn nhất trong cả nước. Bên cạnh đó tiềm năng về đất đai của vùng cũng còn rất lớn. Đất chưa sử dụng chủ yếu là đất nông nghiệp và được tập trung ở vùng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên. Để khai thác tiềm năng này cần đầu tư một cách đồng bộ cả về kinh tế và xã hội, từ khai hoang cải tạo đất đến xây dựng được các kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Giải quyết được các vấn đề đó việc khai thác mở ra rất lớn, vùng sản xuất lúa hàng hoá sẽ được mở rộng. 2.2 Phân bố đất nông nghiệp theo cây trồng. Trong tổng số 7.637.710 ha đất nông nghiệp của cả nước, đất trồng cây hàng năm có 5.553..889 ha, đất trồng cây lâu năm chiếm 1.449.607 ha. Còn lại là đất đồng cỏ và đất mặt nước có sử dụng vào nông nghiệp. Trong đất trồng cây hàng năm, đất trồng lúa chiếm tỷ trọng lớn hơn cả. Tổng diện tích trồng lúa năm 1994 là 4.230.077 ha chiếm 54,42% diện tích đất nông nghiệp. Đất trồng lúa chủ yếu tập trung ở hai vựa lúa của cả nước là trồng lúa ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đất trồng lúa của Đồng bằng sông Hồng là 581.460 ha, của Đồng bằng sông Cửu Long là 1.957.977 ha chiếm 60,03% diện tích trồng lúa cả nước. Đây không chỉ là vùng có diện tích lớn nhất, mà còn là vùng có điều kiện đất đai thuận lợi cho trồng (đất phù sa màu mỡ, điều kiện tưới tiêu thuận lợi). Vì vậy, hai vùng này có sản lượng lúa cao nhất trong cả nước. Đứng thứ hai trong diện tích cây hàng năm là đất trồng màu và cây công nghiệp hàng năm vào thời điểm 1994 diện tích màu và cây công nghiệp hàng năm là 1.075.175 ha, chiếm 19,68% đất trồng cây hàng năm và 14,59% đất nông nghiệp. Trong đất chuyên trồng màu, đất trồng ngô ngày càng tăng và từng bước thay thế cho cây khoai lang và cây sắn. Trong đất trồng cây công nghiệp hàng năm, đất trồng các loại đay, lạc, ... chiếm tỷ trọng đáng kể và được phân bố chủ yếu ơr các bãi ven sông. Hai vùng có diện tích cây màu và cây công nghiệp hàng năm lớn nhất nước là vùng miền núi và trung du Bắc Bộ (diện tích 2.770.807 ha chiếm 25,83% tổng diện tích cây màu và cây công nghiệp hàng năm cả nước và 27,19% diện tích đất nông nghiệp của vùng) và vùng Đông Nam Bộ (diện tích 215.352 ha, chiếm 20,03 diện tích đất cùng loại của cả nước và 22,552% đất nông nghiệp của vùng). Đất trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, chè, cao su, .... chiếm tỷ trọng lớn và tập trung ở các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng miền núi trung du Bắc Bộ. ở các vùng này đã hình thành nên các vùng cây ăn quả nổi tiếng như bưởi, xoài, chôm chôm, (Biên Hoà, Đồng Nai, Sông Bé, ....). Chương II Thực trạng vê sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam I. Thực trạng về sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian qua. Đường lối đổi mới củĐườn a Đảng về ruộng đất ở miền Bắc (1957). Đảng ta đã chủ trương tiến hành xây dựng một nên kinh tế nông nghiệp theo hai hình thức sở hữ tập thể và sở hữu toàn dân.Theo hình thức sở hữu này mô hình kinh tế nông nghiệp là tập thể hoá ruộng đất đưcon chã nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Với hình thức sở hữu tập thể về ruộng đất nên chúng ta đã thực hiện tốt một số khâu thủy lợi, cải tạo và quy hoạch đồng ruộng,trên thực tế ruộng đất lại bị lãng phí trong quản lý và sử dụng chế độ sở hữu tập thể với mô hình hợp tác kiểu cũ đã làm cho nông dân không thiết tha với ruộng đất lắm, không tạo ra động lực vật chất để thúc đẩy họ tích cực sản xuất. Dẫn đến kém hiệu quả, sản xuất bị trì trệ do không nhận ra điểm bất hợp lý đó nên sau 1975 mô hình này lại áp dụng vào miền Nam mà không tính đến sự khác nhau giữa nông nghiệp và nông thôn miền Nam và miền Bắc. Vì hình thức sở hữu ruộng đất ở miền Nam trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá chứ không phải nền kinh tế tự cung tự cấp như ở miền Bắc trước khi hợp tác hoá ruộng đất từ chỗ có chủ nhân cụ thể, trực tiếp có kinh nghiệm sản xuất nay chuyển sang sở hữu tập thể dẫn đến phát triển nông nghiệp chậm chạp , trì trệ cả khi coi nông nghiệp là hàng đầu. Từ thực tế Đảng ta đã nhận thấy rằng cần phải khắc phục mô hình kiểu cũ tìm tòi các bước đi và hình thức thích hợp.Để xây dựng mô hình kinh tế nông nghiệp phát tryển vững mạnh. Năm 1979, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 đã cho phép xã viên mượn đất làm vụ đông, khuyến khích nông dân tận dụng đất hoang để sản xuất, tạo thêm sản phẩm cho xã hội. Năm 1981, Ban Bí thư TW Đảng ra chỉ thị số 100 cho phép áp dụng rộng rãi chế độ khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động thực chất là đến hộ gia đình xã viên. Ruộng đất của tập thể song hé gia đình được giao đảm bảo nhận nhiều khâu trong canh tác có thể đầu tư thêm công sức, vật tư, kỹ thuật để tăng sản lượng. Năm 1986, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới trong đó có đổi mới về quản lý, cơ chế khoán. Với Nghị quyết 10 Bộ chính trị (4-1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân nhưng nông dân đã được giao khoán ruộng đất ổn định lâu dài hạn.Cùng với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị thì tháng 3/1989, Hội nghị Trung ương VI đã tiến thêm một bước quan trọng đó là việc xác định lại vị trí của kinh tế hộ gia đình, vai trò quyền lợi của người lao động. Hộ gia đình được coi là đơn vị kinh tế tự chủ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp của nước ta hiện nay. Để tiếp tục hoàn chỉnh đường lối đổi mới, Nghị quyết Hội nghị TV và Luật đất đai 1993. Với Luật đất đai , Nhà nước đã chính thức giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân dối với cây ngắn ngày là 20 năm,cây dàI ngày 50 năm.. Người nông dân không chỉ được quyền sử dụng mà còn được quyền thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng, cho thuê đất đai . Sự nới rộng các quyền hạn của nông dân đối với ruộng đất và việc thể chê hoá các quyền đó bằng luật pháp Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế, pháp lý để phát huy tiềm năng to lớn của kinh tế hộ gia đình. Đồng thời thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp, phát triển các ngành nghề nông thôn là động lực thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH-HĐH. 2. Thực trạng về quản lý, sử dụng ruộng đất hiện nay. * Về quản lý biến động chủ sử dụng: Hiện nay việc quản lý biến động chủ sử dụng đất được thực hiện với kết quả rất khác nhau giữa các vùng với vùng Đồng bằng sông Hồng, Trung du miền núi phía Bắc, ven biển miền Trung. Công tác này nhìn chung diễn ra nền nếp và Ýt phức tạp. Riêng ở Nam Bộ là phức tạp nhất. ở các tỉnh này ruộng đất được chuyển nhượng, cầm cố không đủ tiền không chuộc lại. Đến mức Nhà nước trực tiếp là chính quyền địa phương không thể kiểm soát được. Trong nội bộ từng vùng cũng có sự khác nhau về tình hình quản lý biến động chủ sử dụng đất, nhìn chung ở vùng ven đô thị tình hình biến động phức tạp hơn vùng sâu, xa. * Về quản lý biến độn mục đích sử dụng đất nông nghiệp. -Hiện nay nội dung này còn một số bất cập: + Trong xu thế chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, một mặt chúng ta đang khuyến khích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà xu hướng chung là tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả, các loại thuỷ hải sản cao cấp ,.... cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Song mặt khác, Luật đất đai còn hạn chế việc chuyển đất trồng lúa, trồng lương thực thành đất nuôi trồng các sản phẩm khác. + Trên quan điểm bảo toàn lương thực quốc gia, pháp luật đã giới hạn việc chuyển đất trồng cây lương thực chủ yếu là đất trồng lúa sang nuôi trồng các sản phẩm khác. Song trên quan điểm đảm bảo tăng hiệu quả kinh tế thì ta lại khuyến khích nuôi trồng các loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đang được thị trường chấp nhận chưa có cơ chế thích hợp để giải quyết mâu thuẫn này. + Chóng ta muốn quy hoạch sử dụng đất để đảm bảo sử dụng đất nông nghiệp đạt hiệu quả nhất nhưng lại chưa có cơ chế hợp lý các chủ sử dụng đất thực hiện theo quy hoạch. Trong quyền tự do kinh doanh theo cơ chế thị trường, các chủ sử dụng đất nông nghiệp được giao 5 quyền: chuyển nhượng, chuyển đổi, thừa kế, thế chấp, cho thuê thì chính quy hoạch là một quá trình quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp. Song thực tế một số vùng chưcon chã thực hiện tốt. Điển hình là Tây Nguyên, Trung du và miền núi. ở Tây Nguyên:công tác xây dựng và thực hiện quuy hoạch kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp giữa tỉnh và huyện,giữa huyện và xã,giữa các ngành và các cơ quan TƯ trên địa ban còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ.Dẫn tới các tổ chức,nhân ở tỉnh,thành phố khác đều canh tác cao su,cà fê trên địa bàn chưcon chã thee quy hoạch,hoach tổng thể.Mặt khác viec chặt phá rừng làm lương rẫy của đồng bào dân téc du canh du cư và di cư tự do là môtnguyen nhân làm tăng diện tích đất nông nghiệp không quản lý được.lafnguyeen nhân dẫn tới sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên không hiệu quả. Còn vùng Trung du và miền núi thì diễn ra theo hai hướng: - Hướng truyền thống lạc hậu phá rừng làm rẫycủa đồng bào dân téc du canh du cư và di dân tự do đang là moott trong những nguyen nhân làm tăng diẹn tích đát nông nghiệp không quản lý được. - Hướng mới là chuyển đất trồng cây lương thực sang trồng cây ăn quả có giá trị cao cấp. Như huyện Lục Ngạn- Bắc Giang hầu hết đất trồng khoai, sắn trước kia nay đã trồng vải, đã ddat hieuj quả cao.Nhưng công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp trong nông nghiệp công tác này diễn ra rất chậm ở ngay thời kỳ sau khi có Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993. Nguyên nhân chủ yếu là kinh phí chưa đủ.Nhưng có một biện pháp để thúc đẩy nhanh và đỡ tốn kém cho quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hạn chế được tình trạng manh mún ruộng đết đó là đổi ruộng đất cho nhau, thúc đẩy quá trình tập trung hoá ruộng đất. Quá trình này vừa nằm trong luật pháp cho phép lại vừa phù hợp với quy hoạch. Làm tốt công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tiền đề đưa việc quản lý đất đi vào nền nếp. Cho đến nay có thể cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là nhân tố quan trọng mà là tạo tâm lý vững chắc cho nông dân đâù tư thâm canh nâng cao năng suất ruộng đất. Cho đến đầu năm 1998, nhiều tỉnh đã cơ bản hoàn thành thủ tục và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân, nội dung này hiện nay có thể nói đã được thực hiện tương đối tốt. Về việc giải quyết chanh chấp: Đây là vấn đề quan trọng trong nội dung quản lý Nhà nước về đất đai đã được quy định trong Luật đất đai năm 1993. Từ sau khi có Luật đất đai năm 1993 , Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về tình hình tranh chấp ruộng đất xảy ra khá nhiều ở hầu khắp các vùng, từ đó đến nay, nhất là khi có Luật đất đai năm 1993 các Nghị định của Chính phủ về đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, ... Đảng và Nhà nước các cấp đã nỗ lực giải quyết ở các nơi có sự khác nhau, nhưng đều dùa trên nguyên tắc là có cơ sở pháp lý và bảo đảm thuận tình giữa các hộ nông dân. Cho đến nay có thể khẳng định công tác giải quyết tranh chấp đất đai trong nông nghiệp, lâm nghiệp đã được thực hiện với kết quả tốt vừa tạo điều kiện tiền đề để sử dụng ruộng đất đạt hiệu quả cao vừa tôn trọng các thành qủa của các giai đoạn cách mạng về ruộng đất trước đây vừa đảm bảo ổn định chính trị, xã hội trong nông thôn. 3. Các chính sách về quản lý và sử dụng ruộng đất: Chính sách đổi mới của Đảng và Chính phủ đã tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong nền nông nghiệp phân phối và tổ chức lại đất đai , tù do hoá việc ra quyết định sản xuất nông nghiệp mở cửa thị trường đầu vào và đầu ra. Thừa nhận hộ nông dân là đơn vị cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Dưới tác động của chính sách đổi mới Luật đất đai năm 1993 ra đời đặc biệt là Luật đất đai năm 1998 sửa đổi tuỳ theo mục tiêu cụ thể của chính sách được cụ thể hoá dưới các dạng văn bản pháp lý được Chính phủ ban hành đến các địa phương. Các chính sách sử dụng đất phải đảm bảo vừa phát triển về kinh tế, vừa ổn định về xã hội. Sử dụng đầy đủ và hợp lý ruộng đất tạo ra nhiều nông sản có chất lượng cao, giá hạ, đáp ứng đầy đủ sản lượng ngày càng tăng của dân cư, có sản phẩm tốt để xuất khẩu tác động đến các ngành kinh tế hữu quan, bảo vệ chất đất và ổn định môi trường. Từ các mục tiêu kể trên các chính sách sử dụng đất nông nghiệp và bảo vệ đất nông nghiệp gồm các loại sau đây: + Các chính sách xác lập về quyền lợi gắn chặt với đất đai - Chính sách bảo vệ người nông dân có đất sản xuất ổn định lâu dài. Chính sách khuyến khích người trồng lúa. Chính sách trợ cấp cho người đi xây dựng vùng kinh tế mới. Chính sách tín dụng. - Chính sách ưu tiên phát triển đất nông nghiệp. - Chính sách bảo vệ và phát triển đất trồng lúa. + Các chính sách về nghĩa vụ của người sử dụng đất như: - Chính sách khuyến khích chuyển đất nông nghiệp trồng lúa sang mục đích sử dụng khác. - Chính sách sử dụng đất nông nghiệp. - Chính sách sử dụng đất đúng mđ. - Chính sách thuế chuyển quyền sử dụng đất. II. Các biện pháp sử dụng chủ yếu 1. Bố trí cơ cấu cây trồng. Việc bố trí cơ cấu cây trồng sao cho hợp lý là một vấn đề quan trọng vì cơ cấu cây trồng phụ thuộc vào điều kiện của tự nhiên như khí hậu, địa hình, ... như vậy, vấn đề đặt ra là sử dụng hợp lý cây trồng đúng mục đích, hiệu quả kinh tế cao phù hợp với từng điều kiện sinh thái của từng vùng. ở nước ta, khí hậu thay đổi rõ rệt từ Bắc vào Nam cho nên cần phải có hình thức bố trí hợp lý bên cạnh điều kiện về khí hậu việc bố trí còn phụ thuộc vào đặc điểm của đất nông nghiệp, chiến lược sản phẩm của Nhà nước hay là mục tiêu phát triển của ngành. Thực tế là vùng Tây Nguyên có khí hậu Êm áp hai mùa rõ rệt cộng với địa thế của cao nguyên GiaLaiKonTum, Đăklăk, Lâm Đồng đều là đất đỏ bazan màu mỡ nên bố trí trồng các cây công nghiệp như cà phê, cao su, ... vừa đảm bảo được diện tích lâm nghiệp, ngoài ra còn bố trí trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như; mía đường, tiêu. Đối với vùng Đông Nam Bộ cũng vậy đất chủ yếu là bazan, khí hậu Êm áp phù hợp với cây công nghiệp đặc biệt là cao su. Đây là vùng có diện tích trồng cao su lớn nhất trong nước. Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đất đai ở đây màu mỡ, khí hậu cận nhiệt đới Êm áp, thuận lợi cho việc trồng lúa nước và các cây ăn quả cao cấp như nhãn, xoài, ... ngoài ra còn là vùng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thuận lợi. Vùng Duyên hải miền Trung có khí hâụ khắc nghiệt nên cần bố trí có hệ thống rừng phòng hộ để đề phòng thiên tai và sự cố môi trường, trồng các loại cây lâu năm. ở vùng khu Bốn cũ, vùng này khí hậu cũng thay đổi theo mùa lại chịu ảnh hưởng khắc nghiệt giữa hai vùng Nam- Bắc nên thường hay có thiên tai lũ lụt, do đó cần bố trí cây trồng kèm lẫn rừng phòng hộ, chú ý có thể xen canh gối vụ, ngoài hai vụ lúa mùa và chiêm có thể bố trí được một vụ hoa màu lương thực như rau mùa đông, khoai Đông xuân, ngô, ... Vùng Đồng bằng sông Hồng ngoài chịu ảnh hưởng của thời tiết địa hình ở đây cũng phức tạp, bên cạnh diện tích đất trồng lúa còn có diện tích đất bãi trồng màu, các cây lương thực ngô, khoai, ... ngoài ra còn vùng rộng lớn đất chiêm trũng. Vì vậy việc bố trí cây trồng ở đây rất đa dạng tuỳ thuộc vào từng địa phương cũng như vùng ven thành phố Hà Nội nhu cầu cung cấp cho thành phố về rau màu là rất nhiều nên cần bố trí trồng cây rau màu. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc với diện tích rộng lớn đất đai đa dạng nên việc bố trí cây trồng ở đây cũng phụ thuộc vào loại chất đất đai và điều kiện phù hợp của từng loại cây các tỉnh Thái Nguyên, Yên Bái có diện tích đất xám bạc màu, thời tiết bốn mùa rõ rệt phù hợp để trồng các cây công nghiệp chè, vùng miền núi Sơn La có thời tiết phù hợp với các loại cây ăn quả như mận, xoài, đào, ... Vùng miền núi Lạng Sơn, Bắc Giang phù hợp với cây ăn quả: vải, mận, na, ... như vậy việc bố trí cơ cấu cây trồng trong cả nước sao cho phù hợp với lợi thế của từng vùng cũng như là việc phát triển nông nghiệp cả nước là rất quan trọng là một khâu trong việc quản lý nông nghiệp nước ta. 2. Thâm canh. Đây là biện pháp cơ bản lâu dài để phát triển nền nông nghiệp theo chiều sâu, quy mô công nghiệp hiện đại thực hiện thâm canh là khai thác “Khả năng sinh lời vô hạn của ruộng đất”. Tuy nhiên, khai thác đặc điểm của ruộng đất bằng thâm canh phải coi trọng tính hiệu quả và phải gắn với việc cải tạo, bảo vệ, bồi dưỡng đất. Trong điều kiện của sản xuất hàng hoá để thâm canh có hiệu quả cần hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất của từng cây trồng cụ thể. Phải xem xét và tính toán trạng thái và hiệu quả kinh tế của từng hướng đầu tư cho từng yếu tố và tập hợp các yếu tố. Khi đầu tư các yếu tố vật chất: phân bón, giống, thuốc trừ sâu,... cần lưu ý đến đặc điểm sinh học của cây trồng đảm bảo sản xuất nông sản có chất lượng cao đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo lòng tin với người tiêu dùng. Trên thực tế, ở nước ta nhiều nơi nông dân vẫn canh tác theo kiểu truyền thống chưa có kỹ thuật cũng như áp dụng các thành tựu khoa học mới như giống, phân, ... nên sản phẩm thu được với kết quả thấp ở đây nói chủ yếu là vùng miền núi và trung du có đồng bào dân téc thiểu số. 3. Về khai hoang. Khai hoang là quá trình đầu tư cải tạo đất hoang (đất chưa sử dụng) biến đất đai là sản phẩm của tự nhiên thành sản phẩm của xã hội để đưa vào sản xuất nông nghiệp. Đối với nước ta khai hoang không những nhằm sử dụng đầy đủ và hợp lý đất đai để tăng thêm sản phẩm cung cấp cho xã hội, mà còn có ý nghĩa to lớn như góp phần tích cực vào cải thiện tình hình phân bố lực lượng sản xuất, lực lượng lao động giữa các vùng, xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện, sản xuất nhiều nông sản hàng hoá, nâng cao đời sống cho nhân dân làm thay đổi bộ mặt kinh tế văn hoá ở vùng dân téc Ýt người, tăng cường củng cố quốc phòng. Nhận thức được vấn đề trên, trước sức Ðp về việc tăng dân số, trong nhiều năm qua, đất nước ta có nhiều cố gắng trong việc tổ chức khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới như Tây Nguyên, Sông Bé, Đồng bằng sông Cửu Long, Sơn La, .... Vì vậy công tác khai hoang đã thu được những kết quả nhất định, diện tích đất nông nghiệp ngày càng tăng, nhiều vùng kinh tế mới đã hình thành, bộ mặt nông thôn miền núi đã có nhiều thay đổi. Trong khai hoang phải chú ý đến tính hiệu quả về kinh tế, chọn khu vực hợp lý đặc biệt để khai hoang, phải chú ý đến môi trường để tránh những hậu quả xấu. 4. Về tăng vụ. Tăng vụ là tăng thêm số lần trồng trọt trên diện tích ruộng đất, trên thực tế tăng vụ vừa thực hiện khai thác đất đai theo chiều rộng và theo cả chiều sâu vì nó vừa đưa diện tích vào sản xuất tăng đồng thời đầu tư thêm các yếu tố vật chất để khai thác đất đai trong trường hợp này tăng vụ chính là hình thức thâm canh trên diện tích hiện có. Vì vậy tăng vụ chỉ có ý nghĩa thực tế khi tổng giá trị lâm sản trên một đơn vị canh tác được tăng thêm. Tăng vụ chính là biện pháp để tăng thêm sản phẩm, tiết kiệm được quỹ đất đai hạn hẹp. Để tăng vụ đạt hiệu quả cao cần phải giải quyết các vấn đề như sử dụng linh hoạt các giống cây ngắn ngày có năng suất cao và chất lượng cao, ổn định, chọn loại cây trồng thích hợp đảm bảo các điều kiện vật chất kỹ thuật, phòng trừ dịch bệnh. 5. Kết quả sử dụng đất nông nghiệp. Với các chính sách về đất nông nghiệp của Nhà nước, các biện pháp quản lý hợp lý cũng như các biện pháp sử dụng khai thác có hiệu quả đất nông nghiệp đã đưa nước ta từ một nước luôn thiếu lương thực phải nhập khẩu và xin viện trợ đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan (khối lượng xuất khẩu năm 1999 là 4,560 triệu tấn). Nói chung về lương thực đã cơ bản ổn định, việc sử dụng đất nông nghiệp đang có xu hướng ngày càng hiệu quả, chúng ta đang từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đầu tư vào những loại cây có giá trị kinh tế cao, hình thành các vùng chuyên cung cấp nguồn nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất công nghiệp. Ví dô: cao su, mía,cà phê, ... nhưng vẫn đảm bảo đất trồng lúa là 4,3 triệu ha. Có thể tổng hợp kết quả sử dụng đất nông nghiệp như sau: Đất nông nghiệp đến năm 2000: Đơn vị: 1000 ha. Cả nước TDMN ĐBSH KBC DHMT TN ĐNB SCL Đất nông nghiệp 8.072,6 1.471,8 727,1 761,9 594,0 727,9 1.032,5 2.727,4 Đất trồng trọt 7.367,8 1.177,0 675,9 716,2 556,7 673,3 1.007,9 2.561,8 Cây hàng năm 5.809,2 972,7 644,8 528,0 474,7 333,2 569,9 2.215,9 - Trồng lúa 4.332,5 595,8 588,3 422,3 266,4 156,4 293,7 2.009,6 - Cây công nghiệp 1.476,7 376,9 56,5 175,7 208,3 176,8 276,2 260,3 Cây lâu năm 1.558,6 204,3 31,1 118,2 82,0 340,1 438,0 345,9 Đất cá 396,2 248,7 - 56,4 27,2 48,3 15,6 - Mặt nước NN 308,6 46,2 51,2 20,3 10,1 6,3 9,0 165,6 Nguồn: Viện điều tra quy hoạch đất đai; Tổng cục Địa chính. Kết quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 3 năm từ 1997 đến năm 1999: Đơn vị tính: triệu tấn. Năm Quý 1997 1998 1999 I 0,472 1,383 0,850 II 1,376 1,237 1,370 III 1,082 0,647 1,545 IV 0,750 0,703 0,795 Tổng khối lượng 3,680 3,790 4,560 Giá trị (triệu USD) 900 1.005 1.035 III. Những tồn tại và nguyên nhân đối với việc sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta. 1. Những tồn tại. Từ khi có chính sách đổi mới của Đảng về ruộng đất cũng như việc ra đời của Luật đất đai 1993 và sửa đổi 1998 đã thúc đẩy nền nông nghiệp nước ta tiến lên một bậc từ một nước thiếu lương thực đã trở thành một nước có sản lượng xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới làm cho bộ mặt của nền kinh tế nông nghiệp nông thôn thay đổi rõ rệt, tạo ra nhiều ngành nghề trong nong thôn, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tận dụng tốt nguồn lực trong nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm cho xuất khẩu thúc tiến quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh thành tựu đạt được còn tồn tại những khó khăn do cơ chế thị trường tạo ra, đó là: - Do chạy theo lợi Ých kinh tế trước mắt mà bất chấp hậu quả sau đó cho nên nhiều vùng đất có rừng đã bị chặt phá để làm rẫy, làm nương, trồng các cây lương thực, trồng cây có giá trị kinh tế cao như là cà phê, hạt tiêu, ... đã làm cho diện tích rừng bị chặt phá đặc biệt là rừng đầu nguồn. Nên hậu quả về sinh thái và thực tế đã cho thây như lũ quét ở Lai Châu, Bắc Cạn, lũ lụt miền Trung, hạn hán ở Bình Định, Phú Yên năm 1998. - Việc áp dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, đưa giống cây trồng có hiệu quả và năng suất cao, áp dụng các công nghệ sinh học và vi sinh vào nông nghiệp vừa bảo đảm năng suất, vừa ổn định môi trường. Tuy vậy nhưng ở nước ta việc ứng dụng thành tựu này còn kém. Thứ nhất do đội ngò khoa học còn Ýt, điều kiện nghiên cứu còn nghèo nàn, kinh phí Ýt, ... Vì vậy cần phải có chính sách thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học áp dụng trong nông nghiệp. - Cơ chế quản lý còn lỏng lẻo dẫn đến lạm dụng cũng như sử dụng bất hợp lý quỹ đất nông nghiệp, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích sử dụng khác làm cho diện tích canh tác nông nghiệp bị thu hẹp. - Luật đất đai còn chưa hoàn chỉnh, còn có sơ hở đối với việc xác định quyền hạn của hộ gia đình và các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp trong kinh tế thị trường có rất nhiều phát sinh cần giải quyết như thừa kế, thế chấp, cho thuê, ... - Cần mở rộng thêm các chính sách ưu tiên trong nông nghiệp, hiện nay nhiều chính sách vẫn chưa được thực thi đến tay người dân đặc biệt là dân téc Ýt người, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. - Cần phân bố, bố trí lực lượng cơ cấu cây trồng phù hợp. Trên đây là các tồn tại tuy chưa nêu hết những tồn tại hiện nay nhưng cũng một phần nói nên được nhiệm vụ trước mắt đối với việc thuyết phục các yếu kém và phát huy thế mạnh của nông nghiệp nước ta góp phần làm nền tảng để phát triển đất nước. 2. Nguyên nhân cơ bản. Các tồn tại ở trên đều phải xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. - Nguyên nhân khách quan: Do điều kiện tự nhiên khí hậu nước ta khá phức tạp, thời tiết thay đổi thường xuyên nên đã tạo ra rất nhiều các sự cố tự nhiên đến các vùng đặc biệt là đồi núi phía Bắc và Duyên hải miền Trung, khu Bốn cũ. ở miền Bắc nước ta có bốn mùa nhưng việc ảnh hưởng đến mùa vụ cũng như việc áp dụng giống cây trồng theo mùa vụ là rất quan trọng nên cần nắm được các quy luật chuyển đổi của tự nhiên. Nguyên nhân khách quan thứ hai đó là sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường đã làm nảy sinh các mặt tiêu cực của nó nên dẫn đến nhiều thất bại của thị trường cũng như sự tác động đến tự nhiên, xã hội. - Nguyên nhân chủ quan: Đó là các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước như trước đây chưa nắm vững được tình hình thay đổi của từng thời kỳ mà Nhà nước đã chậm chuyển đổi cơ chế dẫn đến sự sa lầy về kinh tế. Đây là nguyên nhân làm cho nước ta trong thời gian dài khủng hoảng. Ngày nay tuy đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế song dưới tác động của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường thì các chính sách của Nhà nước dễ bị sai lệch và không sát sao với thực tế cho nên tồn tại nhiều tệ nạn như quan liêu, cửa quyền, tham ô, tham nhòng làm cho kinh tế đất nước bị tổn hại. - Sù phối hợp không đồng bộ giữa các ban ngành hữu quan đã làm cho các chính sách, các khâu trong quá trình đầu tư cho sản xuất kinh doanh Nhà nước bị hạn chế kém hiệu quả. - Bé máy quản lý Nhà nước về đất đai chưa được hoàn thiện cả về trình độ cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật. Công tác quy hoạch, kế hoạch tiến hành chậm chạp, việc kiểm kê, đăng ký lập hồ sơ địa chính chưa thường xuyên đồng bộ, kiểm sát và điều tiết thị trường đất đai còn buông lỏng. Chương III. Phương hướng giải pháp sử dụng đất. I. Quan điểm và phương hướng sử dụng. 1. Quan điểm chung về sử dụng đất đai cả nước. Theo báo cáo của Viện điều tra quy hoạch đất đai, của Tổng cục Địa chính trình Chính phủ thì quan điểm sử dụng đất đai trong cả nước đến 2010 như sau: * Đất đai nằm trong nhóm tài nguyên hạn chế của Việt Nam nhưng lại là điều kiện không thể thiếu được trong mọi quá trình phát triển, vì vậy việc sử dụng tốt tài nguyên quốc gia này không chỉ sẽ quyết định tương lai của nền kinh tế đất nước mà còn là sự đảm bảo cho mục tiêu ổn định chính trị và phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển thì giá trị của đất đai sẽ càng cao và yêu cầu về sử dụng đất càng phải tốt hơn với hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao hơn. * Quy hoạch sử dụng đất là biện pháp quản lý không thể thiếu trong việc tổ chức sử dụng đất của các ngành kinh tế xã hội và các địa phương. Phương án quy hoạch sử dụng đất là kết quả hoạt động thực tiễn của hệ thống bộ máy quản lý của Nhà nước kết hợp với những dự báo có cơ sở. Khoa học cho tương lai quản lý đất đai thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vừa đảm bảo tính thống nhất của quản lý Nhà nước về đất đai vừa tạo điều kiện để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc sử dụng đất để đạt đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. * Về kinh tế, quy hoạch sử dụng đất phải đảm bảo ưu tiên đất đai cho sản xuất nông nghiệp, vừa đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, vừa thoả mãn nhu cầu nông phẩm cho toàn xã hội và nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời phải cân đối quỹ đất thích hợp cho nhiệm vụ công nghiệp hoá đất nước, nâng cao độ phì nhiêu và hệ số sử dụng đất, vừa mở rộng diện tích để đạt 10 triệu ha và 40 triệu tấn lương thực. Đối với đất công nghiệp phải vừa sắp xếp lại các cơ sở hiện có vừa nhanh chónh hình thành các khu công nghiệp mới phù hợp với nhịp độ phát triển. * Về xã hội và môi trường, quy hoạch sử dụng đất phải đảm bảo độ che phủ thực vật và hệ sinh thái bền vững, phải đáp ứng được nhu cầu tăng lên về đất ở và chất lượng môi trường sống đặc biệt chú ý đến tác động môi trường của quá trình sử dụng đất để công nghiệp và đô thị hoá nhất là khu vực mới phát triển. * Quy hoạch sử dụng đất để phát triển hệ thống đường xá, sân bay, bến cảng, các công trình năng lượng cấp thoát nước, dịch vụ công cộng, ... sẽ làm cho giá trị đất tăng lên và tạo ra giá trị mới về sử dụng đất đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng. Do đó các phương án quy hoạch sử dụng đất đều phải cân đối cho phù hợp nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng. * Đến sau những năm 20 của thế kỷ tới, khi đất nước đã cơ bản hoàn thành công nghiệp hoá, hiên đại hoá và phát triển dân số đã đến mức ổn định (126-130 triệu dân) thì bức tranh toàn cảnh về sử dụng đất sẽ là: - Hơn một nửa lãnh thổ (18 triệu ha) được che phủ bằng cây rừng với một môi trường trong lành và một hệ sinh thái bền vững. - Trên 10 triệu ha đất nông nghiệp (4,2-4,3 ha đất trồng lúa 3 triệu ha đất trồng cây công nghiệp lâu năm) đáp ứng được yêu cầu an toàn lương thực, nhu cầu thực phẩm của toàn xã hội và đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. - Gỗn 3 triệu ha được sử dụng vào các mục đích chuyên dùng thoả mãn các nhu cầu về công nghệ, dịch vụ văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng. - Hơn 3% lãnh thổ (1,1 triệu ha) dùng để xây dựng khu dân cư về cơ bản đã được đô thị hoá (0,7-0,8 triệu ha) đảm bảo một mức sống có chất lượng cao cho toàn dân. - Cả nước chỉ còn lại 1,7 triệu ha chủ yếu là sông suối và núi đá trọc là tồn tại dưới dạng hoàn toàn tự nhiên với nhiệm vụ đảm bảo cảnh quan môi trường. 2. Phương hướng sử dụng đất nông nghiệp Với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta ngày càng quản lý chặt chẽ hơn, hạn chế tối đa quỹ đất nông nghiệp chuyển sang dùng cho các mục đích khác, đặc biệt là ruộng đất. Diện tích đất nông nghiệp bên cạnh vấn đề cải tạo, hồi phục thì khai hoang mở rộng diện tích canh tác đã làm cho diện tích đất nông nghiệp tăng dần. Đất nông nghiệp với chính sách giao cho hộ nông dân sử dụng dài hạn đã làm cho các hộ gia đình có quyền sở hữu đất đai trong thời gian được giao, hé gia đình có quyền chuyển nhượng, cho thuê, sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Để sử dụng đất đạt hiệu quả cao, phù hợp với những phương hướng đã đề ra cần có các giải pháp: II.Những giải pháp kinh tế chủ yếu. 1.Bè trí cây trồng hợp lý. Việc phân loại đất và các loại cây phù hợp với tính chất của từng loại đất ở nước ta đã thu được hiệu quả kinh tế cao. Đất nào cây Êy với phương châm này phải bố trí các loại cây phù hợp với tính chất của đất. Sản lượng bình quân 10 năm 1990 -1999 so với bình quân 5 năm trước. Sản lượng lạc tăng 34%, mía tăng 74%, cà phê tăng 2,8 lần, cao su tăng 87%, diện tích đất đỏ bazan lớn năm 1990 = 119 ngàn tấn, 1995 = 268 ngàn tấn, 1999 = 509 ngàn tấn. Xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 sau xuất khẩu gạo. Đất Việt Nam trải dài với nhiều loại đất khác nhau, chóng ta tận dụng những thế mạnh của thiên nhiên ưu đãi để sản xuất, bố trí cây trồng tạo ra thị trường nông sản Việt Nam phong phú, đa dạng về chủng loại. Việc bố trí các cây trồng dùa trên lý thuyết lợi thế so sánh để có thể đạt được năng suất cây trồng và chất lượng ngày càng cao. 2.Thâm canh,tăng vụ Thâm canh, tăng vụ là đầu tư phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Vì vậy cần phải có sự nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tiềm lực của các vùng đất khác nhau để đầu tư, đưa vốn vào sản xuất. Đánh giá, xem xét tầm chiến lược và quy mô từng vùng, trọng điểm của từng vùng, đầu tư phát triển để làm đầu tàu cho cả vùng phát triển. Đầu tư vào các giống mới năng suất cao, ngắn ngày. Ví dụ như lúa nhờ có đầu tư làm cho năng suất lúa tăng từ 32 tạ/ha năm 1990 lên 39 tạ/ha năm 1998, lên 41 tạ/ha năm 1999. Nhờ có đầu tư thâm canh, tăng vụ bình quân 10 năm năng suất lúa tăng gần 1 tạ/ha. Đầu tư vào máy móc thực hiện thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, ... để tăng cao hiệu quả sử dụng đất. Đặc biệt đất ruộng lúa ở hai đồng bằng lớn là Đồng bằng sông Hồng với Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích có hạn khai thác từ lâu nên việc sử dụng, cải tạo là cần thiết. Sự hợp tác với các dự án nước ngoài, đã mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu và học hỏi nông nghiệp của các nước tiên tiến. áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào trong nông nghiệp bên cạnh đó phải dùng công nghệ sinh học để bảo vệ môi trường và nâng cao độ phì và giữ cho các tính chất tự nhiên của đất không bị mất đi. Thâm canh, tăng vụ nhằm khai thác hết khả năng đất mang lại, trên một diện tích đất đai có hạn muốn đạt hiệu quả kinh tế cao thì vấn đề thâm canh, tăng vụ cần được quan tâm nghiên cứu tạo giống, chọn cây, bảo đảm điều kiện kỹ thuật, ... và vấn đề này rất quan trọng trong sử dụng đất theo chiều sâu. 3. Công tác quản lý Nhà nước về đất đai trong nông nghiệp. Công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng những năm qua chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. Trước hết là công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kiểm kê đăng ký, lập hồ sơ địa chính, địa bạ, kiểm soát và điều tiết thị trường đất đai . Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước, công tác quản lý Nhà nước về đất đai cần hoàn thiện nữa, trước hết là: a) Tổ chức việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng. Để quản lý và sử dụng ruộng đất một cách đầy đủ, hợp lý và hiệu quả, công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng ruộng đất trên phạm vi cả nước và từng vùng lãnh thổ cần được quan tâm và đẩy mạnh hơn, trong đó cần chú trọng chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng ruộng đất trên địa bàn từng vùng. ở mỗi vùng, mỗi địa phương, chính quyền các cơ quan chức năng phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch chi tiết về sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn với những căn cứ khoa học vững chắc những diện tích đất lâm nghiệp được giao cho các doanh nghiệp. Nông nghiệp quản lý và sử dụng thì Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng với các doanh nghiệp lên rà soát lại, điều chỉnh và hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho phù hợp với yêu cầu đổi mới và điều kiện của giai đoạn mới. b) Nghiên cứu thuế, cải tiến thuế về đất đai nói chung, ruộng đất nói riêng để khuyến khích sử dụng đầy đủ, tiết kiệm, hiệu quả, đồng thời tăng thu cho ngân sách. c) Cụ thể hoá hơn nữa các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng bằng các văn bản pháp luật thích hợp. Cần có các điều luật, văn bản cụ thể về quản lý thị trường đất đai hiện nay. Đây là vấn đề cần phải nghiên cứu trong tương lai để hạn chế các tiêu cực xảy ra do cơ chế thị trường mang lại trong lĩnh vực này. 4. Các chính sách về sử dụng, bảo vệ đất nông nghiệp. Chính sách ưu tiên phát triển đất nông nghiệp. chính sách bảo vệ người nông dân có đất sản xuất ổn định lâu dài. chính sách bảo vệ và phát triển đất trồng lúa nước. Chính sách khuyến khích người trồng lúa, chính sách đền bù thoả đáng để có thể khai hoang, thâm canh, tăng vụ để bù sản lượng do mất đất trồng lúa. Chính sách đánh thuế thích đáng khi chuyển mục đích đất nông nghiệp sang mục đích khác. chính sách khuyến khích áp dụng các kỹ thuật, công nghệ phù hợp với phát triển tính đa dạng sinh học trong phát triển nông nghiệp. chính sách khuyến khích phát triển đầu tư cơ bản vào đất đai nhất là khu vực nth. chính sách xử phạt các hành vi làm tổn hại đến môi trường. Ban hành định mức sử dụng đất. 5.Tầm nhìn dài hạn về sử dụng đất nông nghiệp trong tương lai. sản xuất nông nghiệp phát triển trực tiếp nâng cao thu nhập và mức sống của 80% dân số cả nước. Điều này có ý nghĩa to lớn về kinh tế xã hội và chính trị. sản xuất nông nghiệp đi vào chuyên canh kết hợp với kinh doanh tổng hợp đạt giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích. Thâm canh tăng vụ là chính và mở thêm diện tích ở những nơi có điều kiện, tăng sản lượng lương thực đủ nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng cây công nghiệp, cây thực phẩm và chăn nuôi. Hình thành một số vùng chuyên canh cây công nghiệp và chăn nuôi kèm theo công nghiệp chế biến dành cho thị trường ngoài nước. Đầu tư mạnh vào thuỷ lợi để ổn định hệ thống tưới tiêu cho phần lớn diện tích canh tác tạo cơ sở cho tăng vụ và thâm canh. Bằng các biện pháp pháp chế và kinh tế nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc chuyển đất trồng lúa sang mục đích khác. Theo các kết quả đánh giá có thể khai hoang thêm 3 triệu ha đất sử dụng vào nông nghiệp, nhưng hàng năm cũng phải chuyển mục đích sử dụng từ nông nghiệp sang mục đích sử dụng khác khoảng 2 vạn ha, do đó đất nông nghiệp sẽ tăng thêm rất chậm, đặc biệt đất lúa sẽ không tăng. Đất nông nghiệp và vấn đề an toàn lương thực. Nước ta được coi là an toàn lương thực nếu đạt được 3 mục tiêu: - Đủ lương thực để cung cấp. - ổn định việc cung cấp lương thực. - Đảm bảo cho mọi người có khả năng mua lương thực. Đủ lương thực để cung cấp là liên quan đến diện tích đất nông nghiệp. Đến năm định hình dân số khoảng 126-130 triệu người với mức sống hiện nay là 300 kg/người . Nhu cầu tối thiểu là 40 triệu tấn trong đó 32 triệu tấn thóc và tăng lên 50 triệu tấn. là Khả năng khai hoang thêm 200-250 ngàn ha. Khả năng chuyển đất cây lâu năm quay lại trồng lúa là 200 ngàn ha khi bị o Ðp về lương thực. Mất đất lúa đến khi định hình dân số (2030) 380.000 ha. - Về khả năng tăng vụ: Đến 2030 nếu đẩy mạnh thuỷ lợi, hệ số trồng lúa trên đất lúa sẽ là 1,7-1,9 lần (hiện tại 1,5 lần). - Về thâm canh: Đây là khoảng trống còn rất lớn để tăng sản lương lương thực, tiết kiệm quỹ đất, triển vọng có thể đạt 42-50 triệu tấn thóc và sản lượng lương thực 48-55 triệu tấn quy thóc. Như vậy đất nước ta có thể đảm bảo an toàn lương thực. Phần III .Kết luận. Xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững theo hướng nền nông nghiệp sinh thái, thực hiện đa canh đa dạng hoá sản phẩm, kết hợp nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh nông sản hàng hoá, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước với nhu cầu ngày càng cao và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, nâng cao nhanh đời sống nông dân, xây dựng nông thôn mới”. Xuất phát từ định hướng phát triển trên mà vấn đề sử dụng hợp lý quỹ ruộng đất trong nông nghiệp là bài toán để đưa nền nông nghiệp nước ta phát triển lâu dài và bền vững, bảo đảm nguồn lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu dự trữ và cho xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho gần 80% dân số trong nông thôn và 70% lực lượng lao động đang làm trong trong lĩnh vực nông nghiệp. Ta có thể kết luận việc sử dụng hợp lý và khoa học đối với đất nông nghiệp là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với quá trình thúc đẩy, phát triển nền nông nghiệp nước ta, tạo nền móng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên em rất mong sự giúp đỡ của thầy và góp ý kiến cho bài viết của em thực sự thiết thực và khoa học hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthuc_trang_ve_su_dung_dat_nong_nghiep_o_vn_4251.doc